Cuộc Chiến Khuy Cúc
Tác giả: Louis Pergaud
Dịch giả: Lê Chu Cầu
Nhà xuất bản: NXB Hội Nhà Văn - 2009
II. Ngoại giao căng thẳng
Sứ thần
hai cường quốc đã trao đổi quan điểm về vấn đề Maroc.
Khi tháp chuông làng gióng hồi thứ hai, nửa
giờ trước hồi cuối báo buổi lễ Chủ nhật thì Lebrac vĩ đại, mặc chiếc áo vest dạ
cắt từ cái áo khoác dài quá đầu gối của ông nó, quần len mới, đi đôi giày cao cổ
xỉn cả màu vì được bôi một lớp mỡ dày và đội chiếc mũ cát két bằng da lông,
Lebrac vĩ đại, tôi gọi thế, tựa vào tường bể giặt công cộng chờ đồng đội để
thông báo tình hình, cũng như thành công mỹ mãn của chuyến đi.
Phía dưới kia, trước cửa quán của Fricot, mấy
người đàn ông ngậm tẩu phì phèo đang chuẩn bị “làm vài hớp” trước khi vào nhà
thờ.
Lát sau Camus xuất hiện trong chiếc quần
mòn vẹt hai đầu gối và chiếc cà vạt đỏ rực như cổ chim hồng thước. Hai đứa mỉm
cười với nhau. Rồi đến anh em Gibus khụt khịt như chó đánh hơi, rồi đến
Gambette, thằng này vẫn chưa hay biết gì, và sau rốt là Guignard, Boulot, La
Crique, Mắt Cá ngáo, Bombé, Tétas và toàn thể chiến sĩ Longeverne, khoảng bốn
mươi đứa tất cả.
Năm vị anh hùng của tối hôm qua, mỗi vị phải
kể đi kể lại chuyến viễn chinh ít nhất mười lần. Các chiến hữu của chúng, miệng
ứa nước bọt và mắt long lanh, nuốt lấy từng lời chúng nói, diễn lại từng cử chỉ
của chúng và cứ đến mỗi pha hành động lại nhiệt liệt hoan hô.
Cuối cùng Lebrac tóm tắt tình hình như sau:
- Giờ thì chúng nó sẽ biết bọn mình có phải
đồ non hột không! Xế trưa nay thế nào chúng nó cũng sẽ lại lẻn tới đám bụi cây ở
Saute để gây sự. Hết thảy bọn mình sẽ có mặt ở đó để gọi là nghênh tiếp. Nhớ
mang theo mọi giàn ná và dây quăng đá! Không cần mang theo gậy, mình đâu muốn
loạn đả. Phải cẩn thận giữ gìn bộ vía Chủ nhật này chứ, kẻo dây bẩn thì về nhà
sẽ lại ăn tát. Chỉ hàn huyên với chúng một đôi câu thôi mà.
Hồi chuông thứ ba - cũng là hồi cuối -
gióng giả hết cỡ thúc giục chúng từ từ đi vào chỗ ngồi quen thuộc trên những
cái ghế tí tẹo bên phòng nguyện thánh Joseph, cách phòng nguyện Thánh nữ Đồng
trinh của đám con gái một lối đi.
- Chết cha! - Camus buột miệng chửi khi tới
dưới tháp chuông. - Đúng hôm nay tao
lại phải phụ lễ, rồi tha hồ mà bị lão áo
chùng thâm sai bảo!
Không kịp nhúng tay vào chậu nước thánh thật
to bằng đá để làm dấu như các bạn nó khoắng tít khi đi qua, Camus phóng như chớp
qua gian giữa nhà thờ để còn kịp khoác áo lễ.
Tới Asperges
me*, khi Camus bưng chậu nước thánh đi giữa các hàng ghế để cha xứ nhúng chổi
lông vẩy khắp nơi ban phép lành thì nó không thể không liếc nhìn các chiến hữu.
*[Asperges me (tiếng Latin): xin vẩy nước thánh cho con -
cũng là tên bài thánh ca được hát lên vào lúc này]
Nó thấy Lebrac đưa Boulot xem tấm hình em
gái Tintin tặng nó, một bông tuy líp hay phong lữ, cũng có thể là hoa păng xê,
bên dưới đề mấy chữ “Để kỷ niệm”. Camus nháy mắt với Lebrac một cách rất Don
Juan*.
*[Don Juan: một nhân vật tiểu thuyết nổi tiếng trăng hoa]
Thế là Camus liền nghĩ đến cô bé Tavie, cô
bạn thân của nó, người vừa được nó tặng một chiếc bánh quế giá hai xu mua tại
chợ phiên ở Vercel, một chiếc bánh tuyệt đẹp hình trái tim đầy những viên đường
đỏ, xanh, vàng lại được tô điểm thêm bằng hàng chữ hợp với nó vô cùng:
Tim tôi đặt dưới chân nàng
Xin nàng hãy nhận - bà hoàng của tôi!
Nó đưa mắt tìm cô bé trong hàng ghế của đám
con gái và thấy cô bé cũng đang nhìn nó. Vai trò phụ lễ nghiêm trang khiến nó
không được mỉm cười với cô, nhưng nó bỗng cảm thấy tim rộn ràng. Nó hơi đỏ mặt,
đứng thẳng người, cầm chắc bình nước thánh.
Hành động này không qua khỏi mắt La Crique.
Nó thì thầm với Tintin:
- Xem thằng Camus vênh mặt kìa! Thấy ngay
là con Tavie đang liếc nhìn cu cậu!
Còn Camus thầm nghĩ:
- Bây giờ đi học lại rồi thì hai đứa mình sẽ
thường gặp nhau hơn! Ừ... nhưng bây giờ lại tuyên chiến rồi!
Sau buổi lễ chiều, Lebrac vĩ đại tụ tập sĩ
tốt rồi ra lệnh:
- Bây giờ tụi bay về nhà lấy áo khoác, cầm
theo một lát bánh mì rồi tới Saute, chỗ Mỏ Đá của lão Pepiot.
Chúng tản ra như bầy chim sẻ. Năm phút sau
đứa nọ chạy theo đứa kia, miệng ngậm bánh mì, đến tụ tập ở chỗ chủ tướng đã chỉ
định.
- Tụi bay không được đi quá khúc quanh đấy,
- Lebrac nói với đầy đủ ý thức về vai trò và trách nhiệm của nó với toàn quân.
- Mày tin là chúng sẽ tới à?
- Nếu không tới thì chúng đúng là một lũ ỉa
đùn!
Rồi để giải thích mệnh lệnh vừa rồi nó nói
thêm:
- Bọn chúng có vài đứa chạy nhanh lắm, mấy
thằng rùa bò tụi bay nhớ đấy! Hiểu chưa, Boulot? Chớ có để bị chúng tóm! Nhét
đá cho đầy túi. Đưa những viên ngon nhất cho đứa nào có giàn thun. Cẩn thận kẻo
rơi mất đá! Mình đi tới Bụi Cây Lớn.
Vùng đất Saute của xã - phía Đông Bắc trải
dài tới cánh rừng Teuré, Tây Nam tới rừng Velrans - là một miếng đất hình chữ
nhật đã được san bằng, dài khoảng một nghìn năm trăm mét, rộng tám trăm mét.
Hai bìa của hai cánh rừng là hai bờ ngắn của miếng đất; chỗ bờ dưới, sát đồng
ruộng, bị chắn bởi một bức tường đá, song song với một hàng giậu được một vạt
dày những bụi cây bảo vệ; chỗ bờ trên, giới hạn mảnh đất không rõ rệt lắm và được
đánh dấu bằng mấy mỏ đá bỏ hoang nằm mất hút trong một cánh rừng vô giá trị gồm
những bụi dẻ và phỉ dày kịt không hề được khai thác. Nhưng ngay cả vùng đất này
cũng đầy những bụi, những khóm, những lùm cây, những cây mọc rời rạc khiến nó
trở thành một bãi chiến trường lý tưởng.
Một con đường trải đá hơi dốc từ Longeverne
lên gần như cắt chéo mảnh đất hình chữ nhật này, cách bìa rừng Velrans năm mươi
mét nó ngoặt thật gắt để xe cộ chở nặng có thể lên tới đỉnh không quá vất vả.
Chỗ ngoặt này mọc đầy những cụm sồi, bụi
gai, lùm mận, khóm phỉ. Người ta gọi nó là Bụi Cây Lớn.
Nằm quanh con đường về phía dưới là những mỏ
đá lộ thiên do Pepiot Khoèo chân và Laugu Cối xay khai thác, đây là những kẻ
khi say vẫn tự xưng là các nhà doanh nghiệp, rồi đôi khi có cả Abel Chuột nữa.
Còn đối với lũ trẻ thì những mỏ đá này là
kho đạn dược tuyệt vời và vô tận.
Từ biết bao năm qua, trên miếng đất định mệnh
cách đều hai làng này, những thế hệ trẻ Longeverne và Velrans đã choảng nhau,
ném đá nhau và chửi bới nhau cật lực bởi cứ mỗi mùa thu và mùa đông trận chiến
lại tái diễn.
Đám trẻ Longeverne thường chỉ tiến tới chỗ
ngoặt thôi, chứ không đi hẳn vào con đường vòng, tuy phía bên kia vẫn là đất của
làng chúng, cả khu rừng Velrans cũng thế; nhưng vì khu rừng này nằm sát ngay
làng địch nên quân địch dùng nó làm chiến lũy, nơi rút quân và ẩn náu an toàn
khi bị truy kích, khiến đã đôi lần Lebrac cáu tiết nói:
- Tức chết được! Lúc nào ta cũng có cảm tưởng
bị xâm lăng!
Các chiến sĩ ăn bánh mì xong chưa được năm
phút thì Camus - chuyên gia leo trèo - đã leo lên cây sồi cao để canh gác; nó
ra hiệu là bên bờ rừng địch có những động đậy rất khả nghi.
- Tao đã bảo mà! - Lebrac reo lên. - Nào,
núp ngay đi để bọn chúng tưởng chỉ có một mình tao thôi. Bây giờ tao tiến ra
khiêu khích bọn chúng! Gâu, gâu, đớp đi nào! Rồi nếu chúng nhào ra để bắt tao
thì... hấp...!
Nói xong Lebrac bước ra từ chỗ nấp trong bụi
gai, bắt đầu cuộc đối thoại theo những cung cách quen thuộc:
(Đến đây bạn đọc nam nữ hãy cho phép tôi được
thêm vào một tình tiết phụ và ngỏ một lời khuyên. Để cố gắng có được sự trung
thực về mặt lịch sử tôi đã buộc phải dùng thứ ngôn ngữ không thông dụng nơi
cung đình hay các phòng khách. Tôi không vì thế mà xấu hổ hay ngần ngại, vì tấm
gương của thầy Rabelais đã giúp tôi mạnh dạn. Tuy nhiên vì các ngài Fallières
hay Bérenger không thể sánh được với vua Francois I, cũng như tôi không thể
sánh được với tấm gương cao quý của tôi, vả lại vì thời thế đã thay đổi, nên
tôi khuyên bạn đọc nào có đôi tai tinh tế và tâm hồn nhạy cảm hãy bỏ qua năm hoặc
sáu trang. Và bây giờ ta trở lại với Lebrac)
- Ê, ra mặt đi chứ, đồ khốn kiếp, đồ cà chớn,
đồ lười chảy thây, đồ chết tiệt! Nếu mày không phải đồ hèn thì chường cái mặt mẹt
bẩn thỉu của mày ra đi!
- Còn mày, đồ chó chết, lại gần nữa xem
nào! - phe địch đáp lại.
- Thằng Aztec* đấy, - Camus nói. - Tao còn
thấy cả thằng Méo, thằng Khoèo, thằng Tatti và thằng Mặt Bánh đúc nữa. Cả một
lũ.
*[Aztec: tên một bộ tộc da đỏ ở Mexico]
Được thông báo, Lebrac vĩ đại nói tiếp:
- À, hóa ra là mày đấy, thằng đểu! Mày gọi
dân Longeverne bọn tao là đồ non hột. Nhưng tao đã cho mày thấy bọn tao có non
hột không. Bọn mày hẳn đã phải đem hết áo ra để mà chùi sạch những gì tao viết
trên cửa nhà thờ của chúng bay! Bọn ỉa đùn như tụi bay nhất định chẳng bao giờ
táo gan đến thế được!
- Có giỏi thì lại gần tí nữa đi, đồ láu cá
to mồm... Mày chỉ được cái nói mồm và có hai cái chân để chạy vắt giò lên cổ mà
thôi!
- Còn mày? Có giỏi thì ra đây, đồ buôn giẻ
rách! Không phải vì bố mày sờ dái bò ở chợ phiên thì mày trở nên giàu có đâu!
- Còn mày thì sao? Cái ổ chó gia đình mày ở
ngập đìa giấy nợ đến tận nóc!
- Mày nợ như Chúa Chổm thì có, đồ ăn mày!
Mày định bao giờ thì đeo cái bị ăn xin của ông nội mày mỗi khi chuông báo giờ
nguyện đây?
- Bên tụi tao chứ có phải Longeverne của
chúng mày đâu mà gà lăn ra chết đói ngay giữa mùa gặt.
- Còn bên Velrans thì chấy rận chết ngay
trên sọ chúng bay; người ta không biết vì chúng đói hay vì hút máu nữa!
Đồ Velrans
Đáng khinh
Chúa trùm bệnh Murie [Bệnh
Murie: tên bệnh này có lẽ do tác giả tự đặt ra]
Vua trốn chui trốn nhủi chính là bọn mi.
- A ha!... A ha!... A ha!... - các chiến sĩ
Longeverne đồng thanh rộ lên sau lưng thủ lĩnh của chúng. Chúng không thể giấu
giếm và kiềm chế lâu hơn nữa lòng thán phục chủ tướng và nỗi căm tức đối phương
của mình.
Thằng Aztec đáp lời:
Đồ Longeverne
Ngu như... khẹc
Đồ gắp phân
Bẩn như cóc,
Quỷ tha ma bắt chúng mày!
Đến lượt mình, phe Velrans cũng đồng thanh
nhiệt liệt cổ vũ chủ tướng của chúng bằng những tiếng “Ồ! ồ!” kéo dài và nhịp
nhàng.
Hai phe chửi nhau xối xả như mưa, như lốc
cuốn, như cuồng phong. Rồi hai chủ tướng đều bị kích động cao độ sau khi quẳng
vào mặt nhau những câu chửi kiểu cổ điển hay tân thời như:
- C... rõ ràng mà còn bày đặt làm khôn!
- Ép dầu, ép mỡ, ai nỡ ép duyên!
Vân vân và vân vân... Và vì đang quay lại
cung cách cổ, nên những lời tố cáo kỳ quặc và kinh tởm nhất đã được chúng lôi hết
ra hắt vào mặt nhau với tất cả thái độ bất chính quen thuộc:
- Này thằng kia! Mày còn nhớ lúc mẹ mày đái
vào món ăn để làm nước xốt cho mày không?
- Còn mày có nhớ mẹ mày đã xin bộ dái bò để
làm xa lát cho mày không?
- Thế mày có nhớ cái ngày bố mày than thở rằng
thà nuôi bê còn hơn là nuôi một thằng chó chết như mày không?
- Còn mày? Mày có nhớ mẹ mày từng nói thà
cho bò bú còn hơn cho chị mày bú không, vì ít ra như thế thì mẹ mày cũng không
phải chứa đĩ trong nhà!
- Chị tao ấy à, - thằng nọ không có chị
song vẫn trả miếng, - chị tao chuyên quậy nhuyễn bơ. Còn bữa nào chị tao quậy cứt... thì mày mò tới liếm que. Với lại bao quanh chị tao toàn là đá phiến để lũ
cóc nhái nhãi ranh như mày khỏi mơ tưởng hão huyền!
- Coi chừng! - Camus kêu lên. - Thằng Méo bắn
đấy!
Quả thật ngay lúc ấy một viên sỏi bay vụt
trên đầu chúng. Chúng đáp lễ bằng một chuỗi cười nhạo báng. Rồi chỉ lát sau đá
của hai bên tới tấp vọt qua khung trời, trong lúc đó chúng vẫn không ngừng văng
hết nước bọt ra chửi rủa thậm tệ giữa Bụi Cây Lớn và bờ rừng bên kia, vốn liếng
ngôn từ của cả hai bên đều dồi dào và được lựa chọn phong phú không kém gì
nhau.
Song hôm ấy là Chủ nhật. Hai bên đều đóng bộ
vía oách nhất nên không đứa nào, dù thủ lĩnh hay tốt đen, dám ẩu đả vì sợ bẩn
quần áo.
Thành ra lần này cuộc chiến chỉ giới hạn ở
võ mồm và pháo binh nên không bên nào thiệt hại đáng kể.
Khi nhà thờ Velrans gióng tiếng chuông đầu
tiên nhắc nhở buổi cầu kinh thì thằng Aztec ra hiệu cho đồng bọn rút lui, không
quên bắn thêm câu nói cực kỳ khiêu khích dưới đây, kèm theo một lời chửi rủa và
một viên đá:
- Ngày mai bọn non hột Longeverne tụi bay sẽ
lại biết tay chúng ông!
- Cút mẹ mày đi, đồ hèn! - Lebrac chế giễu.
- Cứ chờ đấy, phải rồi, chờ đến mai! Rồi bay sẽ thấy bọn ông làm gì với lũ khốn
kiếp như bay!
Rồi loạt đá cuối được bắn lên để tiễn bọn
Velrans rơi xuống cái rãnh giữa đường, chỗ chúng phải đi qua trên đường về.
Phe Longeverne - hình như đồng hồ tháp
chuông nhà thờ phe này chạy chậm hay đổi giờ nguyện - nhân lúc phe địch rút lui
bèn chuẩn bị cho ngày ác chiến hôm sau.
Tintin nảy ra sáng kiến thiên tài:
- Trước khi bọn chúng tới thì năm hay sáu đứa
mình núp trong bụi cây, không được cục cựa. Rồi khi một đứa trong bọn chúng dám
lấn xa thì mình sẽ từ lùm cây phóng ra tóm cổ nó.
Thủ lĩnh trận phục kích chấp nhận ngay kế
hoạch này và chọn lấy năm đứa nhanh chân nhất để cùng mai phục trong khi đám
còn lại tấn công chính diện. Rồi chúng quay về làng, lòng hừng hực lửa đấu
tranh và sôi sục căm thù.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét