Trái tim tuổi 19
(Nguyên tác: Starting Over)
Tác giả: Tony Parsons
Người dịch: Ánh Tuyết - Song Thu
NXB Tổng hợp TP.HCM - 03/2012
Dành tặng Yuriko
Phần một: Tên bàn giấy và cậu bé đểnh đoảng
Hình dạng trái tim
Cô không hề thấy thoải mái khi lái chiếc xe
này. Nó quá to lớn, quá xa lạ, quá đậm phong cách của chồng cô. Còn giọng phụ nữ
trong hệ thống định vị thì không chịu câm đi cho rảnh.
“Cố
vòng theo hình chữ U... vòng theo hình chữ U”.
Lúc
này đã muộn. Cô chẳng biết gì về nơi đây cả. Chiếc BMW X5 to lớn lăn bánh qua
con đường với những cửa hiệu cũ kỹ, những khu mua sắm xấu xí, những khu đất tối
tăm có căng dây thép gai bảo vệ. Chỗ nào cũng thấy trẻ con. Chúng tụ tập thành
từng nhóm ba, bốn đứa bên cạnh mấy chiếc xe đạp. Ánh sáng từ những chiếc điện
thoại di động lóe lên qua kẽ tay chúng. Khuôn mặt chúng giấu trong chiếc mũ
trùm đầu liền với áo khoác.
“Hãy
vòng theo hình chữ U...”.
“Tôi
đang cố đây!”, cô hét lên, đột nhiên nhận ra dường như cô vừa uống hơi nhiều.
Mọi cặp
mắt đều dõi theo cô. Ít nhất là cô cảm thấy thế. Cách ăn mặc của cô quá sang trọng
so với nơi này, chiếc xe rõ ràng quá đắt. Lẽ ra cô nên lái chiếc xe nhỏ cà tàng
của mình. Nhưng chồng cô cứ ép cô đi chiếc BMW X5 - anh nói rằng như thế cô sẽ
cảm thấy an toàn hơn.
Mà
đúng thật.
Cảnh
vật thay đổi. Đột nhiên, những cửa hàng rệu rã, khu mua sắm và đám trẻ ủ rũ biến
mất. Không còn dấu hiệu nào của sự sống. Chỉ còn lại những con đường với cái...
gọi là gì nhỉ? - nhà kho. Những nhà kho cũ. Những tòa nhà lớn đen sì với khung
cửa sổ dài trên mái đã vỡ nát. Trông như chúng đã bị bỏ hoang nhiều năm, như
đang mục ruỗng, như đang chờ được quét sạch đi để xây mới. Chiếc xe đồ sộ lướt
qua những con phố chết. Có thể cô mới chỉ ở cách nhà vài dặm, nhưng chỗ này đã
không còn giống thị trấn của cô nữa rồi.
“Hãy
vòng theo hình chữ U...”.
“Trời
ạ, nhét giẻ vào miệng đi!”, cô hét lên. Và ngay lúc đó cô nhìn thấy nó.
Thằng
bé đang nằm giữa đường, co rúm, nhưng một cánh tay đang đỡ lấy đầu. Chân cô chạm
vào phanh, nhưng chỉ trong khoảnh khắc. Chính cánh tay làm thành cái gối cho thằng
bé khiến cô cảm thấy điều này không ổn, hoàn toàn không ổn, rằng đây là dấu hiệu
của một chuyện rắc rối.
Thế
là cô không dừng lại.
Cô đạp
ga và đánh tay lái, lạng tránh thằng bé ở giây cuối cùng. Nhìn qua kính chiếu hậu,
cô thấy thằng bé vẫn không động đậy. Chiếc xe suýt đâm vào nó, vậy mà nó vẫn nằm
yên không nhúc nhích. Cô chợt nhận ra mình đã nhầm.
Đúng
là có người bị thương, cô nghĩ vậy. Có người đang cần cô giúp đỡ.
Chiếc
xe dừng lại.
Cô
rút điện thoại ra. Không có tín hiệu.
Rốt
cuộc rồi cô cũng làm theo người phụ nữ trên hệ thống định vị, vòng theo hình chữ
U, vội tấp vào một trạm xăng bỏ hoang. Không một máy bơm xăng, nhưng trên mái vẫn
còn lờ mờ tên một công ty xăng dầu. Bao quanh trạm xăng là một dãy tường thấp
và nói chung nơi đây đã trở thành một bãi rác. Vôi gạch ngổn ngang khắp nơi. Một
chiếc túi xách màu đen bị cắn nát, còn nguyên những dấu răng sắc nhọn, một chiếc
xe bị cháy, một lò nướng nhớp nháp đen đúa, và vài chiếc máy tính với màn hình
không còn nguyên vẹn. Bỗng dưng giống như lái xe trên mặt trăng vậy. Chiếc BMW
X5 đè lên một thứ mà chỉ có Chúa mới biết là gì và giờ cô cảm thấy mừng vì đã
lái chiếc xe này.
Cô dừng
xe cạnh một ổ gà nơi trước kia từng đặt một máy bơm xăng, chồm tới trước, vẫn để
xe nổ máy, nhìn chăm chú vào thằng bé ở giữa đường đang được ánh đèn pha của
chiếc xe chiếu thẳng vào người.
Và cô
vẫn không biết.
Cô
không biết liệu thằng bé có bị thương thật không. Cô không thể bỏ mặc thằng bé
nằm đó. Nhưng cô không thể ra khỏi xe.
Rồi
cô nhấn ga chạy qua cái trạm xăng hoang phế đó. Chiếc xe lớn tròng trành, xóc nảy,
và suốt đoạn đường đó, qua kính chiếu hậu, cô luôn quan sát thằng bé được đèn
xe rọi sáng cứ lùi dần lại phía sau.
Nó
không hề động đậy.
Nhưng
cô biết rằng cô sẽ không ra khỏi xe. Cô vòng xe trở ra đường cái, chạy ngược về
hướng lúc nãy. Giọng người phụ nữ trong hệ thống định vị đã tắt như thể cuối
cùng cũng hài lòng.
Mấy
viên cảnh sát ở đồn tỏ ra thông cảm. Họ nói cô làm như vậy là đúng. Bạn không
được ra khỏi xe ở những chỗ như thế. Một cảnh sát trẻ tóc đỏ mặc sắc phục và
đeo cà vạt chở cô quay lại chỗ cô nhìn thấy thằng bé trên đường.
Và nó
đã biến mất.
Viên
cảnh sát và người phụ nữ bước ra khỏi chiếc xe không một vết xước. Hay đây
không phải nơi lúc nãy? Không, chắc chắn là nơi này mà. Cô nhận ra trạm xăng với
cái tên đã mờ. Chỗ này, cô khẳng định.
Và
lúc này họ nhìn thấy cái xác.
Chắc
thằng bé này đã nấp sau bức tường thấp bao quanh trạm xăng. Chờ cô dừng lại. Chờ
cô bước ra xe để giúp bạn nó. Chờ cô làm một việc đúng, mà rất có thể là một việc
sai lầm.
Và
khi người phụ nữ quay đầu xe, khi cuối cùng cô cũng vòng theo hình chữ U, cô đã
cán qua người thằng bé.
Đứa
đang nấp, đứa đang chờ. Cô vội nhìn đi chỗ khác nhưng không đủ nhanh để tránh
trông thấy vết bánh xe hằn trên gương mặt nó. Còn trẻ quá, cô nghĩ. Vẫn còn là
một cậu bé mới lớn. Quá trẻ để phải chịu điều đó.
Rồi
nó nói gì đó khiến cả người phụ nữ và viên cảnh sát kêu thét lên.
Hình
như nó còn sống.
Hình
như nó vẫn còn sống.
Nhưng
không được lâu.
Tại bệnh
viện, sau khi cậu bé vô danh được thông báo đã chết trên truyền hình, viên cảnh
sát tóc đỏ đứng cùng y tá trực và ký vào tờ khai nhận những di vật trong túi thằng
bé. Viên cảnh sát lần lượt bỏ từng cái một vào chiếc túi ni lông nhỏ.
Vài
chiếc chìa khóa. Một cái thẻ Oyster. [Một loại vé điện tử sử dụng cho các phương tiện giao
thông công cộng tại Luân Đôn]. Một cái ví có ảnh em bé ở độ tuổi chập chững biết đi. Bé trai,
viên cảnh sát nghĩ, vì nó mặc chiếc áo liền quần màu xanh. Một người phụ nữ
đang bế đứa bé. Có thể thấy được bàn tay, cánh tay và một phần nụ cười của cô.
Có một
xấp thẻ tín dụng, mỗi cái mang một tên khác nhau. Hiroshi Yamamoto. Deirdre
Smith. Elisabeth Kubler-Ross. Mấy mẩu giấy viết tay nhăn nhúm. Và một chiếc điện
thoại rẻ tiền vẫn đang bật. Đột nhiên, đèn lóe sáng và chuông reng. Những giai
điệu quen thuộc. Viên cảnh sát đặt nó qua một bên và nhìn chằm chằm như để cố
ghi nhớ từng nốt nhạc.
Cuối
cùng là một chiếc thẻ màu xanh nước biển. Viên cảnh sát nhìn chiếc thẻ.
Chỉ
có thế.
Chỉ
là chiếc thẻ màu xanh với vài dòng chữ trắng và những chấm đỏ tạo thành hình
trái tim.
Còn
người phụ nữ ở nhà, an toàn và ấm cúng, nhưng vẫn run rẩy bên chồng và một ly
rượu. Người chồng cảm ơn Chúa vì cô đã làm một việc khôn ngoan là ở lại trong
xe.
Cô nhấp
một ngụm rượu và cũng thầm cảm ơn Chúa.
Trong
truyện cổ tích ngày xửa ngày xưa, cô sẽ bước ra khỏi xe. Cô sẽ đưa tay cứu lấy
thằng bé.
Nhưng
người ta không còn bé nữa.
*
* *
Một
Tôi đợi con trai về.
Tôi xem bản tin cuối ngày, tắt ti vi, lật
nhanh mấy trang báo, rồi ném sang một bên. Tôi ra sau bếp, đứng tựa cửa nhìn ra
vườn, rít một hơi thuốc, ngắm làn khói mỏng bay lơ lửng rồi tan vào màn đêm.
Tôi đợi con trai về.
Biết bao thứ tồi tệ có thể xảy ra ở cái tuổi
mười bảy. Đầu tôi ong lên. Đụng xe. Đâm chém. Hút hít. Ngoài đường, bọn trẻ
chém giết lẫn nhau, mà thằng bé vẫn đang ở đó, giữa bọn chúng.
Còn tôi ở đây, chỉ biết đợi chờ.
Rufus là thằng bé thông minh, nhưng còn non
nớt lắm. Thế mới là vấn đề. Không phải là sự liều lĩnh, hay ngu ngốc, mà chính
là tuổi trẻ. Tôi tin con, nhưng tôi không tin thế giới này. Tôi nghĩ người ta cần
một chút may mắn ở cái tuổi đó. Và, tôi vẫn đứng đợi bên cửa sổ, còn nó vẫn
chưa về.
Thằng bé mười bảy tuổi. Hầu như tối nào nó
cũng đi chơi bằng chiếc Beetle cũ rích tự sắm từ số tiền làm thêm hồi hè. Tôi
không biết nó đi đâu. Không một manh mối. Đến một độ tuổi nào đó, chúng ta sẽ lạc
mất bọn trẻ và chúng không bao giờ trở lại như xưa. Chúng là một phần máu thịt
của bạn, bao năm quấn quít bên bạn không rời, rồi bỗng dưng chúng trở thành những
người mà bạn không thể nhận ra. Tôi thấy điều đó đang đến.
Hai bố con chưa hẳn là hai người xa lạ. Tôi
vẫn thoáng thấy hình ảnh cậu con trai đạp chiếc xe gắn thêm hai bánh sau để giữ
thăng bằng đến công viên cùng bố. Nhưng có một thứ gì đó đang ngăn cách chúng
tôi, như vực sâu bí ẩn, khiến người này hoàn toàn mù tịt về cuộc sống của người
kia. Và dường như khoảng cách ấy ngày càng rộng thêm mỗi khi thằng bé ra khỏi cửa.
Đã quá nửa đêm, tôi chợt hiểu rằng mình sẽ
không bao giờ thấy nó nữa. Cái điều đoan chắc đó làm cổ họng tôi nghẹn đắng,
tim se thắt lại. Tôi còn nhìn thấy cái cảnh khi tôi báo tin đó với mẹ và em gái
nó. Tôi có thể thấy ánh nhìn thảng thốt trên khuôn mặt ông bà nó. Tôi có thể
hình dung ra những khuôn mặt ngơ ngác của đám bạn bè nó khi viếng lễ tang đầu
tiên trong đời - chúng còn quá trẻ để mặc toàn một màu đen. Tôi biết rõ việc đó
sẽ như thế nào. Như ngày tận thế.
Rồi tôi nghe tiếng xe thằng bé về.
Cửa sổ lóa ánh đèn, động cơ im bặt, cánh cửa
đóng sầm - đám trẻ mười bảy có làm gì nhẹ nhàng được bao giờ - và đột nhiên con
trai tôi đứng đó, sừng sững trước mặt tôi, thật không dễ nhìn thẳng vào mắt nó.
Cũng như mọi khi, tôi vừa nhẹ nhõm vừa lúng túng khi nó xuất hiện - nhẹ nhõm vì
nó vẫn ổn và lúng túng vì đứa trẻ trong cái vóc dáng đàn ông quá khổ này.
Nó là ai? Nó từ đâu đến? Có gì liên quan giữa
nó với cậu bé tóc vàng cắt kiểu Beatle không? Vừa nhón chân - tôi cao chưa đến
một mét tám - tôi vừa hôn lên cái má lún phún râu mà thằng bé vẫn cạo mỗi tuần
một lần. Khi nó miễn cưỡng ôm nhẹ tôi, tôi cảm nhận được khung xương rắn rỏi của
đứa con trai duy nhất.
Chúng tôi vẫn hay ôm hôn nhau, nhưng gần
đây, xen giữa những cái ôm đã có cảm giác e dè, ngượng ngập. Tôi biết Rufus
mong muốn chấm dứt nghi thức cũ kỹ này. Nhưng điều đó có lẽ quá sức chúng tôi.
Thế nên hai bố con tiếp tục cái kiểu hôn của đàn ông đó dù cả hai đều không thoải
mái.
Tôi cảm thấy nó đẩy tôi ra. Tôi cố lấy giọng
nhẹ nhàng:
- Con vừa đi đâu vậy?
- Chạy vòng vòng thôi mà.
Nó đáp bằng giọng trầm trầm, ồm ồm - giọng
của một người đàn ông to lớn thốt ra từ cậu con trai bé bỏng của tôi. Tôi khựng
lại trước giọng nói đó, trước những từ ngữ đó, trước câu nói dối rành rành đó.
Dù thằng bé có làm gì ngoài kia, tôi quả
quyết là nó không chỉ chạy vòng vòng.
- Được rồi. - Tôi bình tĩnh nói và với lấy
chiếc máy đo nồng độ cồn AlcoHawk Pro để sẵn trên bàn.
Đó là một khối nhựa chữ nhật màu xám, kích
cỡ bằng chiếc điện thoại di động mà ngày nay dường như ai ai cũng dành cả đời để
nhìn chằm chằm vào nó thay vì nhìn nhau hay ngắm các vì sao. Một bên thân chiếc
AlcoHawk Pro có một ống thổi dài bằng đoạn đầu lọc thuốc lá mà tôi vừa vứt vào
bụi hoa hồng.
- Con đâu có uống.
Rufus khăng khăng, mặc dù tôi vẫn ngửi thấy
hơi bia trên người nó.
- Tốt, - tôi nói dứt khoát. - Rồi sẽ rõ cả
thôi.
Tôi bật máy. Những con số màu đỏ trên màn
hình tròn rơi tuột từ 200 xuống 0. Tôi đưa cho Rufus. Thằng bé hít một hơi dài
rồi thổi vào ống cho đến khi có tiếng bíp. Nó trả lại cho tôi. Hai bố con cùng
chờ, không nói gì, không nhìn nhau, giữa chúng tôi chỉ là một chút âm thanh ồn
ã của phố xá. Một loạt tiếng bíp nhỏ vang lên.
Chiếc máy hiện lên ba số không. 000. Lạ thật,
rõ ràng tôi ngửi thấy hơi bia mà. Tôi lắc lắc chiếc AlcoHawk Pro và nhìn kỹ lại.
Vẫn là 000. Điều đó có nghĩa là không có cồn trong máu thằng bé. Ít nhất nó đã
thành thật với tôi một lần trong đời.
Tôi đưa kết quả cho Rufus đọc và khi nó lễ
phép gật đầu, tôi muốn ôm nó vào lòng. Đó quả là một cử chỉ khoan dung, cái gật
đầu nhè nhẹ lịch sự của nó ấy. Con trai tôi thật đáng yêu, thậm chí khi vẻ đáng
yêu đó chỉ dành cho mẹ nó chứ không dành chút nào cho tôi. Tôi muốn ôm lấy thằng
bé. Nhưng tôi đã không làm vậy. Và khoảnh khắc đó trôi qua.
Chúng tôi chúc nhau ngủ ngon mà không dám mạo
hiểm ôm thêm lần nữa. Tôi bước lên cầu thang, bên tai còn nghe thấy tiếng thằng
bé khua đồ đạc rổn rảng khi nó lục tìm thức ăn trong bếp. Vợ tôi đang ngủ,
nhưng khi tôi khẽ ngả lưng lên giường thì nàng cựa mình.
Lưng vẫn quay về hướng tôi, nàng hỏi:
- Nó về rồi hả anh?
- Nó về rồi.
Tôi lắng nghe tiếng thở đều của vợ trong một
thoáng. Với Lara, thế là đủ. Nó đã về. Nàng chỉ quan tâm có vậy.
- Nhưng nó đi đâu cơ chứ? - Tôi thốt lên
tuyệt vọng
Nàng thở hắt ra trong bóng tối, nửa ngáp ngủ
nửa thở dài.
- Nó là đứa bé ngoan, George à! - Nàng mơ
màng nói. - Và nó vẫn ổn. Nó đang ở nhà và an toàn. Việc nó đi đâu có gì quan
trọng cơ chứ?
Rồi như nhớ ra điều gì đó, nàng hơi nhỏm dậy:
- Anh lại kiểm tra nồng độ rượu à?
- Anh chỉ muốn biết nó đi đâu thôi mà.
Tôi xoay người. Chúng tôi nằm đó, lưng đâu
lưng. Tôi cảm thấy đôi bàn chân nhỏ nhắn của Lara chạm bắp chân mình, đường
cong đôi mông, một góc bờ vai bên dưới bộ đồ ngủ bằng vải mỏng.
- Anh không muốn thằng bé gặp chuyện xấu, -
tôi thì thầm, dù nàng đã thiếp đi.
Tôi cứ nghĩ mình sẽ thao thức cả đêm, nhưng
khi cơ thể Lara ngả vào tôi thật yên bình, tôi biết thế nào mình cũng sẽ ngủ
ngon, chỉ cần đừng nghĩ ngợi quá nhiều.
Tôi biết có điều gì đó còn hơn cả thứ tôi
muốn dành cho con trai, hơn cả cảm giác an toàn, trí khôn ngoan để tồn tại, một
chút may mắn cần có ở tuổi mười bảy và có thể là ít lời nói dối hơn, chỉ để có
một thay đổi nhỏ.
Và đó chính là điều mà cha mẹ nào cũng muốn
dành cho đứa con trai rụt rè của mình, những đứa trẻ bỗng dưng lao vào thế giới
trưởng thành mà không đội mũ bảo hiểm hay thắt dây an toàn, với ảo tưởng mọi thứ
đều nằm trong tầm kiểm soát.
Lời cầu nguyện âm thầm của một người cha
đang sợ hãi.
Tôi muốn tắt chiếc đồng hồ thời gian.
*
* *
Chúng tôi hiếm khi gặp Rufus vào bữa sáng.
Nó gần như là một hình bóng huyền ảo, bí ẩn, kỳ quặc. Hình dáng khổng lồ của nó
đôi khi thình lình phóng ra cửa, ba lô sách vở lủng lẳng một bên vai, y như Người
Tuyết đi học.
Căn bếp đầy dấu vết của thằng bé. Chiếc ghế
đẩy bật ra sau. Dăm hạt ngũ cốc vương vãi trên sàn nhà. Cái bát nằm chỏng chơ
trong bồn rửa.
Cơn giận dữ trong tôi dâng trào. Tôi biết
như thế có nghĩa là gì. Nó chỉ muốn tránh món cháo yến mạch tôi nấu.
Ngày nào tôi cũng nấu món cháo yến mạch bổ
dưỡng và thơm ngon cho cả nhà. Bữa sáng lành mạnh sẽ bù đắp cho những thứ độc hại
còn lại trong ngày, như mấy điếu thuốc tôi lén hút, thức ăn vặt ở sở, những thứ
tiềm ẩn nguy cơ tăng huyết áp. Mỗi sáng, tôi đều dựng lên bức rào chắn chống lại
cái chết trẻ. Một bức tường thành đắp bằng cháo yến mạch. Nhưng con trai tôi chẳng
bao giờ đụng đến món cháo này.
Lara xuất hiện khi tôi đang lau khô cái bát
của thằng bé.
- Nó làm anh bực quá.
Nàng hôn lên má và vỗ nhẹ cạnh sườn tôi.
- Mọi thứ đều làm anh bực bội, anh yêu ạ! -
Rồi ngước nhìn lên lầu, nàng gọi. - Ruby!
Không có tiếng thưa. Lara vừa cầm lấy cái
bát từ tay tôi đem đi cất, vừa lắc đầu.
- Con bé sẽ bị muộn mất thôi. Anh lên đánh
thức nó dậy đi.
Tôi khuấy nồi cháo đang sôi nhẹ rồi trở lên
lầu. Cửa phòng để mở. Con bé ngồi trước máy vi tính, chỉnh tề trong bộ đồng phục,
đang chải mớ tóc ngược ra sau rồi buộc túm cao kiểu đuôi gà. Tôi buồn cười với
cái vẻ căng thẳng trên gương mặt cô con gái mười lăm tuổi giống mẹ như tạc.
Đâu phải thứ gì cũng làm tôi bực bội.
Con gái tôi chẳng bao giờ làm tôi bực mình.
Tôi chẳng thể nào nhìn nó mà không cười. Và lúc nào cũng vậy.
Những hình ảnh trong sách Khải Huyền chạy
ngang qua màn hình máy vi tính của con bé. Nhà máy phun đầy khói độc. Cá chết nổi
lềnh bềnh trên những dòng sông đen kịt. Xe cộ kẹt cứng trên đường cao tốc.
Tôi gõ gõ lên cánh cửa đang để mở.
- Có ai ở đây thích món cháo yến mạch không
nhỉ?
- Để con... - Giọng nó đứt quãng vì mắt còn
mải nhìn những đỉnh núi băng đang tan chảy, vỏ trái đất sôi sùng sục, bầu trời
xé toạc thành từng mảnh bởi sâu bọ và bệnh dịch. - Con phải xem...
- Ruby, đừng lo lắng về mấy thứ vớ vẩn đó
con ạ. Có phải là tận thế đâu.
Nó nhăn mặt nhìn tôi:
- Không đùa đâu, bố.
Tôi phì cười.
Hai bố con xuống đến nơi thì nồi cháo đã
hơi sủi bong bóng, không còn sánh mịn như sữa kiểu tôi thích nữa.
Lara từ ngoài vườn vào, tay phải cầm vật gì
đó. Mẩu đầu lọc thuốc lá. Nàng ném vào giữa ngực tôi, chỗ tôi luôn thấy đau thắt.
Nóng như lửa, bố tôi nói thế. Nhưng mau nguội.
- Anh có biết đó là cái gì không, George?
Thêm một cây đinh đóng hòm cho anh đó!
Nàng quắc mắt hỏi rồi ngồi phịch xuống chiếc
ghế cạnh bàn ăn, hai tay ôm mặt. Ruby và tôi hết nhìn nhau rồi lại nhìn nàng.
Giọng nàng nghèn nghẹn giữa hai bàn tay.
- Cảm ơn anh nhiều lắm, George ạ. Cảm ơn
anh vô cùng.
Chúng tôi ăn cháo.
*
* *
Rufus vẫn đứng ở trạm xe buýt.
Tôi dừng xe bên đường và quay cửa kính xuống.
Trông thấy bố mẹ và em gái trong xe, nó có vẻ e dè, rồi nhìn lảng đi chỗ khác.
Có vài đứa trẻ cùng trường cũng đang đứng đợi, nhưng dường như chúng không quen
biết nhau.
- Con có muốn bố chở đi không? - Tôi hét
lên giữa tiếng xe cộ ầm ầm trong giờ cao điểm.
Nó giật mình nhìn lên, nheo mắt:
- Gì cơ? Con không nghe rõ.
Đám trẻ quay nhìn chúng tôi.
Tôi hỏi Lara đang ngồi ở băng ghế sau:
- Anh có thể nói gì đây? Anh có thể hỏi nó
câu gì khác được chứ?
Ruby chồm tới trước hỏi:
- Thủ đô của Peru là gì? Nếu Chúa có thật
thì tại sao có quá nhiều nỗi đau trên thế giới? - Rồi nó ngồi yên trở lại, khúc
khích cười trước cảnh ông anh trai to xác đang lóng ngóng chờ xe buýt. - Anh ấy
muốn đi xe buýt, bố ạ!
Con bé nói đúng.
Thế nên tôi để mặc thằng bé ở trạm xe buýt
và chở Ruby tới trường, đến tận cổng. Con bé còn hôn bố mẹ mà không phải nhìn
trước ngó sau xem có ai trông thấy không.
Con bé thật sự lúc nào cũng làm tôi cười được.
Và nụ cười chỉ tắt khi tôi thấy con bé tung
tăng bước đi với đứa bạn cùng lớp, lắc cái hông gầy gò làm tốc cái váy xám. Nó
bắt đầu mang vớ trắng cao quá gối tới trường, trông chẳng ra làm sao.
Tôi gọi với theo:
- Này, cô bạn nhỏ!
Nó ngoảnh lại, nhướng đôi mày bướng bỉnh
lên và vẫy tay chào. Cử chỉ đó mang nhiều nghĩa: Thôi mà. Tạm biệt. Đi đi. Chiếc váy không thể ngắn hơn được nữa, và
đó dường như là điều duy nhất tôi có thể hỏi.
Lara sờ đồng hồ khi chúng tôi nhích từng
chút một giữa dòng xe cộ buổi sáng.
- Em muộn mất thôi.
Tôi liếc đồng hồ tốc độ.
- Không đời nào.
Vừa lách xe sang làn đường bên kia, tôi vừa
bật còi hụ. Hai ánh đèn xanh trên mui xe liên tục nhấp nháy. Tất cả xe ngược
chiều đều nhường đường trước khi tôi chạy đến.
Cuộc sống là thế.
- Anh biết là không nên làm vậy mà. - Lara
cúi đầu núp sau lưng ghế, cười xấu hổ.
Tôi mỉm cười, thấy vui vui vì đã làm cho vợ
mình vui, tự hào vì tôi đã đưa nàng đến sở làm đúng giờ, và chờ đợi khoảnh khắc
được ở một mình, châm điếu thuốc đầu tiên trong ngày.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét