Thứ Bảy, 31 tháng 10, 2020

Cuộc Chiến Khuy Cúc - Phần III-9

Cuộc Chiến Khuy Cúc

Tác giả: Louis Pergaud
Dịch giả: Lê Chu Cầu
Nhà xuất bản: NXB Hội Nhà Văn - 2009

IX. Lần trở về bi thảm

Hiển nhiên tiếng nức nở của những kẻ chịu thống khổ và nhục hình là một bản hợp xướng của lũ say mèm.
Ch. Beaudelaire (Những bông hoa đau khổ)

Bacaillé đã được cởi trói, mông rỉ máu, mặt mũi co rúm, mắt lồi kinh hãi. Chúng quăng vào mặt nó mảnh áo quần, như những gói hôi rình. Rồi để mặc nó ở đấy, đoàn quân theo các thủ lĩnh rời khỏi căn lều một cách đĩnh đạc tới một địa điểm xa hơn, vắng vẻ và kín đáo để bàn bạc xem sắp tới sẽ phải làm gì trong tình thế khẩn trương và khó khăn này.
Không đứa nào tự hỏi xem chuyện gì sẽ xảy đến với thằng phản bội bị vạch mặt, bị trừng trị, bị đánh đòn, bị làm nhục và hôi thối nọ. Đó là việc của nó, nó chỉ gánh những gì nó đáng phải chịu thôi. Tuy tai chúng vẫn nghe thấy tiếng rên rỉ, tiếng nấc cụt giận dữ, tiếng nức nở của kẻ vừa bị chúng trừng trị, song chúng chẳng hơi đâu bận tâm.
Lát sau Bacaillé tỉnh táo lại dần, vội vàng cuốn gói chuồn. Những tiếng nấc, khóc than, kêu gào nhỏ dần rồi tắt hẳn.
Lebrac ra lệnh:
- Trong lúc chờ đợi, mình phải lấy những gì còn dùng được trong lều cất tạm đâu khác.
Cách lều chừng hai trăm mét có một hang nhỏ giữa bụi cây rậm rạp, tuy không thay thế được chỗ chúng vừa mới mất do tội lỗi của thằng Bacaillé, nhưng vì chưa có chỗ nào khá hơn nên chúng đành dùng tạm để chứa những gì tom góp được trong cái dinh thự quang vinh trước đây của quân Longeverne.
- Mình phải mang hết qua đây, - Lebrac quyết định.
Tức thì đại quân bắt tay vào việc.
- Giật sập tường luôn, - nó nói thêm. - Gỡ mái đi và bít kín chỗ dự trữ gỗ. Đừng để ai thấy gì hết cả.
Sau khi ra lệnh và đám lính đi làm những việc cần thiết và cấp bách này rồi thì Lebrac bàn bạc với những thủ lĩnh khác của đạo quân như Camus, La Crique, Tintin, Boulot, Gibus anh và Gambette.
Đó là một buổi họp lâu và bí mật.
Tương lai và hiện tại đối chiếu với quá khứ, không phải không có than van trách móc và tiếc nuối. Nhưng chúng bàn nhiều nhất chuyện làm cách nào chiếm lại được kho tàng đã mất.
Chắc chắn là kho tàng ở trong lều của bọn Velrans, mà lều này ở trong rừng. Nhưng tìm bằng cách nào và nhất là bao giờ tìm?
Chỉ có Gambette vì nhà ở trên đồi và Gibus anh thỉnh thoảng đi làm cho trạm xay xát là có thể nghỉ học với những lý do chấp nhận được mà không sợ bị kiểm tra ngặt nghèo ngay lập tức.
Gambette đồng ý ngay.
- Tao sẽ trốn học chừng nào còn cần phải trốn. Tao sẽ lùng sục khắp khu rừng, từ trên xuống dưới, hết dọc lại ngang, không chừa một mẩu nhỏ, cho tới khi phá tan lều của chúng và lấy lại kho tàng của bọn mình mới thôi.
Gibus anh nói rằng hễ có dịp là sẽ tới gặp Gambette ở mỏ đá Pepiot khoảng nửa tiếng trước giờ học.
Ngay sau khi Gambette truy lùng có kết quả và chúng chiếm lại được kho tàng thì chúng sẽ dựng một cái lều mới. Địa điểm thích hợp chúng sẽ quyết định sau, khi đã nghiên cứu thật kỹ càng.
Còn bây giờ chúng đưa anh em Gibus cho tới khúc quanh gần nhà Menelots và mỏ ma-nơ của nhà Jean-Baptiste để về nhà ở Vernois.
Việc chuyển đồ đạc đã xong. Các chiến binh lại bu quanh các thủ lĩnh.
Nhân danh ban chỉ huy Lebrac nghiêm trọng tuyên bố tạm thời hoãn lại cuộc chiến ở Saute. Ngày tái chiến sẽ được xác định rõ ràng, sau khi toàn quân tìm lại được những thứ cần thiết.
Ban chỉ huy thận trọng giữ bí mật những quyết định trọng đại.
Sau khi ra sức xóa cho kỳ sạch những dấu vết dẫn từ căn lều cũ đến nơi dự trữ mới thì cũng đã muộn. Chúng quyết định quay về làng, đâu ngờ giờ này trong làng đang vô cùng náo động.

Các anh tân binh đang chơi ky, các ông đang tụ nhau uống rượu ở quán Fricot, các bà sang bên hàng xóm chuyện gẫu, các cô gái lớn đang ngồi thêu thùa sau màn cửa, nói gọn là tất cả dân làng Longeverne đang nghỉ ngơi và giải trí bỗng dưng bị lôi - phải nói là bị “hút” - ra giữa đường, do tiếng khóc khủng khiếp, tiếng thở khò khè không còn là của con người nữa. Người ấy hẳn phải là kẻ bạc phước đã sức cùng lực kiệt và sắp ngã gục, hồn lìa khỏi xác thôi. Ai nấy trố mắt sợ hãi, tự hỏi không biết đã xảy ra chuyện gì.
Và họ thấy Bacaillé thình lình xuất hiện trên đường, cà nhắc hơn bao giờ hết, vừa chạy vừa ra sức gào. Nó trần truồng, hoặc gần như thế, vì trên mình nó không có gì khác ngoài chiếc áo sơ mi và hai bàn chân mang giày không dây. Nó kẹp hai bên hai gói quần áo. Và nó hôi, hôi hơn ba mươi sáu xác súc vật thối rữa!
Những người đầu tiên chạy lại gặp nó thảy đều lùi lại, bịt mũi. Rồi khi đã quen dần với mùi hôi họ xích gần lại, kinh hoàng hỏi:
- Sao thế?
Đôi mông Bacaillé đỏ lòm máu, đờm dãi lòng thòng trên hai chân, đôi mắt khiếp đảm không còn tí nước mắt nào, tóc cứng quèo và bết như lông nhím. Nó run rẩy như chiếc lá úa sắp lìa cành bay theo gió.
- Có chuyện gì thế? Có chuyện gì thế?
Bacaillé không nói nổi. Nó nấc, thở khò khè, vặn vẹo, lắc đầu rồi quỵ xuống đường.
Bố mẹ nó chạy vội tới bế thằng con đã gần ngất xỉu vào nhà. Cả làng tò mò ùa theo.
Người ta băng bó mông Bacaillé, lau chùi cho nó, ngâm áo quần nó trong một cái chậu để trong nhà chứa dụng cụ, rồi đưa nó đi ngủ, sưởi cho nó bằng những viên gạch hơ nóng và bình nước ấm, cho nó uống trà, cà phê, rượu Rum. Nó vẫn nấc, nhưng bớt dần rồi khép mắt lại.
Mười lăm phút sau nó đã đỡ hơn, nó mở mắt rồi kể với bố mẹ và đông đảo các bà ngồi quanh giường mọi chuyện xảy ra trong căn lều, nhưng nó cẩn thận tránh lý do khiến nó đã bị đối xử dã man như thế - việc phản bội của nó.
Nó cũng kể hết mọi chuyện khác: nó tiết lộ mọi bí mật của phe Longeverne, nó thuật lại những lần trốn lên Saute đánh nhau, nó thú nhận chuyện cắt cúc và đóng góp chiến phí, nó vạch trần mọi mánh khóe và khai hết mọi lời khuyên của Lebrac. Nó buộc tội Camus những gì có thể được; nó kể về việc lấy cắp ván, đinh, những dụng cụ “chôm chỉa”, về chuyện liên hoan, rượu mạnh, vang, táo, đường, những bài hát tục tằn, chuyện ói mửa trên đường về, chuyện chúng phá lão Bédouin, chuyện mặc quần của thằng Aztec cho tượng thánh Joseph. Nó kể hết, kể hết. Nó tuôn ra sạch, nó tiết lộ ráo, nó trả thù. Rồi nó thiếp đi trong cơn sốt và ác mộng.
Các bà hàng xóm rón rén ra về, hoặc một mình hoặc thành nhóm nhỏ. Thỉnh thoảng họ dừng lại ngoái nhìn thằng bé hay hay bị ốm kia. Nhưng họ chờ nhau trước cửa nhà. Khi đã đủ mặt rồi họ bàn tán sôi nổi, họ khích động đến mức giận dữ điên cuồng: ăn cắp trứng gà này, lấy trộm cúc với đinh này! Chưa kể những thứ họ không được biết! Chẳng bao lâu sau không con mèo nào trong làng lại không biết từng chi tiết câu chuyện đáng sợ này - nếu lũ vật dễ thương kia đều có thói xấu vểnh tai hóng chuyện như các bà chủ.
- Đồ du côn! Đồ nhãi ranh! Quân vô lại! Quân lêu lổng! Đồ ôn dịch!
- Lát nữa thằng con tôi về thì nó sẽ biết tay tôi!
- Tôi cũng sẽ cho thằng con tôi một trận!
- Oắt con bằng này tuổi mà dám thế à!
- Không còn đứa nào ngoan ngoãn nữa, các bà ạ!
- Còn thằng con nhà tôi thì sẽ có bố nó hỏi thăm!
- Chúng cứ về rồi khắc biết!
Nhưng đám Longeverne hình như không vội vàng gì lắm chuyện về nhà và chúng sẽ càng ít vội vàng hơn nếu biết được thằng Bacaillé khi trở về đã thổ lộ và gây cho bố mẹ chúng biết bao khích động.
- Các bà vẫn chưa thấy tăm hơi chúng đâu à?
- Chưa! Chúng còn đang làm những chuyện ngu ngốc gì nữa đây không biết!
Trong khi đó thì các ông bố đã về nhà lo cho gia súc ăn, dẫn chúng đi uống nước và thay cỏ mới. Họ không bù lu bù loa như các bà vợ, nhưng mặt họ nhăn nhó và đanh lại.
Bố Bacaillé đã đề cập tới chuyện thằng con bị ốm, dọa sẽ kiện tụng và đòi bồi thường - với cả lãi nữa chứ! Cái gì chứ đòi họ phải mở hầu bao thì đừng hòng. Song họ tự thề với lòng, đồng thời cũng nói to cho mọi người biết rằng sẽ cho cậu quý tử nhà mình một trận nên thân!
- Chúng về kia rồi! - mẹ Camus nói khi đứng trên bệ kho chứa rơm rạ, đưa tay lên trán che nắng ngóng nhìn.
Quả thực là gần như ngay sau đó đám con trai Longeverne xuất hiện trên đường làng, gần giếng nước. Chúng chạy theo nhau, trò chuyện như mọi ngày.
- Về nhà ngay! - Bố Tintin đang cho lũ vật uống nước, sẵng giọng ra lệnh cho thằng con.
- Cả thằng Lebrac nữa, - ông nói thêm, - còn mày, Camus, bố mày đã gọi mày ba lần rồi đấy.
- Dạ, dạ, chúng cháu về ngay đây, - hai thủ lĩnh thờ ơ đáp.
Chỉ một lát sau, các ông bố, bà mẹ hiện ra ở mọi ngóc ngách, mọi cửa nhà lớn tiếng gọi con, bắt chúng phải về nhà tức thì.
Anh em Gibus và Gambette bỗng dưng thấy chỉ còn ba đứa chúng nó chơ vơ đứng đó liền cũng quyết định ai về nhà nấy. Nhưng khi Gambette leo lên đồi, còn anh em Gibus đi quá khỏi ngôi nhà cuối cùng thì bỗng dưng chúng khựng lại.
Từ mọi ngôi nhà trong làng vang lên tiếng khóc, tiếng gào, tiếng chửi, tiếng thở khò khè lẫn với tiếng chân đạp thình thịch, tiếng đấm binh binh, tiếng bàn ghế đổ, hòa với tiếng lũ chó sợ hãi vừa bỏ chạy vừa sủa ăng ẳng, tiếng mèo làm động lỗ mèo chui [ở Âu Mỹ nhà cửa thường đóng im ỉm, nên có nhà làm một ô trống ở cửa chính - có tấm che chắn - đủ lớn cho mèo có thể ra vào bất cứ lúc nào] thành một thứ âm thanh hỗn độn chối tai chẳng ai ngờ nổi.
Có thể nói rằng khắp nơi người ta đang đồng loạt bóp cổ nhau.
Gambette đứng bất động lắng nghe, tim thắt lại.
Thế nghĩa là gì?
Nó liền lẻn từ phía sau trở vào làng qua các vườn cây ăn quả, chứ không dám đi qua trước hiệu thuốc lá của Léon, vì ở đó có mấy tay độc thân dạn dày đứng phì phèo ống tẩu đang bình luận những cú đánh tùy theo tiếng kêu khóc, rồi bàn tán một cách trào lộng về sức mạnh nắm đấm của các ông bố.
Nó nhận ra anh em Gibus cũng dừng lại, chúng như lũ thỏ tròn mắt, lông dựng cả lên, lắng nghe tiếng săn đuổi ồn ào...
- Mày nghe thấy gì không? Bay có nghe gì không?
- Tụi nó bị đòn! Sao thế nhỉ?
- Bacaillé... - Gibus anh nói. - Tao đánh cuộc là tại thằng Bacaillé. Đúng thế, hồi nãy nó về làng, có lẽ lúc tụi mình bỏ nó lại lều với đống áo quần đầy c... Chắc chắn nó lại mách lẻo nữa rồi!
- Chắc nó đã kể hết mọi chuyện rồi, thằng khốn nạn!
- Tụi mình cũng sẽ ốm đòn nếu ông bà già biết chuyện.
- Nếu nó không khai tên mình và nếu họ không mách thì mình cứ chối phăng là mình không có đó.
- Nghe kìa!...
Một tràng tiếng nức nở, khò khè, khóc lóc, chửi mắng, đe nẹt tuôn ra từ mỗi nhà, tỏa lên cao, hòa vào nhau, ngập tràn đường phố thành một thứ tạp âm chói tai, một lễ sabbat* của địa ngục, một màn đồng ca của những kẻ bị đọa đày.

*[Tiếng Do Thái là ngày lễ thờ phụng Chúa Trời; với đạo Hồi là ngày thứ Sáu, với đạo Do Thái là ngày thứ Bảy, với đạo Thiên Chúa là ngày Chủ nhật]

Toàn quân Longeverne, từ chủ tướng cho chí lính quèn, từ đứa lớn nhất tới đứa nhỏ nhất, từ đứa khôn ngoan nhất tới đứa khù khờ nhất đều bị ăn đòn. Các ông bố không hề nương tay (vì họ luôn nhớ đến chuyện cái hầu bao của mình), họ đấm, họ đá, với giày hay với guốc, với phất trần hay với gậy. Các bà mẹ, khi liên quan đến những đồng xu, cũng hùa vào dữ dằn và không thương xót. Còn những cô chị, cô em buồn khổ vì cảm thấy mình cũng có lỗi phần nào, khóc than thảm thiết, van xin bố mẹ đừng vì một chuyện nhỏ mọn như thế mà đang tâm giết những đứa em, đứa anh đáng thương của họ.
Cô bé Marie muốn nhào vào can liền bị bà mẹ tát cho mấy cái nên thân, bà còn dọa:
- Con ranh! Đừng xía vào những chuyện không liên quan gì đến mày! Tao còn nghe các bà hàng xóm nói rằng mày nhăng nhít gì với thằng ôn con Lebrac nữa đấy! Tao sẽ dạy cho mày biết là ở tuổi mày thì con gái con đứa phải như thế nào!
Marie định cãi thì bị ông bố tát cho hai cái khiến hết dám mở miệng, đành chui vào một xó âm thầm khóc.
Gambette và anh em Gibus hoảng hồn nên cũng về luôn, mỗi đứa một hướng. Trước đó chúng hẹn sáng mai Gibus anh sẽ đến trường để thăm dò tin tức và thứ Ba sẽ gặp Gambette ở Saute để cùng đi tìm lều của bọn Velrans, và kể cho nó nghe chuyện hôm nay ngã ngũ ra sao.
------------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét