Thứ Ba, 7 tháng 1, 2020

Vòng tròn ma thuật - P 4


Vòng tròn ma thuật
(Nguyên tác: Darkness at Noon).

Tác giả: Arthur Koestler

Dịch giả: Phạm Minh Ngọc

Nguồn: vantuyen.net

Vĩ thanh

Hãy chỉ cho chúng tôi không chỉ mục đích mà cả đường đi.
Vì đường đi và đích đến gắn bó mật thiết với nhau
Đường đi đã thay đổi thì đích đến đâu còn như xưa.

- Ferdinand Lassale (Franz von Sickengen) -

1.

“Khi được hỏi có công nhận mình phạm tội hay không, bị cáo Rubashov đã trả lời một cách rõ ràng: “Có”. Trả lời câu hỏi tiếp theo của Công tố viên rằng bị cáo có phải là gián điệp của phản động quốc tế hay không, bị cáo nói: “Có”, nhưng nhỏ hơn lần trước...”.
Cô con gái của ông Vasily đọc một cách chậm chạp và rõ ràng từng chữ một. Cô trải tờ báo trên mặt bàn và đưa ngón tay chỉ vào từng chữ đang đọc, thỉnh thoảng lại đưa tay kia lên vuốt tóc.
“Khi được hỏi có cần luật sư biện hộ hay không, bị cáo tuyên bố không cần. Lúc đó tòa bắt đầu tiến hành đọc bản cáo trạng...”.
Ông Vasily nằm trên giường, mặt quay vào tường. Vera Vasiljovna, con gái ông, không bao giờ biết bố đang nghe hay đã ngủ. Đôi khi cô cũng nghe thấy ông lầm bầm một câu gì đó. Nhưng cô không bao giờ để ý, tối nào cô cũng đọc báo cho bố nghe, gọi là “để nâng cao trình độ”, ngay cả những hôm phải ở lại họp chi bộ, về muộn, hai cha con cũng không bỏ thói quen này.
“Kết luận khẳng định rằng tội lỗi của bị cáo Rubashov đã được chứng minh bằng các chứng cứ không thể chối cãi được, cũng như bằng những lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra. Khi Chủ tọa phiên tòa hỏi có kiến nghị gì đối với quá trình điều tra hay không thì bị cáo trả lời: “Không” và nói thêm rằng lời khai là tự nguyện và rất ân hận vì những hành động tội ác, phản cách mạng của mình...”.
Vasily nằm yên như chết. Bức ảnh Anh Cả treo ngay trên đầu giường ông. Bên cạnh thò ra một chiếc đinh đã han gỉ: cách đây chưa lâu ảnh của Rubashov, người chỉ huy trung đoàn vẫn còn treo ở đấy. Vasily thò tay vào cái lỗ thủng trong nệm, đấy là chỗ giấu cuốn Kinh thánh đã nhàu nát của ông, nhưng sau khi Rubashov bị bắt thì cô con gái phát hiện được và đem vứt vào sọt rác mất rồi.
“...Theo yêu cầu của Công tố viên, Rubashov bắt đầu kể về quá trình chuyển hóa từ một người đối lập với đường lối của Đảng thành một kẻ phản cách mạng và phản bội tổ quốc. Bị cáo tuyên bố như sau: “Thưa Quí tòa, tôi xin kể lại vì sao tôi lại đầu hàng cơ quan điều tra và đầu hàng các vị, những người đại diện của luật pháp nước ta. Câu chuyện của tôi sẽ chứng tỏ rằng chỉ cần xa rời đường lối của Đảng một chút xíu thôi là nhất định sẽ dẫn đến phản bội cách mạng. Các hoạt động bè phái chính là những bước tiến dần đến vũng lầy tội ác đó. Câu chuyện sa ngã của tôi có thể là lời cảnh tỉnh đối với những người mà trong giờ phút quyết định này vẫn còn dao động, vẫn còn nghi ngờ đường lối của Đảng cũng như sự sáng suốt của Ban Chấp hành Trung ương của chúng ta. Nhục nhã, bị dìm xuống tận bùn đen, và bây giờ, trước khi chết tôi xin kể lại con đường của một kẻ phản bội, coi như một bài học cho quần chúng...”.
Vasily trở mình rồi nằm úp mặt vào gối. Trước mắt ông hiện lên hình ảnh người chỉ huy trung đoàn để râu, người trong trường hợp khó khăn nhất vẫn thường văng tục làm cho các chiến sỹ phải cười đến nôn ruột. “Bị dìm xuống tận bùn đen, và bây giờ, trước khi chết...”. Vasily sụt sịt khóc. Kinh thánh đã không còn, nhưng nhiều đoạn ông đã thuộc lòng từ lâu.
“... Đến đây Công tố viên ngắt lời bị cáo và hỏi mấy câu liên quan đến số phận của cô thư ký cũ của Rubashov, tức là công dân Arlova, người đã bị kết án tử hình vì những hoạt động phản nghịch. Từ những câu trả lời của bị cáo, có thể thấy rằng lúc đó, nhờ tinh thần cảnh giác của Đảng, hắn đã bị đẩy vào bước đường cùng và vì vậy đã đổ vấy trách nhiệm cho Arlova hòng giữ được mạng sống để tiếp tục những hoạt động tội ác của mình. N. S. Rubashov đã công nhận những tội ác trời không dung, đất không tha này một cách trơ tráo và không biết xấu hổ là gì. Khi Công tố viên nhận xét: “Có lẽ anh đã đánh mất hết tư cách”, thì bị cáo ngạo mạn mỉm cười và nói: “Có thể là như thế”. Thái độ của bị cáo đã làm cả phòng xử bất bình, tức giận, nhưng Chủ tọa phiên tòa đã kịp vãn hồi trật tự. Một lần tất cả những người có mặt trong phòng xử đã phải bật cười, đấy là lúc bị cáo xin tòa cho giải lao mấy phút vì “răng đau không thể chịu được”. Phù hợp với thủ tục pháp lý hiện hành, Chủ tọa phiên tòa nhún vai tỏ vẻ khinh bỉ rồi tuyên bố tạm nghỉ năm phút”.
Vasily nằm ngửa, ông nhớ lại những ngày sau khi Rubashov trốn khỏi nhà tù của quân địch và được khắp nơi chào đón như một người anh hùng. Ông như vẫn nhìn thấy Rubashov tay chống nạng, đứng trên khán đài, giữa một rừng cờ, hoa và tiếng reo hò không dứt, miệng mỉm cười, tay cầm kính lau vào ống áo.
- “Lính giải Ngài vào phía trong viện, tức là sảnh đường, và nhóm cả cơ binh lại. Họ khoác áo tía cho Ngài, đan một mão gai đội lên đầu Ngài... Họ lại lấy cây lau đánh đầu Ngài, nhổ trên Ngài, và quì gối lạy Ngài...”.
- Bố vừa nói gì thế? - cô con gái hỏi.
- Không có gì, - Vasily trả lời và quay mặt vào tường. Ông đưa tay lần mò qua lỗ thủng của cái nệm nhưng cuốn Kinh thánh đã không còn. Tấm ảnh trên tường cũng không còn. Khi cô con gái gỡ bức ảnh Rubashov và ném vào sọt rác ông không nói gì: già quá rồi, phải đi tù nữa thì nhục nhã lắm.
Cô con gái ngừng đọc và đặt cái bếp lên bàn để đun nước pha trà. Mùi dầu hỏa nồng nặc khắp phòng.
- Ban nãy bố có nghe con đọc không đấy, - cô con gái hỏi bố.
Vasily nhẫn nhục quay đầu lại phía cô con gái và nói:
- Có chứ.
- Bố thấy đấy, - Vera Vasilyovna vừa đổ thêm dầu vào bếp vừa nói. - Chính hắn công nhận là kẻ phản bội đấy chứ. Nếu không thì hắn đã không nói như thế. Trong cuộc họp ở nhà máy, chúng con đã ra nghị quyết và tất cả sẽ ký.
- Giỏi nhỉ, - Vasily thở dài.
Vera Vasilyovna liếc bố bằng đôi mắt sắc lạnh đến nỗi ông phải quay ngay mặt vào tường.
Mỗi lần con gái nhìn như thế là ông lại thấy như mình là người có lỗi với con, cô đang rất cần căn phòng nhỏ dành cho người tạp vụ này để có thể xây dựng gia đình. Ba tuần trước cô đã đăng ký kết hôn với một anh công nhân cơ khí trong cùng nhà máy, nhưng nhà ở thì chưa có, anh chồng trẻ vẫn sống trong nhà tập thể, phải vài ba năm nữa may ra họ mới được phân nhà.
Vera Vasiljovna châm lửa và đặt ấm nước lên bếp.
- Bí thư chi bộ đọc cho mọi người nghe nghị quyết. Nghị quyết viết rằng bọn phản bội phải bị trừng trị một cách đích đáng. Bất cứ kẻ nào tỏ lòng thương hại bọn chúng cũng bị coi là phản bội và bị lên án, - cô lạnh lùng giải thích. - Giai cấp công nhân cần phải cảnh giác. Ai cũng được phát một bản, chúng con đang đi thu thập chữ ký.
Vera Vasiljovna lôi từ trong túi áo ra một tờ giấy gấp làm tư và trải ra mặt bàn. Lúc đó Vasily đang nằm ngửa, mắt nhìn thẳng vào đầu chiếc đinh rỉ trên tường. Ông quay đầu về hướng con gái, tờ giấy được đặt nằm cạnh cái bếp dầu. Ông vội ngoảnh mặt đi chỗ khác.
- “Nhưng Ngài phán rằng: “Quả thật ta nói cùng ngươi, hôm nay, chính đêm này, trước khi gà gáy hai lượt, ngươi sẽ chối ta ba lần...”.
Nước trong ấm đã reo lục bục. Vasily hỏi con một câu nhiều ẩn ý:
- Những người đã từng tham gia Nội chiến có phải ký không?
Vera Vasiljovna đang cúi đầu nhìn ấm nước.
- Không ai phải cả, - cô nói và lại liếc bố với đôi mắt sắc lạnh như lần trước. - Ở nhà máy thì ai cũng biết hắn từng sống trong căn nhà này. Sau cuộc họp ông bí thư chi bộ còn hỏi con là bố có thân và có hay nói chuyện với hắn không?
Vasily vùng dậy. Ông ngồi trên giường và ho rũ ra, trên cái cần cổ gày gò hằn lên những tia máu đỏ.
Cô con gái đặt hai cái cốc lên bàn rồi lấy cái hộp giấy đựng trà dốc vào mỗi cốc một ít.
- Bố vừa lầm bầm cái gì nữa thế, - cô hỏi.
- Đưa cho tao tờ giấy quỉ tha ma bắt kia xem nào, - Vasily nói.
Cô con gái vừa đưa cho bố tờ giấy vừa hỏi:
- Có cần đọc cho bố nghe không?
- Không cần, - ông già vừa ký vừa nói. - Bố không cần nghe. Đưa trà đây cho bố.
Cô con gái đưa cốc nước cho bố. Môi Vasily run run, ông vừa lẩm bẩm một mình vừa nhấm nháp từng ngụm nước màu vàng nhạt.
Sau khi uống trà, cô con gái lại tiếp tục đọc báo. Phóng sự về phiên tòa xử Rubashov và Kieffer đã sắp hết. Việc công bố tình tiết vụ mưu sát lãnh tụ Đảng làm cho những người tham dự phiên tòa vô cùng phẫn nộ, cả hội trường cùng đứng dậy, hô lớn mấy lần liền: “Đồ chó dại đáng chết!”. Trả lời câu hỏi của Công tố viên về động cơ hành động, bị cáo Rubashov, lúc đó đã hoàn toàn suy sụp, nói như một người hết hơi:
“Tôi chỉ có thể nói rằng phe đối lập chúng tôi đặt ra mục tiêu tội lỗi là phải lật đổ Chính phủ Cách mạng và đã sử dụng những biện pháp phù hợp với mục đích đó, những biện pháp cũng thuộc loại hạ đẳng và đê tiện chẳng khác gì mục đích”.
Vera Vasilyovna đạp cái ghế ra phía sau.
- Kinh tởm quá, - cô nói. - Nghe hắn nói đã lộn mửa lên rồi!
Cô đặt tờ báo sang một bên và bắt đầu thu dọn cốc chén. Vasily nhìn theo. Trà nóng đã làm ông phấn chấn thêm.
- Đừng có tưởng là hiểu nhé, con ơi, - ông nói. - Chỉ có trời mới hiểu ông ta nghĩ gì mà lại nói như thế. Đảng bảo chúng mày phải khôn khéo, nhưng khôn quá thì lại hóa ra mất cả tử tế đi. Đừng có mà nhún vai như thế nhé, - ông tức giận nói thêm. - Bây giờ khôn ngoan và tử tế đang đối chọi nhau, có cái này thì mất cái kia. Mưu mô quá cũng chẳng hay ho gì đâu. Vì vậy mới viết rằng: “Song các ngươi nên nói: “Phải, phải, không không”. Còn quá lời ấy đều bởi kẻ ác mà ra”.
Ông lại nằm xuống giường và quay đi để khỏi phải nhìn mặt cô con gái. Chưa bao giờ ông dám chống đối lại cô một cách mạnh mẽ và lâu như thế. Ở đời ai học hết được chữ ngờ, nhất là khi cô ta đang cần phòng ở riêng để lấy chồng. Phải khôn khéo thì mới sống được, tuổi này mà phải ra gầm cầu hay vào tù thì tội lắm. Trong hai phải chọn lấy một: khôn ngoan hay là tử tế, vẹn cả hai đằng làm sao được.
- Thôi được, con sẽ đọc cho bố nghe phần cuối, - cô con gái nói.
Công tố viên kết thúc việc thẩm vấn Rubashov. Ông chuyển sang hỏi bị cáo Kieffer. Bị cáo công nhận những lời khai về vụ mưu sát đưa ra trước đây là hoàn toàn đúng sự thật.
“ ...Khi Chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo Rubashov có muốn làm rõ những điều Kieffer đã khai hay không, hắn nói: “Không cần”. Quá trình thẩm vấn kết thúc ở đây và Chủ tọa tuyên bố giải lao. Sau khi giải lao, Công tố viên bắt đầu đọc bản luận tội...”.
Vasily không nghe bản luận tội của Công tố viên. Ông nằm quay mặt vào tường và thiếp đi lúc nào không hay. Ông không biết mình đã ngủ bao lâu, không biết cô con gái phải châm dầu mấy lần, không biết ngón tay cô phải chuyển cột báo mấy lần. Ông thức giấc đúng vào lúc Công tố viên kết thúc lời buộc tội và đòi kết án tử hình cả hai bị cáo. Có thể là cô con gái đã lên giọng, có thể cô đã ngừng đọc một lúc, nhưng nói gì thì nói, ông đã thức giấc đúng lúc nghe thấy câu kết luận của Công tố viên:
“Tôi yêu cầu xử bắn tất cả những con chó điên này”.
Sau đó các phạm nhân được nói lời cuối cùng.
“Bị cáo Kieffer quay mặt về phía các quan tòa và nói rằng vì còn trẻ, chưa có kinh nghiệm, xin tòa tha chết. Một lần nữa hắn công nhận rằng tội ác là không thể tha thứ được, nhưng lại tìm cách đổ vấy trách nhiệm cho Rubashov, thủ phạm của vụ đầu độc bất thành. Trình bày được một lúc thì Kieffer bắt đầu nói lắp, làm mọi người cười ồ lên, nhưng Chủ tọa phiên tòa đã vãn hồi trật tự ngay lập tức. Sau đó đến lượt Rubashov...”.
Bài tường thuật mô tả rất rõ cảnh Rubashov “nhìn khắp lượt khán phòng, nhưng không gặp bất kì một ánh mắt thương hại nào đành cúi gằm mặt xuống”.
Rubashov nói rất ngắn. Nó chỉ làm cho người ta thêm căm tức thái độ trâng tráo của hắn trước tòa mà thôi.

“Thưa ông Chủ tọa”, bị cáo Rubashov tuyên bố, “đây là lần lên tiếng cuối cùng của tôi trong cuộc đời này. Lực lượng đối lập đã bị đập tan và bị tiêu diệt. Nếu phải hỏi “Ta chết vì cái gì?” thì tôi không thể trả lời nổi. Chết mà không sám hối, không hòa giải với Đảng và Phong trào cách mạng là một cái chết vô ích. Vì vậy, trước khi chết tôi xin được quì gối trước đất nước, trước quần chúng và toàn thể nhân dân. Những buổi trình diễn về đấu tranh chính trị, về tranh luận công khai và mưu mô nọ kia đã kết thúc rồi. Chúng tôi đã bị khai tử trước khi Công tố viên đòi lấy đầu. Được làm vua, thua làm giặc. Thưa các vị thẩm phán, tôi chỉ xin nói với các vị một điều: tôi đã phải suy nghĩ rất lâu. Thói kiêu căng và lòng tự hào nhắc nhủ tôi rằng hãy ngậm miệng mà chết đi, không nói gì cả hay hãy chết một cách oai hùng, như người ta nói: con chim sắp chết thì tiếng hót hay, hãy dốc hết tấm lòng và kết án chính những kẻ nắm cán cân công lý. Đối với một người lính già như tôi, đấy là việc không khó, nhưng tôi chấp nhận đầu hàng vô điều kiện. Nhiệm vụ của tôi như thế là đã hoàn thành. Tôi đã trả giá, tôi đã thanh toán xong món nợ với lịch sử. Lúc này mà còn xin tha thứ thì chỉ là một trò cười. Tôi xin kết thúc ở đây”.

- “... Sau khi giải lao, Chủ tọa phiên tòa tuyên đọc bản án. Hội đồng xét xử của Tòa án Tối cao tuyên bố: tử hình tất cả các bị cáo bằng cách xử bắn, tịch thu toàn bộ tài sản cá nhân”.
Vasily nhìn chiếc đinh rỉ thò ra trên tường và lẩm bẩm: “Thế là hết. Amen!”, và quay mặt vào tường.

2.

Thế là hết. Rubashov biết rằng anh sẽ bị giết trước lúc nửa đêm.
Anh đang đi bách bộ trong phòng, sáu bước rưỡi thì đến cửa sổ, rồi quay lại cũng đúng sáu bước rưỡi. Cảnh nhốn nháo của phiên toà vừa chấm dứt cách đây mấy phút. Anh dừng lại trên viên gạch màu đen, viên thứ ba tính từ cửa sổ, và lắng tai nghe – không một tiếng động, xung quanh yên tĩnh quá, chẳng khác gì trong lòng một chiếc giếng cạn. Anh không hiểu vì sao lòng mình lại nhẹ tênh và xung quanh lại trở nên yên tĩnh đến như thế. Nhưng anh biết rằng sự thanh thản hiện nay sẽ là vĩnh viễn, không gì có thể phá vỡ được nữa.
Anh cảm thấy lòng thanh thản như thế ngay giữa phiên toà, tức là trước khi được nói lời cuối cùng cơ. Anh tin rằng tàn tích của thói vị kỷ và thái độ kiêu căng sẽ chẳng bao giờ làm mình bận lòng được nữa, nhưng khi nhìn khắp phòng xử án mà chỉ thấy những bộ mặt lãnh đạm và khinh khi thì anh lại thấy thèm một ánh mắt cảm thông hay chí ít là thương hại; anh chỉ muốn hét lên để xua tan thái độ lạnh lùng, băng giá đang bao trùm lên chính mình lúc đó.
Anh rất muốn kể lại những đóng góp của mình đối với Đảng, rất muốn đứng thẳng lên và lật tung những điều dối trá mà Ivanov và Gletkin đã cố tình khoác lên người anh, rất muốn hét vào mặt các thẩm phán, như Danton từng hét ngày nào: “Các người đã bóp chết cả cuộc đời ta. Hãy để nó trở thành bằng chứng tố cáo các ngươi!”. Anh thuộc lòng bài diễn văn của Danton trước Tòa án Cách mạng. Anh có thể đọc không sót một từ nào. Anh đã học thuộc bài diễn văn này ngay từ khi còn trẻ: “Các người muốn dìm nước Cộng hòa vào biển máu. Con đường đến tự do còn phải trải bằng xương máu đến bao lâu nữa? Chế độ độc tài đang tiến bước, nó đã giật tung mặt nạ, đầu nó ngẩng cao, nó đang bước qua xác chết của chúng tôi”.
Ngôn từ như đã ở trên đầu lưỡi. Nhưng ước muốn đó chỉ kéo dài trong giây lát, còn khi bắt đầu nói lời cuối cùng thì anh lại thấy lòng thanh thản vô cùng. Anh biết rằng cơ hội đã bị bỏ lỡ rồi.
Bỏ lỡ cơ hội quay lại trên chính con đường ấy, con đường chết chóc mà anh đã đi qua. Ngôn từ chẳng thể thay đổi được gì nữa.
Tất cả đều đã bỏ lỡ cơ hội rồi. Khi được nói lời cuối cùng, không có ai đủ sức biến vành móng ngựa thành diễn đàn tố cáo, không người nào có đủ sức trình bày cho thế giới biết sự thật và ném vào mặt quan tòa những lời buộc tội, như Danton đã từng làm.
Một số người không nói vì sợ bị đánh đập, số khác thì hi vọng giữ được mang sống, số khác nữa thì hi vọng cứu được vợ con khỏi bàn tay nhơ nhuốc của những kẻ như Gletkin. Những người trung thực nhất cũng không nói, chấp nhận làm con dê tế thần, vì họ coi đấy là nhiệm vụ cuối cùng của người đảng viên; ngoài ra, ngay cả những người trung thực nhất, không trừ một ai, đều dính máu một Arlova nào đó rồi. Tất cả bọn họ đều dính mắc rất chặt với quá khứ, đều bị mắc vào mạng lưới được đan bằng những nguyên tắc đạo đức và lý luận méo mó, gọi là mang tính Đảng; tóm lại, tất cả đều có tội, mặc dù không phải là những tội mà họ tự nhận trong các phiên tòa. Không còn đường quay lại. Việc họ rời khỏi vũ đài diễn ra theo đúng luật chơi do chính họ đặt ra. Ngay cả trước khi chết họ cũng không nói được những lời chân thật. Họ phải diễn theo đúng kịch bản, nhiệm vụ của họ là tru lên như những con chó sói khi màn đêm buông xuống...
Hết thật rồi. Không còn gì để làm nữa. Anh không còn phải tru lên cùng với bày sói nữa. Anh đã trả giá, anh đã thanh toán hết nợ nần rồi. Anh đã trở thành một người không có quá khứ, một người đã giải thoát khỏi mọi ràng buộc. Những gì cần suy nghĩ thì đã suy nghĩ hết rồi, đã có kết luận hết rồi, đã biến thành hiện thực hết rồi; thời giờ còn lại là để giành cho Người Đối Thoại Không Lời, kẻ vẫn sống bên ngoài vương quốc của tư duy.
Rubashov dừng lại bên cạnh bức tường ngăn với buồng 406. Từ ngày họ đưa Rip Van Winkle đi, buồng này vẫn để trống. Anh tháo kính, rồi dáo dác nhìn quanh và gõ nhẹ:
2-4...
Anh ghé tai nghe, hồi hộp và ngượng ngịu như một đứa trẻ, và lại tiếp tục gõ:
2-4...
Anh lại ghé tai nghe và gõ thêm một lần nữa. Không một tiếng động. Anh chưa bao giờ cố ý gõ từ “Tôi”. Có thể là chưa bao giờ nói từ này cũng nên. Anh lại ghé tai nghe. Vẫn không môt tiếng động nào.
Anh tiếp tục đi bách bộ. Từ lúc cảm thấy lòng thanh thản, anh chỉ còn bận tâm trước một vài câu hỏi, anh phải tìm cách trả lời trước khi quá muộn. Câu hỏi, có thể nói là ngây thơ, liên quan đến vấn đề đau khổ, hay nói chính xác hơn, liên quan đến sự khác nhau giữa đau khổ có ý nghĩa và đau khổ vô nghĩa. Rõ ràng là chỉ có những khổ đau không thể tránh được, nghĩa là có nguồn gốc tự nhiên: sinh, lão, bệnh, tử là có ý nghĩa mà thôi. Còn những khổ đau có nguồn gốc xã hội, do con người tự tạo ra cho nhau, là những khổ đau vô ích và vô nghĩa. Mục tiêu duy nhất của cách mạng là loại bỏ những khổ đau vô ích. Nhưng hóa ra việc loại bỏ những khổ đau vô ích lại chỉ có thể thực hiện được bằng cách dìm cả thế giới, dĩ nhiên là trong một thời gian ngắn, vào bể trầm luân của sinh, lão, bệnh tử. Nghĩa là câu hỏi sẽ như thế này: Có thể biện hộ được cho cách làm như thế hay không? Rõ ràng là được, nếu ta nói đến một “nhân loại” trừu tượng, nhưng sẽ là vô nghĩa nếu ta đem áp dụng nguyên tắc ấy cho một con người cụ thể, một con người bằng xương bằng thịt. Khi còn trẻ, anh tin rằng Đảng sẽ cho anh sáng mắt sáng lòng, sẽ giúp anh trả lời mọi câu hỏi kiểu như thế. Anh đã phục vụ Đảng suốt bốn mươi năm trời, nhưng ngay khi trở thành đảng viên anh đã quên mất câu hỏi: Mình trở thành đảng viên để làm gì? Và bây giờ, sau bốn mươi năm, anh lại trở về với câu hỏi của thời trai trẻ. Đảng đòi hỏi hi sinh tất cả những gì mình có nhưng không bao giờ cung cấp đáp án cho những câu hỏi như thế. Người Đối Thoại Không Lời cũng không, hắn luôn giữ thái độ im lặng trước những câu hỏi trực tiếp, những câu hỏi dù khẩn cấp và tuyệt vọng đến đâu hắn cũng mặc.
Còn có những cách tiếp cận khác. Đôi khi trong đầu anh bỗng hiện lên một đoạn nhạc, hay đôi bàn tay khum khum của Đức Mẹ hoặc một phong cảnh làng quê thời niên thiếu. Lúc đó anh có những phản ứng rất đặc biệt, hệt như khi động vào chiếc âm thoa, người ta sẽ nghe thấy âm thanh vọng lại, tâm hồn anh lúc đó rơi vào trạng thái mà các thông thái gọi là “thiền”, các nhà huyền học gọi là “xuất thần”, còn các nhà tâm lý học hiện đại thì gọi là “cảm giác yêu thương vô bờ bến”. Khi đó người ta tan ra như một hạt muối trong biển cả, nhưng đồng thời cả đại dương lại chứa trong một hạt muối. Hạt muối không còn nằm trong một không gian hay một khoảng thời gian nhất định nào nữa. Đấy là lúc ý nghĩ đánh mất hết phương hướng và bắt đầu xoay tròn, hệt như kim la bàn xoay quanh trục, hệt như luồng ánh sáng trong bóng đêm, tất cả các ý nghĩ và cảm giác, ngay cả nỗi đau và niềm vui cũng chỉ còn là những tia sáng được lăng kính của ý thức chia tách ra mà thôi.
Rubashov đi bách bộ trong phòng. Trước đây hẳn là anh đã cảm thấy xấu hổ với những ý nghĩ viển vông như thế. Nhưng bây giờ anh không xấu hổ nữa. Cái chết đã biến những điều trừu tượng trở thành hiện thực. Anh dừng lại cạnh cửa sổ và gục đầu vào mặt kính. Bên trên vọng gác có một khoảng trời màu xanh. Khoảng trời làm anh nhớ lại khung trời cũng màu xanh thời thơ bé, đấy là khoảng trời màu xanh mà anh nhìn thấy giữa những cành dương khi nằm trên thảm cỏ trong khu vườn của cha anh. Rõ ràng là ngay cả một khoảng trời màu xanh cũng đủ tạo ra “cảm giác yêu thương vô bờ bến”. Theo các phát minh mới nhất của thiên văn học thì thế giới không phải là vô cùng vô tận; mặc dù không có biên giới, vũ trụ là một thực thể khép kín, giống như mặt của một khối cầu vậy. Anh chưa bao giờ hiểu được chuyện này, nhưng nay thì anh rất muốn hiểu. Bây giờ thì anh nhớ đã đọc chuyện này khi nào: đấy là lần đầu bị bắt ở Đức, các đồng chí tìm cách chuyển các tài liệu bất hợp pháp vào tù, trong đó bên dưới ba cột báo nói về cuộc bãi công ở nhà máy dệt còn có một bài báo ngắn nói rằng vũ trụ không phải là vô cùng vô tận, nhưng phần cuối trang giấy lại bị rách. Anh không biết phần rách ấy viết cái gì.
Rubashov đứng cạnh cửa sổ và lấy kính gõ vào bức tường của căn phòng bỏ không. Thuở thiếu thời anh từng mơ ước nghiên cứu thiên văn, nhưng suốt bốn mươi năm qua anh lại làm những việc hoàn toàn khác. Nếu Công tố viên hỏi: “Bị cáo Rubashov, anh có biết vô cùng, vô tận là gì không?”, thì anh sẽ chẳng thể nào trả lời được. Đấy chính là nguồn gốc tất cả mọi tội lỗi của anh... Còn có gì nghiêm trọng hơn thế hay không?
Lúc đó, khi nằm một mình trong buồng giam, người còn đau ê ẩm vì bị tra tấn, nhưng vừa đọc mẩu tin anh đã cảm thấy mình rơi vào “cảm giác yêu thương vô bờ bến”. Sau này, mỗi lần nhớ lại anh đều cảm thấy ngượng. Đảng không khuyến khích những trạng thái kiểu như thế. Đấy gọi là chủ nghĩa thần bí tiểu tư sản, là chui vào tháp ngà. Còn gọi là “trốn tránh trách nhiệm”, là “trốn tránh cuộc đấu tranh giai cấp”. “Yêu thương vô bờ bến” là phản cách mạng.
Trong đấu tranh, người ta phải đứng bằng cả hai chân trên mặt đất. Đảng dạy rằng vô cùng, vô tận là rất đáng ngờ về mặt chính trị, mà “cá nhân” cũng đáng ngờ nốt. Đảng không công nhận sự tồn tại của những khái niệm như thế. Đối với Đảng, cá nhân chỉ có nghĩa là tập hợp N triệu người chia cho N triệu mà thôi.
Đảng không công nhận tự do ý chí của từng cá nhân, đồng thời lại yêu cầu mọi người phải tự nguyện hi sinh. Đảng cho rằng con người không có khả năng lựa chọn, nhưng đồng thời lại đòi hỏi người ta luôn phải lựa chọn cái đúng. Đảng cho rằng người ta không thể phân biệt được thiện và ác nhưng lại luôn nói đến tội lỗi và sự phản bội. Tất cả mọi cá nhân đều bị qui luật kinh tế chi phối, mỗi cá nhân chỉ là những bánh răng trong một cỗ máy, không thể ngừng quay hay có ảnh hưởng gì đến cỗ máy được, nhưng Đảng lại yêu cầu các bánh răng vùng lên, làm cuộc cách mạng để thay đổi chính cơ chế của bộ máy. Rõ ràng là có sự nhầm lẫn, bài toán không thể giải được ngay từ đầu.
Anh đã chiến đấu chống lại qui luật kinh tế đó. Đấy chính là căn bệnh nan y của xã hội loài người, là khối u hủy hoại cơ thể ngay từ bên trong. Cần phải phẫu thuật, khối u đã lấy ra rồi thì mọi bệnh tật khác sẽ tự lành. Tất cả những biện pháp khác đều chỉ là những biện pháp cải lương, lãng mạn tiểu tư sản mà thôi. Bệnh nhân ốm sắp chết rồi, châm cứu hay đọc kinh thì làm sao khỏi được. Chỉ còn một cách là tính toán thật cẩn thận và dùng dao kéo cắt phăng khối u đi. Nhưng hóa ra khối u cũ vừa được cắt đi thì lại sinh ra ngay những khối u mới. Bài toán vẫn không có đáp số.
Anh đã đi theo tiếng gọi của Đảng suốt bốn mươi năm qua. Anh vẫn luôn giữ vững lập trường. Anh đã gột rửa khỏi đầu óc của mình những tàn dư cuối cùng của nền đạo đức cổ truyền. Anh đã né tránh Người Đối Thoại Không Lời và xua tan trạng thái thiền định. Cuối cùng anh đã đi đến đâu? Các chân lý tuyệt đối đúng, đỉnh cao của trí tuệ loài người đã đưa anh đến kết cục thật là lố bịch, lý sự không thể bác bỏ được của Ivanov và Gletkin đã buộc anh phải đóng một vai trong cái vở bi hài kịch gọi là tòa án kia. Hay là con người ta không nên nghĩ bất cứ chuyện gì một cách rốt ráo đến như thế?
Rubashov ngước nhìn khoảng trời xanh bên trên hàng rào tháp canh. Bốn mươi năm qua anh đã lao lên phía trước như một người điên, như một người say mê lý tưởng. Cũng có thể con người ta không nên cắt đứt hoàn toàn khỏi những ràng buộc của quá khứ, không nên phá bỏ những cấm kị kiểu như: “Không nên làm như thế” hay “Không được làm như thế”, rồi tự cho mình quyền lao thẳng đến đích như anh đã làm chăng?
Bầu trời đã ngả sang màu vàng nhạt, tối dần, bên trên tháp canh một bày chim đen đang chao liệng. Không, không thể giải được bài toán ngay từ đầu. Rõ ràng là không được đưa dao vào tay người ta rồi bảo người ta cứ thẳng đích mà tiến, dao là một dụng cụ thí nghiệm nguy hiểm, con người hiện nay chưa đủ sức dùng. Có thể sau này, một ngày nào đó... Nhưng hiện nay thì con người còn vụng về và trẻ dại lắm. Con người đã hóa điên trên mảnh ruộng thí nghiệm, trên quê hương của Cách mạng, trên tiền đồn của Tự do! Để giữ được tiền đồn, những kẻ như Gletkin sẵn sàng làm tất cả. Thế còn bên trong thì sao? Không, không thể xây dựng được Thiên đường bằng xi măng cốt thép. Tiền đồn có thể đứng vững, nhưng đấy không còn là thông điệp, không phải là mẫu hình để trưng ra với thế giới nữa. Chế độ của Anh Cả đã làm vẩn đục lý tưởng về một Nhà nước công bằng, chẳng khác gì các cố đạo thời Trung cổ đã làm vẩn đục lý tưởng về một Đế chế Thiên chúa giáo. Ngọn cờ của Cách mạng đã rũ xuống rồi.
Rubashov lại tiếp tục đi bách bộ trong phòng. Trời sắp tối, xung quanh vẫn vắng lặng như cũ. Chắc họ sắp đưa anh đi rồi. Bài toán đã sai ở chỗ nào đó, không, đây là sai lầm của toàn bộ hệ thống tư duy. Anh đã nhận thấy như thế từ lâu, từ ngày Richard bị coi là gián điệp cơ, nhưng chưa bao giờ anh dám suy nghĩ đến cùng như thế. Có khả năng là Cách mạng đã diễn ra quá sớm và kết quả là một quái thai. Có thể toàn bộ vấn đề là sự lầm lẫn về thời gian. Đầu thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên nền văn minh La Mã cũng đã lụi tàn, cũng đã thối nát đến tận xương tủy, chẳng khác gì nền văn minh của chúng ta hiện nay, những người tiến bộ nhất lúc đó tin chắc rằng một cuộc cách mạng vĩ đại sẽ diễn ra trong nay mai, nhưng hóa ra cái thế giới già cỗi ấy còn lay lắt tồn tại được suốt năm thế kỷ. Lịch sử bước rất chậm, con người đo thời gian bằng năm tháng, còn lịch sử đo bằng thế hệ. Có thể bây giờ mới là ngày thứ hai của Sáng thế kỷ. Ôi, nếu được sống thêm để viết tiếp lý thuyết về sự chín muồi tương đối của quần chúng thì thích biết bao...!
Buồng giam yên ắng quá. Anh nghe rõ từng bước chân mình. Sáu bước rưỡi là đến cửa, họ sẽ bắt anh ở đấy, sáu bước rưỡi là đến cửa sổ, đêm đang đổ xuống ở đấy. Làm sao mọi chuyện chấm dứt mau mau lên thì tốt. Nhưng khi tự hỏi: Ta chết vì cái gì? Thì anh không trả lời được.
Sai lầm ngay trong hệ thống, có thể sai lầm nằm trong cái tiền đề mà anh đã cho là tuyệt đối đúng, anh đã hi sinh những người khác nhân danh cái tiền đề ấy và bây giờ những người khác cũng nhân danh nó mà hi sinh anh, cái tiền đề ấy là: Mục đích biện minh cho phương tiện. Chính nó đã giết chết tình huynh đệ của Cách mạng, chính nó đã biến các chiến sĩ cách mạng thành những kẻ điên rồ. Anh đã viết trong nhật ký: “Chúng ta đã vứt bỏ mọi truyền thống, vứt bỏ cái gia trọng có tên là đức hạnh ra khỏi mạn tàu; chúng ta chỉ sử dụng một nguyên tắc dẫn đạo duy nhất, đấy là lý trí”.
Có thể đấy chính là nguồn gốc của mọi đau khổ mà nhân dân đang phải gánh chịu. Có thể nhân loại vẫn cần cái gia trọng mang tên là đức hạnh. Và cũng có thể, nếu dùng một mình, lý trí chỉ là một chiếc la bàn tồi, nó có thể dẫn ta đâm sầm vào bão tố, vào những con đường khúc khuỷu mịt mù sương khói, chẳng còn nhìn thấy đích đâu nữa.
Có thể là một thời kỳ tăm tối nữa đã sắp đến gần.
Có thể sau này, rất lâu sau này, sẽ có một phong trào mới, với ngọn cờ mới và một niềm tin mới, một phong trào nhận thức được cả các qui luật kinh tế lẫn “tình yêu thương vô bờ bến”. Có thể đảng viên của cái Đảng mới này sẽ mặc áo cà sa và thuyết giảng rằng chỉ có các phương tiện trong sáng mới có thể dẫn ta đến tương lai tươi sáng mà thôi. Có thể họ sẽ phủ nhận cái giáo lý cho rằng một người chỉ là kết quả của một triệu chia cho một triệu và sẽ khẳng định qui luật tính toán dựa trên phép nhân: một triệu cá nhân kết hợp với nhau thì đấy không còn là một đám đông hỗn loạn mà một khối thống nhất của hàng triệu cá nhân với “tình yêu vô bờ bến” được nhân lên hàng triệu lần, tạo ra một không gian tinh thần vô bờ bến.
Rubashov dừng bước và dỏng tai lên nghe. Ngoài hành lang dội lại những tiếng động bùng bùng, ùng ục.

3.

Tiếng động vang lên liên hồi như tiếng trống ngũ liên được gió đưa từ xa lại, ngày một gần hơn. Rubashov đứng như trời trồng. Hai chân như tê dại hẳn, có cảm giác như trọng lực đang kéo chặt chúng xuống đất, không thể nhấc lên được. Anh lê về phía cửa sổ, mắt vẫn không rời lỗ nhòm. Anh hít thật sâu rồi châm thuốc hút. Rồi anh nghe thấy có tiếng gõ nhẹ ngay bên cạnh cái giường sắt.
CHÚNG LÔI MÔI THỎ ĐI RỒI. HẮN GỬI LỜI CHÀO.
Hai chân không còn cứng nữa. Anh bước về phía cửa ra vào và dùng cả hai bàn tay đập liên hồi kì trận vào cánh cửa sắt. Thông báo cho buồng 406 cũng vô ích. Buồng ấy để không đã lâu. Anh cứ thế đập, trong khi mắt vẫn không rời cái lỗ nhòm.
Hành lang vẫn sáng mờ mờ như mọi khi. Anh vẫn nhìn thấy bốn cánh cửa, từ 401 đến 407 như mọi khi. Tiếng đập ngày càng to hơn. Có tiếng bước chân lạo xạo trên nền gạch. Rồi Môi Thỏ xuất hiện. Anh ta đứng đó, môi hơi run, hệt như lần đứng dưới ánh đèn trong phòng làm việc của Gletkin; hai tay bị khóa giật cánh khuỷu ra đằng sau. Không thể thấy mắt Rubashov đằng sau lỗ nhòm, anh ta nhìn trừng trừng vào cánh cửa sắt làm như đấy là hi vọng cứu rỗi cuối cùng vậy. Mệnh lệnh được đưa ra, Môi Thỏ quay lưng bước đi. Phía sau là tay bảo vệ cao to, súng lục kè kè ngang hông. Rồi cả hai lần lượt đi khuất hẳn.
Tiếng đập ngừng, xung quanh trở lại yên ắng như cũ. Có tiếng gõ nhẹ ngay cạnh cái giường sắt:
ANH TA CÓ THÁI ĐỘ TỐT...
Từ ngày Rubashov tuyên bố rằng anh đã đầu hàng, họ chưa từng nói chuyện với nhau. 402 tiếp tục:
CÒN KHOẢNG MƯỜI PHÚT NỮA. ANH THẤY THẾ NÀO?
Rõ ràng là 402 muốn nói chuyện để anh bớt căng thẳng trong lúc chờ đợi. Thật là một người tốt bụng. Anh ngồi xuống giường và gõ:
CHỈ MUỐN CHẤM DỨT NGAY ĐI.
ANH KHÔNG PHẢI LÀ LOẠI HÈN, 402 trả lời liền, ANH LÀ NGƯỜI DŨNG CẢM... ngừng một chút, rồi gõ thêm: CỰC KÌ DŨNG CẢM... rõ ràng là anh ta không muốn câu chuyện dừng lại ở đấy. ANH CÒN NHỚ “NGỰC TRẮNG NHƯ BỌT LY SÂM BANH ĐẦY” KHÔNG? HA-HA! DŨNG CẢM QUÁ...
Rubashov dỏng tai lên nghe. Không thấy gì. Chắc là 402 đã đoán được ý nghĩ của anh:
KHÔNG PHẢI NGHE. TÔI SẼ NÓI KHI NÀO CHÚNG TỚI. ANH SẼ LÀM GÌ NẾU ĐƯỢC THA?
Rubashov nghĩ một lúc rồi mới trả lời:
NGHIÊN CỨU THIÊN VĂN.
HA-HA, 402 đáp, CÓ LẼ TÔI CŨNG THẾ. NGƯỜI TA BẢO HÀNH TINH KHÁC CŨNG CÓ NGƯỜI. CHO TÔI ĐƯỢC KHUYÊN ANH VÀI CÂU.
ĐƯỢC, Rubashov đáp, thâm tâm lấy làm ngạc nhiên.
XIN ĐỪNG GIẬN. LỜI KHUYÊN CỦA MỘT NGƯỜI LÍNH. XẢ ĐI. SẼ CÓ LỢI. LỰC BẤT TÒNG TÂM MÀ.
Rubashov khẽ mỉm cười rồi lặng lẽ bước lại phía cái thùng gỗ. Sau đó anh ngồi lên giường và gõ:
CÁM ƠN. Ý KIẾN TUYỆT VỜI. KẾ HỌACH CỦA ANH THÌ SAO?
402 không trả lời ngay. Sau đó anh ta mới chậm rãi gõ:
MƯỜI TÁM NĂM NỮA. KHÔNG HẲN, CHỈ 6530 NGÀY THÔI... rồi gõ thêm: TÔI GHEN VỚI ANH ĐẤY. Ngừng một lúc lại gõ: 6530 NGÀY ĐÊM KHÔNG ĐÀN BÀ.
Rubashov không nói gì. Một lúc sau mới gõ:
NHƯNG ANH CÓ THỂ ĐỌC, HỌC TẬP...
SỨC ĐÂU, 402 đáp. Và ngay lập tức là những tiếng gõ to và vội: CHÚNG ĐẾN ĐẤY... ngừng một chút rồi lại gõ thêm: TIẾC QUÁ. CÂU CHUYỆN ĐANG HAY...
Rubashov đứng dậy, suy nghĩ một chút, rồi gõ:
ANH ĐÃ GIÚP TÔI RẤT NHIỀU. CÁM ƠN.
Có tiếng tra chìa khóa vào ổ. Cánh cửa bật mở. Bên cạnh tay bảo vệ cao to là một người mặc thường phục. Người mặc thường phục gọi tên Rubashov rồi đọc bản án. Khi họ vặn tay anh ra đằng sau và khóa bằng còng số tám thì anh nghe thấy 402 gõ một cách vội vã:
TÔI GHEN VỚI ANH. GHEN VỚI ANH. VĨNH BIỆT.
Tiếng ầm ầm, bùng bục lại vang lên ngoài hành lang. Nó còn theo họ cho đến tận cửa buồng cắt tóc. Rubashov biết rằng đằng sau mỗi cánh cửa kia đều có một ánh mắt dõi theo, nhưng anh không quay sang trái cũng chẳng quay sang phải. Cái còng số tám bóp chặt lấy cổ tay, gã lính gác siết chặt quá, lúc vặn tay ra sau hắn cũng làm mạnh quá, thành ra đau.
Đã nhìn thấy cái cầu thang xoắn. Rubashov bước chậm lại. Người mặc thường phục dừng bước. Đấy là một gã nhỏ con, mắt hơi lồi. Hắn hỏi:
- Anh muốn nói gì nữa không?
- Không, - Rubashov đáp và bắt đầu bước xuống cầu thang. Người mặc thường phục đứng lại và nhìn theo bằng đôi mắt hơi lồi.
Cầu thang hẹp và tối. Rubashov không thể nắm được tay vịn nên phải dò từng bước cho khỏi ngã. Không còn nghe thấy tiếng đập cửa nữa. Anh nghe thấy người lính gác đi sau mình ba bước chân.
Đã đến đoạn cầu thang xoắn như chiếc lò xo. Rubashov phải cúi xuống để nhìn cho rõ, chiếc kính rơi xuống cách anh hai bậc, vỡ thành mấy mảnh rồi lăn xuống chân cầu thang. Rubashov dừng lại, lưỡng lự trong giây lát rồi lấy chân dò đường đi xuống. Anh nghe thấy người lính gác cúi xuống nhặt mảnh kính vỡ rồi cho vào túi nhưng không quay đầu lại.
Không có kính thì chẳng nhìn thấy gì, nhưng dưới chân đã là đất bằng. Họ đang đi trong một hành lang rất dài, vì không nhìn rõ nên Rubashov không biết nó dài đến đâu. Người lính gác vẫn đi sau anh ba bước. Rubashov cảm thấy anh ta đang nhìn chằm chằm vào gáy mình nhưng không quay lại. Anh thận trọng bước từng bước một.
Có cảm giác như họ đã đi trong hành lang được mấy phút rồi. Không có gì xảy ra cả. Nếu người lính rút súng lục ra thì chắc chắn là anh đã nghe thấy. Nghĩa là anh vẫn an toàn. Hay là tay này bắt chước ông bác sĩ chữa răng cho anh, giấu dụng cụ trong ống tay áo? Rubashov cố nghĩ đến chuyện khác, nhưng không được, anh phải tập trung toàn bộ tâm trí để không ngoái đầu nhìn lại phía sau.
Thật lạ là cái răng đã không đau đúng vào lúc anh cảm thấy thanh thản, tức là khi nói những lời cuối cùng trước tòa hôm ấy. Hay là chỗ chân răng sưng đã tự vỡ ra đúng lúc đó? Anh đã nói những gì? “Trước khi chết tôi xin được quì gối trước đất nước, trước quần chúng và toàn thể nhân dân”. Nhưng tại sao? Anh lã làm gì với họ? Anh đã tham gia lùa họ qua sa mạc suốt bốn mươi năm, với những lời đe dọa và những lời hứa hẹn, với những nỗi kinh hoàng tưởng tượng và những phần thưởng cũng là tưởng tượng nốt. Vùng đất hứa ấy bây giờ ở đâu?
Nhân loại có cần đi đến một cái đích nào như thế hay không? Anh rất muốn trả lời câu hỏi này trước khi quá muộn.
Thánh Moses cũng không kịp đặt chân lên vùng đất hứa. Nhưng ông đã kịp trèo lên ngọn núi và nhìn thấy vùng đất hứa trải dài dưới chân. Chết như thế thì có gì phải ân hận.
Còn anh, Nicolas Salmanovitch Rubashov, thì không được dẫn lên đỉnh núi, xung quanh anh, dù quay sang hướng nào cũng chỉ thấy toàn hoang mạc và đêm đen.
Một cú giáng như búa bổ vào gáy bất ngờ cắt đứt dòng suy nghĩ. Anh chờ đợi nó đã lâu nhưng hóa ra nó lại đến một cách bất ngờ nhất. Anh cảm thấy hai đầu gối khuỵu xuống và người thì quay đi nửa vòng, nghĩa là đúng về phía sau. “Kịch quá”, anh tự nhủ như thế, “mình có cảm thấy gì đâu”. Anh gục xuống sàn, cằm tì lên sàn đá lạnh. Bóng đêm ập xuống, thân thể anh trở thành nhẹ bỗng, như đang dập dềnh đung đưa trên sóng biển giữa bầu trời đêm. Bao nhiêu kỷ niệm cũ, hệt như làn sương sớm, lần lượt theo nhau trôi dần qua ký ức.
Nghe như có người gõ cửa, anh mơ thấy họ đang đến bắt mình, nhưng anh đang ở nước nào?
Anh cố gắng luồn tay vào ống áo. Ảnh của ai treo trên đầu giường mà lại nhìn mình chằm chằm thế nhỉ? Có phải Anh Cả hay là người khác, người có nụ cười khinh mạn hay người có đôi mắt lạnh lùng?
Một bóng người đang cúi xuống, anh ngửi thấy mùi chiếc thắt lưng da; nhưng phù hiệu trên cổ tay áo và trên cầu vai là cái gì? khẩu súng lục đang giơ lên kia là nhân danh ai?
Người anh giật tung lên vì một cú giáng vào tai. Sau đó mọi thứ trở nên hoàn toàn yên tĩnh. Rồi có tiếng sóng biển vỗ rì rào. Những con sóng từ xa đưa lại, nhẹ nhàng nâng anh lên và mang đi mãi mãi.

Hết

Nguồn: Dịch từ bản tiếng Anh của Daphne Hardy, có tham khảo bản dịch tiếng Nga của А. Кистяковскy tại địa chỉ:
http://lib.ru/INPROZ/KESTLER/tma.txt

Thay lời bạt - Bi kịch của những con người gang thép
(Lược dịch)

Sau vụ đoạn tuyệt với những người cộng sản là một giai đoạn khủng hoảng, chỉ còn lại mình tôi trước những hố thẳm tâm lý của chính mình. Việc đánh mất những mối giao cảm quen thuộc rất dễ đưa người ta đến với những kẻ thù cũ hay, thí dụ, lao đầu vào tôn giáo. Các bạn tôi, những người đã từng trải qua tâm trạng như thế mà thoát ra được một cách xứng đáng và vẫn giữ được sự minh mẫn và cân bằng về tâm lý thường đều là những người có khả năng sáng tạo: nhà văn, họa sĩ, bác học, chính khả năng sáng tạo đã giúp họ đứng vững.
Tôi quay về Paris vào năm 1938, trong tay đã có sẵn hợp đồng với nhà xuất bản Jonathan Cape về việc xuất bản tác phẩm Võ sĩ giác đấu, tiểu thuyết đầu tay của tôi. Tôi tính dùng số tiền mà nhà xuất bản tạm ứng cho tôi để thanh toán cho dịch giả số tiền là 125 bảng, số còn lại sẽ đủ cho tôi sống một cách đạm bạc trong vòng nửa năm để hoàn thành cuốn sách mà tôi đang viết dở nhưng cứ bị ngưng hoài, lúc thì do không có tiền, khi thì do hoạt động chính trị, và sự việc đã kết thúc đúng như tôi dự liệu: tháng 6 năm 1938 cuốn Võ sĩ giác đấu, sau bốn năm làm việc cật lực đã hoàn thành.
Dĩ nhiên là tôi hiểu rằng việc thường xuyên quay trở lại với những nhân vật và sự kiện của thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên đã có vai trò quan trọng đối với những hoạt động sáng tác của tôi, nhất là trong giai đoạn trước và ngay sau khi đoạn tuyệt với Đảng, nó như một cách chữa bệnh thông qua lao động, giúp tôi lấy lại được sự bình tĩnh và thanh thản trong tâm hồn... Trước khi đoạn tuyệt với Đảng, tôi coi mình là nô lệ của lịch sử, còn việc viết lách là đóng góp với lịch sử. Còn bây giờ tôi muốn trở thành nhà văn chuyên nghiệp, đối với nhà văn chuyên nghiệp thì viết chỉ là một nghề. Vì vậy sau Võ sĩ giác đấu tôi liền bắt tay vào viết Vòng tròn ma thuật.
Trong bản ghi nhớ ngắn gửi cho nhà xuất bản Cape tôi chỉ viết rằng đây là cuốn tiểu thuyết viết về bốn năm người tù chính trị trong một nhà nước toàn trị nọ. Sau khi bị kết án tử hình, họ đã bước qua đường ranh của những kế hoạch bi đát và thường nhật của đời sống và có thì giờ nhìn lại quá khứ, nhận ra rằng mình có tội, nhưng không phải những tội lỗi mà tòa đã kết án. Tội lỗi thực sự của họ chính là: Họ đã đặt quyền lợi của cả loài người cao hơn quyền lợi của từng con người cụ thể, họ hi sinh đức hạnh cho sự hữu lý, lấy phương tiện làm mục đích. Họ phải chết vì theo quan điểm lịch sử thì cái chết của họ là hữu ích, họ phải chết trong tay những người suy nghĩ giống như họ. Tên cuốn sách vì vậy sẽ là Vòng tròn ma thuật.
Tôi bắt đầu viết cuốn sách mà chưa mường tượng được nó sẽ phát triển như thế nào, chỉ nhìn thấy trước mắt mình một nhân vật duy nhất. Tôi thấy: Anh ta đang đi lại lại trong buồng giam, người không cao, rắn chắc, chòm râu dê, luôn lấy kính lau vào ống tay áo. Đấy là một người Bolshevik, thuộc “đội cận vệ già”, về trí tuệ thì gần giống Bukharin còn tính cách và hình thức bên ngoài thì vừa giống Trotsky, vừa giống Radek. Mãi tôi vẫn chưa nghĩ được tên cho anh ta. Cái tên Rubashov xuất hiện một cách rất tình cờ, tôi không biết nó có liên quan đến người nào, nhưng tôi chấp nhận ngay, có thể vì nó nhắc tôi nhớ đến cái áo may ở Nga mà tôi rất thích mặc vào những buổi sáng chủ nhật. Sau này tôi mới nhớ ra rằng Nikolas Zalmanovitch Rubashov là Tổng biên tập tờ Davar, cơ quan ngôn luận của Đảng Lao động Palestine, tôi chưa gặp ông ta bao giờ, nhưng khi ở Palestine thì tôi vẫn nghe nhắc đến ông ta luôn. Tên cha (Zalmanovitch) lại biến nhân vật của tôi thành một người Do Thái, lúc đó chính tôi đã không để ý, mà cũng không thấy ai nhắc tôi chuyện này.
Như vậy là đầu đã xuôi. Đêm đó, khi người ta đến bắt Rubashov thì anh đang ngủ và mơ thấy vụ bắt giữ trong một đất nước toàn trị khác, nửa tỉnh nửa mê, anh không nhận ra ngay chế độ nào trong hai chế độ toàn trị lúc đó đang đến bắt mình lần này... Điều kì lạ là tôi đã mô tả sự giống nhau giữa hai chế độ, chủ đề xuyên suốt tác phẩm như thế, trước khi Stalin ký kết hiệp ước hữu nghị với Hitler đúng một năm trời, khi mà về mặt lý trí nhiều người còn tỏ ra yêu mến Liên Xô và phủ nhận bất kì khả năng so sánh nào với nước Đức Quốc xã.
Mô tả cảnh bắt bớ không phải là việc khó, tôi đã gom góp được rất nhiều hồi ức về những sự kiện xảy ra cách đó bảy năm, chỉ cần nới lỏng sự gò ép là chúng lập tức trở nên sống động trong trí nhớ. Tôi không quyết định trước quá trình phát triển của câu chuyện mà chờ đợi, vừa tò mò vừa hốt hoảng. Tôi biết trước, thí dụ, cuối cùng Rubashov sẽ đầu hàng và thú nhận đã thực hiện những tội ác giả tưởng, nhưng lúc đó tôi hiểu rất mù mờ nguyên nhân của chuyện đó. Mà nguyên nhân thì chỉ xuất hiện dần dần, trong quá trình thẩm vấn Rubashov, do Ivanov và sau đó đến Gletkin thực hiện mà thôi. Hỏi và trả lời, tất cả đều được xác định bởi cơ chế tâm lý của họ, chúng không xuất hiện một cách ngẫu hứng mà bằng cơ chế của vô thức, chúng được rút ra từ lô gich viển vông, từ những tầng sâu tâm lý, trong đó sự phân biệt giữa điều tra viên và nghi phạm, giữa đao phủ và nạn nhân đã không còn. Dựa trên cùng một thế giới quan, những con người này không thể nói và hành động khác với cách họ đã nói và hành động trong tác phẩm.
Người phương Tây, những người xa lạ với tâm lý và thế giới quan đó sẽ cho rằng lời khai của các bị cáo trong những phiên tòa ở Moskva là những điều bí ẩn vĩ đại nhất trong thời hiện đại. Tại sao những đảng viên Bolshevik cũ, những người tự coi cái chết chỉ là trò đùa, lại chấp nhận những trò điên rồ như thế? Ngay cả nếu không kể những người như Radek, tức là những kẻ chỉ muốn cứu lấy mạng sống của mình hay những kẻ đã hủ hóa hoàn toàn như Zinoviev, hoặc những kẻ muốn bảo vệ người thân như Kamenev, nghe nói ông này rất yêu quí cậu con trai, nhưng trong số họ vẫn có những người “gang thép” như Bukharin, Piatakov, Mrachkovsky, v.v..., những người có hàng chục năm hoạt động cách mạng, đã vào tù ra khám như cơm bữa, ngay những người đó cũng phủ nhận chính mình và đấy là điều rất khó lý giải...
Câu chuyện về Richard, Levy Còi và Arlova được tôi lấy từ thực tế, dĩ nhiên là đã sửa đổi chút ít cho phù hợp với văn cảnh. Kỹ thuật và phương pháp lấy khẩu cung của Cục Chính trị Quốc gia (GPU) đã được mô tả rất kỹ lưỡng trong nhiều tác phẩm khác. Xin độc giả cho phép tôi dừng lại hơi lâu một chút để nói về những lý do buộc những con người thuộc loại “gang thép”, vẫn trong khuôn khổ lý luận của họ, phải thú nhận những việc hoàn toàn phi lý, bằng cách, thứ nhất, mời họ đọc lại cao trào của tác phẩm, tức là lần hỏi cung cuối cùng do Gletkin thực hiện và thứ hai, dẫn ra một tác phẩm mà lúc đó tôi chưa hề biết, tôi muốn nói đến cuốn sách Tôi là mật vụ của Stalin, do Walter Krivitsky viết cùng trong thời gian tôi viết Vòng tròn ma thuật.
Krivitsky, một tình báo viên cao cấp, đã ly khai với chế độ của Stalin, khẳng định rằng đối với những người như ông ta, những người “nằm trong bộ máy của Stalin” trong thời gian xảy ra những vụ án Moskva, thì lời thú nhận của các bị cáo không có gì là bí ẩn cả. Mặc dù, như ông ta nói, có nhiều tác nhân, nhưng tác nhân quyết định vẫn là nhu cầu được “hoàn thành, lần cuối cùng, nhiệm vụ trước Đảng và cách mạng”. Xin xem xét trường hợp của Mratshkovsky, đảng viên từ năm 1905, anh hùng của cuộc Nội chiến, sau này trở thành đối lập và bị xử trong vụ án đầu tiên:

“Tháng 6 năm 1936”, Krivitsky viết, “công việc chuẩn bị cho phiên tòa công khai đầu tiên xử phe đối lập đã hoàn tất. Có mười bốn bị cáo đã tự thú. Các nhân vật chính là Kamenev và Zinoviev đã học thuộc vai diễn và đã tập xong. Chỉ có hai người phủ nhận mọi lời buộc tội, đấy là Mrachkovsky và Ivan Smirnov, đảng viên Bolshevik kỳ cựu, chỉ huy tập đoàn quân số 5 thời Nội chiến.
Stalin không thích khởi tố vắng mặt họ. Họ đã bị tra tấn rất dã man, nhưng không có kết quả. Cuối cùng một trưởng phòng của Tổng cục Chính trị trực thuộc Hội đồng Dân ủy (OGPU) đã cho gọi một người bạn của tôi, ông Slutsky và hạ lệnh phải thẩm vấn Mrachkovsky, bằng bất cứ giá nào cũng phải buộc ông ta đầu hàng. Bạn tôi, người vốn rất tôn trọng Mrachkovsky, đã kể lại chuyện này như sau:
“Tôi cạo râu trước ngày thẩm vấn”, Slutsky nói, “khi kết thúc thì râu tôi dài như thế này. Người ta dẫn ông vào phòng tôi. Ông ta rất yếu, yếu ngay từ hồi Nội chiến cơ, tôi bảo ông ngồi. Ông ngồi. Tôi nói: đồng chí Mrachkovsky ạ, thế là tôi phải thẩm vấn đồng chí”.
“Tôi sẽ không nói đâu. Tôi không muốn nói chuyện với anh. Các anh còn tồi hơn vạn lần cảnh sát Sa Hoàng. Hãy chứng minh rằng anh có quyền thẩm vấn tôi. Thời cách mạng tôi chưa bao giờ nghe thấy tên anh. Loại người như anh có bao giờ chịu ra mặt trận. Còn cái này, - Mrachkovsky chỉ lên huân chương Cờ Đỏ trên ngực tôi, - là do anh ăn cắp được. Ông đứng lên, cởi cúc áo, để lộ ra những vết sẹo trên lồng ngực: Huân chương của tôi đây này!”.
Slutsky không đáp, chỉ đẩy về phía Mrachkovsky bao thuốc và ly nước. Mrachkovsky vất hết xuống sàn:
“Mua tôi hả? Đừng có hòng. Tôi căm thù Stalin, hãy nói với hắn như thế. Hắn đã phản bội cách mạng. Chúng còn dẫn tôi đến gặp Molotov, cũng định mua đấy. Tôi đã nhổ vào mặt hắn”.
Đã đến lúc phải tấn công. Slutsky nói:
“Không, đồng chí Mrachkovsky ạ, không phải tôi ăn cắp được những tấm huân chương này đâu. Tôi được thưởng trong thời gian phục vụ tại mặt trận Tashken, dưới quyền chỉ huy của đồng chí đấy. Tôi không nghĩ và bây giờ cũng không nghĩ rằng đồng chí là tội phạm. Nhưng đồng chí cũng công nhận là mình thuộc phe đối lập. Đảng hạ lệnh cho tôi phải thẩm vấn đồng chí. Còn về thương tật, xin đồng chí nhìn đây. - Slutsky cũng vạch bộ ngực đầy thương tích ra. - Sau đó nói tiếp: Sau chiến tranh tôi chuyển sang ngành tình báo. Đảng chuyển tôi sang lĩnh vực này. Tôi là người chiến sĩ của Đảng, tôi chỉ biết thực hiện nhiệm vụ. Nếu Đảng bảo tôi phải chết, tôi cũng sẽ chết”. (Đúng như thế, một năm rưỡi sau có thông báo rằng Slutsky đã ra đi đột ngột).
“Anh đã thoái hóa”, Mrachkovsky nói, “anh không còn là người chiến sĩ của cách mạng nữa, anh là mật vụ, là cảnh sát”. Nhưng sau một lúc lại nói thêm: “Mặc dù anh vẫn còn một chút nhân bản”.
Theo lời Slutsky thì từ giây phút đó giữa họ đã có sự cảm thông. Slutsky bắt đầu nói về tình trạng khó khăn của Liên Xô cả về mặt đối nội lẫn đối ngoại, về vòng vây của chủ nghĩa tư bản, về những kẻ thù của Đảng, những kẻ đang cố tình phá hoại uy tín của Đảng, anh ta cũng nói rằng cần phải bảo vệ Đảng bằng mọi giá vì chỉ có Đảng mới có thể cứu được cách mạng.
“Tôi khẳng định với ông ta rằng tôi không nghĩ rằng ông là một kẻ phản cách mạng. Nhưng đã mang đến và đọc cho ông ta nghe lời khai của những người khác, chứng minh cho ông ta thấy với lòng hận thù chế độ Xô-viết người ta có thể trượt xuống vũng bùn như thế nào. Chúng tôi nói chuyện suốt ba ngày đêm liền. Cả hai chúng tôi đều không ngủ. Tôi chỉ gà gật chừng ba, bốn tiếng. Tóm lại, ông ta đồng ý rằng trong giai đoạn hiện nay chỉ duy nhất có Stalin là đủ sức lãnh đạo Đảng mà thôi. Trong Đảng không có nhóm nào đủ sức cải tổ hay bẻ gẫy được bộ máy của Stalin. Trong khi đó trong nước đã tích tụ một sự bất mãn, sẵn sàng bùng nổ bất cứ lúc nào, ông ta nói như thế, mà liên kết với những người ngoài Đảng có nghĩa là sự cáo chung của hệ thống độc Đảng, mà ông ta lại tin tưởng vào chuyên chính vô sản và không dám đụng chạm đến nó, ngay cả trong suy nghĩ. Ông ta, cũng như tôi, đều đồng ý rằng người đảng viên Bolshevik chân chính phải là người tuyệt đối trung thành với Đảng, vì Đảng chúng tôi sẵn sàng chết, thậm chí chết một cách nhục nhã”.
“Trong khi làm cho Mrachkovsky kiệt sức”, Slutsky kể, “thì chính tôi cũng mỏi mệt và bị kích động không kém, cả hai chúng tôi cùng òa lên khóc khi nói đến sự cáo chung của lý tưởng cách mạng, chỉ có chế độ đáng căm thù của Stalin là còn giữ được một phần nào hi vọng vào tương lai tươi sáng, chúng tôi đã hi sinh cả tuổi trẻ vì nó và bây giờ không thể làm gì khác hơn là cứu nó, và bằng cách đó ngăn chặn sự nổi dậy của đám quần chúng tuyệt vọng và mất phương hướng kia. Để làm được chuyện đó, Đảng yêu cầu các lãnh tụ phe đối lập thú nhận công khai những hành động tội ác trời không dung, đất không tha của mình”.
Mrachkovsky xin gặp Smirnov, một chiến hữu và một người bạn cũ. Cảnh gặp gỡ làm người ta tan nát hết cõi lòng: hai người chiến sĩ Tháng Mười vừa ôm lấy nhau vừa khóc nức nở ngay trong phòng làm việc của tôi:
“Ivan Nikititch”, Mrachkovsky nói, “cho chúng đi. Cần phải như thế”.
Cuối ngày thẩm vấn thứ tư thì ông ta ký biên bản lời khai. Ông ta đi về buồng giam còn tôi về nhà, cả tuần sau tôi không làm được gì. Sống cũng không được nữa”.

Phải mấy năm sau khi xuất bản Đêm giữa ban ngày (hay Vòng tròn ma thuật) tôi mới đọc tác phẩm của Krivitsky vì sau khi đó tôi không còn đủ sức động vào bất cứ thứ gì liên quan đến nó nữa. Trong khi đọc tôi luôn có cảm giác bồn chồn, một thứ tình cảm mà các nhà tâm lý học gọi là deja vu (tiếng Pháp: đã nhìn thấy - cảm giác khi thấy những sự kiện đã từng xảy ra trước đây). Có một sự giống nhau đến kinh ngạc với lần lấy lời khai thứ nhất của Rubashov. Vấn đề không phải là sự tương đồng trong lập luận của Slutsky và Ivanov, điều này không có gì lạ vì hiện thực và tiểu thuyết đều được xác định bởi cùng một tập hợp các khái niệm và sự kiện. Điều làm người ta ngạc nhiên là sự giống nhau của các tình tiết: cả hai trường hợp đều bắt đầu bằng những kỷ niệm về cuộc nội chiến mà điều tra viên lại là cấp dưới của nghi can, cả hai đều bị thương nặng ở chân và cuối cùng chính điều tra viên cũng bị thủ tiêu. Có cảm tưởng như tôi đang đọc cuốn sách viết về những người anh em sinh đôi về mặt tinh thần với Ivanov và Rubashov vậy.
Cách tôi lý giải việc Rubashov nhận tội sau này được người ta gọi là “Giả thuyết Rubashov” và đã gây ra những cuộc tranh luận kéo dài, nhưng tôi không tham gia. Xin nhắc lại rằng phương pháp làm cho những người như Bukharin, Mrachkovsky hay Rubashov thú nhận chỉ có hiệu quả khi đem áp dụng cho những đảng viên Bolshevik thế hệ cũ, những người có lòng trung thành tuyệt đối đối với Đảng mà thôi. Đối với những người khác thì phải sử dụng các biện pháp khác, tùy hoàn cảnh. Tôi phải nói như thế vì trong những cuộc tranh luận về Đêm giữa ban ngày (hay Vòng tròn ma thuật) nhiều người cố tình khẳng định rằng tất cả những lời thú nhận đều được tôi giải thích bằng “Giả thuyết Rubashov” cả. Hoàn toàn không phải như vậy. Ba tù nhân trong tác phẩm của tôi, chỉ có một mình Rubashov thú nhận tội lỗi là do lòng trung thành đối với Đảng. Môi Thỏ thú nhận là vì không chịu được tra tấn. Còn người nông dân mù chữ thì chẳng hiểu gì, anh ta đã quen nghe lệnh cấp trên và sẵn sàng nhắc lại bất cứ thứ gì người ta bảo... Nhưng sau này, nhiều năm sau này, khi diễn ra những phiên tòa công khai tại những nước gọi là “dân chủ nhân dân”, những người phản đối tôi tiếp tục khẳng định rằng vì Hồng y Mindszenty hay ông Fogler không có cảm tình với Đảng Cộng sản cũng phải thú nhận nên “giả thuyết Rubashov” rõ ràng là sai. Chứng minh kiểu đó thì khác nào khi thấy cái đinh dính vào cục nam châm còn con ruồi thì dính vào băng dính và lập tức kết luận rằng lý thuyết về sức hút của từ trường là sai. Tôi nghĩ rằng nguyên nhân của những lý luận kì quặc như thế - trong đa số trường hợp là của những người có thiện ý - là do đầu óc chúng ta thường muốn qui nạp và tìm ra một lời giải thích duy nhất, theo kiểu tìm lapis philosophicus (hòn đá minh triết) cho những hiện tượng bí hiểm nhưng khác nhau về bản chất. Để làm rối trí người quan sát, trong mỗi phiên tòa người ta lại đưa ra một nhóm các bị cáo đã được chọn lựa một cách kỹ lưỡng, những người “gang thép” đứng cạnh những kẻ đã mất hết ý chí và cả những tên khiêu khích nữa, họ hành động giống nhau, dĩ nhiên là vì những lý do khác nhau.
Tôi bắt đầu viết Vòng tròn ma thuật vào tháng 9 năm 1938, trong những ngày ký Hiệp định Munich, và hoàn thành vào tháng 4 năm 1940, một tháng trước khi Đức tấn công Pháp. Cũng giống như Võ sĩ giác đấu, công việc cứ bị gián đoạn, có khi khá lâu vì tôi tin rằng sau Munich thì chẳng mấy chốc Đức sẽ tấn công và Pháp cũng chỉ đứng vững được vài tuần là cùng.
Công việc đang đến hồi khẩn trương thì trong túi tôi lại không còn đồng xu nào. Tôi cần khoảng nửa năm nữa để hoàn thành tác phẩm, muốn có số tiền đủ sống trong thời gian đó tôi buộc lòng phải hi sinh tháng 4 và tháng 5 năm 1939 để viết cuốn sách thứ ba, mà cũng là cuốn cuối cùng, về vấn đề tình dục. Sau đó tôi có 3 tháng làm việc yên tĩnh ở miền Nam nước Pháp, rồi lại gặp trở ngại: chiến tranh khởi sự vào ngày 3 tháng 9 và ngày 21 tháng 10 thì tôi bị cảnh sát Pháp bắt.
Sau đó là một loạt tình huống vô lý theo kiểu Kafka, được tôi ghi lại trong tác phẩm Cặn bã. Tôi phải ở trong trại giam tại Pirenee bốn tháng trời. Tháng 1 năm 1940 tôi được thả nhưng vẫn nằm dưới sự quản thúc của cảnh sát, tôi tiếp tục viết suốt mấy tháng trời, tuy thường xuyên bị gọi lên thẩm vấn và tôi sợ rằng nếu bị bắt một lần nữa thì tác phẩm coi như hỏng.
Nhưng có lẽ một vị thần tốt bụng đã hộ mệnh cho nó. Trong một vụ khám xét vào tháng 3, cảnh sát đã lấy của tôi khá nhiều giấy tờ, nhưng không hiểu sao họ lại bỏ qua bản thảo Đêm giữa ban ngày (hay Vòng tròn ma thuật). Một bản nằm ngay trên bàn viết, tôi để ở đấy là theo lời khuyên của Alan Edgar Poe: để vật cần giấu ở chỗ dễ nhìn thấy nhất, đồng thời, trái ngược với lời khuyên đó, tôi nhét một bản ở ngăn trên cùng của tủ sách. Tôi lại bị bắt một lần nữa, bản thảo tiếng Đức vì thế mà bị mất. May là lúc đó bản dịch tiếng Anh đã xong và đã được gửi đến London, mười ngày sau Đức tấn công Pháp. Như vậy nghĩa là cuốn sách đã lọt qua một kẽ hở rất nhỏ.
Nửa năm sau tôi cũng đến Anh, cuốn sách đang ở giai đoạn in thử. Tôi bị tống vào tù ngay khi bước lên đất Anh. Lại có một trở ngại vì tù nhân không được quyền nhận sách từ ngoài đưa vào, nhưng vì có bằng chứng không thể chối cãi được là tù nhân chính là tác giả cuốn sách nên giám đốc nhà tù đã đồng ý cho tôi nhận bản in thử. Đây là lần đầu tiên tôi biết tên tác phẩm của mình bằng tiếng Anh. Nó được lấy cảm hứng từ câu thơ của Milton: “Bóng tối, bóng tối giữa đêm trăng” và do Daphne Hardy, một nữ phiên dịch viên trẻ đặt, cô vốn không phải là phiên dịch viên mà là nhà điêu khắc (trong Cặn bã cô mang biệt danh X). Daphne trốn khỏi Pháp trước tôi và sau thời gian xa cách chúng tôi lại được gặp nhau ở nhà tù London và nói chuyện với nhau qua song sắt ngay trước mặt giám thị. Khi đưa tôi quay lại buồng giam, người giám thị đã hỏi tôi sao lại nói chuyện với bạn gái lâu như thế về một cuốn sách. Tôi bảo đấy là cuốn sách của tôi, viết về một người tù bị biệt giam. “Thế thì ông đúng là một nhà tiên tri”, anh ta nói thế rồi đóng sầm cửa lại.
Cuốn sách ra đời khi tôi vẫn còn ở trong tù.

(Báo Văn học, 3 tháng 8 năm 1988. Phạm Minh Ngọc dịch theo bản tiếng Nga tại địa chỉ: http://lib.ru/INPROZ/KESTLER/tma.txt)

HẾT

Mr Thanh 30/12/2008.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét