Thứ Tư, 6 tháng 6, 2018

Mụ phù thủy tỉnh Wilton Falls - Truyện ngắn

Mụ phù thủy tỉnh Wilton Falls

Tác giả: Gloria Ericson
Người dịch: Lê Tân
NXB Trẻ - tháng 8/2004
*
Đọc lướt xong bức thư sau cùng, tôi lơ đãng bóc một bức thư mà người thư ký của tôi để nguyên niêm. Có lẽ cô ấy nghĩ đây là thư riêng? Không biết đầu óc để ở đâu, tôi quên không coi địa chỉ người gởi nên nội dung bức thư làm tôi giật mình.

“Vì chúng tôi không tìm thấy người bà con nào trong khi dường như ông là người liên lạc thư từ và là khách thăm duy nhất của bà ấy nên chúng tôi xin báo cho ông biết là bà Miriam Winters đã qua đời. Bà ấy chết thanh thản trong giấc ngủ vào ngày 25 vừa qua”.

Ánh nắng đang chiếu qua mành cửa sổ văn phòng tôi bỗng trở nên lạnh lẽo. Tôi đứng khi mở bức thư, bây giờ tôi ngồi xuống, xoay cái ghế bọc da một vòng, nhìn đăm đăm ra cửa sổ. Thế là, sau cùng, bà ấy đã chết.
“Khách thăm duy nhất”. Ôi trời! Không hẳn thế. Lần sau cùng gặp bà ấy là khi nào nhỉ? Tôi nhớ có nhận được một thiệp mừng Giáng Sinh và bà ấy cứ nhắc đi nhắc lại là tôi phải viết thư cho bà ấy. Bà ấy cô đơn, cô đơn ghê gớm vào những năm tháng cuối đời, ắt hẳn thế. Lòng tôi bỗng tràn ngập một nỗi ân hận, thứ cảm giác mà bạn thấy khi chưa thu xếp xong những việc còn dang dở.
Tôi chỉ là một thằng nhóc mười sáu tuổi khi họ thả ông Winters và vì thế, tôi có trách nhiệm về việc giải cứu ông ta. Tôi đi lăng quăng mùa thu năm đó, vênh váo như một anh hùng đáng nguyền rủa. Tôi không ý thức được sự lố bịch của mình cho đến mãi sau này. Tôi không trở lại Winton Falls nhiều năm qua nên tôi không biết họ có còn kể cho con cháu họ nghe chuyện xảy ra mùa thu năm ấy hay không. Tôi cũng không biết họ có kể lại câu chuyện theo cách đó - tạo ra một huyền thoại “mụ phù thủy Miriam” - hay không? Vâng, họ lầm. Bà ấy không phải là phù thủy. Tôi đã kể lại cho bà ấy biết mọi chuyện.
Xoay cái ghế bọc da lại bàn giấy, tôi đọc bức thư một lần nữa. Thật kỳ lạ. Nhưng có thể tôi là người còn sống duy nhất đã nghe tất cả câu chuyện kể lại bởi chính bà ấy. Chắc chắn báo chí không cho bà ấy có cái quyền đó. Họ không bao giờ cho bà ấy có được dịp kể lại tất cả sự việc. Họ quá mê mải viết những phóng sự giật gân về sự khủng khiếp bà ấy đã gây ra.
Mà quả thật, đó là một chuyện khủng khiếp.
Tôi không hề chối bỏ điều đó. Tôi cũng không tha thứ cho việc bà ấy đã làm. Nhưng định mệnh đã đưa vào tay tôi trọn vẹn tấn bi kịch mà không ai có được. Vì thế, tôi luôn nghĩ khác về bà Miriam Winters.
* * *
Miriam ngừng lại để lau mồ hôi trên trán. Chỉ còn hai cái áo sơ-mi chưa ủi. Harry sẽ về nhà tối nay và hắn sẽ hỏi chúng trước tiên. Hắn có rất nhiều áo sơ-mi đủ để thay trong một tháng xa nhà trong khi ở nhà hắn cũng có ngần ấy áo cho Miriam giặt ủi. Một người chào hàng phải ăn mặc chải chuốt, Harry luôn nói thế. Mà hình như hắn có nhiều áo hơn cần thiết. Sau sai lầm ngớ ngẩn lần đầu tiên, nàng không bao giờ nhắc lại chuyện đó khi thấy vết son môi, vết phấn vấy bẩn trên áo hắn.
Nàng nhìn đồng hồ trên lavabo một cách sợ hãi. Tại sao nàng phải để đến giờ chót? Ồ, vì tháng này nhiều chuyện quá. Bobby ốm rồi đến lượt nàng. Nàng bị chứng nhức đầu ghê gớm hành hạ liên miên. Từ sau lần Harry đánh nàng té vào lò bếp thì nàng bị chứng nhức đầu đó và một cảm giác kỳ lạ thường xuyên choán ngự tâm trí nàng. Nàng không sợ cái chứng nhức đầu đó nhưng cái cảm giác kỳ lạ kia... nàng tự hỏi không biết có phải mình bị mất trí nhớ từng lúc hay không. Nàng mong rằng chuyện đó không có. Bobby tuy bé nhưng có thể tự lo ăn uống, tắm rửa... nó sẽ ra sao một khi mẹ nó bị mất trí nhớ?
May thay, khi nàng vừa ủi xong cái áo sau cùng thì xe hơi của Harry cũng vừa rẽ vào bãi cỏ sau nhà. Hắn tông cửa bước vào. Hắn lớn hơn Miriam hai mươi tuổi, to con. Ném túi hành lý xuống sàn mà không đáp lại lời chào run rẩy của Miriam. Hắn quay ra rồi trở vào với túi giấy mà hắn cẩn thận đặt trên bàn bếp. Tim Miriam chùng xuống. Thế có nghĩa là hắn không vui rồi. Nàng không lạ gì điều đó bởi những chai rượu hắn đem về để uống vài ngày nghỉ ngắn ngủi ở nhà trước khi lên đường.
- Em chuẩn bị bữa ăn cho anh rồi đấy.
Vừa nói Miriam vừa chỉ tay vào bếp.
Đang lúi húi mở nắp chai rượu, hắn dừng lại ngước nhìn nàng rồi cắm cúi tiếp vào những chai rượu, hỏi:
- Áo của tôi xong chưa?
- Vâng... xong cả rồi... đủ hết. Anh ngồi vào bàn đi, em dọn cho anh ăn.
Hắn lầm bầm trong miệng rồi ngồi vào bàn.
Hai giờ sau, hắn say mèm. Hắn không cho nàng đi ngủ.
Tuy tránh được những cái vồ của hắn trong cơn say bí tỉ, nàng cũng bị hắn dồn vào góc nhà. Hơi thở hắn nồng nặc mùi rượu. Bàn tay hắn lần mò trên thân thể nàng làm nàng buồn nôn.
- Đừng... Harry... đừng...
Giọng nàng vô tình cất cao trong hơi thở gấp.
Có những bàn tay khác chụp lấy tay nàng. Đó là Bobby. Giật mình vì tiếng kêu của nàng, nó vừa khóc vừa chạy vào bếp ôm lấy nàng.
- Mẹ! Mẹ ơi!
Nó la lên, cố kéo nàng thoát khỏi tay gã đàn ông đang say. Miriam nuốt nước mắt, cố nói giọng ôn hòa:
- Con vào phòng ngủ đi, Bobby... nào... để mẹ đưa con đi ngủ...
Nhưng Harry ôm chặt nàng.
- Cô không được đi đâu cả... dẹp cái trò làm mẹ bẩn thỉu đó một lát đã... khi một người đàn ông đi xa về thì hắn phải được giải trí... nghe chưa...
Hắn quay sang đứa bé vẫn đang ôm chặt mẹ nó.
- Cút ngay! Đồ khốn! Đi ngủ!
Nhưng thằng bé khốn khổ không nghe hắn.
Nhanh như chớp, hắn vung mạnh bàn tay hộ pháp.
Thân hình thằng bé như bay trong không khí. Nó văng lên không trước khi nằm bất động dưới lavabo. Một vết tét ngay trên trán thằng bé, máu xịt ra có vòi rồi tuôn xối xả đầy mặt nó. Miệng nó mấp máy nhưng không thốt ra được tiếng nào.
Ngay cả Harry cũng bàng hoàng trước cảnh tượng đó. Hắn không ngăn Miriam khi nàng vùng thoát khỏi tay hắn với tiếng thét hãi hùng. Thằng bé vẫn thở. Tiếng khóc thảm thiết của nó hòa lẫn tiếng khóc đau lòng của mẹ nó. Nàng ôm nó vào lòng, dỗ dành. Nàng thấm mặt nó bằng một cái khăn ướt. Chẳng hy vọng gì ở sự giúp đỡ bên ngoài vì nhà không có điện thoại mà Harry thì quá say không thể lái xe được. Căn nhà lại ở nơi biệt lập, nằm ngay rìa một đồng cỏ. Bên kia cánh đồng cỏ là một khu rừng nhỏ. Người láng giềng gần nhất cũng cách đó hai cây số.
Sau cùng, tạ ơn Trời, dòng máu yếu dần rồi ngưng chảy. Miriam nhẹ nhàng lau sạch máu trên mặt con trai. Vết tét khá dài và nàng kinh hoảng khi thấy vết đứt gần sát mí một con mắt. Sáng mai nàng sẽ mời bác sĩ, còn bây giờ cho nó đi ngủ có lẽ là giải pháp hay nhất. Nàng bế thằng bé lên, đi ngang qua Harry. Hắn đã ngồi lại bàn, uống tiếp. Nàng băng cho nó một cách vụng về rồi đặt thằng bé vẫn còn thút thít lên giường. Nó không cho nàng đi nên nàng ngồi với nó cho đến khi tiếng nức nở lịm dần và thằng bé mau chóng rơi vào giấc ngủ say.
Nàng nhẹ nhàng trở lại nhà bếp thấy Harry gối đầu trên hai cánh tay khoanh trên bàn. Nàng lay hắn. Hắn không nhúc nhích. Đến bàn để dao, mở ngăn kéo, nàng chọn một con dao nhọn và sắc nhất. Đóng ngăn kéo lại, nàng đến cạnh chồng. Giơ cao con dao, cân nhắc, đắn đo... đâm hay chém? Cách nào hay nhất đây?
Thật kỳ lạ. Vận mệnh nàng trên cõi đời này cho đến giờ phút này là của người đàn ông đang gục trên bàn kia. Nàng đã lầm lỡ với hắn. Nàng ghét hắn nhưng không biết làm cách nào để thoát khỏi tay hắn. Đó là nguyên nhân của một cái gì thình lình xui khiến cho nàng biết nên hành động ra sao. Nàng không kinh ngạc chút nào về hành động của mình. Nàng cũng không muốn hỏi ý kiến ai. Harry phải chết, vậy thôi. Nàng tin điều đó là đúng.
Cái gì trong tay nàng vậy?
Một đoạn văn lạ lùng ở trường học thời thơ ấu “Bạn đừng bao giờ giết người...”. Phải chăng đó là sự nhận thức về cái khó là làm sao thủ tiêu được xác chết? Có lẽ. Nhưng đúng hơn, có thể đó là ý nghĩ chợt nảy trong trí nàng, rằng chính nàng sẽ đứng trước vành móng ngựa và Bobby cô đơn. Những kẻ sát nhân có bao giờ thoát đâu! Nàng chẳng có kế hoạch gì để che giấu “tội ác” của nàng. Nàng cũng chẳng có chút hy vọng gì là sẽ qua mặt được nhà chức trách nếu nàng thực hiện hành vi giết người. Nàng biết mình không có được sự khôn ngoan đó.
Chậm chạp, nàng hạ con dao xuống.
Có lẽ nàng không thể giết Harry, nhưng hắn phải bị kềm chế bằng cách nào chứ? Những gì vừa xảy ra tối nay... Miriam rùng mình khi nhớ lại khuôn mặt máu me của con. Không, con thú man rợ phải bị giết hay bị nhốt lại...
Nhốt lại? Nàng suy nghĩ trong một thoáng. Phải rồi. Đó là giải pháp xác đáng nhất. Căn nhà có nhiều khoảng đất rộng có hàng rào bao quanh mà Harry đã mua hơn một năm nay của những người chăn nuôi. Họ là những người nuôi chó chuyên nghiệp. Họ làm một căn hầm trong lòng đất cho bầy chó xuống khi có lốc mạnh. Chỗ đó ngoài vườn, hình vuông mỗi cạnh ba mét. Có rào chắn phía trên. Cái chuồng này cũng dùng cho việc sinh sản của những con chó cái. Harry mà bị nhốt trong đó thì hắn không bao giờ có thể hành hạ mẹ con nàng nữa.
Nàng nhìn đăm đăm Harry. Có lẽ nàng sẽ vô cùng ngạc nhiên khi nghĩ rằng nàng có thể kéo được thân xác nặng nề của hắn ra khỏi nhà bếp, xuống hầm. Nhưng nàng phải làm.
Harry khẽ cựa mình một hai lần trong “cuộc hành trình gian khổ” đó. Tuy thế, hắn không tỉnh lại nổi trong cơn say chết người này của hắn. Khi đưa được người chồng say mèm vào cái chuồng đó, người nàng ướt đẫm mồ hôi. Trong chuồng có một tấm ván lát sàn nên sàn chuồng cao hơn sàn nhà vài phân. Nàng thấy đúng là có những dấu vết của những con chó còn sót lại ở đây. Miriam lên lầu lấy hai cái mền rồi trở xuống ném chúng trên sàn gỗ, đóng cửa chuồng lại. Có một ổ khóa lớn móc ở then cửa. Nàng bấm ổ khóa. Nàng không thấy chìa khóa đâu cả, mà cũng chẳng cần vì nàng không có ý định mở nó ra nữa, mãi mãi...
Vài ngày đầu sẽ là những ngày ồn ào ghê gớm, dĩ nhiên. May là căn nhà quá biệt lập nên tiếng gào thét phẫn nộ của Harry sẽ không ai nghe được. Miriam đưa Bobby đến bác sĩ sáng hôm sau. Người bác sĩ kinh ngạc hỏi tại sao nàng không đưa nó đến ngay lúc đó. Ông ta hỏi sao nó bị như thế.
- Nó té, va đầu vào ống nước dưới lavabo. Tôi không thể bế nó đi một mình giữa đêm khuya đến đây. Chồng tôi vắng nhà.
Miriam nói dối, tin rằng Bobby không đính chính lời lẽ của mẹ nó. Thằng bé im lặng. Nó là đứa bé ngoan, điềm tĩnh, có vẻ lớn trước tuổi.
Khi hai mẹ con trở về nhà, họ nghe tiếng hét của Harry trong cơn giận cuồng điên. Bobby nép sát vào mẹ nó. Miriam ngồi xuống một cái ghế gần cửa rồi ôm nó vào lòng.
- Nghe đây con trai, không có gì phải sợ... tiếng hét đó chỉ là...
Ngưng một chút, một ý nghĩ chợt nảy trong đầu.
- Con có nhớ chuyện cổ tích mẹ đọc cho con nghe tối hôm kia không?
- Nhớ...
- Con có nhớ chàng hoàng tử độc ác bị biến thành con ếch không?
- Nhớ...
- Tốt, cha con cũng thế. Ông ấy bị biến thành một con gấu, một con gấu to xấu xí. Mẹ cho là do ăn ở độc ác nên bị trừng phạt. Bây giờ ông ấy bị nhốt dưới hầm nên không thể nào làm hại mẹ con mình nữa.
Mắt Bobby tròn xoe.
Một tiếng thét ghê hồn từ dưới hầm vọng lên làm thằng bé run rẩy.
- Ông ấy...không ra được hả mẹ?
- Không. Chỉ vài hôm thôi ông ấy sẽ không la hét nữa.
Nàng đặt thằng bé xuống, đứng dậy nói:
- Bobby, con không được kể cho bất cứ ai chuyện này nghe không? Nếu con kể thì họ sẽ thả ông ấy ra đấy!
Mắt thằng bé mở to, khủng khiếp. Miriam vuốt lại quần áo, vẻ mặt mãn nguyện. Vậy là yên trí nó sẽ không nói với ai.
Ba hôm sau Miriam mới xuống dưới đó. Hắn đang nằm. Hắn có vẻ kiệt lực sau ba ngày la hét, đói khát. Thế nhưng vừa trông thấy nàng, hắn chồm lên. Những ngón tay run rẩy bấu lấy tấm lưới sắt cửa chuồng. Miriam dừng lại vài bước trước cửa chuồng, đặt xuống sàn một cái đĩa, một tô sữa. Dùng cái chổi ở đó, nàng đẩy đĩa thức ăn và tô sữa vào trong chuồng.
Harry liếm môi:
- Tốt... này... chuyện này là thế nào đây?
Không đáp, Miriam tiếp tục đẩy thức ăn vào. Giọng Harry vang lên dễ sợ:
- Khốn nạn! Miriam! Thả tao ra! Mày có nghe tao nói không?
Giọng hắn bỗng lưỡng lự ở những lời sau cùng.
Thái độ thản nhiên của nàng khiến hắn lo lắng. Có phải đấy là người đàn bà hắn từng ngược đãi, vùi dập không? Có phải đấy là người đàn bà trước đây từng ngoan ngoãn phục tùng hắn không? Hắn thử lần nữa.
- Nghe đây, Miriam... anh cho phép em được ăn thịt bò đấy... à... anh quá say lúc đó... nhưng em đâu nhốt anh mãi vậy được phải không?
Bấy giờ nàng mới đáp.
Đứng thẳng lên, đôi mắt xanh biếc của nàng nhìn thẳng vào mắt hắn không chút sợ hãi.
- Vâng.
Hắn kinh ngạc:
- Cái... cái gì?
Nàng lặp lại:
- Em sẽ nhốt anh mãi ở đây. Mãi mãi. Em phải làm thế.
Chỉ thức ăn trên sàn, nàng tiếp:
- Anh ăn đi, tối mai em sẽ đem cho anh nhiều hơn.
Hắn sững sờ một lúc rồi la lên, không phải là tiếng kêu giận dữ nữa mà là sự hoảng loạn:
- Người ta sẽ biết! Cô không hiểu gì cả! Đồ ngu! Cô không thể thoát được! Cô sẽ bị bắt!
Thiếu phụ tiếp tục bước lên bậc thang như thể không nghe thấy gì. Đến đầu cầu thang, nàng tắt đèn, ngọn đèn duy nhất của căn hầm. Cẩn thận, lặng lẽ, nàng đóng cửa lại.
Mỗi tối nàng đều đem thức ăn cho hắn. Ít khi nàng lên tiếng trước, phớt lờ tiếng hét điên cuồng của hắn, tiếng chửi rủa man dại của hắn vang vọng khắp căn hầm. Nàng không nói một lời. Khi mùi hôi thối trong chuồng không chịu nổi nữa, nàng làm như những người chủ trước vẫn làm. Nối một ống cao su vào vòi nước ở đó, nàng xịt vào chuồng. Nước và những thứ bẩn thỉu trôi ra một cái rãnh nhỏ ngay cửa chuồng, trôi tiếp ra ống dẫn xuống cống. Thỉnh thoảng nàng rắc bột tẩy thơm để giữ vệ sinh, nàng nghĩ thế. Một tuần vài lần, nàng đẩy vào trong chuồng cho hắn một chậu nước nhỏ và xà bông.
Nhiều tuần trôi qua, Harry bớt chửi rủa, đe dọa.
Hắn nghĩ mẹo khác. Hắn nói với nàng đây chỉ là vấn đề thời gian. Công ty của hắn sẽ biết. Hơn nữa, nàng có thể nhốt hắn mãi vậy ư? Làm sao nàng sống? Nàng kiếm tiền bằng cách nào? Những câu hỏi của hắn không làm nàng lo lắng. Vậy có nghĩa là nàng đã tính đến việc ấy rồi.
Thật vậy. Miriam đã phôn cho sở làm của hắn, nói là chồng nàng đã nhận được việc làm ở nơi khác lương cao hơn và xin lỗi là nghỉ không báo trước. Harry vốn không phải nhân viên giỏi giang gì nên họ không quan tâm, chỉ yêu cầu hắn gởi trả công ty những mẫu hàng và các sổ sách, họ chúc hắn may mắn. Miriam gởi những thứ đó qua bưu điện. Thế là, cả cái công ty nọ, nơi mà gã đàn ông trong chuồng kia hy vọng là sẽ làm rùm beng vì sự biến mất của hắn đã cho hắn vào quên lãng.
Những tuần lễ đầu sau khi giam Harry trong chuồng là những ngày nhàn hạ của hai mẹ con Miriam. Họ thường đến những khu rừng gần đó để hái dâu rừng. Chưa bao giờ Miriam thấy hạnh phúc như thế. Tuổi thơ của nàng là những ngày dài của những thống khổ tiếp nối. Cuộc hôn nhân của nàng với Harry mà nàng cho là sự giải thoát chỉ là sự chuyển đổi nàng sang tay một con quái vật mới, ghê gớm hơn cha nàng. Giờ đây, nàng tự do. Lần đầu tiên trong đời, nàng được hưởng tự do. Giờ đây, chứng nhức đầu lẫn cảm giác kỳ lạ kia bớt hành hạ nàng. Vào mùa thu này Bobby sẽ được đi vườn trẻ và nàng sẽ tính chuyện tương lai. Những lời Harry nói về khả năng xoay xở để kiếm sống, nàng cũng đã nghĩ đến. Nhưng hiện giờ, với số tiền dành dụm được, nàng chẳng phải lo lắng gì đến mùa thu.
Mùa thu đến, nàng cũng chẳng lo lắng gì vì mọi sự tốt đẹp đang chờ đợi nàng. Bà Jenkins, quản thủ thư viện của tỉnh qua đời. Vốn là người mê sách, nàng xin nhận việc đó.
Cũng có vài người xin làm và tuy Miriam là người đến cư ngụ chưa lâu nhưng lại là người duyên dáng, đáng yêu, ngăn nắp, tính tình trầm tĩnh, có đầu óc tổ chức... Trong đơn xin việc, nàng nói bị chồng bỏ, có lẽ vì lẽ đó, họ chọn nàng. Lương của nàng chẳng được bao nhiêu nhưng ước muốn của nàng không nhiều: chỉ cần đủ tiền nuôi nàng, Bobby và “con gấu” kia.
Sự tưởng tượng của nàng bỗng hóa thật. Vì Harry đã biến dạng gần như gấu. Nhiều lần, khó khăn lắm nàng mới nhận ra sinh vật tóc râu xồm xoàm trong chuồng kia là chồng nàng. Hắn thật sự là một con vật được cho ăn vào ban đêm. Ban ngày bị bỏ mặc ở đó.
Nhưng nếu cứ bỏ mặc hắn như thế trong những ngày đông giá thì không ổn vì hắn đã thay đổi nhiều. Hắn thường nắm những mắt lưới chuồng lắc dữ dội. Thường khua những cái đĩa sắt ầm ĩ, thường kêu gào ghê rợn. Một đêm nọ, khi đem đồ ăn xuống cho hắn, nàng thấy hắn đang bám lấy những mắt lưới, run rẩy. Hắn nhìn nàng. Một giọt nước mắt lăn trên má hắn, đọng trên bộ râu gớm ghiếc của hắn. Rồi những giọt nước mắt nối tiếp nhau rơi.
Con gấu đang khóc!
- Miriam! Miriam!
Nó nức nở. “Thật lạ lùng! Gấu mà biết tên mình!”, Miriam nghĩ thầm. Ngay sau đó, nàng nhớ đó là Harry trong lốt gấu.
- Miriam... làm ơn... làm ơn thả anh ra... anh biết lỗi rồi... anh hứa sẽ ra đi... không bao giờ làm em buồn nữa... thả anh ra đi...
Mắt Miriam long lanh ngấn lệ. Nàng vốn đa cảm. Trong nàng dấy lên một niềm thương cảm vô bờ đối với sinh vật trong chuồng. Thật khẽ khàng, nàng đặt những đĩa thức ăn xuống sàn.
- Em xin lỗi.
Nàng nói nhẹ nhàng trước khi trở lên.
Đêm đó nàng không ngủ được.
Nàng thấy cuộc đời nàng, thế giới nàng đang sống buồn làm sao! Nàng thương con gấu khốn khổ đó quá. Phải chi nàng làm được cái gì đó để xoa dịu nó, nhưng làm gì bây giờ?
Rất nhiều lần sau này, nàng nghĩ phải làm cái gì mỗi khi thấy thương xót con gấu của nàng nhưng vẫn không biết làm sao...
Bobby đã lớn. Nó hiểu mà không cần hỏi, rằng nó không bao giờ được đưa bạn về nhà. Nếu làm thế, chẳng bao lâu người trong tỉnh sẽ biết người quản thư duyên dáng kia và người con trai đang sống một cuộc sống quái đản. Sẽ chẳng ai dám gần họ nữa.
Chắc chắn câu chuyện người cha hóa gấu sẽ không tồn tại lâu trong đầu Bobby nữa. Nó gần như quên sinh vật dưới hầm theo ký ức tuổi thơ. Chỉ biết có chuyện gì đó ghê gớm dưới đó. Nhưng sẽ có một ngày nó tò mò nhìn vào nắp hầm trên mặt đất ngoài vườn. Khi còn bé, nó có thể bị đánh lừa bởi hình dáng dị hợm đó, cứ cho đó là một con gấu thật.
Ngay cả mẹ nó cũng nghĩ thế mà!
Nhưng khi đã lớn, biết suy nghĩ, nó sẽ hiểu hết. Nó sẽ làm gì? Báo cảnh sát ư? Để có lại người cha mà nó nghe mẹ nó kể mơ hồ là một người nhẫn tâm tàn ác? Khi đó mẹ nó sẽ ra sao? Đi tù... hay vào nhà thương điên? Không, không thể! Nó không được biết cái gì thực sự trong hầm vì nếu biết, nó sẽ không chịu nổi sự thật...
Thời gian chậm chạp trôi qua với con gấu...
Nhưng năm tháng trôi nhanh với hai mẹ con. Tiểu học. Trung học... chiến tranh! Đệ nhị thế chiến!
Hitler đã tiến quân qua Tiệp Khắc, Ba Lan... và trận Trân Châu Cảng! Bobby đăng lính hải quân. Nó hôn lên khuôn mặt đầm đìa nước mắt của mẹ nó, trấn an. Nó nói chiến tranh sẽ qua mau thôi, cho mẹ nó an lòng. Nguồn sống của nàng đang rời bỏ nàng.
Miriam nói cho con gấu biết chuyện tối hôm đó.
Những năm sau này nàng thường có thói quen ngồi bên ngoài chuồng, trên một cái ghế đu vào những buổi chiều tối. Những lúc đó Bobby đi chơi bóng rổ ở trường. Nàng thích nói chuyện với con gấu. Bây giờ nó đã biết không nên nói gì về sự tự do của nó nữa. Thay vào đó, nó im lặng nghe nàng kể những chuyện thế giới bên ngoài, về những thành tích thể thao của Bobby, những chuyện ở thư viện...
Những ngày ấy thật êm đềm!
Miriam đặt một ngọn đèn ngay cạnh ghế đu để thỉnh thoảng nàng đọc sách cho con gấu nghe. Nó có vẻ thích thú. Tối nay, khi nàng cho biết Bobby đã lên đường vào quân ngũ, hình như nó lộ vẻ buồn rầu. Nó bỗng nói:
- Miriam...
Giọng nó khàn khàn:
- Miriam... thả... thả anh ra đi... cho anh được săn sóc em khi Bobby không còn ở nhà...
Nàng nhìn hắn, kinh ngạc.
Bao nhiêu thời gian đã qua mà nó vẫn không hiểu, vẫn còn mơ tưởng!
Vẻ buồn bã, nàng đứng dậy, tắt đèn và đi lên. Đến đầu cầu thang, nàng đóng cửa nhẹ nhàng nhưng kiên quyết trước lời van xin của nó. Sau thời gian dài như vậy mà nó không chịu hiểu là người ta không bao giờ để những con thú hoang được thả rông. Chẳng có gì phải lo lắng, âu sầu cho những con cọp, sư tử trong sở thú. Cũng chẳng có gì phải nghĩ ngợi nhiều về vẻ hiền lành, thuần hóa của chúng. Chỉ có điều là không cho chúng được tự do. Chỉ có thế!
Không bao lâu sau thì có thư của Bobby. Nàng đọc cho con gấu nghe. Nó đã học được bài học sau cùng nên ngoan ngoãn hơn bao giờ. Và không bao lâu sau thì Bobby được về phép lần đầu. Da rám nắng, khỏe mạnh, cường tráng, trông thật thích mắt. Miriam ước sao con gấu được trông thấy nó.
Tận dụng những ngày phép ngắn ngủi, Bobby sửa sang nhà cửa. Chỉ còn một hôm nữa thôi. Nó nhìn đăm đăm ra cửa sổ nhà bếp. Miriam đến cạnh nó và nó nhìn nàng, vẻ đăm chiêu.
- Mẹ à, con thấy bọn nhóc chạy trong vườn nhà mình hôm qua đấy. Hàng rào có lẽ hư hết rồi.
Miriam gật đầu:
- Ừ, nó mục nát hết rồi.
Bobby nhíu mày:
- Con sẽ làm lại, con không thích chúng nó đến đây phá phách. Để con lên tỉnh mua gỗ và kẽm gai...
Nó làm việc suốt ngày hôm đó, luôn hôm sau cho đến gần giờ lên đường. Mồ hôi đầm đìa nhưng vẻ mặt mãn nguyện:
- Con có gắn những tấm bảng “Cấm vượt rào”. Hàng rào chắc chắn lắm mẹ ạ, giờ thì đố tụi nó vào được.
Nó đặt tay lên vai mẹ nó, tiếp:
- Mẹ, chẳng bao lâu nữa con sẽ về...
Nhưng nó không bao giờ trở về. Nàng đang ở thư viện thì điện tín tới. Mọi người xót thương cho nàng. Nhiều người bảo để họ đưa nàng về nhưng nàng từ chối tất cả. Nàng muốn đi bộ một mình trên con đường quen thuộc. Nàng không lộ vẻ gì cho đến khi đến trước chuồng gấu. Bấy giờ nàng mới quị xuống sàn xi-măng lạnh lẽo. Nàng khóc như mưa, khóc thỏa thuê, cho vơi nỗi đau.
- Bobby chết rồi... nghe không, gấu! Bobby... chết rồi!
Qua hàng rào lưới sắt, những móng tay dài từ lâu không cắt thò ra như muốn đánh nàng. Những giọt nước mắt lăn dài trên bộ râu rậm.
Con gấu rơi nước mắt cho nỗi đau mất con hay cho sự thù hận cuộc đời? Nào ai biết?
Đời sống tiếp tục trôi.
Nỗi đau nguôi ngoai dần trong lòng Miriam.
Nàng tiếp tục công việc ở thư viện. Có Bobby hay không thì nàng vẫn phải nuôi lấy nàng và con gấu. Tiền tử của Bobby nàng để nguyên không đụng đến. Một ngày nào đó, khi không làm việc được nữa, nàng phải cần đến.
Cuộc sống trong căn nhà đó đều đặn trôi qua theo thời gian biểu bất di dịch. Con gấu đã hoàn toàn đáng tin. Vào những ngày cuối tuần đẹp trời, Miriam đã dám mở cánh cửa nhỏ nắp chuồng trên mặt đất ngoài vườn cho con gấu được hưởng không khí trong lành. Và nàng vui sướng khi thấy nó đứng bật dậy, lại ngay dưới cửa sổ, hít những hơi dài không khí của bầu trời tự do. Đôi lúc nó với tay nhảy lên nhưng vô ích vì ô cửa quá cao, lại còn một lớp lưới sắt chắc chắn. Đôi lúc nó nhón chân cố rướn cổ nhìn ra nhưng vô vọng. Nàng thường đem cho nó những bó hoa rừng. Nó thích lắm, vùi mặt vào bó hoa hít lấy hít để. Nàng vui thú làm những việc đại loại như thế vì nàng đã thật sự thích nó. Càng ngày, sự tồn tại của nàng trên cõi đời này càng là nguồn an ủi lẫn sự sống còn của nó.
Năm tháng lặng lẽ tiếp tục trôi.
Dĩ nhiên cũng có những lúc khó khăn, chẳng hạn như những lúc con gấu ốm nặng. Thật là một cực hình cho Miriam khi nó kêu gào đòi mời bác sĩ. Rồi nó hiểu rằng chuyện đó không bao giờ có được. Nàng không biết làm gì ngoài việc cầu nguyện. Thế mà lời cầu nguyện của nàng được đáp lại. Con gấu hạ sốt, không rên rỉ nữa rồi đỡ dần. Lại có lúc chính nàng ốm. Vào mùa thu nọ, nàng ngã bệnh trong những ngày phép. Nàng ốm nặng đến nỗi không tự đến bác sĩ được. Cũng không mời bác sĩ đến được vì còn con gấu trong chuồng. Hình như nàng cũng bị giam cầm bởi một loại ngục tù. Cơn sốt dữ dội hành hạ nàng nhiều ngày. Điều duy nhất giúp nàng không gục ngã là tiếng kêu thống thiết của con gấu. Bỏ mặc cho nó chết thì dễ quá... nhưng nàng không thể... con gấu đói... nó cần có nàng...
Vì thế, nàng gom hết sức lực để sống và để thấy con gấu vục mặt vào đĩa thức ăn mà với cố gắng phi thường, nàng đem xuống cho nó. Nàng vui sướng thấy nó ăn ngon lành, đó là phần thưởng xứng đáng cho nỗ lực đáng thương của nàng.
Có lẽ chuyện ghê gớm nhất là khi chảo mỡ bị bắt lửa, cháy trên bếp. Trong cơn sợ hãi cuống cuồng, nàng dập tắt được ngọn lửa. Tay nàng bị bỏng. Không phải cái đau làm nàng sợ mà điều khiến nàng sợ là ngọn lửa lan qua đồ đạc. Con gấu sẽ bị thiêu sống. Ý nghĩ đó làm nàng phát ốm. Nàng chợt nhớ tới Harry, người chồng cũ của mình (nàng quên hắn nhiều năm rồi) có một khẩu súng lục. Lên lầu, nàng tìm thấy khẩu súng trong tủ của Harry. Nàng thấy an tâm. Vật này sẽ đem đến cho nó cái chết nhanh chóng, không đau đớn.
Một ngày nọ, lò sưởi bị sụp. Việc sửa chữa ngoài khả năng của nàng. Thế là cà phê cho con gấu tối hôm đó được pha thêm thuốc ngủ. Ngày hôm sau khi nó còn say ngủ vì thuốc, nàng lấy tấm phủ giường che kín cái chuồng, kê những đồ đạc sát cửa chuồng rồi gọi thợ xây.
Những người thợ không hề biết chỉ cách đó có vài thước, có một sinh vật đã từng là người, đang ngủ say.
Nhiều năm nữa trôi qua.
* * *
Mùa hè năm đó tôi chẳng có việc gì, hơn nữa tôi mới mười sáu tuổi. Cha mẹ tôi chết trong một tai nạn xe hơi mới vài tháng. Tôi đi chơi với ông nội tôi ở Wilton Falls. Ông nội tôi là quan tòa. Ông thường dùng túp lều nhỏ ở đó vài lần vào mùa thu trong những cuộc săn bắn nhưng năm nay ông đi sớm cho tôi đi theo. Có lẽ ông nghĩ thú câu cá và những trò chơi trong rừng sẽ giúp tôi quên đi chuyện bất hạnh.
Tôi ở trong rừng cả ngày hôm đó, chỉ có mình tôi. Khi đi ngang khu vườn có hàng rào bao quanh của nhà Winters, lúc đó đã mục nát. Tôi đạp thử vào dây kẽm gai. Nó bung ra. Nhanh nhẹn và nghịch ngợm, tôi nhảy qua và rơi vào khu vườn im lìm. Một ngôi nhà cổ kính tiêu điều hiện ra trước mắt tôi. Tôi ngạc nhiên. Có ai sống trong đó không nhỉ? Chắc là không vì trông có vẻ hoang phế quá. Tôi đi loanh quanh dò xét và bỗng thấy một cái nắp hầm bằng gỗ đã mục trên bãi cỏ sau nhà. Trong hầm tối thui. Giây lát sau tôi mới nhận ra có ánh đèn dầu leo lét. Thẳng ngay bên dưới có một cái gì trông giống như một cái chuồng.
Có cái gì thù lù trong đó.
Một cái bóng? Không, hình như nó cử động.
Thình lình, tôi thấy một đầu tóc rối bù, một cặp mắt trắng dã, thất thần, ghê rợn mà tôi chưa bao giờ thấy. Tim tôi như muốn rớt ra ngoài. Không thể tin được! Tôi cứng người như bị cặp mắt đó giữ chặt. Cái đầu bờm xờm quay đi và tôi thoát! Tôi chạy, chạy như điên giữa ánh nắng gắt của buổi trưa hè, trên bãi cỏ của khu vườn ma quái. Nhảy qua những dây thép gai, mặc cho gai nhọn xé rách áo quần, cào xước da thịt. Tôi chạy chậm dần khi về gần túp lều của ông nội tôi. Tôi cảm thấy xấu hổ vì chẳng còn bé bỏng gì, mười sáu tuổi rồi mà chạy như thỏ... nhưng hình ảnh đôi mắt đó hiện lại trong đầu làm tôi cứ toát mồ hôi.
Ông tôi đang lúi húi trên bếp khi tôi vào.
- Cháu đã về đấy à... ông đang không biết cháu ở đâu... sắp ăn rồi...
Tôi đứng im, tựa cửa, thở dốc.
- Ông ơi...
Cố trấn tĩnh nhưng giọng tôi cứ run.
Ông tôi quay ngoắt lại. Mắt ông loang loáng.
- Chuyện gì vậy cháu? Sao cháu hoảng hốt vậy?
Tôi cố gắng trấn tĩnh nhưng không được.
- Ông ơi, ai sống trong ngôi nhà ở bìa rừng đằng kia vậy?
Ông tôi nhíu mày.
- Ở bìa rừng?... À, gia đình Winters... có chuyện gì vậy?
- Cháu vừa ở đó về, cháu thấy...
- Ở đó? Xung quanh có hàng rào mà, cháu không leo rào vào nhà người ta đấy chứ?
- Hàng rào mục hết rồi... cháu không thấy có bảng cấm.
- Có lẽ bảng cấm bạc sơn rồi... nhưng ở đây ai cũng biết đó là nhà của gia đình Winters.
- Cháu không biết... cháu nhìn vào một nắp hầm... có cái gì trong đó giống như một cái chuồng... có một người đàn ông...
Ông tôi kéo một cái ghế lại bàn, ôn tồn:
- Cháu kể đầu đuôi cho ông nghe... nào, cháu nói gì, một cái chuồng? Một người đàn ông?
Tôi kể lại. Ông tôi có vẻ không tin.
- Cháu nói thật chứ? Không tưởng tượng chứ? Ai cũng biết bà Winters sống ở đó một mình. Cuộc đời bà ta thật đáng thương. Chồng bỏ, người con duy nhất thì chết trận. Ông không muốn tiếng đồn không hay về bà ta lan mọi nơi mà lại do cháu của ông bịa ra. Sẽ là một xúc phạm ghê gớm với bà ấy.
- Không! Cháu nói thật mà! Ông đến mà xem!
Có lẽ lời thành khẩn của tôi làm ông tôi ngạc nhiên. Ông đứng dậy.
- Được, đi, nhưng ông không thích trò này chút nào. Ông tin cháu chỉ tưởng tượng.
Đêm đó cả tỉnh Wilton bàng hoàng.
Cảnh sát cưa ổ khóa cho Harry ra ngoài bầu trời tự do. Giờ đây ông ta đã là một ông già mắt kém chân run. Người nữ quản thư dịu dàng kia được đưa vào một “nhà bảo vệ” vì bà sợ con gấu. Lời yêu cầu duy nhất của bà là “con gấu” của bà phải được chăm sóc cẩn thận. Khi người ta hứa sẽ chăm sóc nó cẩn thận, bà mới chịu đi.
Thật ra cả hai được đưa đến nhà thương điên của tỉnh.
Cả tỉnh ồn ào cho đến hai tuần sau. Báo chí địa phương đăng những hàng tít lớn:
“Người chồng bị nhốt trong cũi hơn 30 năm”.
Bên dưới hình tôi họ viết:
“Cậu bé dám nhìn vào ngục tối của mụ phù thủy”.
Dưới hình của Harry:
“Ông lão bị nhốt trong cũi hơn 30 năm”.
Và dưới hình Miriam:
“Mụ phù thủy của tỉnh Wilton Falls. Mụ biến chồng mình thành một con gấu”.
Đó là chuyện rắc rối cho tôi. Tự nhiên tôi trở thành một vị anh hùng! Nhưng khi nhìn kỹ những bức ảnh ông bà Winters, tôi thấy lạ lạ. Cả hai đều có nét mặt ngây ngô như con nít lúc bị dẫn đi.
Miriam được đưa vào nhà thương điên liên bang. Nhưng xử trí với Harry lại là cả một vấn đề. Các bác sĩ tâm thần không làm gì được. Ông ta không hé miệng nói lời nào.
Sau cùng họ kết luận rằng trí não ông ta trở nên đần độn vì những năm tháng dài bị giam trong chuồng. Ông ta hoàn toàn vô hại, có thể được trông nom riêng.
Nhưng thế nào là “trông nom riêng”?
Người ta phản đối việc giam lỏng ông ta một nơi vì họ cho rằng những ngày tháng còn lại trong đời, ông ta phải được hưởng “tự do”...
Người ta bàn bạc nhiều về chuyện ấy. Cuối cùng Harry được đưa về nhà cũ. Một nhóm người tình nguyện được thành lập, thay phiên hàng ngày đến trông nom ông già, đem thức ăn đến, giặt giũ... Nhiệm vụ của họ cũng gồm việc “nhân hóa” ông ta! Nhưng họ thất bại hoàn toàn vì Harry chẳng màng nói chuyện với bất cứ ai!
Thế thì, sự tự do của Harry có ý nghĩa gì đối với ông ta trong những ngày cuối cùng cuộc đời ông ấy?
Cũng lại là tôi khám phá ra lần nữa.
Bất hạnh thay!
Một đêm tháng tám nóng bức, sáu tuần sau khi ông ta được đưa về nhà cũ, tôi trở lại nơi đó, quyết định ghé qua coi ông ta ra sao. Khi tôi đến thì căn nhà tối om trừ ánh sáng yếu ớt hắt lên từ căn hầm. Tôi nhớ lại lời đồn là căn nhà không bị xáo trộn một thứ gì, không một thứ đồ đạc gì được đụng đến. Họ nói... ngay cả giường ngủ cũng không có ai nằm. Phải chăng sau những năm ấy, Harry chỉ có thể ngon giấc trong cái chuồng cũ của ông ấy? Có phải ông ta trở lại đó hằng đêm?
Rón rén, tôi bò đến bên nắp hầm. Qua ánh sáng yếu ớt, tôi nhận ra cái chuồng. Kế bên cửa chuồng là cái ghế đu mà Miriam vẫn ngồi. Ngay sau đó tôi nhận ra cái bóng bên cạnh là Harry. Ông ta ngồi trên sàn, cằm gác lên tay ghế. Tôi ngạc nhiên... có một hình ảnh mơ hồ lãng đãng trong đầu, tôi không nhớ ra, bất chợt hiện rõ. Trong phòng ngủ của ông nội tôi có một bức tranh tựa đề “Kẻ than khóc người chăn cừu”. Bức tranh vẽ hình một con chó âu sầu ủ ê nằm cạnh quan tài chủ nó, một người chăn cừu mới chết. Sự liên tưởng hình ảnh đó với cảnh tượng dưới kia làm đau nhói tim tôi. Tôi không thể nhìn thêm nữa. Nhưng khi sắp đứng lên thì tôi thấy cái bóng khốn khổ kia cử động. Cái đầu rối bù ngước lên, miệng há ra. Một tiếng gào ma quái rùng rợn. Tôi đưa tay bịt chặt tai lại. Nhưng tôi vẫn nghe. Nó khóc, khóc lớn hơn. Tiếng khóc xé ruột, đau buốt tim gan. Tiếng khóc khao khát, tiếng khóc ước ao của một con thú đã được thuần hóa đòi lại người chủ dịu hiền của nó.
Tôi bỏ chạy.
Khi thoát khỏi khu vườn ma quái đó tôi chạy như kẻ mất hồn dưới ánh trăng. Lần này tôi cũng bị rượt đuổi bởi sự khủng khiếp. Nhưng sự khủng khiếp này do chính tôi gây ra và tôi biết mình không bao giờ thoát được.
Sáng hôm sau người ta thấy Harry nằm chết trong chuồng. Họ nói do bệnh tim.
Sau đó tôi thường thấy ác mộng trong giấc ngủ. Có lẽ tôi la hét nhiều, nói nhảm nhiều nên ông tôi bảo:
- Theo ông thì cháu không nên có mặc cảm tội lỗi gì về việc ấy. Nó phải như thế thôi.
Tôi gật đầu:
- Vâng, cháu hiểu...
Nhưng tôi cứ như kẻ sống trong mơ. Ông tôi lo lắng hơn:
- Ông thấy đã đến lúc xóa tan cái bóng đen trong đầu cháu rồi đấy. Ông sẽ đưa cháu đến thăm bà Miriam Winters.
Tôi đi một cách miễn cưỡng. Nhưng cuộc viếng thăm lại hóa tốt. Bà Miriam vui mừng khi có bạn. Bà trò chuyện thật vui vẻ. Bà biết con gấu của bà đã chết. Bà nói là bà buồn lắm nhưng bà nói thêm như một triết gia là dù sao nó cũng đã quá già. Rồi thật bất ngờ, bà nói thêm là nếu nó còn sống và còn ốm đau nữa, bà sẽ cho nó ngủ mãi mãi.
Ông tôi liếc nhìn tôi đầy ngụ ý. Rõ ràng, tôi chẳng cần thêm chứng cớ gì để biện minh cho việc tố giác bà Miriam là sai về... mặt nhân đạo. Theo ông tôi thì cuộc viếng thăm đó thật tốt đẹp. Nhưng theo tôi thì ngược lại hoàn toàn vì bà Miriam là người tốt. Bà nói gặp tôi làm bà nhớ đến con trai bà. Bà mong tôi đến thăm bà thường xuyên. Thật ngạc nhiên, tôi nhận lời làm vui lòng bà.
Tôi giữ lời hứa.
Phải chăng đó là cách xoa dịu mặc cảm tội lỗi của tôi? Vì tôi đã phá vỡ cuộc sống thích hợp của vợ chồng họ? Tôi không biết nhưng tôi biết một điều là trong những cuộc trò chuyện với bà ấy, tôi hiểu tất cả những nguyên nhân dẫn đến sự cầm tù Harry.
Tôi nói với ông tôi:
- Bà ấy không hẳn là điên đâu, không hoàn toàn điên trừ việc con gấu... chính Harry đã gây ra chứng điên đó cho bà ta...
Ông tôi nhìn tôi, thở dài:
- Vậy là cái bóng đen đó vẫn lởn vởn trong đầu cháu!
Miriam được đưa về tỉnh, không phải ở nhà thương điên nữa. Thà vậy đi, tôi thấy lòng mình nhẹ nhõm. Tôi vẫn đến thăm bà ấy nhưng thưa dần. Rồi tôi tốt nghiệp đại học, lập gia đình, dọn đi xa.
Những cuộc thăm viếng chỉ còn là những thư từ, thiệp mừng năm mới và bây giờ...
* * *
Tôi nhìn lại bức thư trong tay.
Vậy là từ đây chẳng còn viết thư cho bà ấy nữa. Chẳng còn phải ân hận nữa. Miriam đã trả xong món nợ cho xã hội và xã hội đã vừa lòng. Về phần tôi, riêng tôi, tôi ao ước được sống lại những ngày hè năm đó, được sống lại vào đúng cái lúc tôi nhìn vào cặp mắt của Harry.
Lần này, tôi sẽ nhìn vào cặp mắt gần lòa của ông ấy và sẽ lặng lẽ bỏ đi.


Hết

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét