Thứ Năm, 7 tháng 6, 2018

Cao nguyên - Truyện ngắn

Cao nguyên

Tác giả: Clark Howard
Người dịch: Lê Tân
NXB Trẻ - tháng 8/2004
*
Tank Sherman thấy bàn tay con gái nhẹ lay ông:
- Tank, Tank, dậy đi. Bruno chết rồi.
Tank ngồi dậy, bỏ hai chân xuống võng. Ông vẫn mặc áo quần tươm tất, chỉ không có giày thôi. Bruno? Bruno chết ư?
Như cái máy, ông vớ lấy đôi giầy, nói:
- Ý con muốn nói Hannah chứ gì?
- Không, Tank, con nói là Bruno. Hannah vẫn sống, chỉ có Bruno chết thôi.
Tank nhíu mày. Sao lại thế? Vậy là không đúng như dự định rồi. Ông xỏ một chân trước rồi chân kia, vào đôi giày bốt da đen gót cao, chuyên dùng cưỡi ngựa. Ông đã dùng đôi giầy đó mười tám năm qua, giờ nó mềm như da găng tay vậy. Đi giầy xong, ông thừ người nhìn xuống sàn, chưa hết bàng hoàng. Bruno chết ư? Ai cũng nghĩ Bruno sẽ sống lâu hơn Hannah. Bruno thì trẻ, khỏe mạnh. Hannah thì già nua. Và chính vì có Bruno mới có cuộc bốc thăm.
Ông hỏi Dalia, con gái ông:
- Chuyện thế nào?
- Con không biết. Bác sĩ Lewis đang xem xét.
Cô băng qua căn phòng nhỏ đến bên lò bếp, bật máy hâm cà phê. Lấy ra một cái tách, cô rót rượu lê vào đó rồi hỏi:
- Bố có nghĩ họ vẫn tiến hành cuộc săn không? Nếu chỉ còn Hannah mà không có Bruno?
- Không!
Tank sôi nổi đáp. Nhìn con gái, ông tiếp:
- Họ sẽ bỏ cuộc. Hannah quá già. Sẽ không có một cuộc săn bình thường nữa mà sẽ là một cuộc bắn mục tiêu cố định.
Khi cà phê sẵn sàng, Dalia hòa rượu lê vào và mang cho ông già. Trong khi nhấm nháp, Tank nhìn con gái. Nó có mái tóc y như mẹ nó: rất dầy, rất đen và rất dài. Cả gò má cao như dòng giống mẹ nó, người da đỏ Shoshone. Chỉ có màu da và màu mắt xanh là giống ông. Từ bé đến nay nó chỉ gọi ông là “Tank” thay vì “Bố”. Mười chín tuổi, thân hình tròn đầy, khỏe mạnh. Nó sống trong căn nhà di động của nó ở cuối đường, làm việc trong một phòng đánh bài của nhà hàng Custer. Tank vẫn sống trong cabin này, nơi Dalia ra đời. Ông sống cô độc ở đây một năm rồi, từ khi Dalia ra ở riêng, và đã cô đơn sáu năm qua, từ khi mẹ nó qua đời vì bệnh ung thư xương.
Dalia hỏi:
- Bố có ra chỗ đó không?
- Chờ bố một chút.
Ông cầm ly rượu cà phê bằng hai tay, như sưởi ấm hai lòng bàn tay, mỉm cười với con gái:
- Con còn nhớ mẹ con làm ầm ĩ khi thấy con pha rượu vào cà phê cho bố không?
- Nhớ chứ bố!
Cô mỉm cười. Tank tiếp:
- Mẹ con vẫn muốn bố phải làm cái gì đó. Luôn luôn muốn bố phải làm một việc gì thật quan trọng, thật ý nghĩa. Nhưng bố biết không phải chỉ là việc đánh bài. Nếu Hannah chết trước, như mẹ con nghĩ, thì bố có thể làm một việc quan trọng đầu tiên trong đời bố. Ít ra cũng quan trọng cho mẹ con. Và cho Bruno. Thế mà lại là Bruno chết trước. Vậy là bố chẳng còn gì quan trọng để làm. Nếu mẹ con mà còn sống thì bà ấy lại làm ầm ĩ là bố sắp đặt mọi việc như vậy.
Lắc đầu buồn bã, Tank uống một hơi dài ly rượu pha cà phê. Ở tuổi năm mươi, ông đã là một người đàn ông phong trần, già nhiều trước tuổi. Mặt ông còn hằn dấu hàng trăm cú đấm, có lẽ nhiều hơn. Hai mươi năm trước ông đến đây theo một đoàn đánh bốc lưu động, võ sĩ da trắng thách đấu với võ sĩ da đỏ. Dan Sherman là tên ông bấy giờ, nhưng người ta gọi ông là “Tank” [xe tăng] vì ông quá hung bạo và sức chịu đòn của ông thật ghê gớm. Tank Sherman ra đời từ đó. Tham gia rất nhiều trận đấu, và cũng bị đánh rất nhiều. Tại thị trấn Montana nhỏ bé này, một người da đỏ Cheyenne miền bắc mà anh ta rất ghét người da trắng đã đánh ông nhừ tử và khi đoàn bốc lưu động ra đi, họ đem theo anh chàng da đỏ Cheyenne kia, bỏ Tank lại. Mẹ của Dalia thấy ông ngồi sau núi, cố nhá cái bánh bích-qui và cái xúc-xích mà ông đã mua bằng đô-la cuối cùng. Môi ông sưng vều, trông rất kinh khủng, đến nỗi ông gần như không nhai nổi. Hai mắt ông cũng sưng to đến nỗi không thấy đường nữa. Mẹ của Dalia đưa ông về nhà và họ sống với nhau từ đó. Dalia là con gái duy nhất của họ.
Tank nói khi uống xong ly cà phê.
- Chúng ta ra chỗ đó đi con.
Cabin của ông nằm trên sườn đồi nên khi hai cha con đi bộ xuống con đường mòn, họ nhìn thấy một đám đông đang tụ tập ở bãi quây bò trong vùng đất của chính phủ.
Vùng đất có hàng rào đó không lớn lắm, có gắn một tấm bảng lòe loẹt ở cửa:

HAI CON BÒ RỪNG CUỐI CÙNG

VÉ VÀO CỔNG: 1 $

Du khách mua vé, sắp hàng quanh bãi, rồi cửa chuồng bò mở ra và Bruno cùng Hannah được dẫn ra cho công chúng xem. Chúng là hai con bò rừng cuối cùng của miền Bắc Mỹ.
Bây giờ chỉ còn một.
Bác sĩ già Lewis, bác sĩ thú y riêng của thị trấn, vừa xem xét con Bruno xong thì Tank và Dalia chen qua đám đông đến bên ông.
Tank hỏi khi nhìn cái xác khổng lồ của con vật trên mặt đất:
- Sao nó chết vậy bác sĩ?
- Vỡ mạch máu não.
Vị bác sĩ già đáp, đứng dậy phủi đất ở gấu quần.
- Nó tăng cân quá nhiều, chắc phải hơn một tấn, họ vỗ béo nó không đúng cách.
Tank gật đầu.
- Ừ, vỗ béo quá mức và bị quần quá mức, làm sao nó chạy bình thường trong bãi quây như vậy được.
Vị bác sĩ ghi chép những điều cần thiết vào sổ tay, hỏi:
- Ông biết nó bao nhiêu tuổi không?
- Chín. Vợ tôi đỡ lúc nó ra đời mà.
Khuôn mặt đầy sẹo của nhà cựu võ sĩ lắng buồn khi thấy con gái mình bước đến, vỗ về cái đầu khổng lồ của con bò rừng. Rồi ông liếc nhìn về góc bãi, thấy con Hannah, đang đứng im lìm, nhìn họ. Không như Bruno, con bò đực trẻ khỏe mạnh, Hannah là bò cái và già hơn nhiều, ít nhất đã ba mươi tuổi. Lông nó thưa hơn, mỏng hơn hầu hết những con bò rừng khác. Một phần hình tam giác ở cổ và vai nó gần như màu vàng, cho thấy tổ tiên xa xôi của nó là một con bò rừng trắng. Nhỏ con hơn Bruno nhiều, nó chỉ cao một mét sáu đo từ vai, nặng hơn bốn trăm ký.
Tank hỏi:
- Theo tôi thì cuộc săn vĩ đại này phải hủy bỏ phải không bác sĩ?
Đó cũng là câu Dalia đã hỏi ông và câu trả lời của bác sĩ cũng giống như ông đã trả lời con gái mình.
- Dĩ nhiên. Chẳng thể gọi là thể thao khi rượt theo Hannah. Nó quá già rồi.
Ba người đến bên Hannah, và như cùng lúc bị một sự thúc giục không cưỡng được, họ vỗ về nó cùng lúc. Bác sĩ nói:
- Giỏi lắm, bà bạn già, mi làm nên lịch sử đấy, con bò rừng miền đồng bằng duy nhất còn sống sót.
Dalia nói:
- Có thể họ sẽ cho in hình nó lên tem hoặc làm cái gì đó để kỷ niệm.
Bác sĩ nói:
- Có thể lắm, họ đã có hình bò rừng trên đồng xu rồi, nhưng bây giờ thì không biết chắc...
Từ trong chuồng bò, một người phụ nữ trẻ rất đẹp trong sắc phục cảnh sát cơ động phụ trách trông coi công viên quốc gia xuất hiện, bước về phía họ. Người da trắng, điềm đạm, học thức, cô ta là hình ảnh trái ngược với Dalia.
- Xin chào, bác sĩ Lewis, ông Sherman... chào Dalia.
Cô mắc một sợi dây chì vào vòng dây da trên cổ Hannah, nói:
- Tôi vừa nhận điện thoại của các sếp là đóng cửa nơi này, và cắt móng của Hannah. Thú vị chứ nhỉ?
Bác sĩ và Tank nhìn nhau, ngẩn người. Bác sĩ lưỡng lự hỏi:
- Cái gì thú vị?
Tuy hỏi nhưng ông và Tank thừa biết câu trả lời.
- Cuộc săn chứ còn gì nữa. Ô, tôi biết sẽ không thú vị nhiều nếu chúng ta còn Bruno làm con mồi. Nhưng dù sao vẫn là cuộc săn bò rừng cuối cùng. Một trang mới của lịch sử!
Bác sĩ nhăn mặt:
- Như thế thì tàn nhẫn quá!
Tank hỏi:
- Cô nói là cuộc săn vẫn tiến hành, với Hannah là con mồi ư?
- Dĩ nhiên.
Cô ta nhún đôi vai rất đẹp, tiếp:
- Làm thế nào khác bây giờ? Vé đã bán rồi. Cuộc bốc thăm đã tiến hành rồi. Ông cho rằng nhà nước sẽ nuốt lời à?
Dalia nói:
- Không, chắc chắn không, không bao giờ, không phải nhà nước!
- Thế thì cô làm gì đi.
Nữ cảnh sát cơ động nói, rồi phớt lờ Dalia, tiếp:
- Nhưng, nghe đây, họ đã thay đổi luật một chút cho sòng phẳng hơn. Hannah sẽ được cho hai mươi bốn tiếng khởi hành, nhớ đấy, hay chứ? Hannah có đúng hai mươi bốn tiếng.
Cô mỉm cười, rõ ràng thích thú vì điều vừa nói.
Bác sĩ Lewis quay lưng bước đi, lòng đầy ghê tởm. Tank va Dalia cũng rời nơi đó. Đi bộ trên con đường mòn về cabin của cha, Dalia nói:
- Hình như bố đang tìm cách thực hiện điều quan trọng của bố thì phải.
Tank, đang nghĩ về người vợ đã chết của mình, gật đầu:
- Cũng như...
Khi biết chắc là loài bò rừng đồng bằng sắp đến bờ vực của sự tuyệt chủng, khi biết chắc chắn rằng sẽ không còn có bò rừng con ra đời vì những con bò cái ít ỏi còn lại không thể mang thai khi quá già, nhà nước làm ngay hai việc: bắt nhốt những con hiếm hoi còn sống sót, bán vé để vào xem chúng và nghĩ ra một cuộc bốc thăm trên toàn quốc để chọn những người sẽ được phép săn - và làm chủ cái đầu cùng bộ da - con bò rừng cuối cùng của Mỹ quốc.
Cả hai việc đó đều đem lại thành công rực rỡ. Khu vực dành cho những con bò rừng cuối cùng, điều hành bởi chính phủ, giao cho một trong những ban ngành riêng: Cục Công Viên Thiên Nhiên Quốc Gia, được mở ra chín tháng nay. Điều hành nơi ấy là đội cảnh sát cơ động tiểu bang, với tổng chi phí rất thấp và thu được rất nhiều do sự hiếu kỳ của du khách giàu có khắp mọi miền đất nước... mọi nơi xung quanh khu vực đều được tận dụng, ba máy tự động bán những ly bánh để ném cho bò ăn, như đậu phộng cho khỉ ăn trong sở thú. Nhưng chỉ khác là bò không làm trò như khỉ. Dầu rất cố gắng lúc đầu, kể cả roi vọt, loài bò rừng vẫn kiên định, bướng bỉnh, không chịu thuần hóa. Cuối cùng, cảnh sát cơ động đành chịu thua, chỉ biết dẫn chúng ra đứng đó cho trẻ con sờ mó, cho chúng những loại thức ăn chế biến. Dù sao, sự hiếu kỳ vẫn còn đó.
Thu lợi không nhỏ nhờ khu vực đặc biệt này là thế, nhưng không thể so sánh với cuộc bốc thăm. Đó là một chương trình sổ xố do một thanh niên thiên tài trong Cục Kế Toán Quốc Gia nghĩ ra. Hai triệu vé được mua sạch trong nước, kể cả bằng đường bưu điện, với gía năm đô-la một vé. Vé bán hết không đầy một tháng từ ngày phát hành và nhà nước thu được mười triệu đô-la một cách nhanh chóng.
Ngay cả những người không mấy quan tâm đến cuộc săn cũng mua để đầu cơ. Trước khi cuộc bốc thăm diễn ra, những mẩu quảng cáo đã tràn ngập các báo đề nghị mua lại vé của người may mắn trúng số.
Cuộc xổ số đó có ba người được chọn, lấy vài con số trong kết quả tổng số tiền thu được công bố hàng ngày của tổng hành dinh thị trường chứng khoán Nữu Ước. Những người may mắn là một người sửa đàn dương cầm ở Boston, một người bồi bàn ở Memphis, và một người chủ trại bò sữa ở Nevada. Người thợ sửa đàn bán lại vé của mình cho Gregory Kingston, một kịch sĩ với giá mười ngàn đô-la. Người bồi bàn bán lại vé của mình cho nhà văn Harmon Langford với giá tám ngàn năm trăm đô-la. Lester Ash, người chủ trại bò sữa, không bán vì cho rằng cái đầu và bộ da con bò sẽ có giá trị rất lớn. Ông ta cũng được biết là một tay súng cừ khôi hơn hai ông kịch sĩ và văn sĩ kia nhiều.
Hai tiếng sau cái chết không đúng lúc của Bruno, cả ba người nói trên được thông báo chuẩn bị lên đường vào cuộc săn giải thưởng độc nhất vô nhị của họ. Hannah, con bò rừng đồng bằng duy nhất còn sống sót, sẽ được thả cách chuồng của nó một trăm cây số, phía thảo nguyên, vào giữa trưa thứ sáu.
Giữa trưa thứ bảy, ba người có vé may mắn được phép lên đường săn nó.
* * *
Nửa đêm thứ năm, Tank Sherman chuẩn bị lên đường. Nối đằng sau chiếc xe tải nhỏ hiệu Ford của ông là một toa moóc mui kín khá lớn.
Đậu xe trên thảo nguyên cách khu vực đó một trăm mét, ông và Dalia nhẹ nhàng bước trong đêm thinh lặng đến cái chuồng, cắt ổ khóa bằng kềm cộng lực, dẫn Hannah ra ngoài. Con bò rừng già hiền lành như thỏ, không hề kêu tiếng nào khi Dalia cho nó một mớ cỏ tươi và Tank tra dây thòng lọng vào cổ nó.
Sau khi đưa được con bò lên toa moóc và khẽ đóng lại cửa sau, Tank đưa cho Dalia một phong bì lớn.
- Đây là giấy tờ đất và nhà của bố. Có cả sổ tiết kiệm của mẹ con trong đó. Sáu trăm bốn mươi đô-la mẹ con để lại khi chết, dành cho con khi con đủ hai mươi mốt tuổi. À, cái máy hát này cũng cho con. Bố mẹ chỉ có vậy cho con thôi.
Dalia lấy một gói giấy và một bình thủy trong xe Jeep của cô.
- Con có bánh mì kẹp cho bố đây, cà phê nữa... có cả...
- Được rồi.
Ông đặt gói giấy và bình thủy lên băng ghế, khụt khịt mũi như bị cảm. Nhưng ông có cảm đâu.
- Cố gắng tự lo cho mình nhé, con gái.
Giọng ông như sắp òa vỡ. Ông im lặng, định lên xe nhưng bỗng quay lại:
- Này con, bố biết rằng bố chưa bao giờ là người cha gương mẫu nhất, chưa bao giờ cho con có một căn nhà đẹp để ở, cũng không cho con học tiếp đại học, nhưng như thế không phải là bố không biết chăm sóc con đâu nhé... con hiểu không?
-Vâng.
Dalia nhún vai, nói:
- Nhưng bố đã dạy con khi nào thì phải khoanh tay trong một ván bài, cách tráo bài như thế nào và làm sao cho con ách chuồn bật ra. Hầu hết các cô gái không hề biết những chuyện đó.
Cô cố kềm giọng nói. Nhưng cô không ngăn được nước mắt. Và cô biết bố mình không nhìn thấy những giọt nước mắt đó trong màn đêm. Tank nói:
- Tốt. Bố đi nhé.
Ông khẽ đóng cửa xe, lặng lẽ nổ máy, chầm chậm rời con đường mà không bật đèn trước.
Phía sau ông, Dalia vẫy trong bóng tối, nói:
- Tạm biệt... bố...
* * *
Khi ra đến đường cái, ông bật đèn, tăng tốc, nghĩ thầm: “Tốt rồi, Rose, đây là quà cho em, Rose yêu quý!”.
Rose là người vợ quá cố của Tank, là người đàn bà luôn ao ước Tank làm một việc quan trọng. Tên của bà lúc còn ở với người Shoshone là Primerose (hoa anh thảo), do cha bà đặt vì bà ra đời vào một ngày đầu tháng bảy khi loài hoa anh thảo vừa bắt đầu nở. Về sau, khi dọn về thị trấn, sống theo người da trắng, bà rút ngắn tên lại là Rose.
Tank luôn nhớ Rose là một cái gì đó đẹp đẽ, nhưng thực sự thì bà không đẹp, không xấu.
Nét mặt bà bình thường, mắt cũng vậy, mũi cao và hai má hơi chấm tàn nhang. Bà chỉ được mái tóc, rất dầy, rất đen và rất dài, luôn bóng mượt. Nhưng Tank thấy được ở bà nhiều thứ khác hơn bề ngoài. Ông thấy những hy vọng ở bà, thấy những mộng mơ của bà, thấy lòng kiêu hãnh của bà, thấy những niềm vui sâu kín của bà. Ông thấy mọi thứ trong tâm hồn người phụ nữ da đỏ đó, và những điều đó kết hợp lại làm thành vẻ đẹp mà ông ngưỡng mộ.
Lần đầu tiên bà chỉ cho ông thấy bò rừng là ba tháng sau khi bà đưa ông về chung sống, sau khi săn sóc ông khỏe lại vì trận đánh. Họ dậy sớm một buổi sáng nọ, vào ngày bà được nghỉ ở đồn điền mía. Bằng xe Jeep, bà đưa ông đi sáu mươi cây số đến vùng thảo nguyên hoang dã. Ở đó, trên một bãi cỏ vắng vẻ, có một đàn bò: ba con bò đực, một con cái và sáu con bê. Chúng bắt đầu một cuộc di cư cuối cùng, khi làn sóng khách du lịch ngày càng nhiều, xua đuổi chúng lên miền bắc, về miền tây tính từ vùng Đồi Đen.
Rose nói:
- Nhìn xem, chúng quý phái làm sao! Hãy nhìn vẻ nghiêm trang trong dáng đứng của chúng và khi chúng nhìn.
Mắt bà ướt và bà nói tiếp:
- Chúng đang nhìn thế giới của chúng đến hồi kết thúc.
Đã một thời, Rose giải thích cho ông, có sáu mươi triệu con bò rừng đồng bằng. Sự tồn tại của chúng ở những vùng đồng bằng miền bắc được ghi nhận là sự tụ tập đông nhất của loài thú trên mặt đất mà loài người từng biết. Đối với người da đỏ sống ở thảo nguyên, những đàn bò đó là nguồn sống, là nền kinh tế của họ. Chúng cho lương thực, quần áo, lều trại, thuốc men... chúng nuôi sống cả một giống nòi. Lần duy nhất trong lịch sử thế giới có một sự cân bằng tự nhiên tuyệt vời như vậy giữa người và thú.
Rose nói:
- Thế mà, người da trắng đến, ban đầu thì họ giết bò rừng lấy thịt và da, cũng như người da đỏ chúng em vẫn làm, điều đó chấp nhận được vì chúng quá nhiều. Về sau họ giết chúng chỉ vì bộ da, bỏ lại xác cho thối rữa dưới ánh mặt trời. Hành động như thế - dù chẳng đẹp đẽ gì cho lắm - cũng có thể tha thứ được. Nhưng sau đó họ bắt đầu giết chúng cho cái mà họ gọi là “thể thao”. Tiêu khiển. Giải trí. Mới đầu họ giết hàng chục ngàn con. Rồi tên đồ tể Cody mà họ gọi là “Buffalo Bill” xuất hiện, riêng tên đó đã giết bốn mươi hai ngàn con trong thời gian mười bảy tháng. Chẳng bao lâu sau, chúng bị giết chỉ vì sự tinh nghịch độc ác, hàng triệu con bị giết! Ngày nay chỉ còn vài trăm con. Phần lớn chúng sống ở Đồi Đen. Nhưng chúng từ từ di cư về đây một lần nữa.
Tank ngẩn ngơ hỏi:
- Tại sao?
- Chúng biết dòng giống chúng đã đến hồi kết thúc. Bất cứ loài vật nào cũng biết khi dòng giống mình sắp tuyệt chủng khi mỗi năm chúng thấy con cái chúng một ít đi, bầy đàn chúng mỗi thưa thớt hơn. Vì thế chúng kiếm một nơi để chấm dứt. Chúng kiếm đến một vùng đồng cỏ xanh tốt chưa có dấu chân người. Một nơi để nằm nghỉ và để chết trong sự trang nghiêm.
Trong suốt những năm sống với người đàn bà da đỏ Shoshone đó, ông đã hiểu. Bà ấy yêu quý bò rừng, than khóc khi thấy chúng ngày càng ít đi. Đau đớn khi mất bà, nhưng lúc này Tank lại mừng vì bà không còn sống để chứng kiến Bruno và Hannah, hai con bò rừng cuối cùng, bị nhốt lại, đưa ra biểu diễn, hoặc biết về cuộc bốc thăm dành đặc ân cho cuộc săn con sống sót cuối cùng.
Thế là em có món quà quý nhất rồi nhé, Rose, ông nghĩ khi lái về phía Đông nam với Hannah trong toa moóc. Có lẽ ông đã đi được bốn trăm cây số. Có lẽ như thế đã đủ.
Có thể không.
* * *
Hai tiếng sau khi bình minh ló dạng, một người đàn ông cao lớn, rất đẹp trai, mặt đỏ bừng vì tức giận, bước tới bước lui trong cái chuồng trống rỗng.
- Ông nói vậy là nghĩa quái gì chứ! Mất? Làm sao một vật to như một con bò rừng lại có thể mất được chứ?
Ông ta là Gregory Kingston, nhà kịch sĩ được giải Oscar. Lúc này ông ta không đóng kịch mà giận dữ thực sự.
- Chính phủ bảo đảm cuộc săn này.
Người thứ hai nói, một người đàn ông nhỏ con hơn, hơi mập, không đẹp trai như nhà kịch sĩ nhưng thâm trầm hơn. Đó là Harmon Langford, nhà văn nổi tiếng thế giới. Cũng như Gregory Kingston, ông ta mặc bồ đồ săn cực kỳ đắt tiền, cầm khẩu súng rất đẹp của nước ngoài, báng súng làm bằng tay, chạm trổ công phu. Ông ta điềm đạm hỏi:
- Chính xác là ai chịu trách nhiệm ở đây?
Người đàn ông thứ ba, Lester Ash, chủ trại ở Nevada, đứng khiêm tốn phía sau, không nói gì nhưng quan sát mọi chuyện. Ông ta mặc đồ bình thường: quần áo jean may bằng vải bông, giầy bốt da.
Người trong đội cảnh sát cơ động nói:
- Thưa các ông, xin hãy tin tôi, chúng tôi đang hết sức tìm cho ra nguyên nhân chuyện này trong thời gian nhanh nhất mà chúng tôi có thể. Tất cả chúng tôi biết bây giờ là một hoặc nhiều người rõ ràng đã bắt cóc Hannah vào lúc nào đó trong đêm. Đã phát thông báo và cuộc tìm kiếm khắp tiểu bang đã được tiến hành lúc này rồi.
Gregory Kingston hỏi lớn giọng như chẳng coi ai ra gì:
- Thế việc đếch gì mà có người lại đi bắt cóc một con bò rừng?
Gregory Kingston vừa nói vừa khoa tay múa chân. Bây giờ thì hắn đang diễn kịch! Nhà văn lên tiếng:
- Coi nào, Kingston, chúng ta không nói về một con bò rừng, mà chúng ta đang nói về con bò rừng này cơ mà! Không như chúng ta, có những người khác...
Ông ta ngưng nói một chút, liếc xéo Lester Ash, tiếp:
- Mà họ chỉ quan tâm đến thú vật vì lợi tức chứ chẳng phải vì tinh thần thể thao chân chính!
Lester Ash cười tươi nhưng vẫn im lặng. Langford tiếp:
- Dù sao đi nữa, chúng ta không nên phí thì giờ chỉ để ở đây mà hỏi tại sao, chúng ta phải tập trung vào câu hỏi ở đâu. Phần thưởng vĩ đại của chúng ta đang ở đâu? Và làm thế nào chúng ta đến lấy nó?
Người cảnh sát nói:
- Chúng ta có thể biết tin bất cứ lúc nào từ các đội tuần tra. Mọi con đường đều bị kiểm soát.
- Chúng ta làm gì bây giờ?
Kingston hỏi thẳng Langford. Nhà văn đáp chắc nịch:
- Chúng ta phải chuẩn bị bắn con thú ngay khi họ kiếm thấy nó trước khi một kẻ ngoài cuộc bắn nó một cách bất hợp pháp. Vùng này đầy dẫy bọn cao bồi du đãng, súng ống hẳn hoi... Tôi tin chắc rằng phải có một số người cũng muốn được tưởng nhớ là người giết con bò rừng cuối cùng của hành tinh này.
- Chẳng hạn như ông phải không?
Lester Ash lần đầu tiên lên tiếng. Một nụ cười tự mãn nở trên môi Langford.
- Vâng.
Dĩ nhiên ông ta hiểu ý tứ câu nói của người chủ trại. Ông ta nói:
- Ông cũng thế chứ?
Họ nhìn nhau trong một tíc tắc thông cảm rồi Langford nói:
- Cái chúng ta cần bây giờ, dĩ nhiên là phương tiện vận chuyển nhanh nhất, năng động nhất.
Ông quay sang người cảnh sát, hỏi:
- Chỗ thuê máy bay trực thăng gần đây nhất ở đâu?
- Tám mươi cây số.
- Tôi đề nghị chúng ta khởi hành ngay. Nếu chúng ta có một chiếc trực thăng sẵn sàng vào lúc con bò được tìm ra thì chúng ta sẽ đến đó ngay. Tôi cho rằng phòng chỉ huy cảnh sát cơ động không phản đối việc này chứ?
Người cảnh sát nhún vai:
- Miễn là cả ba vị cùng xuất phát một lúc và không được bắn từ trên không.
- Dĩ nhiên. Chúng tôi đâu phải hạng người tàn nhẫn thế!
Nói xong ông nhìn Kingston và Ash, hỏi:
- Sao, hai vị đồng ý chứ?
- Đồng ý.
Nhà kịch sĩ đáp. Ash cũng đáp:
- Chúng ta lên đường.
* * *
Ba tiếng trước đó, Tank đã đậu xe cạnh một cây du, đi bộ vào những hàng cây rậm nơi có cabin của Otter. Trời vẫn tối, nhưng chỗ này bóng tối thật lạ lẫm. Ông gõ nhẹ vào cánh cửa.
- Ai quấy rầy lão già bệnh tật này lúc đêm hôm vậy hử?
Tiếng nói từ trong nhà. Tank đáp:
- Ông Otter, Sherman đây, con rể ông đây.
Otter hỏi:
- Anh muốn gì? Tôi nghèo lắm chẳng có gì cho anh đâu. Tôi không có đồ quý, cũng chẳng có tiền. Tôi chỉ sống lây lất qua ngày thôi. Tại sao anh đến đây?
- Vì sự khôn ngoan của ông, Otter, tôi xin ông một lời khuyên.
- Thế thì tôi có thể cho anh được tuy rằng hơi thở tôi giờ sắp cạn kiệt rồi, có thể đủ cho anh những lời khuyên rồi tắt hơi luôn. Bọn anh mấy người?
- Chỉ mình tôi.
Tank mỉm cười trong bóng tối. Bây giờ thì lão già trời đánh kia phải ngưng đóng kịch thôi.
- Anh vào đi, có nến ở cửa đấy.
Tank thắp một cây nến và qua ánh sáng nhảy múa của ngọn lửa, ông thấy những mảng bẩn thỉu và nghèo nàn đến khó tin của căn phòng. Ở góc này có một cái võng với một cái chiếu tả tơi, góc kia là một chậu rửa bằng sắt rỉ sét, chất đầy những bát đĩa xoong chảo nhếch nhác. Góc thứ ba, một cái tủ xập xệ, cánh cửa đâu mất, để lộ ra những áo quần rách nát. Mọi nơi trong căn phòng đều vương vãi, lấm lem những thứ bẩn thỉu nhất mà Tank chưa từng thấy.
Ông không dừng lại ở đó mà đi thẳng đến cánh cửa dẫn sang một phòng khác. Trong phòng đó ông thấy Otter đang ngồi trên một cái giường khổng lồ, miệng ngậm xì-gà, một chai whiskey bên cạnh. Khi Tank đóng cánh cửa lại, người đàn ông da đỏ già hạ cò khẩu súng trường hai nòng đang lăm lăm trong tay rồi đặt nó trên nệm cạnh ông.
- Mi có khỏe không, Mặt Mềm?
Ông hỏi. Lần đầu gặp Tank, thấy bộ mặt chàng võ sĩ trẻ bị đánh bầm giập, Otter gọi Tank là Mặt Mềm và giữ luôn cái tên đó.
- Con khỏe lắm, trông bố cũng thế.
Ông già da đỏ nhún vai.
- Chẳng có lý do gì đặc biệt để thay đổi!
Tank cười, liếc nhìn quanh phòng. Đây là một thế giới riêng, hoàn toàn tự lập, đầy đủ mọi thứ già Otter cần cho tiện nghi cá nhân. Máy điều hòa không khí, tivi màu, lò vi ba, tủ lạnh, máy phát điện, phòng tắm nhỏ ở góc phòng, vòi nước nóng, vòi nước lạnh... Ông hỏi:
- Chuyện buôn rượu lậu của bố ra sao rồi?
- Khách hàng của ta tốt quá nên ta chấm dứt mọi chuyện rồi!
Otter ngồi xuống giường, quấn cái mền của người da đỏ quanh người, tiếp:
- Cháu gái ta vẫn làm cái việc chia bài ở chỗ của người da trắng chứ?
- Vâng.
- Nó vẫn bịp họ khi có dịp chứ?
- Vâng, nếu là du khách.
Otter gật đầu tán thành.
- Tốt, dù có mang một nửa dòng máu da trắng cũng nên ăn trên đầu bọn chúng khi có dịp.
Trên một cái máy hâm, Otter đặt một ấm nước.
- Ngồi vào bàn và cho ta biết chuyện của mi.
Tank giải thích mọi chuyện cho ông già da đỏ. Khi ông nói đến Rose và lòng yêu thương của cô đối với bò rừng, mắt Otter đỏ hoe. Khi Tank nói xong, ông già rót cà phê vào hai tách rượu. Ông hỏi:
- Vậy tôi có thể giúp gì cho anh?
- Con cần một chỗ an toàn cho con bò. Một nơi nó có thể sống nốt những ngày tàn của nó trong an bình mà không sợ bị săn đuổi và giết chết. Một nơi nào đó nó sẽ chết thanh thản, như con gái Rose của bố vẫn hằng ao ước.
Otter nhấm nháp cà phê, suy tính. Nhiều lần, ông lúc lắc đầu, như thể đã tìm ra giải pháp rồi lại bỏ. Cuối cùng, ông gõ một ngón tay lên bàn và nói:
- Mi còn nhớ nơi mà Dòng Cạn chảy qua Núi Gấu không?
- Vùng Đồi Đen, nơi bố thường đưa chúng con đi chơi khi Dalia còn bé?
- Đúng. Đó là một vùng cỏ rộng xa phía trên Dòng Cạn mà bây giờ thuộc về bộ lạc người da đỏ Deerfield ít ỏi còn lại. Nó nằm trong khuôn khổ Công Viên Quốc Gia Những Ngọn Đồi Đen, nhưng chính phủ liên bang đã chuyển nhượng bằng chứng thư vùng đó cho người Deerfield vì không có con đường nào đến đó, và họ cũng tính toán kỹ, du khách cũng không thể đến đó được, quá hẻo lánh mà chẳng có gì thú vị. Người Deerfield dùng nó cho những nghi lễ tôn giáo. Đối với họ đó là mảnh đất thiêng liêng. Con bò sẽ được bảo vệ một khi nó ở đó. Nhưng chỉ có vài con đường mòn bẩn thỉu dẫn đến đó. Ta không biết con bò có leo nổi lên những con dốc không.
- Cao lắm không bố?
- Hơn hai ngàn mét. Khoảng gần hai ngàn mét là đường có lẫn sỏi, nhưng vài trăm mét còn lại là đường đất. Phải chi mi ăn trộm một con dê núi thì ta thấy còn dễ thoát hơn một con bò rừng. Mi sẽ gặp rất nhiều gian nan đấy, Mặt Mềm.
- Bố vẽ lại đường đi cho con được không?
- Dĩ nhiên, ta là người nhiều tài mà.
Otter lấy bút, giấy và vẽ lại con đường theo ký ức rồi đưa cho Tank. Bây giờ trời đã hừng sáng. Hai người đàn ông ra khỏi cabin, đến chỗ toa moóc. Tank mở cửa toa cho Hannah ra ngoài và lấy cỏ cho nó. Otter quan sát con bò, nói:
- Một con bò cái rất đẹp, chỉ có giống da trắng các người mới nghĩ đến chuyện giết nó.
- Chỉ vì con có cùng màu da thôi chứ họ không phải giống người của con.
Tank cột con bò vào một thân cây, trở vào cabin với Otter. Ông già da đỏ làm thức ăn và họ cùng ăn. Đến lúc phải đi rồi. Otter trở lại chỗ toa xe, giúp Tank đưa con bò lên. Sau khi Tank sắp nổ máy, Otter đặt một tay lên cửa xe, nói:
- Trong cuộc đời mỗi con người đều có một cao nguyên. Mỗi người đều có thể đến được cao nguyên đó. Hắn có thể ở đó một ngày hoặc một năm, có khi chỉ một khoảnh khắc. Nhưng thời gian của hắn cũng có nghĩa là cuộc đời hắn. Đó là lý do Đấng Thiêng Liêng cho hắn vào thế gian này. Mặt Mềm, ta nghĩ rằng cao nguyên của mi có lẽ là thảm cỏ xanh phía bên kia Dòng Cạn.
Ông vỗ vai Tank:
- Hãy ra đi với gió đi con trai.
Tank nuốt nước bọt một cách khó khăn, gật đầu.
* * *
Chiếc trực thăng đang bay theo đường bàn cờ, cách nơi con bò bị trộm hơn ba trăm cây số. Harmon Langford ngồi cạnh phi công. Gregory Kingston và Lester Ash cùng ngồi ghế sau. Cả ba người cùng dùng ống nhòm nhìn xuống phía dưới.
- Khùng thật!
Kingston làu bàu. Ông vỗ vai Langford, hét lên trong tiếng ồn của mô-tơ.
- Nói lại coi! Tại sao ông cứ nhìn về phía đó vậy?
Nhà văn hét lại:
- Một xe tuần tiễu báo rằng có một chiếc xe tải nhỏ kéo theo một rờ-moọc ghé đổ đầy xăng ở Dayton vào lúc bốn giờ sáng nay! Người bán xăng nói con thú trong toa moóc được phủ kín mít và người lái xe nói rằng con bò đó đã được đóng dấu để đưa đến lò mổ! Nhưng hắn cho rằng đó chính là con bò của chúng ta! Chiếc xe đó hướng về Gillette! Chúng ta phải kiếm khắp vùng Gillette!
Nhà kịch sĩ lắc đầu, như thể câu chuyện hoàn toàn vô lý đối với ông. Lester Ash nghiêng người ghé sát tai ông:
- Cảnh sát tuần tra xa lộ nghĩ rằng có thể hắn lái xe về hướng Bãi Sấm! Đó là vùng đồng cỏ mênh mông! Một nơi cực kỳ lý tưởng để thả con bò!
Nhà kịch sĩ mỉm cười:
- Tôi biết! Thế thì càng thú vị!
Ông vỗ nhẹ vào đùi Lester Ash. Mắt Ash thoáng vẻ hồ nghi.
Chiếc trực thăng tiếp tục lượn những đường hình bàn cờ. Người phi công lấy bút vạch những đường trên một bản đồ đính ở bảng điều khiển. Họ bay nhanh qua vào những vùng đồng cỏ, hơn ba mươi cây số nữa rồi bắt đầu tìm kiếm lung tung, theo sát những hình bóng bất chợt, những vật di động trong gió, một trò chơi hoang dại... theo bất cứ cái gì lôi kéo sự chú ý của họ. Nhưng họ không tìm thấy cái họ đang tìm.
Một giờ sau, người phi công nói với Langford:
- Chúng ta phải đáp để đổ xăng.
Vừa nói xong thì họ nhận được tin qua điện đàm từ cảnh sát cơ động:
- Đã nhìn thấy chiếc xe từ một máy bay do thám của đội tuần tra trên không. Nó đang ở quốc lộ 16, phía nam Osage, hướng về Đồi Đen. Chắc chắn hắn đang tìn cách vượt qua ranh giới tiểu bang vì thế chúng tôi đang yêu cầu cảnh sát nam Dakota lập những chốt chận. Sẽ thông báo tiếp.
Langford hỏi phi công:
- Osage cách đây bao xa?
- Tám mươi cây số, hơn kém một chút.
- Đủ xăng để đến đó không?
- Đủ, nhưng đó là giới hạn cuối, chúng ta phải đổ xăng ở Osage.
- Đi!
Langford ra lệnh.
* * *
Tank mở radio trên xe, dò đài của cảnh sát và ông biết cảnh sát nam Dakota đang lập những chốt chận xe. Rào cản đang được giăng ra phía trên Custer, ở giao lộ 85 và 16. Đậu xe vào lề đường, Tank trả lại số rồi mở tấm bản đồ ông xin ở trạm xăng gần Sundance, nơi Otter sống. Khi dừng ở đó, ông đã thả những tấm vải dầu che kín toa moóc nên không ai nhìn thấy gì bên trong. Ông biết chắc không phải người bán xăng đã tố giác ông. Có thể là chiếc máy bay nhỏ hai chỗ ngồi bay lướt phía trên ông lúc nãy.
Xem kỹ bản đồ, Tank thấy những điểm họ chọn để giăng rào cản làm chậm khá nhiều thời gian của ông. Rõ ràng họ nghĩ ông sẽ lái về phía Đồi Đen. Ông đâu có đi về phía đó. Ông cần băng ngang qua đó chỉ vài cây số trước khi vào con đường thứ hai mà nó chạy về phương bắc rồi qua hướng tây, đến Dòng Cạn. Mỉm cười, ông biết mình sẽ thoát cả ba rào cản kia. Ra ngoài xe một chút, ông vén tấm vải dầu toa moóc, với tay vỗ về Hannah, sung sướng nói:
- Chúng ta sắp đánh bại bọn vô lại kia rồi.
Nhưng ông không biết rằng họ có một chiếc trực thăng.
* * *
Tại Osage, Harmon Langford bàn bạc qua điện thoại với toán tuần tiểu phụ trách việc lập rào cản.
- Dĩ nhiên tôi đánh giá rất cao sự giúp đỡ của các ông trong việc bắt tên này, đại úy, và tôi hứa sẽ viết lại câu chuyện này, ông và người của ông sẽ được nhắc đến nhiều. Bây giờ nếu ông vui lòng cho người của ông trong tư thế sẵn sàng và để cho tôi góp phần vào việc điều khiển dưới đó từ chỗ tôi, thì tôi tin công lý sẽ được thực thi. Chúng tôi không hề coi đây là một vấn đề hình sự. Chỉ là một trò đùa tinh quái... à... một chuyện bực mình vặt vãnh thôi, nhưng chúng tôi thu xếp được.
Rồi ông nói với người phi công lái chiếc máy bay do thám nhỏ:
- Ông vẫn nhìn thấy nó chứ?
- Vâng, thưa ông Langford. Nó đang di chuyển về con đường thứ hai hướng về một nơi gọi là Dòng Cạn.
- Tốt. Cứ bay vòng quanh, đừng để mất dấu nó. Chúng tôi sẽ bay ngay vài phút nữa và sẽ sớm có mặt ở đó. Dĩ nhiên là tôi cần gặp ông sau khi vụ này kết thúc, tôi cần ảnh của ông và một bài phỏng vấn. Hãy trông chừng nó nhé.
Khi Langford quay lại, Kingston và Ash thấy một vẻ đắc thắng nham hiểm hiện trên mặt nhà văn. Ông ta nói:
- Thưa các ông, trong một thời gian ngắn nữa thôi, chúng ta sẽ ở chỗ đó và sẽ lấy về phần thưởng vĩ đại của chúng ta. Tôi nghĩ các vị cũng chuẩn bị đối phó nếu tên trộm của chúng ta tìm cách kháng cự chứ?
Kingston nhíu mày:
- Là sao?
Langford không đáp, chỉ cầm lên khẩu súng, chỉ vào cò súng.
Nhìn ông đăm đăm, Ash mỉm cười.
* * *
Quẹo sang con đường thứ hai, vào con đường sỏi dốc, Tank mới biết chắc là có máy bay cảnh sát đang theo ông. Nhưng ông không lo lắng. Hai phi công trên chiếc máy bay đó không bao giờ chận được ông. Không có một chỗ nào quanh vùng đồi này cho họ hạ cánh. Tất cả họ có thể làm là báo cho dưới đất biết vị trí của ông và lúc này thì ông quá gần đích đến rồi. Chẳng sợ gì nữa. Ông biết vị trí những rào cản rồi, xa lắm, và họ không tài nào bắt kịp ông nữa. Chướng ngại duy nhất và cuối cùng là: hơn ba trăm mét đi bộ từ cuối con đường sỏi lên vùng đồng cỏ trên kia.
Đăm chiêu, ông không biết Hannah già nua có đủ sức đi trọn con đường hay không. Phần lớn thành công phụ thuộc vào độ dốc của con đường mòn và cách đặt bước chân trên mặt đường hóc hiểm này. Mặt đường càng thô nhám càng tốt vì họ đã cắt móng của Hannah nên nó rất dễ trượt trên mặt đường đá sỏi.
Ở cuối con đường sỏi, Tank lái xe vào chỗ có càng nhiều cây rậm càng tốt để giấu chiếc xe.
Một phần toa moóc vẫn có thể nhìn thấy từ trên không. Không sao, ông nghĩ, họ chậm hơn mình nhiều rồi.
- Đi nào, bà bạn già.
Ông nói khi cho Hannah ra khỏi toa moóc, xoa đầu nó. Quan sát địa thế phía trước, ông chọn hướng ít dốc nhất mà ông có thể nhìn thấy trong tầm mắt, nhẹ nhàng kéo Hannah theo. Đi khoảng một mét phía trước, ông siết chặt dây thòng lọng, thúc nó tiến bước. Con bò rừng cái già nua ngoan ngoãn theo ông lên con đường dốc.
Có lẽ dễ dàng hơn mình tưởng. Tank hy vọng tự nhủ.
* * *
Một giờ sau khi Tank và Hannah bắt đầu đi lên con dốc thì chiếc trực thăng mới đến chỗ hẹn với chiếc máy bay do thám kia.
Langford hỏi viên phi công qua máy điện đàm:
- Họ ở đâu?
- Trong những lùm cây bên sườn núi, thưa ông. Ông không thấy được vì những tàn cây rậm. Có lẽ họ đã đi được nửa đường lên trên vùng đồng cỏ của cao nguyên đó rồi.
Langford khen ngợi viên phi công kia rồi quay sang viên phi công của mình:
- Đáp xuống vùng đồng cỏ đó ngay.
Viên phi công nói:
- Không được đâu, thưa ông. Vùng đất thiêng đó của người da đỏ Deerfield. Người ngoài không được phép vào.
Langford hướng họng súng vào viên phi công:
- Tôi muốn anh đáp xuống đó.
Viên phi công mỉm cười:
- Tôi sẽ cẩn thận với khẩu súng này nếu tôi là ông đấy, thưa ông. Cứ bắn đi nếu ông và các bạn ông biết lái chiếc trực thăng này, kẻo không có tôi thì nó hạ cánh nhanh lắm đấy.
Trề môi, Langford bỏ khẩu súng xuống, thò tay vào túi áo rút ra một xấp bạc, đếm năm tờ một trăm đô-la.
- Chỉ cần anh giữ máy bay cách mặt đất độ một mét, đủ thời gian cho chúng tôi nhảy xuống là được.
Cầm lấy những tờ giấy bạc, viên phi công nói:
- Chuyện nhỏ.
* * *
Vài trăm mét cuối cùng quả là địa ngục trần gian cho người đàn ông và con bò. Sau quãng đường khá dễ dàng lúc đầu, con đường trở nên hẹp và dốc, gập ghềnh lởm chởm. Ba lần, móng của Hannah trượt trên sỏi đá, hoặc vướng vào rễ cây ngầm và nó tuột xuống năm, sáu mét, kéo theo Tank. Trong mỗi lần đó, nó té nằm ngang, kêu rống dữ dội khi đất đá phía trên trôi xuống phủ lấp gần nửa thân hình nó. Mỗi lần như vậy, Tank lại vỗ về trấn an nó, giúp nó đứng dậy, kiên nhẫn thúc giục nó tiến bước về trước.
Hai lần chính Tank trượt té thảm hại, da của đôi giầy cũ cũng bị trượt trên đá sỏi như những móng bị cắt của Hannah. Lần đầu, giầy trái ông sút ra và ông té dập hai đầu gối xuống đất, một đầu gối ông rách toạc vì cứa vào đá cứng, máu tuôn nhiều. Lần thứ hai, ông mất thăng bằng hoàn toàn, lộn nhào trở lại xuống dưới, tuyệt vọng lướt qua Hannah. Mặt ông, áo quần, giầy bốt... kéo theo hàng loạt đất đá phủ lên ông. Nhưng ông đủ tỉnh táo buông sợi dây thòng lọng ra ngay để không làm kinh hoảng con bò và ông lăn luôn gần mười lăm mét. Khi đứng vững trở lại, người ông lấm đầy đất cát, áo ông đẫm mồ hôi, mặt và tay ông đầy những vết trầy xước, vết đứt ngang dọc. Rủa thầm, Tank bò lên chỗ Hannah đang im lặng nhìn ông bằng ánh mắt tò mò, chờ đợi ông một cách kiên nhẫn.
Còn khoảng một trăm mét cuối, Tank nghe hình như có tiếng gầm rú của mô-tơ. Khó mà xác định vì những ngọn cây dầy đặc cách ly mặt đất với tiếng ồn và vì gió lồng lộng vì lúc này họ đã ở quá cao. Có lẽ đó là chiếc máy bay nhẹ kia đang rà thấp tìm kiếm trên đồng cỏ phía chiếc xe. Nếu thế, ông khoái trá nghĩ, họ chẳng thấy gì cả.
Chúng ta thắng rồi, Rose, Hannah và ta! Chúng ta đã đánh bại chúng. Chúng ta đã đến cao nguyên.
Họ tiếp tục leo lên, một con người và một con bò, chống lại sự vây bủa xung quanh, chống lại độ cao còn trước mặt, chống lại sự phản kháng tinh quái của mặt đất, của gió lộng và của lòng ích kỷ, của bụi bẩn và sự tàn nhẫn, của đá sỏi và rễ cây. Máu và mồ hôi nhòa trong mắt họ, vì lúc này Hannah cũng bị những vết rách trên mặt già nua của nó. Nước bọt phì phèo đầy miệng con bò. Mồ hôi và nước mắt ướt đẫm trên má con người.
Họ leo lên cho đến khi mọi cơ bắp của họ như cứng lại, phổi họ như sắp nổ tung, tim họ như sắp vỡ vụn. Không còn gì khác trừ sự can đảm mê loạn. Họ leo tiếp, leo tiếp.
Cuối cùng, họ đến đỉnh đồi, cùng quị xuống thảm cỏ xanh mướt.
Ba người thợ săn đang chờ họ ở đó.
* * *
Chỉ đến khi nhìn thấy ba người thợ săn Tank mới hiểu ra tiếng máy gầm rú lúc nãy không phải của chiếc máy bay nhỏ mà của một chiếc trực thăng. Khi ông và con bò lảo đảo về phía mép thảm cỏ, cả hai cùng quị xuống. Tank nhào người về phía trước nên ông quị xuống trong tư thế bò. Hannah cạnh ông, cũng quị hai chân trước, đầu gục xuống. Cả hai cùng thở hổn hển, cố hớp lấy những luồng không khí trong lành vào những lá phổi tưởng như đã vỡ tung. Trong một lúc, khi cả hai quị bên nhau, vai Tank tựa vào cổ Hannah, đầu tựa đầu, như thể con người và con thú là một.
Rồi Tank nhìn lên thấy những tay súng.
Họ đứng dàn hàng ngang. Nòng súng của họ lấp lánh trong ánh mặt trời.
- Không.
Ông thều thào. Lắc đầu.
- Không.
Ông kêu to hơn khi đứng dậy. Và ông hét lên khi tiến về phía họ.
- Không!
Harmon Langford đứng giữa, lên tiếng:
- Đứng im tại chỗ, nếu bước thêm chúng tôi sẽ bắn!
Mắt tóe lửa, hai hàm răng nghiến chặt, hai bàn tay hộ pháp thu lại thành hai nắm đấm. Tank bước dài về phía họ. Vừa tiến tới, ông vừa hét như một người điên:
- Không! Không! Không!
Langford nạt:
- Chúng tôi bắn đấy!
Tank vẫn tiến tới.
Langford ra lệnh:
- Được, hãy bắn hắn!
Ông giơ súng lên nhắm kỹ.
Không có tiếng nổ nào. Langford hạ súng xuống, cuống cuồng nhìn Ash và Kingston, la lên:
- Bắn đi! Sao các ông không bắn?
Lester Ash điềm tĩnh:
- Thế tại sao ông không bắn?
Langford không có thời gian để trả lời. Tank đã đến bên ông, giật lấy khẩu súng, ném nó ra xa rồi tung một quả đấm tay phải vào mặt Langford làm giập môi và mũi nhà văn. Ông ta té ngửa ra sau.
Khi Langford té, Tank quay sang Kingston, nhà kịch sĩ thối lui:
- Này, này... khoan đã... tôi có định bắn ông đâu...
Ông ta ném khẩu súng đi như bày tỏ thiện chí, nhưng không làm Tank động lòng. Người võ sĩ già tung quả đấm tay phải cực mạnh và chính xác vào giũa bụng nhà kịch sĩ làm ông ta gập người lại như người ta đóng mạnh nắp va-li. Mặt ông ta không còn giọt máu, mắt trợn ngược. Quỵ xuống, ông ta nôn ọe tất cả những gì có trong bao tử ra nền cỏ xanh.
Khi Tank tìm người thứ ba, thì ông thấy Ash, tay thợ săn đầy kinh nghiệm như lời đồn, đã lỉnh ra sau lưng ông. Bây giờ Tank đang đứng trên thảm cỏ, Lester Ash đang nhìn ông, lưng quay về phía mặt trời, nói:
- Chúng ta có thể giải quyết việc này bằng cách ôn hòa hay thô bạo cũng được, nhưng cách nào đi nữa thì con bò cũng là của tôi.
Tank lắc đầu, tiến vế Ash, hét lên:
- Không!
- Tôi chẳng phải là ông bạn kịch sĩ lắm lời kia, cũng không phải nhà văn dẻo miệng kia đâu. Lộn xộn với tôi là ông bạn vào nhà thương đấy. Con bò là của tôi!
- Không!
Tank vẫn tiến tới.
Viên đạn cắm vào đùi trái Tank, làm ông ngã vật xuống. Bản năng ngày xưa trỗi dậy, như thể có ai đó đang đếm từ một đến mười, Tank lồm cồm gượng dậy. Bịt tay vào vết thương, ông khập khiễng tiến về Ash. Lester Ash nói:
- Lão già điên rồi.
Viên đạn thứ hai xuyên vào đùi phải Tank và ông lại té vật xuống cỏ. Gầm lên, vẫn theo bản năng, ông ngồi bật dậy, mỗi tay bịt một vết thương. Cái đau như xé toạc thần kinh ông. Nóng rực, tàn nhẫn. Ông bỗng ho sặc sụa, rồi ông khóc nức lên. Mình sắp chết rồi, ông nghĩ.
Rồi ông thấy dưới chân mình một cái gì màu vàng pha trắng. Quệt nước mắt, ông định thần nhìn kỹ. Đó là một khóm hoa dại - cánh trắng, nhụy vàng. Primerose! Hoa Anh Thảo!
Tank cố đứng lên lần cuối. Ông sẵn sàng tiến bước, lảo đảo như người say. Mắt ông trừng trừng nhìn Ash.
- Được, lần này thì ông già điên tiêu cái xương bánh chè rồi!
Trước khi Ash kịp bắn thì Hannah ra tay.
Đầu nó cúi xuống, những cái móng mới bị cắt gần như không gây tiếng động trên nền cỏ dầy, nó phóng đến Ash trước khi ông ta biết. Húc vào sườn trái tay thợ săn, cái trán rộng của nó cắm vào ngực ông ta, chà nát phần suờn trái. Khi thân hình ông ta lủng lẳng trước mặt, Hannah hất ông ta văng khỏi cao nguyên, rơi xuống sườn đồi.
Lester Ash hét lên kinh hoàng khi thân hình ông bị ném thia lia qua ba ngọn cây, rồi tiếng hét tắt ngấm khi thân hình ông trên đường rơi xuống.
* * *
Người tộc trưởng bộ lạc Deerfield và người phụ tá của ông cưỡi ngựa lên vùng đồng cỏ ngay sau tiếng súng nổ đầu tiên, cho bao vây khu vực và sai người dẫn Harmon Langford và Gregory Kingston đến ranh giới lãnh thổ của ông. Họ được thả sau khi ký giấy cam kết không được đặt chân đến nơi này nữa. Cảnh sát cơ động cùng đội cứu thương đến mang xác Lester Ash đi. Cái chết của ông ta được ghi nhận do té trên cao nguyên xuống chân đồi.
Người thầy thuốc của dân Deerfield tên Alzada, có một căn lều trong hàng cây rậm gần đồng cỏ, được vị tộc trưởng mời đến hỏi ý kiến về số phận con bò. Alzada tuyên bố:
- Nếu Đấng Thiêng Liêng đưa nó đến đây, thì nó được quyền đứng trên đồng cỏ thiêng này cho đến khi Ngài gọi nó về.
Vị tộc trưởng nhìn về phía mép đồng cỏ, nơi Tank đang ngồi dưới bóng một cây cổ thụ, kiệt sức vì mất máu.
- Thế người đàn ông thì sao?
Alzada hỏi:
- Người đàn ông nào? Tôi không thấy ai cả. Tôi chỉ thấy một con bò thiêng đang mãn nguyện. Nếu ông thấy một cái gì khác thì đó là một hồn ma.
Vị tộc trưởng lắc đầu:
- Nếu Alzada không thấy gì, tôi cũng không thấy gì. Chỉ Alzada mới có thể thấy được những hồn ma.
Vị tộc trưởng và người phụ tá cưỡi ngựa xuống núi.
Khi họ đi khỏi, người thầy thuốc đến bên Tank, dìu người đàn ông bị thương vào căn lều của ông trong những hàng cây rậm rạp.

Hết

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét