Đêm định mệnh
Tác giả: Robert Somerlott
Người dịch: Lê Tân
NXB Trẻ - tháng 8/2004
Mắt ông ta mở to, bàn tay hộ pháp của ông ta đang cầm ly
cocktail hơi run làm một chút nước trong ly sóng ra ngoài.
- Anh chắc chứ, Eric?
Tôi tiếp, giọng nghiêm nghị.
- Tôi không lầm đâu vì tôi đã thử mà!
- Kể lại đầu đuôi cho tôi nghe đi, Eric, có thể quan trọng đấy!
- Trời vừa xẩm tối thì tôi ra khỏi khách sạn, vừa đi vừa
nghĩ đến hương vị tuyệt vời của món dưa cải bắp mà Frieda sắp cho chúng ta ăn
vì suốt tuần qua tôi không được ăn món gì ra hồn cả. Tôi không để ý đến hai gã
đó khi băng qua quảng trường, cho đến khi đi hết hai dãy phố tôi mới nhận ra họ
đang theo dõi tôi.
Tay Henry Black đã hết run khi ông trao ly cocktail cho tôi.
Ông ngồi im lặng trên cái ghế bọc da đối diện tôi, nét mặt điềm tĩnh nhưng đôi
mắt xanh nhạt liếc về phía cửa sổ có vẻ căng thẳng. Các cửa sổ đóng kín, màn
che kín lớp kính. Ngoài kia lại còn một lớp rào sắt kiên cố. Ông nghiêng đầu
như lắng nghe tiếng động gì ngoài đó. Tôi không nghe gì ngoài tiếng mưa rơi và
tiếng rên ư ử của Inga va Loki. Đó là hai con chó săn giống Đức. Chúng cũng có
vẻ căng thẳng. Tôi biết hai con chó này không ngừng lảng vảng quanh nhà, quanh
cái sân được bao bọc bởi một hàng rào kiên cố có thêm dây thép gai. Con chó cái
Loki dữ dằn hơn nhưng con chó đực Inga khoẻ mạnh, nhanh nhẹn và tinh tường hơn.
Nhiều tháng trước, những tháng đấu tiên đến đây, tôi có cảm tưởng mình đang mạo
hiểm vào một nơi nuôi thú ăn thịt người. Tôi cứ tự hỏi liệu hai con chó đó có
phóng lên cổ tôi khi tôi cầm lên một món đồ gì đó trong nhà không? Chúng không
bao giờ chịu gần người lạ. Khi ở trong nhà, chúng không bao giờ rời Henry nửa
bước. Phải mất hơn bốn tháng chúng mới thôi không điên cuồng sủa vang, gầm gừ,
hằn học khi tôi bước vào phòng khách. Hai con chó này được huấn luyện bởi một bậc
thầy với kỹ thuật siêu đẳng.
Hiện giờ chúng đang sục sạo, rình mò quanh nhà. Cố tìm kiếm
một mùi khác thường. Chờ đợi một bước chân rón rén.
Henry hỏi.
- Hai gã đó trông ra sao?
- Trông như hai gã say người Mexico. Khi nhận ra chúng đang
theo sau, tôi nghĩ chúng chờ cơ hội trấn lột hay móc ví vì thấy tôi là du khách
nhưng sau đó tôi biết mình lầm vì... dáng đi... vâng, dáng đi của họ không giống
người Mexico ở đây, tôi cho rằng ý nghĩ đó buồn cười, nhưng...
Henry bỗng đứng dậy, căng thẳng nói.
- Không, không buồn cười đâu, Eric! Đúng là mỗi dân tộc của
mỗi nước có dáng đi khác nhau, không ai để ý đến sự khác biệt đó trừ tôi và
anh!
- Dù sao, vẫn có cái gì khác thường ở họ. Tôi nghĩ rằng nếu
không tránh được phiền toái, nếu có chuyện không hay xảy ra thì đừng để nó xảy
ra trên con đường đến đây, con đường quê không bóng người, không nhà cửa. Tôi đứng
lại chờ đợi. Họ không đi qua tôi mà rẽ vào một trong những cái sân nhỏ của quảng
trường.
Ngưng một chút, tôi tiếp.
- Rất có thể tôi đã quên mọi chuyện nếu tôi không thấy họ ở
gần nhà ông.
- Họ làm gì ở đấy?
- Chiếc xe hơi màu đen chở họ đậu bên lề đường. Họ nói gì đó
với tài xế, nhìn tôi một lúc rồi khi thấy tôi quẹo vào đây thì họ lên xe và đi
mất... à, chiếc xe đó mang biển số Mỹ. Họ đi tiếp chứ không quay lại.
Henry đấm tay phải vào lòng bày tay trái, giọng hoang mang.
- Họ đi đâu? Con đường đó dẫn đến hai lò gạch và một trại
heo cách đây ba cây số... lẽ ra anh phải nói cho tôi biết sớm hơn!
Tôi cười, cố làm không khí trong phòng bớt căng thẳng.
- Tôi không muốn làm hỏng bữa tiệc thịnh soạn của Frieda! Tự
nhiên đi kể câu chuyện về những người lạ mặt vớ bí ẩn vẩn để bữa ăn mất ngon
sao?
Nhấp một ngụm cocktail, tôi tiếp.
- Hơn nữa, có chuyện gì xảy ra đâu? Họ chỉ có vẻ lạ lùng vậy
thôi... có điều tôi không hiểu tại sao họ đến đây trước tôi mà tôi không nhìn
thấy xe họ vượt qua xe tôi. Thôi, quên đi nhé? Tôi cho là họ định trấn lột tôi
nhưng thấy không ngon ăn nên bỏ cuộc...
- Có lẽ... có lẽ thế...
Frieda bước vào đột ngột làm tôi có cảm tưởng bà ta đứng
ngoài cửa từ lâu, lắng nghe cuộc trò chuyện. Bà nói.
- Xin mời quý vị món tráng miệng.
Mặt bà ta tròn quay, nụ cười luôn tươi nở trên môi. Nhưng
bây giờ thì không. Quầng mắt hơi thâm. Ánh mắt có chút căng thẳng. Những ngón
tay mập mạp của bà đeo đầy những nhẫn vàng và kim cương hơi run khi đặt khay cà
phê và bánh ngọt lên bàn. Những đĩa thức ăn đã sạch nhẵn. Henry nói.
- Ngày đó khi tôi quyết định lấy vợ thì Trời giúp tôi, cho
tôi gặp một cô gái Đức là Frieda đây.
Bà cười.
- Tôi bây giờ không còn là cô gái nữa.
- Nhưng bà là người vợ tốt.
Ánh mắt hai người gặp nhau, một cái nhìn đầy thương yêu trìu
mến, tận tụy và cảm thông. Và tôi thấy rất rõ trong ánh mắt đó có cả sự lo âu
buồn bã. Frieda nói.
- Ông cũng là người chồntg tốt.
Bà nói tiếng Anh không sõi lắm. Âm giọng bà chất chứa cái gì
thật buồn thảm mường tượng như lời thì thầm vĩnh biệt khẽ vọng từ đáy mồ. Henry
nắm tay bà, chạm vào cái vòng vàng rất đẹp mà bà rất hãnh diện. Frieda quá hiền
lành và tận tụy trong vai người nội trợ và đặc biệt tính ham mê đồ trang sức
khiến bà lắm lúc cứ như trẻ con. Bà thích tất cả những món đồ trang sức dù thật
hay giả miễn là đẹp.
Ngoài kia, Inga bỗng sủa vang. Henry bước tới cửa sổ chỉ bằng
ba bước dài. Ông vén màn cửa, ghé mắt sát mặt kính. Đã gần sáu mươi nhưng dáng
dấp ông vẫn hùng dũng, oai vệ như một con hổ. Từng bước chân vẫn vững vàng mạnh
mẽ. Tôi hỏi.
- Cái gì vậy?
Sự căng thẳng ở ông dịu đi.
- Không có gì cả, tôi nghe Inga sủa.
- Để tôi ra xem.
Tôi vừa định bước đi thì ông nói, giọng sắc lạnh.
- Không! Eric!
Tôi nhìn ông.
- Có gì đâu, bác thân mến hôm nay lạ quá. Từ khi nghe tôi kể
lại chuyện đó bác cứ nhấp nhổm như sợ một quả bom ném qua cửa vậy! Nhưng... tôi
đã thấy thái độ kỳ lạ của bác trước khi tôi kể lại chuyện đó. Suốt bữa ăn bác cứ
như mèo đang rình chuột, cứ như đang thủ thế... bác khác hẳn mọi ngày! Cứ để
tôi ra xem.
Ngẫm nghĩ một chút, ông gật đầu nói.
- Ừ, ra xem chuyện gì.
Hai con chó chạy lại bên tôi ở thềm cửa.
- Chào Loki.
Tôi vỗ nhẹ lên lưng con Loki nhưng không dám đụng đến con
chó cái Inga. Cùng hai con chó, tôi thong thả đi quanh nhà.
Nơi này giống như một pháo đài hơn là một căn nhà bình thường
với hàng rào có dây thép gai bao quanh, rất chắc chắn. Cây cối bị đốn gần hết.
Ngoài kia là một khu rừng nhỏ. Hàng rào thép gai dược dẫn điện cao thế cả ngày
lẫn đêm. Ở nơi hẻo lánh này của xứ Mexico, các nhà giàu xây tường cao, cắm mảnh
chai, nuôi chó dữ là chuyện thường, nhưng những cách đề phòng của Henry thì vượt
quá mức bình thường. Kỳ lạ.
Tôi gặp Henry năm tháng trước, ngay khi vừa đến làng San
Xavier. Hôm đó ông ta đi bộ qua quảng trường, hai con chó hai bên, người hầu
theo sau. Ông dừng lại một chút nhìn bức tranh tôi đang vẽ. Khẽ gật đầu chào
tôi rồi ông đi tiếp. Nhìn theo, tôi thấy có một khẩu súng sau lớp áo ông ta,
nơi thắt lưng. Hai tuần tiếp theo, ông đều đi ngang chỗ tôi vẽ mỗi sáng. Ông đến
bưu điện, không nói một lời nhưng mắt nhìn quanh như đề phòng. Sau cùng, những
bức họa phong cảnh của tôi đã chinh phục được ông ấy. Sau một lần trò chuyện,
tình bạn giữa chúng tôi nảy nở nhanh chóng vì ông cũng là một họa sĩ nghiệp dư.
Chúng tôi thường đánh cờ, môn này chúng tôi là những đấu thủ vừa sức. Ông ấy lớn
hơn tôi hai mưoi tuổi, cũng đã trải qua những năm chiến tranh như tôi, cũng đã
đi khắp thế giới như tôi. Ông nói.
- Được gặp gỡ kết bạn với người thông minh như anh thật thú
vị. Vì cớ gì mà anh đến nơi khỉ ho cò gáy này?
- Không phải tôi muốn đến mà do đơn đặt hàng. Ba năm rồi tôi
mới quyết định đến đây vẽ những bức tranh cho họ. Khi đến đây tôi mới biết mình
không lầm vì phong cảnh ở đây đúng như tôi cần tìm.
Tôi không hỏi tại sao ông lại chọn nơi này để nghỉ hưu. Có
cái gì khác thường ở ông khiến tôi ngại không hỏi.
Một tuần sau tôi gặp Frieda. Ông nói.
- Tôi gặp bà ấy ở Đức, khi còn trong quân đội. Phải chi anh
trông thấy bà ấy ba mươi năm trước!
Henry luôn cảnh giác.
Sự cảnh giác đó rõ rệt hơn trong vài tuần gần đây. Tôi thấy
có cái gì khác lạ trong ánh mắt, trong thái độ của ông. Một cái gì đó căng thẳng.
Một ngày nọ, tôi nhận thấy ông kín đáo thay đổi giờ giấc đi lại từ nhà đến bưu
điện và từ bưu điện về.
Bây giờ hai con chó và tôi quẹo qua góc nhà, vào sân trước.
Hình như con Loki muốn sủa lên. Tôi thấy bóng Henry ở phía kia, bên cửa sổ, một
loại cửa chớp kiên cố được chế tạo riêng theo đơn đặt hàng đặc biệt. Đến bên cửa
sổ, tôi bỗng dừng lại, nghe ngóng. Loki sủa vang. Hai con chó dường như cảm nhận
được sự khác thường trong tôi. chúng gầm gừ dữ dội, hướng về hàng rào như muốn
nhảy xổ đến.
Tôi vội trở vào nhà. Henry hỏi ngay.
- Chuyện gì vậy?
- Không có gì.
- Không, Eric! Anh đã thấy cái gì đó phải không? Tôi trông
chừng anh qua cửa sổ, rõ ràng anh giật mình vì thấy có cái gì bất thường ở khu
rừng nhỏ bên ngoài.
Tôi nhìn ông.
- Chỉ là một ánh đèn. Nó thấp thoáng hai lần. Chắc là dân ở
đây... hình như mưa làm nó tắt, trời đang mưa lớn.
Ông có vẻ nghi ngờ. Tôi thấy khó chịu khi ông không nói mà
chỉ nhìn tôi đăm đăm. Tôi hỏi khi cởi áo khoác.
- Chuyện gì vậy? Tôi biết có chuyện khác thường mà! Tại sao
Hugo đến tôi sáng nay mời tôi đến ăn tối thay vì thứ sáu như mọi khi? Chuyện gì
làm bác thay đổi chương trình vậy?
Ông vẫn nhìn tôi. Rõ ràng trong ông đang có cái gì xung đột
dữ dội. Tôi nói nhanh.
- Tôi là bạn của bác. Tôi thật tình quý mến hai bác từ nhiều
tháng qua. Tôi sẵn sàng giúp đỡ hai bác bất cứ việc gì nếu hai bác cần. Tôi
không hề biết sợ cái gì trên cõi đời này cả, nhưng tôi phải được biết mọi chuyện.
Ông chậm rãi châm một điếu thuốc lá, cố tình kéo dài thời
gian để suy nghĩ. Cuối cùng, ông nói.
- Ngồi xuống đi, Eric. Tôi đã thề rằng không bao giờ nói với
ai nhưng bây giờ tôi cần sự giúp đỡ. Tôi phải bảo vệ Frieda bằng mọi giá.
Ông bỗng nhìn tôi, ánh mắt trở nên dữ tợn làm tôi càng khó
chịu hơn.
- Eric, anh có bằng lòng thề trước Chúa là bất luận việc gì
tôi kể lại cho anh nghe, dù là việc gì... anh muốn phê phán tôi thế nào cũng được,
nhưng anh phải hứa bảo vệ vợ tôi khi tôi không ở bên bà ấy nhé?
Lưỡng lự một chút, tôi gật đầu.
- Bác thừa biết tôi sẽ nhận lời mà.
- Anh thề trước Chúa chứ?
- Vâng, với một điều kiện là bác phải kể hết sự thật.
- Hay lắm, tôi đồng ý, đây là lời thề thiêng liêng.
Trầm ngâm một chút, ông hỏi.
- Eric, anh biết gì về tôi?
Tôi cười.
- Bác đừng cuời nếu tôi lầm nhé? Thứ nhất, bác không phải
người Mỹ dù cách phát âm của bác rất tuyệt nhưng đôi khi không đúng vì không phải
tiếng mẹ đẻ. Thứ hai, cách bác ngồi vào bàn ăn, cách bác lấy một miếng phó mát,
đúng chứ?
- Rất đúng, anh tinh tường lắm! Tôi thấy trong con người anh
có chút gì như lạnh lùng, như tàn nhẫn đấy, nhưng đó là cái tôi thích và tin tưởng
ở anh.
Tôi nói.
- Tôi biết bác đang chạy trốn cái gì đó. Căn nhà này được
phòng bị một cách khác thường, rất khác thường và tôi tin chắc hai bác không phải
sống bằng nghề lừa đảo...
Frieda bước vào, nói giọng lo sợ.
- Không, đừng anh!
Henry nghiêm nghị.
- Chúng ta cần sự giúp đỡ, em phải hiểu!
Frieda bật khóc. Bà khóc một lúc rồi ngồi im. Henry nói.
- Tên tôi là Heinrich Schwartz, người Đức. Tôi đến đây một
cách hợp pháp với giấy chứng nhận là một sĩ quan Mỹ về hưu. Việc xoay xở giấy tờ
giả đối với tôi không khó. Khi còn bé tôi sống ở Milwaukee. Sau đó tôi được huấn
luyện thành người Mỹ tại một căn cứ quân sự Đức.
Ngoài kia trời mưa lớn hơn. Tiếng gió rít trong này nghe rõ.
Henry đứng dậy, hai tay nắm chặt, đi đi lại lại trong phòng.
- Tôi là thiếu tá quân đội Đức, được thăng chức khi còn rất
trẻ. Tôi xuất thân từ một gia đình quý tộc nhưng chúng tôi không là đảng viên
Quốc xã! Dù cho người ta nói gì đi nữa, chúng tôi cũng không bao giờ là đảng
viên Quốc xã! Chúng tôi chỉ có những liên hệ với đảng quốc xã mà thôi. Frieda
có những tiếp xúc quan trọng với đảng. Ai tránh được trong thời chiến khốc liệt
ấy! Là quân nhân, tôi cũng được thưởng huân chương như những quân nhân khác.
Hai ở Phi châu, một ở Ba Lan...
Hugo bước vào, tay ôm cái hộp gỗ. Tôi biết trong đó đựng những
khẩu súng. Henry không để ý đến người hầu, ông tiếp.
- Tôi được đưa đến một trường huấn luyện ở Bavaria để học
cách giả thành người Mỹ, cách phá hoại, chia rẽ nội bộ địch... sau đó, một mảnh
đạn suýt làm hư một chân tôi. Họ rút tôi về công tác ở một trạm vận chuyển gần
biên giới nước Bỉ. Hugo là lính của tôi lúc đó, bây giờ là quản gia của tôi.
Hugo khẽ nghiêng mình. Henry tiếp.
- Một phần công việc của tôi là vận chuyển những tù nhân Do
Thái bắt được ở Hà Lan nhưng phần nhiều là dẫn những đội quân đặc nhiệm xâm nhập
vào đất địch, tạo điều kiện cho họ vào sâu đất địch, cũng không nhiều lắm, mỗi
tuần độ gần trăm người. Công việc đều đặn và tẻ nhạt may mà tôi có Frieda bên cạnh.
Sau đó, mọi việc thay đổi bất ngờ vì quân đồng minh đang thắng thế. Một ngày nọ,
họ chuyển đến chỗ tôi mười bốn tù nhân và cho biết người Mỹ đang đuổi theo sau.
Không có trạm vận chuyển nào kế tiếp.
Ông đập tay xuống bàn.
- Tôi phải làm gì bây giờ! Thả hết tù nhân à? Để chúng phá
hoại những gì quân đội chúng tôi đạt được, để chúng tố giác chúng tôi với quân
Mỹ à?
Giọng ông bỗng như hét.
- Tôi được lệnh! Tôi là một người lính! Tôi và Hugo phải thi
hành lệnh!
Mắt ông hướng về cửa sổ, giọng như người ngủ mơ.
- Đêm đó cũng mưa gió như đêm nay.
Tôi cố tưởng tượng những hình ảnh ấy. Họ có thấy không? Một
đoàn tù bị dẫn đi trong đêm. Những bộ mặt hốc hác? Những thân hình chỉ còn da bọc
xương? Tôi hình dung Henry va Hugo đang đứng cạnh chiếc xe bít bùng chờ đợi từng
người được dẫn đến trước họng súng. Giờ đây, Frieda có hồi tưởng, có nghe những
phát súng vang và đanh của khẩu Luger? Có nghe những lời thì thầm cầu nguyện cuối
cùng của những nạn nhân của họ?
Tôi liếc nhìn bà ấy. Không, lúc này bà ấy không nhớ gì ở dĩ
vãng mà đang lắng nghe cái gần hơn: sự nguy hiểm đang rình rập ngoài kia, trong
màn đêm. Henry tiếp, vẻ buồn bã.
- Chiến tranh chấm dứt, họ đưa tôi ra tòa ở Nuremberg. Họ
không chứng minh được gì có thể kết tội tôi. Nhưng có hai đứa trẻ trong đám tù
nhân đó trốn thoát và họ biết. Vì thế họ nhốt chúng tôi trong tù trong thời
gian tìm kiếm hai đứa trẻ đó làm nhân chứng. Không kiếm thấy, họ bèn quay sang
kết tội vợ tôi cướp bóc những xác chết. Trời ơi! Thật khủng khiếp! Họ chẳng chứng
minh được gì cả mà chúng tôi phải ở tù năm năm! Bảy ngày sau khi được thả,
chúng tôi đến đây bằng giấy tờ giả. Chúng tôi biết nếu họ tìm thấy hai đứa trẻ
đó và họ biết chúng tôi ở đây thì chúng tôi sẽ chết. Thế mà... bây giờ họ đã biết...
Ông lấy trong túi áo ra một phong bì đóng dấu bưu điện
Mexico. Bên trong là một tờ lịch ngày, đúng ngày tháng hôm nay. Mặt sau vẽ nguệch
ngoạc như nét bút con nít, hình ba nguời: hai đàn ông, một đàn bà. Nguời đàn bà
bị treo cổ trên một cành cây. Cuối tờ giấy có mấy chữ: “Tối nay, chờ đấy, thiếu
tá!”.
Henry nói.
- Đã có những cái trước cái này hơn một tháng nay. Cái đầu
tiên là một hộp quà, trong là một cái vòng đeo tay y hệt như cái Frieda đang
đeo nhưng chúng quấn thêm vào đó một con rắn bằng cao su. Một bức thư kèm theo:
“Sắp đến rồi đấy, không lâu nữa đâu!”.
Frieda thở gấp, buột miệng.
- Kế đến là một khẩu súng đồ chơi của con nít màu đỏ như
máu. Lần thứ ba là một quyển sách viết về Adolf Eichmann. Họ viết ở bìa sách: “Các
người sẽ theo hắn trong tháng này”.
Tôi nhìn cả ba rồi nói.
- Đó là lý do bác mời tôi đến đây tối nay? Bác nghĩ rằng họ
sẽ không dám làm gì khi có người lạ trong nhà phải không?
- Tôi không chắc, Eric, nhưng tôi tin là họ không làm hại
anh vì anh là người Mỹ. Đụng đến anh sẽ rất phiền toái, những vụ như thế này họ
rất cẩn thận.
Ông cau mày, tiếp.
- Chẳng ra cái quái gì cả! Những trò này cốt để hành hạ
chúng tôi... quỷ thật mà!
Ông đặt tay lên vai tôi.
- Hugo và tôi có thể tự lo liệu, chúng tôi có nhiều súng và
đạn, nhưng Frieda phải ở nơi an toàn. Anh giúp tôi việc đó nhé?
Tôi không dám nhìn thẳng vào mắt ông.
- Tôi hứa sẽ bảo vệ bác gái. Việc bác làm không phải lỗi bác
ấy. Nếu có chuyện không hay xảy ra đêm nay thì tôi sẽ giúp bác. Câu chuyện của
bác không làm tôi bận tâm đâu, và tôi không thể đứng im khi biết bác sẽ bị bắn
lén bởi một tên hèn nhát núp trong bóng tối.
Giọng Henry lạc đi.
- Cám ơn, Eric.
Frieda bước tới, nhón chân hôn lên má tôi.
Một luồng gió hắt nước mưa vào cửa kính và tiếp theo là một
loạt tiếng ầm ĩ. Tiếng gõ thùng thiếc! Âm thanh đó thật quái đản trong lúc này!
Chúng tôi chụp những khẩu súng trong cái hộp Hugo đã mở nắp. Cầm khẩu Luger,
tôi kiểm soát lại cẩn thận. Bỗng Henry la lên.
- Frieda, tắt đèn!
Di chuyển thân mình nhanh nhẹn theo thói quen đã được huấn
luyện trong quân đội, bà bước đến bên công tắc, tắt tất cả đèn trong nhà nhưng
lại bật hai ngọn đèn cực mạnh ở sân trước.
Hình như tiếng ầm ĩ đó đến gần hơn. Tôi nói với Henry.
- Ông canh chừng cửa này, tôi và Hugo ra cửa sau xem chuyện
gì.
- Ừ.
Tôi biết ông đang run rẩy trong bóng tối. Tôi và Hugo ra bằng
cửa sau. Hai con chó chạy đến bên chúng tôi ngay. Hugo bảo chúng im lặng bằng
cách ra hiệu đặc biệt. Tiếng rổn rảng của kim loại lại vang lên xen lẫn tiếng
mưa rơi, tiếng lá cây phần phật trong gió và tiếng sấm rền vang quanh chúng
tôi. Chúng tôi bước cẩn thận tránh những cành cây gãy trên đất, những rễ cây
thò trên mặt đất. Mùa này ở đây hầu như ngày nào cũng mưa bão. Hình như nó cũng
dự phần vào cuộc báo thù khủng khiếp này. Chẳng có gì có thể ngăn cản được.
Cách căn nhà khoảng năm mươi mét, chúng tôi tìm ra nguyên
nhân của tiếng ầm ĩ đó. Một cái chập chỏa đồ chơi con nít được cột vào một thân
cây cụt và một cái đũa trống được cột khéo léo bên trên. Gió làm chúng đập vào
nhau. Tôi nói hốt hoảng.
- Hugo, đây là cái mẹo! Chúng lừa bớt người ra khỏi nhà! Trở
lại mau!
Chúng tôi bước nhanh trở lại nhà, cảnh giác hơn lúc nãy.
Chúng tôi không biết cái gì đang chờ đợi chúng tôi ở cửa sau. Khi sắp đến sau
nhà thì hình như Hugo trông thấy cái gì. Anh ta đột ngột dừng lại. Chợt nhận ra
cái anh ta thấy, tôi hét lên.
- Hugo!
Anh ta nhảy lại nhưng quá muộn. Một phát súng vang lên. Anh
ta chết không kịp kêu tiếng nào. Cúi rạp mình chạy thật nhanh, tôi đến cửa sau.
Hai con chó như nổi điên, tôi tưởng chúng sẽ nhảy xổ vào tôi, nhưng không,
chúng để tôi qua. Vào nhà, tôi quơ quàng trong bóng tối, la lên.
- Henry! Chúng bắn Hugo rồi! Anh ấy chết rồi!
- Lạy Chúa! Chúng có mấy tên? Chúng ở đâu?
- Có lẽ chúng đang vòng ra cổng trước, tôi không thấy rõ mấy
tên... ba hay bốn gì đó...
Ánh đèn từ ngoài sân hắt vào nhà. Frieda vẫn ngồi im bên
công tắc đèn. Henry bên cửa sổ, tay cầm súng của ông buông thõng xuống. Thật
nhanh và chính xác, tôi đá văng khẩu súng trong tay ông. Các ngọn đèn bỗng sáng
rực. Tôi nói.
- Thưa thiếu tá, chỉ có một người thôi, hắn không có ngoài
đó. Hắn ở đây. Ông bà đã rất ngu xuẩn để cho hai đứa nhỏ đó trốn thoát...
Sự khủng khiếp hiện trên mặt họ đúng như tôi đã chờ đợi. Đó
là phần thưởng xứng đáng cho những năm tháng dài đợi chờ, nhất là những tháng
cuối cùng này. Giờ đây, tôi đã thấy. Tôi sung sướng hả hê nhìn họ trong im lặng.
Những hình ảnh năm xưa hiện lại trong trí tôi. tôi không quên được một hình ảnh
nào của đêm đó. Giờ này em gái tôi đang chờ tôi trở về với sứ mạng thành công.
Tôi nói bằng tiếng Đức.
- Đêm đó trời cũng mưa như đêm nay.
Tôi bắn Frieda trước. Ông ấy phải sống để thấy. Khi ông ta
nhào tới chụp khẩu súng nằm trên sàn thì tôi bắn vào đầu ông ta. Sau đó, thu xếp
xong mọi thứ cần thiết, tôi đặt khẩu súng tôi đã giết cả ba vào tay ông ta mà
không quên chùi sạch dấu tay của tôi, thủ tiêu ly cocktail của tôi, lau chùi những
nơi tôi nhớ có chạm tay vào. Chắc còn lâu họ mới phát giác những xác chết. Khi
đó, tôi và em gái tôi đã trở về New York.
Trước khi đi, tôi tháo cái vòng vàng ở cổ tay Frieda, mặt
sau có khắc tên mẹ tôi. Bà nhất định không bán nó những ngày đói kém trong chiến
tranh vì nó là kỷ vật sau cùng của cha tôi.
Tôi cũng không bao giờ quên được đêm đó tôi và em gái tôi nằm
im giả chết, thấy Frieda lục lấy cái vòng này trong túi quần lót của mẹ tôi,
lúc bấy giờ bà là một xác chết ướt sũng nước mưa, cứng đơ lạnh giá.
Những con chó đã im lặng. Chúng mừng rỡ xoắn xít bên chân
tôi khi tôi ra đến cổng lớn.
Tôi nói.
- Vĩnh biệt Loki, vĩnh biệt Inga...
Hết
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét