Canh bạc
Tác giả: Alfred Hitchcock
Người dịch: Lê Tân
NXB Trẻ - tháng 8/ 2004
*
Trời nắng như đổ lửa, ánh nắng cháy bỏng phủ lên hòn đảo đơn
độc giữa biển.
Hắn không biết mình đang ở đâu, chỉ biết mình vừa thoát chết.
Con tàu chìm mau sau khi va phải đá ngầm đêm qua. Thuyền cứu hộ và phao cứu
sinh được thả nhanh xuống biển nhưng quá nhiều hành khách kinh hoảng nên hỗn loạn
diễn ra, hậu quả là đa số thuyền cứu hộ bị lật. Có lẽ hắn là người duy nhất còn
sống sót. Hắn văng xuống biển khi thuyền cấp cứu của hắn bị lật. Hắn bơi rất giỏi.
Nhưng bơi giỏi đến mấy thì phỏng ích gì khi ở giữa biển? Hắn kiệt lực khi trời
tờ mờ sáng.
Khi mọi nỗ lực, mọi hy vọng đã tàn, chỉ còn lại cảm giác rã
rời cả tinh thần lẫn thể xác thì hắn chỉ muốn buông xuôi tất cả mặc cho thân
xác chìm xuống biển. Lúc đó hắn chỉ thèm được nghỉ ngơi, thư giãn, chỉ khao
khát được yên nghỉ dù là mãi mãi. Cái chết bấy giờ chẳng có gì là đáng sợ như
người ta thường nói.
Ngay lúc đó một cái gì chạm vào tay hắn.
Một cái phao!
Có lẽ là một trong những cái phao cứu sinh của con tàu đó.
Hy vọng sống còn lại trỗi dậy trong hắn. Hắn chụp lấy nó, ôm chặt. Hắn trôi
trên biển đến trưa. Ánh nắng gay gắt, chói chang. Những cuộn sóng ập đến, nhấc
bổng hắn lên rồi ném xuống. Nước biển mặn chát trong miệng hắn. Hắn không dám mở
miệng ra nữa. Cổ họng khô đắng, hắn bắt đầu thấy chóng mặt. Bỗng hắn thấy một
chấm đen ở phía chân trời. Hắn mở to mắt... một con tàu!
Hắn đập chân như điên, cố bơi về hướng đó, một tay giữ cái
phao, một tay giơ lên quơ liên hồi, miệng gào to. Chiếc tàu lớn dần rồi nó rẽ
sang hướng khác. Hắn cuống cuồng bơi theo một cách tuyệt vọng. Hắn kêu gào. Hắn
khóc rống lên, tay quơ điên dại.
Con tàu từ từ mất dạng. Hắn không bơi nữa, không la hét nữa,
mắt ngây dại như vừa trông thấy một ảo ảnh. Rồi hắn bật khóc, khóc nức nở.
Hắn mặc cho sóng đưa đẩy, lênh đênh trên biển. Đêm xuống.
Đêm trên biển lạnh buốt. Hắn không còn bao nhiêu sức lực nữa. Hắn chỉ biết bám
chặt lấy cái phao, đầu óc trống rỗng.
Một cuộn sóng lớn ập đến hất văng cái phao trong tay hắn. Chới
với tuyệt vọng trong màn đêm dày đặc. Giữa sóng nước mênh mông, hắn nghĩ thầm: “Thế
là hết!”.
Hắn muốn buông xuôi tay nhưng bản năng đòi quyền sống. Hắn nổi
người trên biển, mặc cho sóng đưa hắn đi. Sau cùng, hắn kiệt lực hoàn toàn và
đúng vào lúc hắn sắp mặc cho thân xác chìm xuống biển thì một bên vai hắn chạm
vào cái gì cứng như đá.
Hắn quơ tay sờ soạng. Đúng, tay hắn chạm mặt đá cứng! Đất liền
à? Hắn không rõ. Hắn leo lên, loạng choạng. Hắn ngồi xuống. Đến lúc này, cái mệt
rã rời ập đến, bản năng đòi hỏi được đền bù. Hắn ngất đi.
Hắn tỉnh lại khi ánh mặt trời chói chang rọi trên mặt hắn.
Ánh nắng rát bỏng. Cổ họng hắn khô đắng, người hắn bừng bừng như lên cơn sốt.
Gượng đứng dậy, hắn lảo đảo bước đi, nhìn quanh. Nước mênh mông. Hắn đang ở
trên một hòn đảo nhỏ, đường kính khoảng hơn ba mươi mét. Có lẽ đây là ngọn một
quả núi nhỏ dưới biển. Trên đảo không cây cối, vài chỗ có đất, còn toàn là đá,
mặt đá lồi lõm, rải rác những tảng đá lớn nhỏ...
Không chết dưới biển cũng chết ở đây, hắn nghĩ thầm, mà cái
chết này có lẽ còn ghê gớm hơn. Hắn thất thểu bước đi. Sau khi xem xét hòn đảo
nhỏ, hắn hoàn toàn tuyệt vọng. Liệu người ta có tìm đến đây không? Đoàn cứu hộ
đi tìm dấu vết con tàu đắm đêm kia có ngờ rằng có người trôi dạt đến đây không?
Nơi này có trên bản đồ hàng hải không? Nơi đây cách chỗ đắm chừng bao xa? Nhiều
ý nghĩ quay cuồng trong cái đầu bừng bừng của hắn. Hắn thấy đói cồn cào và
khát, khát ghê gớm. Có thể sẽ có người đến đây, nhưng bao giờ? Ngày mai, tuần tới,
tháng tới? Hắn ăn gì để sống? Uống gì? Làm thế nào sống được đến lúc có người
xuất hiện? Mà người ta đến đây làm gì chứ?
Hắn lại thấy đói, cái đói cồn cào nhộn nhạo trong bụng hắn.
Đã gần hai ngày đêm không được ăn gì, chỉ uống mà lại uống toàn nước biển! Hắn
nghĩ thầm: “Tình trạng này mình sống được bao lâu?”
Ánh mắt thẫn thờ của hắn tình cờ nhìn thấy một vật nổi trên
mặt biển. Hắn nhìn kỹ... hình như một cái thùng gỗ. Hắn đứng dậy bước tới nhìn
cho rõ. Sóng đang đưa nó vào bờ. Đúng là một cái thùng gỗ. Thùng gì vậy? Hắn bước
tới nữa, sát mép hòn đảo. Sóng đánh nước bắn lên chân hắn. Cái thùng gỗ đã đến
vừa tầm tay, hắn nắm lấy nó bằng hai tay, nhấc lên. Đó là một cái thùng gỗ hình
vuông, cạnh khoảng sáu mươi phân. Nắp thùng có then cài. Hắn mở ra. Trong thùng
là một cái hộp bằng giấy dầu khá dầy và một cái can bằng nhựa. Nước chỉ lọt vào
khoảng một phân. Hắn mừng muốn hét lên vì thấy thủy thủ trên tàu dùng những cái
can như vậy để chứa nước ngọt. Hắn mở nắp cái hộp giấy dầu... hơn nửa hộp bánh
bích-qui!
Hắn mở can nếm thử chất nước trong đó, đúng là nước ngọt! Hắn
dốc vào miệng... nước!
Trời ơi, nước! Nước không màu không mùi mà sao ngon thế! Đặt
can nước xuống, hắn bóc bánh ăn ngấu nghiến. Ăn được mươi cái, hắn sực nhớ.
Không, không được phí phạm! Phải nghĩ đến những ngày tới. Hắn nhìn can nước,
còn nhiều, ít nhất phải tám lít. Hắn đếm bánh... còn bảy mươi lăm cái. Hắn tính
nhẩm: “Mỗi ngày mình ăn mười cái thì được hơn bảy ngày, không, vậy thì phí quá,
sáu cái thôi. Sáng, trưa, tối, mỗi bữa hai cái và một ngụm nước... như thế sẽ
được hơn mười hai ngày... rất có thể trong thời gian đó sẽ có tàu thuyền đi
ngang qua đây... có thể lâu hơn... mình phải ăn bớt đi, mỗi ngày bốn cái
thôi... nhưng... như vậy sao sống nổi? Không sao, người ta có thể nhịn đói lâu
hơn nhịn khát, mình phải tiết kiệm nước...”.
Hắn xếp tất cả chỗ bánh vào hộp giấy dầu, vặn chặt nắp can
nước, bỏ tất cả vào thùng gỗ, đóng nắp cài then cẩn thận rồi đi quanh đảo, nhìn
tứ phía. Không bóng dáng một chiếc tàu nào, chỉ có nước mênh mông..
Trời bắt đầu tối. Hắn tìm một chỗ đá bằng phẳng để nằm, đặt
cái thùng gỗ bên cạnh. Người hắn vẫn hâm hấp như sốt. Hắn nghĩ thầm: “Có lẽ cái
thùng gỗ này rơi từ một trong những thuyền cứu hộ đêm kia... không biết nó sẽ cứu
mình hay chỉ kéo dài cái chết của mình?”. Suy nghĩ miên man và hắn thiếp đi.
Khi hắn tỉnh dậy, mặt trời đã lên cao. Hắn mở thùng gỗ, lấy
ra hộp bánh và can nước. Hắn ăn hai cái, không dám ăn nhiều hơn. Hắn nhâm nhi từng
chút hương vị ngọt thơm của đường, trứng, sữa, bơ. Chưa bao giờ hắn thấy bánh
bích-qui ngon như thế. Ăn xong, hắn uống nước, chỉ dám uống một ngụm rồi cẩn thận
xếp hộp bánh và can nước vào thùng gỗ. Người hắn vẫn như đang sốt. Ánh nắng bắt
đầu gay gắt. Vậy là đã bốn ngày trôi qua, hai ngày trên biển, hai ngày trên đảo.
Liệu hắn có còn được trông thấy đất liền không? Có cơ hội gặp lại gia đình, người
thân không? Hắn là nhà sưu tập tem. Hắn đi từ Úc đến nhiều nước để xem những
con tem quý mà người ta báo cho hắn biết. Hắn không đem theo nhiều tiền mặt, chỉ
có ngân phiếu. Tập ngân phiếu đã chìm theo con tàu. Hắn bỗng sực nhớ, thò tay
vào túi. Nó vẫn còn. Hắn lấy ra một tờ giấy năm mươi đô-la nhàu nát và một cái
kính lúp khá dầy. Cái kính dùng để coi tem. Cái bật lửa mạ vàng ở túi kia đã
rơi mất. Nhưng những thứ còn lại này giúp được gì cho hắn? Hắn bỏ lại tờ giấy bạc
và năm mươi đô-la vào túi áo, ngồi thừ người nghĩ ngợi.
* * *
Tối hôm đó hắn ăn hai cái bánh, uống một ngụm nước rồi nằm
ngủ. Ngày nóng như thiêu. Đêm lạnh cắt thịt, lại không có chỗ trú. Thế là hắn ốm.
Hắn lên cơn sốt dữ dội. Hắn rên rỉ trong cơn nhức đầu dữ dội, trong cái lạnh của
đêm trên biển, trong cơn đói khát... hắn ngủ hay ngất đi lúc nào không hay.
Sáng hôm sau hắn vẫn thấy trong người bừng bừng và cơn nhức
đầu mới càng ghê gớm. Hắn ăn hai cái bánh rồi uống một ngụm nước. Cổ họng khô
khốc, hắn muốn uống thêm một ngụm nước nữa nhưng không dám. Hắn đứng dậy, lảo đảo
đi quanh. Lát sau, hắn trở lại bên thùng gỗ. Ngay khi sắp ngồi xuống, hắn thấy
thấp thoáng bóng một con tàu mãi xa phía chân trời. Hắn đứng bật dậy, quên cả
đói khát mệt mỏi. Cơn nhức đầu cũng biến mất. Chạy nhanh đến mép hòn đảo, hắn
giơ hai tay vẫy một cách điên cuồng. Con tàu từ từ mất dạng. Hắn quỵ xuống, khóc
nức nở. Thế là hết! Khóc chán, hắn đứng dậy trở về chỗ cái thùng gỗ. Bỗng trong
đầu hắn nảy ra ý nghĩ: “Ừ... sao mình không nghĩ ra nhỉ? Sao mình ngu quá vậy!”.
Hắn bước đến bên cái thùng gỗ, mở nắp lấy hộp bánh và can nước ra ngoài. Hắn
giơ cao cái thùng gỗ, đập mạnh xuống đất. Lát sau hắn gom tất cả mảnh gỗ lại
thành một đống. Cầm cái kính lúp trong tay, ngắm nghía: “Ánh nắng xuyên qua
kính hội tụ đủ để bắt lửa... nếu có tàu đi ngang qua mình sẽ đốt... họ sẽ thấy
khói...”. Ý nghĩ khác bỗng đến: “Trường hợp tàu đi ngang qua ban đêm thì sao,
lúc mình đang ngủ?”. Lắc đầu chán nản. Tuy thế, hắn vẫn hy vọng. Cơn nhức đầu
trở lại, miệng hắn đắng ngét. Ánh nắng bắt đầu thiêu đốt thân xác khốn khổ của
hắn. Nheo mắt nhìn ra biển... có cái gì... một cái thùng gỗ nữa! Hắn đứng bật dậy,
chạy tới. Nó đang tấp vào bờ. Ngay sau đó hắn nhận ra đó là một cái thùng rỗng,
không có nắp. Định quay đi thì hắn sực nhớ: “Ồ... phải có thật nhiều khói...”.
Hắn đến mép đảo vừa lúc cái thùng dạt vào tầm tay hắn. Nó lớn hơn cái thùng
kia, gần gấp đôi. Hắn lại đập nát nó ra, chất thêm vào chỗ gỗ trước. Bây giờ
thì đống gỗ ấy đủ để quay chín một con heo.
Xế chiều, hắn ăn hai cái bánh và uống một ngụm nước. Hắn vẫn
sốt, cơn nhức đầu vẫn không giảm. Đêm xuống, hắn mệt nhọc thiếp đi...
Sáng hôm sau hắn thức giấc trong cảm giác kỳ lạ. Cơn sốt vẫn
còn nhưng cơn nhức đầu giảm bớt. Hắn linh cảm có cái gì bất thường trên đảo. Nặng
nhọc, hắn đứng dậy nhìn quanh và thấy...
Cách hắn độ bảy, tám mét, một con chuột khá to đang đứng
trên một tảng đá lớn. Nó dáo dác nhìn quanh. Hắn sững người giây lát rồi cười
chua chát: “Mày cũng chết khô trên hòn đảo này như tao thôi!”. Có lẽ nó cũng
trên con tàu đó, trong hầm chứa lương thực, trôi dạt đến đây. Hắn bỗng thấy
thích thú vì không phải chỉ mình hắn trên đảo này. Hắn có bạn! Con chuột nhảy
xuống và biến mất sau những tảng đá. Không nghĩ đến nó nữa, hắn mở hộp bánh lấy
ra hai cái và nhấm nháp từng chút. Nửa giờ sau hắn ăn hết hai cái bánh, không để
rơi vãi đi đâu một chút nào. Uống một ngụm nước rồi hắn đứng dậy đi quanh đảo.
Vẫn trên trời dưới nước. Nước mênh mông. Không một bóng tàu thuyền nào. Hắn đi
quanh, nhìn về phía xa hút tầm mắt, hy vọng, trông mong...
Lát sau, cảm thấy mệt, hắn trở lại chỗ cũ. Vừa ngồi xuống
thì hắn nghe có tiếng động. Cái gì vậy? Tiếng động lại phát ra, ngay bên cạnh hắn,
trong hộp bánh. Hắn mở to mắt. Một lỗ thủng bên thành hộp.
Con chuột! Hắn chụp lấy cái hộp và nhanh như cắt, con chuột
thò đầu ra, nhảy xuống chạy biến mất trước khi hắn kịp có phản ứng.
Nó ăn bánh của mình! Đồ khốn!
Hắn lấy hết bánh ra đếm lại. Hắn đã ăn mười cái thì phải còn
sáu mươi lăm cái. Bây giờ chỉ còn bốn mươi cái nguyên vẹn, mười cái bị vỡ và vụn
bánh... nó ăn hết gần mười ngày lương thực quý giá của hắn! Mắt hắn tóe lửa
nhìn quanh. Không thấy nó đâu cả. Nhưng làm sao giết được nó? Hắn cởi áo khoác,
đặt tất cả bánh nguyên và vỡ vào rồi cuộn lại. Hắn vét tất cả vụn bánh, để dành
cho bữa chiều. Từ bây giờ hắn sẽ không rời gói bánh quý giá này nữa. Xẩm tối,
sau khi ăn xong chỗ vụn bánh, uống một ngụm nước, hắn lại thấy nhức đầu. Hình
như cơn sốt tăng thêm. Hắn nằm xuống, hai tay ôm gói bánh và mau chóng rơi vào
giấc ngủ mê mệt.
Hắn thức dậy sáng hôm sau, hốt hoảng khi thấy vụn bánh rơi
vãi đầy trên ngực hắn, trên đất đá cạnh hắn. Cái áo rách một lỗ lớn. “Nó cắn thủng
cái áo để ăn bánh!”. Điên cuồng, hắn giở tung cái áo ra. Chỉ còn hai mươi cái
nguyên vẹn, chỗ còn lại là bánh vỡ và vụn bánh. Hắn ngồi đờ người một lúc rồi đứng
dậy. “Nó phải chết!”.
Hắn gói chỗ bánh lại và xách đi. Hắn đi tìm con chuột. Chẳng
thấy nó đâu cả. Lát sau, nhức đầu và mệt lả vì đói khát và cơn sốt, hắn ăn hết
chỗ vụn bánh rồi trở lại chỗ để can nước. Hắn uống một ngụm rồi vặn nắp thật chặt
trong lúc nghĩ cách bắt con chuột. Làm thế nào để bắt được nó bằng hai tay? Hắn
lại đi tìm nó. Vẫn không thấy bóng dáng nó đâu cả. Thất thểu quay trở về, hắn
đi men theo mép đảo. Đi ngang một tảng đá lớn hình bầu dục, một đầu bẹt chìa ra
ngoài biển như một cái cầu nhảy ở hồ bơi, nửa dưới nước, nửa trên cạn. Con chuột
đang bơi ở đó. Hắn đứng lại. Nó đã thấy hắn. Nó giương đôi mắt tròn xoe nhìn hắn
như trêu chọc. Hắn bước đến. Ngay lập tức, nó lặn xuống và mất hút. Hắn đứng chờ
và chỉ chốc lát sau, hắn thấy nó nổi lên đằng kia, cách hắn vài mét và nó nhảy
lên bờ. Hắn mới bước tới được hai bước thì nó đã biến mất sau những tảng đá.
Cơn giận cùng cơn sốt làm hắn ngây ngất cả người. Hắn không biết phải làm gì.
Ánh nắng lại tiếp tục thiêu đốt da thịt hắn. Hắn chợt nghĩ
ra một cách để giấu bánh. Trên đảo có vài chỗ có đất. Hắn đến đó, dùng cán của
cái kính lúp đào đất. Hắn đào từng chút, từng chút. Khi mồ hôi ướt đẫm cái áo
sơ-mi thì cái hố cũng vừa xong. Hắn đặt gói bánh vào đó. Lấp đất lại, kiếm một
tảng đá lớn chận lên trên. Vậy là yên trí. Chỉ có hắn mới biết chỗ giấu bánh và
chỉ có hắn mới lấy lên được.
Suốt buổi chiều hắn ngồi chịu trận cho cái nắng ác độc hành
hạ thịt da. Cơn sốt vẫn đeo đẳng, đầu vẫn nhức dữ dội. Trời tối, hắn đào đất, lấy
gói bánh và chỉ dám ăn một cái, uống một ngụm nước. Hắn lấp đất và chặn tảng đá
lại như cũ.
Đêm đó hắn ngủ ngon.
* * *
Sáng hôm sau hắn quan sát bốn phía mặt biển một lúc rồi quay
lại chỗ chôn bánh. Lật tảng đá, đào đất lên để rồi bật khóc. Cái áo rách tung.
Có một lỗ ngầm bên dưới chỗ dấu bánh. Hắn mở cái áo rách bươm để nhìn thấy cảnh
đau lòng. Chỉ còn chín cái nguyên vẹn, vài cái bánh vỡ và một ít vụn bánh. Hắn
vừa khóc vừa quỳ xuống liếm hết chỗ vụn bánh. Hắn gói chỗ bánh còn lại vào cái
áo rách nát rồi nặng nề đứng dậy, trở lại chỗ để can nước, thẫn thờ nhìn ra biển.
Lại một ngày cực hình. Ánh nắng hành hạ hắn không chút xót
thương. Cái nắng ghê hồn làm da thịt hắn như bốc khói. Cơn sốt vẫn không giảm.
Đầu hắn đau nhức khủng khiếp.
Đêm xuống, hắn ăn một cái bánh, uống một ngụm nước rồi đi nằm.
Trải cái áo rách trên đất, hắn đặt tất cả bánh trên đó rồi nằm đè lên. Bánh vỡ
hết cũng chẳng sao miễn là con chuột không thể ăn trộm...
Hắn giật mình thức giấc lúc nửa đêm. Hình như có tiếng động.
Ở đâu? Có cái gì động đậy dưới lưng hắn. Hắn ngồi dậy. Ánh trăng soi rõ chuyện
không thể tin được. Con chuột đào một lỗ cách hắn vài tấc, trên mặt đất, đi ngầm
xuống đất đến dưới lưng hắn. Chỉ còn ba cái bánh! Như hóa điên, hắn đứng dậy
nhìn quanh. Ánh trăng tuy sáng nhưng không đủ nhìn thấy nó, mà có lẽ nó cũng đã
chạy mất rồi. Hắn không ngủ được nữa. Hắn ngồi đến sáng.
Khi mặt trời lên cao, hắn ăn nửa cái bánh, không chịu nổi, hắn
ăn nốt nửa kia. Bây giờ chỉ còn hai cái. Hắn uống một ngụm nước rồi nghĩ ngợi
trong lúc đầu óc quay cuồng. Sau hai ngày nữa, hắn sẽ ăn gì? Hắn không dám nghĩ
nữa. Nặng nhọc đứng dậy, hắn bước quanh, dõi mắt ra xa mong gặp bóng dáng một
con tàu. Vẫn trời nước mênh mông... tuyệt vọng, hoàn toàn tuyệt vọng.
Một ngày nữa trôi qua. Hắn không thấy bóng dáng con chuột
đâu cả. Đêm đó hắn ăn một cái bánh, uống một ngụm nước rồi ngủ.
Hắn thức giấc trong cơn sốt hầm hập và cơn khát cháy cổ. Lại
cái nắng cay nghiệt hành hạ hắn. Có lẽ hắn ngủ mê vì cơn sốt và đói khát. Gượng
ngồi dậy, hắn với tay lấy can nước.
Cái can nhựa bổng lên, nhẹ tênh!
Ánh mắt ngây dại của hắn nhìn sững cái can nhựa. Chỉ còn một
chút nước đọng ở đáy can. Gần đáy can có một vết thủng nhỏ, vết răng chuột gặm...
Hắn ngất đi. Khi hắn tỉnh lại thì mặt trời đã đứng bóng. Hắn
không nghĩ ngợi được gì nữa. Hắn ăn nốt cái bánh cuối cùng rồi tiếp tục ngồi hứng
ánh nắng trừng phạt. Đêm đó hắn nói sảng nhiều trong giấc ngủ.
* * *
Sáng hôm sau, hắn uống một ngụm nước khi vừa thức giấc. Chẳng
còn gì để ăn. Gắng gượng ngồi dậy đi quanh nhưng đầu gối hắn cứ muốn khụyu xuống.
Lát sau, không thể đi nổi nữa, hắn xách can nước chỉ còn một chút, trở lại chỗ
cũ.
Con chuột đâu? Một ý nghĩ chợt lóe trong đầu hắn.
“Tại sao mình không ăn nó? Nó là món thịt tươi duy nhất trên
đảo này... biết đâu có thể sống vài ngày nữa trên đảo này...”.
Hắn đi tìm con chuột và thấy nó. Nó đứng lấp ló sau một tảng
đá gần đó, giương đôi mắt tròn xoe tinh quái như trêu chọc thách thức hắn, dẫu
như hắn còn mạnh khỏe thì cũng chưa chắc bắt được nó huống chi giờ đây hắn quá
yếu. Biết rằng không thể nào bắt được nó, hắn chán nản ngồi bệt xuống. Chợt hắn
nghĩ ra một cách.
“Giả chết! Nó sẽ đến gần mình, bò lên người mình, có thể sẽ
bò lên tay, ngay bàn tay mình...”.
Thế là hắn nằm xuống trong ánh nắng hỏa ngục. Hắn không biết
mình sẽ chịu đựng được bao lâu. Mắt hắn nhức nhối tuy đã nhắm chặt. Đúng lúc hắn
sắp bỏ cuộc thì nó đến. Quả nhiên nó mắc bẫy thật. Nó bò lên chân hắn, lên đùi,
đến bụng rồi nhảy xuống. Hắn tưởng nó bỏ đi nhưng không, nó lại nhảy lên người
hắn, bò trên ngực hắn. Hắn thầm mong nó bò xuống tay hắn nhưng nó đứng im. Hắn
không thể chờ đợi lâu hơn nữa. Thu hết sức lực, hắn chụp mạnh và ngồi bật dậy,
mở mắt. Mắt hắn hoa lên vì ánh nắng. Hắn không nhanh bằng nó. Nó chạy mất.
Đêm đó cơn sốt vẫn hành hạ hắn.
Sáng hôm sau hắn không còn sức lực để đứng dậy nữa. Hắn đã uống
hết những giọt nước cuối cùng.
Trưa hôm đó hắn thấy các ngón tay bắt đầu tê dại. Hắn biết
đó là dấu hiệu thiếu nước trầm trọng trong cơ thể. Chiều hôm đó cảm giác tê dại
lan dần lên hai cánh tay.
Sáng hôm sau cảm giác tê dại đã ở mặt. Hắn biết đã đến những
giờ phút cuối cùng của cuộc đời hắn. Không còn hy vọng gì nữa. Hắn cố gượng ngồi
dậy nhưng hắn lại gục xuống. Hắn nằm nghiêng một bên và trông thấy con chuột.
Nó đang đứng cách hắn khoảng bốn, năm mét nhìn hắn. Không có nước thì làm sao
nó sống được? Sao cứ nhởn nhơ thế kia? Lại có vẻ mập mạp nữa! Hắn chợt hiểu.
Trên đảo có những hốc đá giống như hang chuột mà tay hắn không cho vào lọt. Ban
đêm rất lạnh, ban ngày nóng, quá nóng nên nước bốc hơi. Hơi nước đó bám vào bờ
đá như một thứ nước cất không còn muối. Nó liếm lớp nước đó. Vậy là nó may mắn
hơn mình. Hắn thấy tức tối. Nó hại mình. Nó sống lâu hơn mình. Hắn nhìn nó. Nó
vẫn nhìn hắn. Nó bước tới vài bước nghe ngóng. Thấy hắn nằm im, nó bước tới bước
nữa, bước nữa... hai mét, một mét, nửa mét. Hắn vung tay ra nhưng cánh tay run
rẩy rồi rũ xuống. Con chuột chạy mất.
Đầu hắn nhức dữ dội, hắn ngất đi. Hắn tỉnh lại khi mặt trời
đã hơi chếch bóng, có lẽ khoảng một giờ trưa. Không phải tự nhiên hắn thức tỉnh
mà có cái gì chạm vào tay hắn.
Con chuột! Nó đang gặm tay hắn! Nó ăn hắn!
Hắn không ngờ đến chuyện này. Hắn định ăn nó và giờ đây nó
ăn hắn! Hắn rụt tay lại và con chuột chạy mất. Không, canh bạc này hắn phải thắng.
Con chuột sẽ không ăn được hắn. Không được để nó làm việc đó. Hắn rùng mình giữa
cái nắng ghê gớm khi nghĩ rằng con chuột sẽ ăn dần thân thể hắn, mỗi ngày một
chút: tay, chân, ruột, gan... xác hắn sẽ nuôi nó trong nhiều ngày và hắn phải
chết một cách đau đớn... Không, hắn phải thắng!
Ý nghĩ ghê gớm hình thành trong đầu hắn.
Hắn sẽ dùng cái kính lúp để đốt đống gỗ và hắn sẽ nằm trong
đó, ngọn lửa sẽ thiêu xác hắn ra tro. Nó sẽ không ăn được tí gì của thân xác hắn.
Nhưng chỗ củi đó liệu có đủ để thiêu xác hắn ra tro không? Hắn chua chát nghĩ
thầm, có lẽ không đủ. Nhưng ít ra mình cũng đã chết để không thấy nó ăn thịt
mình. Hắn không chịu nổi ý nghĩ bị ăn sống. Gom hết tàn lực, hắn gượng ngồi dậy,
lết đến đống gỗ. Chỉ độ tám mét thôi mà sao hắn thấy xa quá. Cuối cùng hắn cũng
đến nơi. Nghỉ một chút rồi hắn lấy cái kính lúp ra. Mặt trời hơi nghiêng, có lẽ
khoảng hai giờ. Tay hắn run quá, không cầm vững được cái kính. Hắn cố xoay xở
và sau cùng đặt gác nó lên một cục đá nhỏ. Ánh nắng như thiêu xuyên qua mặt
kính hội tụ, chưa đầy một phút sau, trên mặt một miếng ván đã nám đen, bốc
khói. Đống ván đã quá khô vì nhiều ngày phơi nắng. Một đốm lửa đỏ xuất hiện
trên mặt miếng ván, khói bốc nhiều hơn, vết cháy đen loang rộng. Ngay lúc đó hắn
thấy con chuột bên kia đống ván, lưng quay về phía hắn. Nó đang ngậm trong miệng
một con cá nhỏ. Con cá chỉ bằng hai ngón tay. Hắn bỗng thấy đói cồn cào, quên cả
việc đang làm, vừa bò vừa lết lại chỗ con chuột. Nó vừa nhả con cá ra, có lẽ bị
sóng đánh văng lên bờ. Con chuột nghe tiếng hắn, ngoạm lấy con cá và chạy biến
mất. Đầu óc hắn quay cuồng vì vừa cố gắng quá sức, quị vật xuống. Rủi thay, đầu
hắn va phải một cục đá. Hắn suýt ngất đi, nhưng không, hắn vẫn tỉnh, cảm thấy một
luồng hơi nóng hắt đến từ phía sau lưng. Chậm chạp quay đầu lại, hắn thấy ngọn
lửa đã bùng lên, đám gỗ khô nẻ bắt cháy nhanh chóng. Hắn đang nằm cách đống lửa
khoảng sáu, bảy mét. Hắn cố lết lại. Cơ thể hắn không còn chút sức lực nào. Hắn
ước sao mình được nằm trong đống lửa đó. Hắn cố nữa, cố nữa, nhưng chỉ được nửa
mét. Hơi nóng hắt vào mặt hắn, lên người hắn. Hắn chợt ân hận: “Sao lúc nãy
mình không ráng lăn xuống biển nhỉ! Mà chẳng biết có nổi không!”. Hắn ngất đi.
Hắn tỉnh lại lúc trời chưa tối hẳn. Ánh nắng chiều tàn vẫn
còn trên đảo. Đống gỗ đã cháy hết, đống than hồng cũng tàn gần hết. Những cuộn
khói trắng bốc cao trên nền trời màu cam. Giờ thì hoàn toàn tuyệt vọng. Từng thớ
thịt trong cơ thể hắn đau nhức rã rời.
Màn đêm xuống dần. Hắn vẫn thức, vẫn tỉnh và biết con chuột
đã đến. Nó đang cắn ngón chân hắn. Hắn không thấy đau, chỉ thấy nhột vì cơ thể
hắn giờ đã tê dại. Hắn không sợ, không kinh hoảng vì sắp bị ăn sống nữa mà chỉ
thấy chua chát.
Mình đã thua!
Hắn không thể cử động dù chỉ một ngón tay. Hắn nhắm mắt lại.
Con chuột vẫn gặm ngón chân hắn. Hắn bỗng thấy ngứa ngáy khắp người và ngay sau
đó hắn nghe có tiếng động.
Tiếng xích sắt loảng xoảng và tiếng người lao xao.
- Đây rồi! Có một người ở đây!
- Tôi đã nói mà... rõ ràng có khói...
- Kìa, đống than đang tàn kìa...
- Anh ta còn sống không?
- Không biết, để tôi coi...
Họ đặt hắn lên cái băng-ca, khiêng ra ca-nô để chuyển lên
tàu. Lúc đến mép hòn đảo, hắn sực nhớ, mấp máy môi. Qua ánh đèn măng-sông sáng
rực, một người trông thấy, cúi xuống hỏi.
- Anh muốn gì?
Hắn thì thào yếu ớt.
- Trong túi áo... tôi có... năm mươi... đô-la... lấy ra...
Người đó làm theo lời hắn và hỏi.
- Để làm gì?
- Trên tàu... có bánh... bích-qui không?
- Có.
- Có... nước ngọt không?
- Có.
- Bán cho tôi... năm mươi... đô-la... bánh và nước... bỏ lên
đảo cho tôi... tôi đã thắng...
Người đó nói lại cho những người kia nghe. Họ nghĩ hắn mê sảng.
Nhưng có một người nói.
- Chắc có chuyện gì đấy, cứ làm theo lời anh ta và lấy tiền
đi.
Hắn gắng gượng cho đến khi thấy họ mang hai thùng bánh rất
to và hai thùng nước bỏ lên đảo, rồi một màn đen phủ chụp lấy hắn.
Con tàu không nhổ neo cho đến sáng hôm sau. Họ tiếp nước biển,
tiêm thuốc hồi sức cho hắn. Họ muốn biết chuyện gì xảy ra với con tàu, với những
hành khách. Dù rất yếu, hắn vẫn đủ sức cho họ biết có lẽ hắn là người duy nhất
sống sót.
Hắn hỏi mượn một cái ống nhòm, gượng dậy nhìn về hòn đảo.
Hắn thấy con chuột đang đứng trên thùng bánh, hai chân trước
cầm một cái bánh, gặm ngon lành, cặp mắt dáo dác nhìn quanh...
Hết
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét