Ba Gã Cùng Thuyền (Chưa Kể Con Chó)
(Three Men in Boat)
Tác giả: Jerome K. Jerome
Người
dịch: Petal Lê
NXB Văn Học - 2016
Chương 4
Vấn đề thức ăn - Những sự phản đối về dầu hỏa
với tư cách là môi trường hít thở - Những lợi ích của pho mát như một vật đồng
hành khi đi du lịch - Một phụ nữ đã có chồng bỏ mặc tổ ấm của cô - Những thức
ăn dự trữ thêm đề phòng lật thuyền - Tôi đóng gói hành lý - Sự cứng đầu cứng cổ
của mấy cái bàn chải đánh răng - George và Harris đóng gói hành lý - Cách hành
xử kinh khủng của Montmorency - Chúng tôi lui về nghỉ ngơi.
SAU ĐÓ CHÚNG TÔI thảo luận sang vấn đề thức
ăn. George bảo:
- Bắt đầu với bữa sáng. (George thật hết sức
thực tế) Chúng ta sẽ cần một cái chảo rán cho bữa sáng, - (Harris nói cái ấy
không tiêu hóa được; nhưng chúng tôi chỉ bảo hắn đừng có mà phá đám, rồi George
nói tiếp): - một ấm trà và một cái ấm đun nước, và bếp cồn nữa.
- Không dầu hỏa, - George nói với vẻ mặt
nghiêm trọng; Harris và tôi đồng ý.
Chúng tôi đã có lần mang bếp dầu theo,
nhưng “không bao giờ như thế nữa”. Như thể chúng tôi đã sống cả tuần đó trong cửa
hàng bán dầu vậy. Dầu bị rò ra. Tôi chưa bao giờ thấy cái gì như dầu hỏa bị rò
rỉ. Chúng tôi để dầu ở mũi thuyền, và từ đó nó rỉ xuống đến bánh lái, tẩm đẫm cả
con thuyền và mọi thứ trên đường đi của nó, và rỉ xuống sông, ngấm hết vào cảnh
vật và hủy hoại bầu không khí. Thỉnh thoảng một cơn gió Tây sặc mùi dầu thổi
qua, và có lúc là cơn gió Đông sặc mùi dầu, và thỉnh thoảng lại là cơn gió Nam
sặc mùi dầu, và có lẽ cả một cơn gió Bắc sặc mùi dầu nữa; nhưng dù cơn gió đến
từ Bắc Cực hay bốc lên trong miền hoang tàn của vùng sa mạc thì nó cũng đến với
chúng tôi cùng mùi hương dầu hỏa đậm đặc.
Và cái thứ dầu đó còn tiếp tục rò rỉ và phá
hỏng cảnh hoàng hôn; và ánh trăng thì đã cực kỳ sặc mùi dầu hỏa.
Chúng tôi đã cố chạy khỏi nó ở Marlow.
Chúng tôi bỏ thuyền ở cạnh cầu và đi dạo một vòng thị trấn để trốn chạy khỏi
nó, nhưng nó vẫn theo chúng tôi. Khắp thị trấn này đầy dầu hỏa. Chúng tôi đi
qua nghĩa trang trong nhà thờ, và có vẻ như người ta được chôn cất trong dầu
thì phải. Phố Thượng nồng nặc mùi dầu; chúng tôi tự hỏi làm thế nào mà người ta
có thể sống trong con phố ấy. Và chúng tôi đi hàng dặm hàng dặm trên đường
Birmingham; nhưng chẳng có tác dụng gì hết, đất nước này đã bị ngâm trong dầu hỏa
mất rồi.
Cuối chuyến đi đó, chúng tôi tụ tập lúc nửa
đêm trên một cánh đồng cô quạnh, dưới một cây sồi khô héo và cùng nhau thề một
lời thề khủng khiếp (chúng tôi đã chửi thề cả một tuần liền về cái thứ dầu hỏa
kia theo cách phổ biến của giai cấp trung lưu, nhưng đây là một vụ quan trọng) -
một lời thề trang trọng kinh khủng khiếp là không bao giờ mang dầu hỏa lên thuyền
nữa, dĩ nhiên là trừ trường hợp đau ốm.
Vì thế, trở lại tình huống hiện tại, chúng
tôi tự hạn chế bản thân với cồn metylen. Như thế là tệ lắm rồi. Bạn sẽ có bánh
kẹp metylen và bánh kem metylen. Nhưng khi hấp thụ vào cơ thể với số lượng lớn
thì cồn metylen vẫn lành hơn dầu hỏa chán.
Về những thứ khác cho bữa sáng, George gợi
ý trứng và thịt lợn muối vốn là những món dễ nấu, thịt nguội, trà, bánh mì và
bơ, cả mứt nữa. Còn bữa trưa, hắn nói, chúng tôi có thể xơi bánh bích quy, thịt
nguội, bánh mì và bơ, cả mứt nữa - nhưng không pho mát. Pho mát, cũng như dầu hỏa,
thường phóng đại bản thân quá mức. Nó muốn cả con thuyền là của riêng nó. Nó đi
xuyên qua giỏ đựng và ướp mùi pho mát cho tất cả mọi thứ xung quanh. Ta không
thể chắc mình đang ăn bánh táo hay xúc xích Đức, hay dâu và kem nữa. Tất cả
chúng đều giống pho mát cả. Pho mát quá chi là nặng mùi.
Tôi nhớ, có lần một người bạn của tôi mua
ít pho mát ở Liverpool. Đó là những tảng pho mát tuyệt vời, ngấu và dịu, kèm
thêm mùi hương hai trăm mã lực đảm bảo có thể bay xa được gần ba dặm và đánh gục
một người ở cách đó gần hai trăm mét. Khi ấy, tôi đang ở Liverpool, và bạn tôi
nói rằng nếu tôi không phiền thì nhờ tôi mang chúng về London hộ, vì cậu ta
không thể về được trong một hay hai ngày tới và cậu ta không nghĩ có thể giữ được
cái mớ pho mát ấy lâu hơn.
- Ồ, rất vui lòng, bạn thân mến, - tôi trả lời, - rất vui lòng.
Tôi nhận chỗ pho mát và mang đi trong xe ngựa.
Đó là một thứ xiêu vẹo, bị kéo lê bởi một tạo vật mộng du chân vòng kiềng thở hổn
hển, một con vật mà chủ của nó, trong khoảnh khắc chuyện trò hưng phấn, đã gọi
là một con nghẽo. Tôi chất mớ pho mát lên nóc xe, và chúng tôi khởi hành bằng một
cú lết sẽ mang lại danh tiếng cho cái xe lu chạy bằng hơi nước nhanh nhất trần
đời, và tất cả lên đường vui vẻ như nhạc đám ma, cho đến khi chúng tôi đến một
chỗ ngoặt. Ở đấy cơn gió đã quất một cái vút từ đám pho mát xuống chỗ con chiến
mã của chúng tôi. Cơn gió đã đánh thức chú, và, với một cái khịt mũi kinh
hoàng, chú nghẽo phi cật lực với tốc độ gần ba dặm một giờ. Cơn gió vẫn thổi
xuôi theo hướng chú, và trước khi chúng tôi đến cuối phố, chú đã nằm rạp ra phi
với tốc độ gần bốn dặm một giờ, không để một người tàn tật hay một quý bà già
nua béo ú nào còn xuất hiện trong tầm mắt.
Phải cần đến hai người bốc vác và cả người
lái xe mới giữ nổi chú ở nhà ga; và kể cả đến lúc ấy tôi vẫn nghĩ họ chắc sẽ
không thể giữ nổi nếu như một người trong nhóm không có được sự tỉnh táo kịp thời
để buộc một chiếc khăn tay qua mũi chú và đốt mảnh giấy nâu khử mùi.
Tôi cầm vé và hùng dũng mang theo mớ pho
mát diễu hành lên thềm ga trong khi mọi người kính cẩn dạt sang cả hai bên. Con
tàu đông nghẹt, và tôi phải chen vào một toa hành khách đã có đến bảy người
khác đang ngồi. Một quý ông có tuổi cục cằn phản đối, nhưng tôi vẫn cứ chen
vào; đặt mớ pho mát của mình lên giá, cúi xuống chào với nụ cười hồ hởi và nói
rằng thật là một ngày ấm áp quá. Vài khoảnh khắc qua đi, và rồi quý ông có tuổi
bắt đầu bồn chồn ngọ nguậy.
- Ở đây chật quá nhỉ, - ông ta nói.
- Thực sự rất ngột ngạt, - người đàn ông ngồi
cạnh ông ta nói.
Và rồi cả hai bắt đầu khụt khịt, và đến cái
khụt khịt thứ ba, họ hít phải chính nó vào giữa lồng ngực, đứng lên mà không
nói thêm lời nào nữa và đi ra. Và rồi đến một quý bà mập mạp đứng lên và nói rằng
thật đáng hổ thẹn khi một người phụ nữ đã kết hôn đáng kính bị quấy rầy như thế
này, và bà thu dọn túi xách cùng tám gói đồ của mình bỏ đi. Bốn hành khách còn
lại ngồi tiếp một lúc nữa, cho đến khi một ông trông có vẻ nghiêm trang ngồi trong
góc, mà dựa vào quần áo và vẻ bề ngoài thì hẳn là người làm trong ngành dịch vụ
tang lễ, nói rằng nó khiến ông ta nghĩ đến một em bé bị chết; và ba vị khách
còn lại cố gắng xông ra khỏi cửa cùng một lúc, kết quả là tự làm mình bị
thương.
Tôi mỉm cười với quý ông da đen còn lại và
nói rằng tôi nghĩ chúng tôi sẽ có nguyên cả toa tàu làm của riêng; ông ta cười
thân mật và nói, một số người làm rộn hết cả lên chỉ vì một thứ nhỏ nhoi bé tí.
Nhưng sau khi chúng tôi khởi hành, đến cả ông ta cũng trở nên ức chế một cách kỳ
lạ, và vì thế, khi đến Crewe, tôi mời ông ta đi uống chút gì đó. Người đàn ông
nhận lời và chúng tôi chen đến chỗ bán đồ ăn tự chọn, ở đó chúng tôi phải la
hét, dậm chân và vung vẩy ô độ một phần tư giờ đồng hồ mới thấy một quý cô trẻ
tuổi đến hỏi chúng tôi muốn gì.
- Ông muốn gì? - tôi nói, quay sang ông bạn
kia.
- Phiền cô cho nửa đồng curon rượu brandy,
nguyên chất nhé, - ông ta đáp lại.
Và sau khi uống cạn cốc ấy, ông ta lặng lẽ
đi ra và chui vào toa khác, một hành vi mà tôi cho thật quá ư là tệ.
Từ Crewe trở đi, dù tàu đông nghịt thì tôi
vẫn có nguyên cả toa cho mình. Khi chúng tôi đến những ga khác nhau, người ta
nhìn thấy toa tàu trống của tôi và lao đến. “Đây này, Maria; đến đây, còn đầy
chỗ”. “Được rồi, Tom; chúng ta sẽ vào đây”, họ hét lên thế. Và họ chạy đến, vác
theo những túi xách nặng trĩu và giằng giật với nhau ở cửa để được vào trước.
Và cái người đầu tiên đã mở được cửa ra, bước lên các bậc lên xuống ấy sẽ giật
lùi lại vào vòng tay người đi sau anh ta; và tất cả bọn họ sẽ lại gần rồi khụt
khịt mũi, sau đó đều bỏ đi và chen chúc len vào các toa khác, hoặc trả phí
chênh lệch để lên toa hạng nhất ngồi.
Từ ga Euston, tôi mang pho mát đến nhà bạn
tôi. Khi vợ anh ta bước vào phòng, cô ta hít hít ngửi ngửi xung quanh một lúc.
Thế rồi cô ta bảo:
- Cái gì thế? Kể cho tôi tin xấu nhất ấy.
Tôi nói:
- Pho mát. Tom mua chúng ở Liverpool và nhờ
tôi mang về.
Và tôi nói thêm rằng tôi hy vọng cô hiểu việc
này chẳng liên quan gì đến tôi cả; và cô ta nói chắc chắn cô nghĩ như thế,
nhưng cô sẽ nói chuyện với Tom về nó khi anh này quay về.
Bạn tôi bị giữ chân ở Liverpool lâu hơn dự
tính; và ba ngày sau, vì anh ta vẫn chưa về nhà, vợ Tom đến gặp tôi. Cô ta hỏi:
- Tom đã nói gì về chỗ pho mát này?
Tôi đáp lại rằng anh ta đã hướng dẫn rằng cần
giữ nó ở một chỗ ẩm và rằng không ai được sờ vào.
Cô ta bảo:
- Chắc chẳng ai sờ vào cái của ấy đâu. Anh ấy
đã ngửi nó chưa thế?
Tôi nghĩ là rồi, và nói thêm rằng có vẻ anh
ta hết sức gắn bó với chúng.
- Anh nghĩ anh ấy có cáu không, - cô ta hỏi, - nếu tôi cho ai đấy cái quyền mang nó đi xa mà chôn quách nó xuống đất cho
xong?
Tôi trả lời rằng, tôi nghĩ Tom sẽ không bao
giờ mỉm cười nữa.
Thế rồi cô ta nảy ra một ý và bảo:
- Anh có phiền nếu giữ nó hộ anh ấy không? Để
tôi gửi đến cho anh nhé?
- Thưa cô, - tôi trả lời, - cá nhân tôi thì
thích mùi pho mát, và tôi sẽ coi chuyến đi hôm trước cùng cái chỗ pho mát ấy từ
Liverpool về đây như một cái kết có hậu cho một kỳ nghỉ vui vẻ. Nhưng trên thế
gian này chúng ta cũng phải biết quan tâm đến người khác chứ. Quý bà mà tôi có
vinh dự ở chung dưới cùng một mái nhà là một góa phụ, và, theo như những gì tôi
biết được, có lẽ còn có một đứa con mồ côi nữa. Bà ấy có một sự phản đối mạnh mẽ,
tôi có thể nói hơi có vẻ bóng bẩy như thế, với thứ mà bà ấy gọi là “ngược đãi”.
Theo bản năng, tôi cảm thấy bà ấy sẽ coi sự có mặt của chỗ pho mát của chồng cô
trong nhà bà ấy như một “sự ngược đãi”; và xin nói với cô rằng không bao giờ có
chuyện để người ta nói tôi đã ngược đãi bà góa con côi được.
- Thôi được rồi, - vợ bạn tôi nói, cao giọng
lên, - tất cả những gì tôi cần nói là tôi sẽ mang bọn trẻ đến khách sạn cho đến
khi mớ pho mát ấy được ăn hết. Tôi còn lâu mới sống chung một mái nhà với nó
thêm chút nào nữa.
Cô ta giữ lời, để lại ngôi nhà cho bà giúp
việc trông coi, một người mà khi được hỏi liệu bà ta có thể chịu được mùi đó
không thì đã trả lời, “Mùi nào cơ?” và là người mà khi được yêu cầu hít vào thật
mạnh khi đến gần chỗ pho mát đã nói rằng bà ta nhận ra phảng phất như có mùi quả
dưa. Từ đây có thể đoán rằng một chấn thương nhỏ nào đó đã khiến bà ta không
còn cảm giác với bầu không khí xung quanh, và người ta để bà lại đấy.
Hóa đơn khách sạn lên đến mười lăm ghi nê;
và bạn tôi, sau khi tính toán tất cả mọi thứ, thấy rằng chỗ pho mát đã làm anh
ta tốn đến tám shilling bốn penny một pound. Bạn tôi nói rằng anh ta thật sự rất
thích có một ít pho mát, nhưng như thế này thì vượt quá khả năng của anh ta rồi;
vì thế anh ta quyết định sẽ thoát khỏi nó. Anh ta ném nó xuống kênh; nhưng rồi
phải dùng lưới vớt lên vì những ông chủ sà lan phàn nàn ghê quá. Họ nói nó khiến
họ suýt nữa thì phát ngất. Và sau đó, vào một đêm tối trời, bạn tôi mang chỗ
pho mát bỏ lại ở nhà xác của giáo khu. Nhưng nhân viên điều tra những cái chết
bất thường đã tìm ra và làm ầm ĩ đến phát khiếp lên, lại còn bảo rằng đấy là một
âm mưu lấy mạng anh ta bằng cách dựng các xác chết sống lại.
Cuối cùng, bạn tôi cũng thoát được chỗ pho
mát bằng cách mang nó đến một thị trấn duyên hải và chôn trên bãi biển. Nó đã
đem đến danh tiếng lẫy lừng cho vùng đất ấy. Du khách nói rằng trước đây họ
chưa bao giờ để ý thấy không khí ở đây lại nặng mùi đến thế và rồi hàng đoàn những
người hay mắc các bệnh về ngực và mắc bệnh ho lao đã kéo đến đây đông nghịt suốt
nhiều năm sau đó.
Vì thế dù rất chuộng pho mát, tôi vẫn kiên
quyết cho rằng George đã đúng trong việc từ chối không mang đi chút pho mát
nào.
- Chúng ta sẽ không cần bữa trà nào cả, - George nói (mặt Harris xị xuống khi nghe câu này), - nhưng chúng ta sẽ có một bữa
ăn đầy đặn ngon lành vào lúc bảy giờ - kết hợp bữa tối, bữa trà và bữa ăn
khuya.
Mặt Harris tươi lên một tí. George đề xuất
món thịt và bánh hoa quả, thịt nguội, cà chua, hoa quả và các loại rau xanh. Về
đồ uống, chúng tôi mang đi một ít đồ uống tự pha sóng sánh tuyệt vời của
Harris, thứ sẽ được gọi là nước chanh nếu bạn trộn cho nó ít nước; thật nhiều
trà, và một chai whisky phòng trường hợp, như George nói, chẳng may chúng tôi bị
lật thuyền.
Với tôi thì có vẻ George đã lải nhải quá
nhiều về cái ý tưởng bị lật thuyền. Theo tôi, hình như đó không phải trạng thái
tinh thần thích hợp để bắt đầu chuyến đi cho lắm. Nhưng tôi mừng là chúng tôi
đã mang whisky đi.
Chúng tôi không mang theo bia hay rượu
vang. Món ấy là cả một sai lầm khi ta đang lênh đênh trên sông nước. Chúng khiến
ta buồn ngủ và nặng đầu. Một cốc vào buổi tối khi đi thơ thẩn quanh thành phố
và ngắm nhìn các cô gái thì được; nhưng đừng có uống khi mặt trời đang đốt cháy
trên đầu và ta có bao nhiêu việc nặng nhọc cần làm.
Chúng tôi lên danh sách những thứ cần mang
đi và đấy đã là một danh sách dài ngoẵng trước khi chúng tôi tạm biệt nhau tối
hôm đó. Tối hôm sau, tức là ngày thứ Sáu, chúng tôi gặp nhau để đóng gói hành
lý. Chúng tôi có một cái va li Gladstone to đựng quần áo, vài cái giỏ mây đựng
thực phẩm và dụng cụ nấu ăn. Chúng tôi đẩy cái bàn ra sát cửa sổ, chất mọi thứ
thành một đống ở giữa nhà và ngồi xung quanh ngắm cái mớ ấy.
Tôi bảo cứ để tôi làm cho.
Tôi khá tự hào về khả năng đóng gói hành lý
của mình. Đóng gói là một trong số những việc tôi cảm thấy mình biết nhiều hơn
bất kỳ ai đang sống trên đời này. (Đôi khi chính tôi cũng ngạc nhiên, sao mình
giỏi nhiều thứ thế?) Tôi nhấn mạnh thực tế đó với George và Harris và bảo rằng
tốt hơn là bọn hắn nên để toàn bộ việc đó cho tôi. Hai tên này đồng ý ngay tắp
lự, với một sự nhanh nhẩu có gì đó hơi vượt quá mong đợi. George ngậm một cái tẩu
và nằm duỗi chân duỗi tay trên cái ghế lười, còn Harris thì vắt chân lên bàn và
châm một điếu xì gà.
Đây không phải điều tôi dự tính. Ý tôi là,
dĩ nhiên là tôi sẽ chỉ đạo việc này, và rằng Harris và George sẽ làm các việc vặt
dưới sự hướng dẫn của tôi, thỉnh thoảng tôi sẽ gạt bọn hắn sang một bên và nói
những câu kiểu như “Ôi, cậu thật là…!” “Đưa đây, để tôi làm cho.” “Đây này, đơn
giản không!” - dạy cho bọn hắn cách làm, bạn có thể nói thế cũng được. Cái cách
mà bọn hắn tiếp nhận ý tưởng này thật sự làm tôi khó chịu. Chẳng có gì làm tôi
khó chịu hơn việc nhìn những người khác ăn không ngồi rồi trong khi mình thì
đang làm việc.
Tôi từng sống với một gã thường làm tôi
phát điên theo kiểu đó. Hắn ta cứ quanh quẩn bên ghế sofa và nhìn tôi làm việc
hàng giờ liền, nhìn theo tôi bất kể tôi đi đến chỗ nào trong phòng. Hắn nói việc
nhìn tôi làm lộn xộn mọi thứ hết lên rất có lợi cho hắn. Hắn lại còn bảo rằng
việc đó khiến hắn cảm thấy cuộc sống không phải một giấc mơ tẻ nhạt để người ta
luôn há hốc mồm và ngáp suốt, mà là một nhiệm vụ cao cả, đầy trách nhiệm và khó
khăn. Hắn nói, trước khi gặp được tôi, hắn thường băn khoăn tự hỏi không biết
mình rồi sẽ thế nào, và chẳng bao giờ có ai để cho hắn nhìn khi họ đang làm việc
cả.
Thế đấy, tôi thì không như thế được. Tôi
không thể ngồi im mà nhìn người khác làm quần quật như nô lệ. Tôi muốn đứng lên
và giám sát, đút tay vào túi quần đi vòng quanh, và bảo người ta cần phải làm
gì. Nó là nhu cầu tự nhiên vô cùng mạnh mẽ. Tôi không thể cưỡng lại được.
Tuy nhiên tôi đã không nói gì cả mà bắt tay
vào đóng gói. Có vẻ như việc đó mất thời gian hơn tôi nghĩ; nhưng cuối cùng tôi
cũng đóng gói xong xuôi, tôi ngồi lên cái va li và kéo khóa lại.
- Cậu không cho mấy đôi giày ống vào à? - Harris nói.
Vậy là tôi nhìn quanh và nhận ra mình đã
quên béng mất đôi giày ống. Đây đúng là cái kiểu của Harris. Hắn chẳng nói chẳng
rằng cho đến khi tôi đã đóng va li lại và kéo khóa, dĩ nhiên là thế. Và George
thì cười khúc khích - một trong những kiểu cười khó chịu điên rồ ngu ngốc khó
nghe thành tiếng của tên này. Chúng làm tôi điên tiết.
Tôi mở va li ra và nhét đôi giày ống vào;
và lúc đó, ngay khi sắp sửa đóng cái va li lại, một ý nghĩ kinh khủng nảy ra
trong óc tôi. Tôi đã cho bàn chải đánh răng của mình vào chưa nhỉ? Tôi chẳng hiểu
làm sao, nhưng đúng là tôi chưa bao giờ biết mình đã đóng gói cái bàn chải của
mình hay chưa cả.
Bàn chải đánh răng là sự ám ảnh thường trực
của tôi khi đi du lịch, và nó biến đời tôi thành một nỗi khốn khổ vô biên. Tôi
mơ thấy mình chưa đóng gói cái bàn chải, và tỉnh dậy trong mồ hôi lạnh, nhảy khỏi
giường và săn lùng nó. Và, vì buổi sáng tôi đã đóng gói cái bàn chải trước khi
dùng, nên bây giờ tôi lại phải dỡ đồ ra để lấy nó, và nó luôn là thứ cuối cùng
tôi lôi được ra khỏi va li; và tôi đã lại đóng gói lại và quên xừ nó mất, và lại
phải lao lên gác tìm nó vào phút chót và mang nó ra ga tàu, gói bằng khăn mùi
xoa để trong túi quần.
Dĩ nhiên bây giờ tôi phải đổ hết tất cả mọi
thứ nặng nề ra ngoài, và dĩ nhiên là vẫn không thể tìm thấy nó. Tôi lục tung tất
cả lên, trả đồ đạc trở lại tình trạng của chúng trước khi thế giới được tạo
thành và khi hỗn mang ngự trị. Dĩ nhiên rồi. Tôi tìm thấy bàn chải răng của
Harris và George mười tám lần tất cả, nhưng không tài nào tìm ra cái bàn chải của
tôi. Tôi xếp lại từng thứ một, vừa nhấc lên vừa lắc. Thế rồi tôi cũng tìm thấy
nó trong một cái giày ống. Tôi đóng gói mọi thứ lại một lần nữa.
Khi tôi đã làm xong, George mới hỏi xà
phòng đã có trong ấy chưa. Tôi nói, tôi cóc thèm quan tâm quái gì đến việc liệu
xà phòng đã ở trong ấy hay chưa; tôi đóng sập va li vào, kéo khóa lại và thấy rằng
tôi đã bỏ cả cái túi đựng thuốc lá của mình trong đấy và lại phải mở va li ra.
Cuối cùng, đến mười giờ năm phút cái va li đã được đóng xong và vẫn còn nguyên
các hòm mây chưa đụng chạm gì. Harris bảo nếu chúng tôi muốn khởi hành trước mười
hai tiếng nữa thì tốt hơn hắn và George nên làm nốt những gì còn lại: tôi nhất
trí, ngồi xuống và để bọn hắn làm nốt.
Bọn hắn bắt đầu với thái độ thư thái ung
dung, rõ ràng định để cho tôi thấy cần phải làm thế nào. Tôi chẳng bình luận
gì; chỉ ngồi đó mà chờ. Khi George đã bị trói chân trói tay rồi thì Harris sẽ
là người đóng gói hành lý tệ nhất trần đời; và tôi nhìn đống đĩa tách, ấm đun
nước, các hũ, và bánh, và lò, và bánh ngọt, và cà chua v.v… cảm thấy việc này rồi
sẽ sớm trở nên thú vị ngay thôi.
Quả đúng thế. Bọn hắn bắt đầu bằng việc làm
vỡ một cái tách. Đó là việc đầu tiên bọn hắn làm. Hai tên đó làm thế chỉ để cho
ta thấy rằng bọn hắn có thể làm gì, và để khiến cho ta chú ý mà thôi.
Thế rồi Harris đóng gói món mứt dâu lên
trên chỗ cà chua và ép bẹp dí chỗ cà chua ấy, và rồi bọn hắn phải lấy thìa xúc
chỗ cà chua ấy ra.
Và rồi đến lượt George giẫm chân lên chỗ
bơ. Tôi chẳng nói gì cả mà chỉ đi đến gần, ngồi lên cạnh bàn và nhìn bọn hắn.
Việc này làm hai gã ấy bực bội hơn bất kỳ điều gì tôi có thể phát ngôn lúc đó.
Tôi cảm thấy thế. Nó khiến bọn hắn căng thẳng và kích động, và cả hai tên giẫm
lung tung lên các thứ, để các thứ ra phía sau lưng, và rồi không thể tìm ra thứ
gì khi muốn, và bọn hắn lại còn đóng gói chỗ bánh xuống dưới cùng, để các thứ đồ
nặng lên trên, kết quả là làm chỗ bánh ấy bẹp dí dì dị.
Bọn hắn đánh đổ muối lên tất cả mọi thứ, cả
bơ nữa! Cả đời tôi chưa bao giờ thấy hai gã đàn ông làm được gì nhiều hơn hai
gã này với một shilling hai penny tiền bơ. Sau khi George gột bơ ra khỏi đôi
dép đi trong nhà của hắn, cả hai ra sức nhồi đống bơ vào cái ấm đun nước. Nhưng
nhét không vào, và phần đã vào rồi lại không chịu ra. Cuối cùng thì bọn hắn
cũng vét được đống bơ ấy ra và để lên một cái ghế, và rồi Harris ngồi phẹt lên,
nó dính luôn vào mông hắn trong khi hai tên thì đi tìm nhặng cả lên khắp căn
phòng.
- Tớ thề là tớ đã để nó xuống cái ghế kia, - George nhìn chằm chằm vào cái ghế trống tênh và nói.
- Chính tớ cũng thấy là cậu để xuống đấy
chưa đầy một phút trước mà, - Harris bảo.
Thế rồi bọn hắn lại bắt đầu tìm loạn cả
phòng lên lần nữa; rồi gặp nhau ở giữa căn phòng, nhìn nhau chằm chằm.
- Đây là chuyện kỳ quặc nhất mà tớ từng nghe
nói đến đấy, - George nói.
- Thật bí hiểm hết sức! - Harris bảo.
Thế rồi George đi vòng ra đằng sau lưng
Harris và nhìn thấy nó.
- Ôi giời, nó ở đây từ nãy đến giờ này, - hắn
thốt lên đầy căm phẫn.
- Ở đâu? - Harris gào lên, quay vòng quanh.
- Cậu đứng im có được không? - George rống
lên, lượn vòng vòng đằng sau Harris.
Và bọn hắn lấy chỗ bơ ra và nhét vào trong ấm
trà.
Dĩ nhiên con Montmorency có mặt trong toàn
bộ sự kiện này. Tham vọng cả đời của Montmorency chính là xen vào chuyện người
ta và bị chửi cho vào mặt. Nếu nó có thể len vào bất cứ chỗ nào mà người ta đặc
biệt không muốn sự có mặt của nó, và đóng vai kẻ quấy rối một cách hoàn hảo,
làm cho người ta nổi điên lên, để rồi bị ném đầy các thứ vào đầu, thì nó mới cảm
thấy rằng thời gian của mình không bị lãng phí.
Làm cho ai đó vấp phải và nguyền rủa nó
liên tục suốt cả tiếng đồng hồ liền chính là mục tiêu và mục đích cao nhất của
nó; và, khi đã thực hiện thành công điều này, cái vẻ dương dương tự đắc của nó
trở nên gần như không thể chịu đựng nổi.
Nó đến và ngồi lên mọi thứ đúng lúc người
ta cần đóng gói chúng; và với một niềm tin vững chắc, nó lao động bền bỉ để đảm
bảo bất kỳ khi nào Harris hay George vươn tay ra tìm thứ gì đó thì y như rằng
thứ bọn hắn thấy chính là cái mũi lạnh ẩm ướt của nó. Nó cho chân vào chỗ mứt,
quậy tung lũ thìa uống trà lên, lại còn giả vờ như mấy quả chanh là lũ chuột cống,
vậy là nhảy luôn vào trong giỏ, làm thịt ba quả trước khi Harris có thể phi cái
chảo trúng nó.
Harris bảo rằng tôi khuyến khích nó. Tôi có
khuyến khích nó đâu. Một con chó như thế không cần khuyến khích gì cả. Chính
cái tội lỗi nguyên thủy, tự nhiên được sinh ra sâu thẳm bên trong Montmorency mới
là nguyên nhân khiến nó làm những việc như thế đấy chứ.
Việc đóng gói hoàn tất vào lúc 12 giờ 50;
Harris ngồi trên cái hòm mây to và nói rằng hắn hy vọng không có thứ gì bị vỡ.
George thì bảo nếu có cái gì vỡ thì nó đã vỡ rồi, ý tưởng này có vẻ làm hắn dễ
chịu lắm. Hắn cũng nói hắn đã sẵn sàng đi ngủ. Tất cả chúng tôi đều đã sẵn sàng
đi ngủ. Harris sẽ ngủ với chúng tôi một đêm, vậy nên chúng tôi cùng đi lên gác.
Chúng tôi tung đồng xu để chọn giường, và
Harris phải ngủ cùng tôi. Hắn hỏi:
- Cậu thích phía trong hay phía ngoài, J.?
Tôi bảo nói chung tôi thích ngủ trong một
cái giường.
Harris nói rằng cái giường đã cũ rồi.
George bảo:
- Tớ sẽ đánh thức hai cậu dậy lúc mấy giờ
nào?
Harris nói:
- Bảy giờ.
Tôi nói:
- Không, sáu giờ, - bởi vì tôi muốn viết vài
bức thư.
Harris và tôi tranh cãi một chút về việc
này, nhưng cuối cùng đã lấy trung bình cộng và nhất trí là sáu giờ rưỡi.
- Đánh thức bọn tớ dậy lúc sáu rưỡi nhé
George, - chúng tôi nói.
George chẳng trả lời gì cả, và khi lại xem
thử, chúng tôi nhận ra hắn đã ngủ lăn quay được một lúc rồi; vì thế chúng tôi để
cái chậu tắm vào chỗ hắn có thể lộn cổ vào khi ra khỏi giường sáng hôm sau rồi
cũng đi ngủ luôn.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét