Ba Gã Cùng Thuyền (Chưa Kể Con Chó)
(Three Men in Boat)
Tác giả: Jerome K. Jerome
Người dịch: Petal Lê
NXB Văn Học - 2016
Chương 6
Kingston
- Những nhận xét mang tính cung cấp thông tin về lịch sử nước Anh thời sơ khai -
Những quan sát mang tính cung cấp thông tin về cây sồi điêu khắc và cuộc đời
nói chung - Trường hợp đáng buồn của Stivvings Con - Trầm ngâm với những di
tích cổ - Tôi quên rằng mình đang cầm lái - Kết quả hay ho - Mê cung Cung điện
Hampton - Harris làm hướng dẫn viên.
ĐÓ LÀ MỘT BUỔI SÁNG HUY HOÀNG, cuối xuân hoặc
đầu hạ, nếu như bạn quan tâm đến vấn đề ấy, khi hoa lá cỏ cây chải chuốt rạng rỡ
phải xấu hổ trước một màu xanh thăm thẳm hơn; và năm tháng như một thiếu nữ
chưa chồng xinh xắn đang run rẩy với những rung động kỳ lạ, rạo rực huyết quản
bên đường ranh giữa con gái và đàn bà.
Sát mép nước, những con phố nghèo duyên
dáng của Kingston trông đẹp như tranh trong ánh mặt trời lấp lóa, dòng sông lấp
lánh với những chiếc sà lan dập dềnh trên mặt nước, đường kéo tàu bằng gỗ, những
căn biệt thự được chăm sóc chu đáo bên bờ đối diện, Harris, trong chiếc áo cộc
tay màu đỏ và cam, đang càu nhàu với đôi mái chèo, tòa lâu đài màu xám cổ kính
của gia đình Tudors thấp thoáng xa xa, tất cả tạo nên một bức tranh ngập tràn
ánh nắng, tươi sáng nhưng êm đềm, tràn đầy sức sống mà lại thật bình yên, đến mức
mới sớm ra tôi đã thấy mình đang được mơ màng ru vào dòng suy tưởng lâng lâng
như thế đấy.
Tôi suy tưởng về Kingston, hay
“Kyningestun”, như nó từng được gọi thời các vị “đế” Saxon cai trị ở đó. Caesar
Đại đế đã vượt sông ở đó, và những quân đoàn La Mã đã cắm trại trên vùng dốc
cao của nó. Caesar, cũng như Elizabeth nhiều năm sau, có vẻ như đã dừng chân ở
khắp mọi nơi: chỉ có điều ngài đáng kính hơn Nữ hoàng Bess Anh minh; ngài không
qua đêm tại các tửu quán.
Nữ hoàng là người mê đắm các tửu quán, là Nữ
hoàng Đồng trinh của Vương quốc Anh. Trong vòng mười dặm quanh London, hầu như
chẳng tửu quán nào có chút hấp dẫn mà bà lại chưa ngó qua, chưa ghé đến hay ngủ
lại, không lúc này thì lúc khác. Tôi tự hỏi nếu như bây giờ, này nhé, cứ giả sử
là Harris đi, cuộc đời bỗng sang trang mới và trở thành một người giỏi giang vĩ
đại, và trở thành Thủ tướng, và rồi ngỏm, chẳng biết liệu người ta có treo lên
các quán rượu mà hắn ta đã chiếu cố những tấm biển kiểu như: “Harris đã uống một
cốc bia đắng ở quán này”; “Harris đã uống hai cốc Scotch lạnh ở đây vào mùa hè
năm 88”; “Harris đã bị tống cổ khỏi đây vào tháng Mười hai năm 1886”.
Không, như thế thì sẽ quá nhiều! Chính những
quán hắn ta chưa từng bước chân vào sẽ trở nên nổi tiếng. “Quán duy nhất ở Nam
London mà Harris chưa bao giờ uống!”. Người ta sẽ chen chúc vào đấy để xem cái
quán ấy liệu có thể có vấn đề gì.
Vua Edwy tâm hồn yếu đuối tội nghiệp chắc hẳn
phải ghét Kyningestun lắm! Bữa tiệc đăng quang đã quá sức chịu đựng của ngài.
Có lẽ món thủ lợn lòi nhồi kẹo bi không chung sống hòa bình được với ngài (cả với
tôi nữa, tôi biết mà), và ngài đã dùng hơi nhiều rượu mật ong và vang trắng; vậy
là ngài bèn chuồn khỏi cuộc chè chén hoan lạc ồn ào ấy để lén lút thưởng thức một
giờ yên tĩnh chan chứa ánh trăng với Elgiva yêu dấu của ngài.
Có lẽ, tay trong tay bên nhau nơi cửa sổ, họ
đang ngắm ánh trăng êm đềm trên dòng sông, trong khi ấy, dưới đại sảnh xa xa,
cuộc chè chén náo nhiệt tràn ngập những tiếng ầm ĩ nhặng xị nghe lợm cả người.
Thế rồi Odo độc ác và Thánh Dunstan thô bạo
lao vào căn phòng yên tĩnh, thét lên những lời sỉ nhục láo xược với vị Hoàng hậu
yêu kiều, và kéo Edwy tội nghiệp quay lại với tiếng la hét ầm ĩ của đám đông
say sưa kia.
Nhiều năm sau, trong tiếng nhạc chiến trận ầm
vang, các vị vua Saxon và những cuộc truy hoan kiểu Saxon đã bị chôn vùi cạnh
nhau, sự vĩ đại của Kingston cũng bị vùi lấp một thời gian, để rồi lại vươn lên
lần nữa khi lâu đài Hampton trở thành cung điện của dòng họ Tudor và Stuart, những
chiếc thuyền lớn của hoàng gia chen chúc thả neo bên bờ sông, và những chàng hiệp
sĩ hào hoa mặc áo choàng màu sáng nghênh ngang bước xuống các bậc thang dẫn ra
mép nước rồi hét lên: “Cái Phà kia kìa, hê! Có Chúa chứng giám, xin đa tạ”.
Khắp xung quanh, nhiều ngôi nhà cổ kể lại một
cách rõ ràng về những tháng ngày Kingston còn là một thành phố hoàng gia, và
các quý tộc, cận thần đã sống ở đó, gần Đức vua, và con đường dài dẫn đến các
cánh cổng cung điện cả ngày lúc nào cũng vui vẻ nhộn nhịp với gươm giáo lách
cách, ngựa non nhún nhảy, nhung lụa sột soạt và những gương mặt đẹp đẽ. Những
ngôi nhà to rộng với những cửa sổ lồi đan lưới mắt cáo, những lò sưởi khổng lồ,
những mái nhà có đầu hồi, đã được hít thở không khí của thời bít tất dài và áo
chẽn, thời yếm đính ngọc trai và những lời tuyên thệ phức tạp. Chúng được xây
lên từ thời “người ta biết cách xây dựng”. Những viên gạch đỏ rắn chắc ấy chỉ
ngày càng thêm kiên cố theo thời gian, và cầu thang bằng gỗ sồi thì không hề
kêu răng rắc khi ta cố gắng đi xuống một cách lặng lẽ.
Nhắc đến cầu thang gỗ sồi tôi mới nhớ ra có
một cái cầu thang bằng gỗ sồi chạm khắc rất tuyệt được dựng trong một ngôi nhà ở
Kingston. Bây giờ nó là một cửa hiệu, nằm trong chợ, nhưng rõ ràng nó từng có
thời là dinh thự của một người có vai vế nào đó. Một người bạn của tôi, sống ở
Kingston, có lần đã đến đấy mua mũ, và, trong một khoảnh khắc không suy nghĩ,
thọc tay vào túi và trả tiền cho nó ngay tại chỗ.
Người chủ hiệu (anh này biết bạn tôi) lúc đầu
đương nhiên là rất kinh ngạc; nhưng rồi nhanh chóng tĩnh trí lại, và cảm thấy cần
phải làm gì đó để khuyến khích những hành động kiểu như vậy, bèn hỏi nhân vật
chính của chúng ta rằng liệu cậu ta có muốn xem vài món đồ bằng gỗ sồi cổ được
chạm khắc tinh vi không. Bạn tôi nói có, vậy là người chủ hiệu dẫn cậu ta đi
qua cửa hiệu lên cầu thang của căn nhà. Những chiếc trụ lan can đúng là một tác
phẩm thủ công tuyệt diệu và nguyên cả bức tường trên đường đi lên được ốp gỗ sồi
với những chi tiết chạm khắc hẳn là sẽ làm vinh danh cho cả một cung điện.
Từ cầu thang gác, họ đi vào phòng vẽ, một
căn phòng rộng rãi sáng sủa được trang trí bằng một lớp giấy màu xanh lơ, dù
hơi khiến người ta phải sửng sốt nhưng trông khá vui tươi. Tuy nhiên căn phòng
chẳng có gì đáng chú ý, và bạn tôi phân vân không hiểu tại sao mình lại được dẫn
vào đấy. Người chủ nhà bèn đến bên bức tường dán giấy và vỗ nhẹ vào đó. Một âm
thanh của gỗ dội lại.
- Gỗ sồi, - anh ta giải thích. - Tất cả đều
là gỗ sồi chạm trổ, lên tận trên trần, y như những gì anh thấy ở chỗ cầu thang.
- Nhưng, hỡi Caesar vĩ đại! chao ôi, - bạn
tôi kháng nghị: - ngài không định nói rằng ngài đã phủ kín những bức vách gỗ sồi
chạm trổ ấy bằng giấy dán tường màu xanh lơ đấy chứ?
- Đúng thế đấy, - là câu trả lời: - tốn tiền
lắm đấy. Dĩ nhiên là phải đánh nhẵn hết trước đã. Nhưng bây giờ phòng này trông
tươi hẳn lên rồi. Lúc trước trông nó ảm đạm phát khiếp lên được.
Tôi không thể nói rằng tôi dồn hết mọi
trách cứ lên người này (không còn nghi ngờ gì nữa, việc này rõ là một sự giải
thoát cho tâm hồn anh ta). Theo quan điểm của anh ta, quan điểm của một chủ hộ
bình thường, thèm được sống càng thoải mái càng tốt, chứ không phải của một tên
dở hơi mê đồ cổ hơn mọi thứ trên đời, thì anh ta cũng có lý của mình. Gỗ sồi chạm
khảm nhìn thì đẹp đấy, có một ít thì cũng thích đấy, nhưng rõ ràng, đối với những
người không mê cái của ấy, sống bên trong một căn nhà như thế thì rõ là hơi có
phần buồn tẻ. Có khác gì sống trong một cái nhà thờ đâu.
Không, điều đáng buồn trong trường hợp này
là cái tay chủ nhà kia, chẳng quan tâm tí gì đến gỗ sồi chạm trổ, lại có cả một
căn phòng vẽ ốp gỗ sồi chạm trổ, trong khi những người quan tâm tới gỗ sồi lại
phải trả cả núi tiền để có được nó. Có vẻ đấy là quy luật của thế giới này. Mỗi
người đều có thứ người đó chẳng thiết gì và những người khác lại sở hữu thứ anh
ta đang tha thiết muốn.
Ông nào đã trót lấy vợ thì chẳng có vẻ gì
là muốn sở hữu món tài sản này cho lắm trong khi bọn thanh niên chưa vợ kêu gào
sao mình chẳng kiếm nổi một cô. Người nghèo vắt mũi không đủ đút miệng thì có đến
cả đàn con ăn khỏe như hùm. Còn các cặp vợ chồng già giàu có, vốn chẳng có ai để
thừa kế, thì chết không con không cái.
Lại còn các cô nàng với người yêu của các
nàng nữa chứ. Các cô rõ lắm người theo đuổi thì chẳng bao giờ ngó ngàng gì đến
họ. Các cô bảo thà không có còn hơn, rồi thì bảo bọn họ làm phiền các cô, và hỏi
sao họ không đi mà tán tỉnh mấy cô Smith hay cô Brown già khú đế nhan sắc tầm
thường mãi chẳng có người yêu kia đi. Các cô thì chẳng cần người yêu. Các cô chẳng
đời nào tính đến chuyện lấy chồng đâu!
Thôi tốt hơn là không nên nói đi nói lại
mãi những chuyện này làm gì, nghe mà buồn cả người.
Ở trường tôi có một thằng mà bọn tôi gọi là
Sandford và Merton. Tên thật của nó là Stivvings. Nó là thằng nhãi bất bình thường
nhất tôi từng gặp trên đời. Tôi tin là nó thích học thật. Nó toàn bị mắng cho
té tát vì tội ngồi dậy học tiếng Hy Lạp trong giờ ngủ; còn các động từ bất quy
tắc tiếng Pháp ấy à, cứ gọi là không tài nào kéo nó dứt ra khỏi chúng được.
Trong đầu nó đầy những ý nghĩ quái gở và phi tự nhiên rằng nó là kho báu của bố
mẹ, là niềm tự hào của cả trường; rồi nó khao khát giành được các giải thưởng,
trưởng thành và rồi ra sẽ là một người thông thái, và đại loại là tất cả những
ý tưởng thần kinh kiểu ấy. Tôi chưa bao giờ biết đến một sinh vật nào kỳ lạ như
thế, nhưng vô hại, xin các vị lưu ý cho, vô hại như đứa bé còn chưa chào đời ấy.
Vậy đấy, cái thằng nhóc đó thường ốm hai lần
một tuần, và thế là nó không thể đến trường. Thật chưa từng có thằng nhóc nào lại
đau ốm kiểu như thằng Sandford và Merton. Hễ trong phạm vi mười dặm quanh nó mà
xuất hiện bất cứ căn bệnh nào đã được y học biết đến thì y như rằng nó mắc ngay
bệnh ấy, mà lại bị nặng là đằng khác. Nó sẽ bị sưng phổi đúng vào những ngày tiết
trời nóng nhất và bị dị ứng phấn hoa vào Giáng sinh. Sau sáu tuần khô hạn, nó sẽ
bị sốt thấp khớp đốn gục; nó ra ngoài trong sương mù tháng Mười một và về nhà lử
đử trong cơn say nắng.
Thằng nhóc tội nghiệp. Có năm, người ta phải
xì thuốc tê cho nó, nhổ sạch bộ nhá và trồng cho nó nguyên một hàm răng giả vì
răng nó đau khủng khiếp quá, rồi sau đấy căn bệnh chuyển thành đau dây thần
kinh mặt và bệnh đau tai. Nó lúc nào cũng cảm lạnh, chỉ trừ mỗi chín tuần hồi
nó bị sốt phát ban, còn bệnh cước là bạn đồng hành hàng ngày của nó. Trong cơn
đại dịch tả khủng khiếp năm 1871, vùng chúng tôi là nơi duy nhất thoát dịch.
Trên toàn giáo xứ người ta chỉ biết có độc một con bệnh: con bệnh đó chính là
thằng nhóc Stivvings.
Mỗi khi ốm nó đều phải nằm im trên giường,
ăn thịt gà, bánh trứng và nho hái trong nhà kính; và nó sẽ nằm đó thút tha thút
thít vì người ta không cho nó làm bài tập tiếng Latin và giằng cuốn ngữ pháp tiếng
Đức khỏi tay nó.
Trong khi đó thì bọn tôi, những thằng nhóc
khác, vốn sẵn lòng hy sinh mười học kỳ của đời đèn sách cho một ngày ốm đau và
chẳng có tí tha thiết nào với việc trao cho các vị phụ huynh bất kỳ lý do gì để
tự hào về mình, lại không tài nào mắc phải bệnh gì nặng hơn bị mỏi cổ. Chúng
tôi phí thời gian chơi nghịch ở những chỗ gió lùa vi vút, và rồi việc ấy lại
thành ra có lợi cho chúng tôi, làm chúng tôi khỏe khoắn hẳn lên; và chúng tôi
ra sức tọng vào bụng những thứ làm mình phát ốm, và rồi thì các thứ ấy làm
chúng tôi béo ú, lại còn khiến chúng tôi thèm ăn nữa chứ. Chẳng trò gì chúng
tôi nghĩ ra được lại có thể khiến chúng tôi phát ốm trước kỳ nghỉ. Rồi, ngay
trong ngày đầu tiên của kỳ nghỉ, chúng tôi cảm lạnh, ho gà, và tất cả các dạng
bệnh tật trên đời, dai dẳng cho đến tận lúc học kỳ mới bắt đầu; lúc ấy thì bất
chấp chúng tôi có giở ra thủ đoạn gì để cưỡng lại đi chăng nữa, cả bọn bỗng
nhiên khỏe như vâm, khỏe hơn bao giờ hết ấy chứ.
Đời là thế đấy; và chúng ta có là gì đâu
ngoài những cọng cỏ bị nhổ bật lên, cho vào lò và nướng lên thôi.
Trở lại vấn đề gỗ sồi chạm trổ, các cụ tổ của
chúng ta hẳn là đã có những ý niệm rất tinh tế về vẻ đẹp và tính nghệ thuật.
Sao nào, tất cả các kho báu nghệ thuật của chúng ta ngày nay chỉ là những thứ
bình thường của ba bốn trăm năm về trước được đào dưới đất lên. Tôi băn khoăn
không biết những đĩa xúp, vại bia, giá nến cổ mà ngày nay chúng ta trân quý ấy
có chút xíu vẻ đẹp thực chất nào không, hay chỉ là do vầng hào quang của năm
tháng lấp lánh bên ngoài khiến chúng trở nên quyến rũ trong mắt chúng ta. Cái
thứ “gốm lam cổ” mà chúng ta treo trên tường làm vật trang trí ấy vài thế kỷ
trước chỉ là đồ gia dụng hàng ngày; còn những chàng mục đồng màu hồng và những
cô chăn cừu màu vàng giờ chúng ta chuyền tay cho bạn bè ta xem để họ trầm trồ
xuýt xoa, giả vờ như họ am hiểu lắm, cũng chỉ là vật trang trí tầm thường đặt
trên lò sưởi mà một bà mẹ của thế kỷ mười tám hẳn sẽ đưa cho đứa con nhỏ ngậm
chơi khi nó khóc quấy.
Liệu trong tương lai có thế không? Phải
chăng những báu vật của thời đại này lúc nào cũng chỉ là những thứ lặt vặt rẻ
tiền từ thời trước? Liệu những chồng đĩa ăn có hoa văn hình cây liễu của chúng
tôi đến năm hai nghìn bao nhiêu đó có được xếp hàng trên bệ lò sưởi của đám
cháu chắt? Liệu những chiếc tách trắng có viền vàng và hình bông hoa vàng đẹp đẽ
bên trong (không biết thuộc loài hoa gì) mà cô giúp việc Sarah Janes của chúng
tôi đã làm sứt mẻ với thái độ vô tư nhất đời kia, có được gắn lại cẩn thận rồi
xếp ngay ngắn trên giá và chỉ bà chủ nhà mới được phép phủi bụi hay không?
Lại còn cái con chó sứ trang trí trong
phòng ngủ của căn hộ tôi đi thuê ấy nữa chứ. Nó là một con chó trắng. Mắt xanh.
Mũi đo đỏ điểm các đốm đen. Đầu nó dựng đứng lên đầy đau khổ, và vẻ thân thiện
của nó thì mấp mé bên sự ngu đần. Chính tôi cũng chẳng mấy thích thú với nó. Nếu
coi đó là một tác phẩm nghệ thuật, tôi có thể nói nó làm tôi khó chịu. Bạn bè
kém tế nhị thì chế giễu nó, kể cả bà chủ nhà của tôi cũng chẳng yêu thích gì
nó, và bào chữa cho sự hiện diện của nó bằng lý do nó là món quà bà cô của bà
ta tặng.
Nhưng hai trăm năm sau, rất có khả năng con
chó ấy sẽ được khai quật lên từ chỗ này hay chỗ khác, thiếu chân, tai bị mẻ, sẽ
được bán như đồ sứ cổ và được đặt trong hộp kính. Và người ta sẽ chuyền nó qua
tay nhau, trầm trồ ngưỡng mộ. Họ sẽ bị choáng ngợp trước chiều sâu tuyệt vời của
màu sắc trên mũi nó, và sẽ cắm đầu cắm cổ nghiên cứu xem cái mẩu đuôi đã mất của
nó đẹp đến nhường nào.
Chúng ta, trong thời đại này, không thấy được
vẻ đẹp của con chó ấy. Chúng ta quá quen với nó rồi. Cũng như hoàng hôn và những
ngôi sao: chúng ta không kinh ngạc trước vẻ đẹp của chúng vì hoàng hôn và sao
thì đã quá nhàm mắt rồi. Con chó này cũng thế thôi. Đến năm 2288, người ta sẽ
trầm trồ trước nó. Việc chế tạo những con chó như thế sẽ thành một thứ nghệ thuật
thất truyền. Con cháu chúng ta sẽ tự hỏi không biết chúng ta đã tạo ra nó như
thế nào, rồi ngợi ca rằng chúng ta mới giỏi giang làm sao chứ. Chúng ta sẽ được
nhắc đến một cách trìu mến như “những nghệ nhân vĩ đại có ảnh hưởng rộng lớn hồi
thế kỷ mười chín, và đã tạo ra những chú chó sứ này”.
Mảnh “vải thêu mẫu” do cô chị cả làm ở trường
sẽ được gọi là “tấm thảm thêu thời Victoria”, và trở nên gần như vô giá. Những
chiếc cốc vại màu xanh và trắng của các quán trọ lề đường ngày nay sẽ được săn
lùng ráo riết, rạn nứt và sứt mẻ lung tung, nhưng sẽ được bán với giá là số
vàng bằng trọng lượng của chúng, và đám nhà giàu sẽ dùng chúng để uống vang đỏ;
rồi du khách Nhật Bản sẽ tranh nhau mua “Những món quà từ Ramsgate”, và cả “Đồ
lưu niệm của Margate” may mắn chưa bị phá hủy, và mang chúng về Jedo như một thứ
đồ cổ quý giá của nước Anh.
Đúng lúc này, Harris ném mái chèo, đứng lên
rời khỏi chỗ ngồi và nằm ngửa ra khoang thuyền, chổng cả hai chân lên trời. Con
Montmorency hú lên và nhảy lộn nhào, vậy là cái giỏ mây trên cùng nảy bật lên,
tất cả mọi thứ đổ hết ra ngoài.
Tôi hơi ngạc nhiên, nhưng vẫn không mất đi
sự bình tĩnh. Tôi nói, giọng khá khôi hài:
- Ối chà, làm thế để làm gì?
- Làm thế để làm gì à? Tại sao…
Không, suy đi tính lại, tôi sẽ không nhắc lại
những gì Haris đã nói. Có lẽ tôi cũng có phần đáng trách, tôi thừa nhận thế,
nhưng không gì có thể biện minh cho những lời lẽ thô thiển và biểu hiện lỗ
mãng, nhất là từ một người được nuôi dạy cẩn thận như Harris, ấy là theo những
gì tôi biết. Sự việc là, tôi đang mải suy nghĩ về chuyện khác, và, như ai cũng
dễ dàng hiểu được đấy, tôi quên béng mất mình đang điều khiển bánh lái, thế nên
hậu quả là chúng tôi gần như lẫn hẳn vào đường kéo thuyền bên bờ sông. Mất một
lúc, khó mà phân biệt đâu là chúng tôi, đâu là bờ sông ở hạt Middlesex; nhưng rồi
cuối cùng chúng tôi cũng tìm được lối, và tách mình ra.
Tuy nhiên Harris tuyên bố hắn đã lao động đủ
lắm rồi và đề nghị tôi cũng nên đổ mồ hôi đi; vậy là khi chúng tôi vào bờ, tôi
nhảy ra, cầm dây chão kéo con thuyền đi qua lâu đài Hampton. Bức tường cổ xây dọc
bờ sông kia thật tuyệt! Tôi không bao giờ đi ngang qua mà không có cảm giác
khoan khoái khi nhìn thấy nó. Một bức tường cổ mềm mại, sáng sủa và duyên dáng
biết bao; một bức tranh quyến rũ đến chừng nào, với chỗ này địa y len lỏi, chỗ
kia rêu phong đang mọc, một cây nho dại e ấp vươn mình qua chỗ cao nhất để ngắm
nhìn xem chuyện gì đang xảy ra dưới dòng sông nhộn nhịp kia, và cả đám dây thường
xuân già nua điềm đạm đang túm tụm xa xa. Có đến năm chục sắc thái đậm nhạt,
sáng tối của những màu sắc khác nhau cùng tồn tại trên mỗi mười mét vuông của bức
tường cổ xưa ấy. Giá biết vẽ và tô màu, tôi sẽ phác thảo một bức tranh tuyệt hảo
về bức tường ấy, chắc chắn là thế. Tôi thường nghĩ, chắc mình sẽ thích sống ở
lâu đài Hampton. Nơi này trông thật bình yên, thật tĩnh lặng, và đấy đúng thật
là nơi tuyệt vời để đi dạo loanh quanh vào những buổi sáng sớm trước khi có nhiều
người tụ tập.
Nhưng rồi đến lúc suy xét thực tế, tôi
không chắc mình thật sự muốn sống ở đây. Chắc lâu đài sẽ buồn tẻ và ảo não ghê
gớm vào buổi tối, khi cây đèn bão hắt những chiếc bóng kỳ lạ lên những bức tường
ván ghép, và tiếng vọng của những bước chân xa xa vang lên qua những hành lang
đá lạnh ngắt lúc thì như chạy lại gần, lúc lại thoắt im bặt, và rồi tất cả lặng
ngắt như tờ, chỉ còn lại tiếng tim ta đang đập.
Chúng ta những người đàn ông và đàn bà,
chúng ta là tạo vật của mặt trời. Chúng ta yêu ánh sáng và sự sống. Đó là lý do
chúng ta chen chúc trong các thành phố và thị trấn, còn nông thôn thì ngày càng
hoang vắng. Dưới ánh mặt trời, vào ban ngày, khi Thiên nhiên sống động và bận rộn
quanh ta, chúng ta khá là thích những triền đồi dốc và rừng sâu; nhưng ban đêm,
khi Mẹ Trái Đất đã ngủ, để lại chúng ta còn thức, ôi, thế giới dường như đơn
côi biết bao, và chúng ta sợ hãi, như những đứa trẻ trong căn nhà vắng lặng. Rồi
chúng ta ngồi xuống mà thổn thức, khao khát những dãy phố sáng đèn, tiếng người
nói chuyện, tiếng rộn ràng hồi đáp của cuộc sống thế nhân. Trong sự tĩnh mịch
mênh mang ấy, khi những hàng cây tối om xào xạc trong làn gió khuya, chúng ta
thấy mình mới vô dụng và nhỏ bé làm sao. Có bao nhiêu hồn ma lẩn quất xung
quanh, và những tiếng thở dài lặng lẽ của chúng khiến ta thấy lòng buồn tê tái.
Hãy để chúng ta tụ tập lại trong những thành phố lớn, và đốt lên những ngọn lửa
khổng lồ của hàng triệu chiếc đèn khí, gào thét hát ca với nhau và cảm thấy
mình thật dũng cảm.
Harris hỏi tôi đã bao giờ vào mê cung ở lâu
đài Hampton chưa. Hắn bảo hắn từng vào để chỉ đường cho ai đấy. Hắn đã nghiên cứu
kỹ mê cung trên bản đồ, và nó đơn giản đến mức chừng như ngớ ngẩn - chẳng đáng
hai xu tiền vé vào cửa tí nào. Harris bảo hắn nghĩ bản đồ ấy chắc hẳn là trò xỏ
lá, vì nó chẳng giống thật tí nào và toàn chỉ sai đường thôi. Người Harris dẫn
vào là một tay họ hàng dưới quê. Hắn bảo:
- Chúng ta vào thôi, vậy là cậu có thể kể với
mọi người rằng cậu đã ở đây rồi, nhưng nói chung là đơn giản lắm. Thật phi lý
khi gọi nó là mê cung. Đến chỗ rẽ đầu tiên cậu cứ việc rẽ phải cho tôi. Ta đi
vào đó độ mười phút rồi về ăn trưa nhé.
Ngay sau khi vào mê cung họ đã gặp vài người,
mấy người này kể lể họ đã ở đó bốn nhăm phút rồi, và thấy thế là quá đủ. Harris
tuyên bố xanh rờn với mấy người này rằng nếu muốn họ có thể đi theo hắn; hắn mới
vào thôi và sẽ loanh quanh chút rồi lại đi ra luôn. Họ nói hắn tốt bụng quá chừng
và ngay lập tức đi theo.
Trên đường đi bọn họ còn tiếp nhận một vài
người khác cũng đang muốn kết thúc chuyến đi, cho đến khi tất cả mọi người
trong mê cung đều nhập bọn. Những người vốn đã từ bỏ mọi hy vọng ra vào, hay mọi
hy vọng gặp lại gia đình bè bạn, đã lấy lại được dũng khí khi nhìn thấy Harris
và bầu đoàn của hắn, sau đó cũng gia nhập vào đoàn quân ấy, cầu Chúa ban phúc
lành cho hắn. Harris nói hắn đoán tổng cộng phải có đến hai mươi người đi theo;
và một người phụ nữ bế con nhỏ đã ở đây suốt cả buổi sáng cứ khăng khăng đòi
bám tay hắn vì sợ sẽ lạc mất hắn.
Harris cứ tiếp tục rẽ phải, nhưng có vẻ đấy
là một chặng đường dài, và tay họ hàng của hắn bảo, cái mê cung này chắc phải lớn
lắm.
- Ôi, một trong những cái lớn nhất châu Âu ấy
chứ, - Harris bảo.
- Ừ, chắc thế, - tay kia đáp, - vì ta đã đi
ít ra là hai dặm rồi đấy.
Bản thân Harris cũng bắt đầu nghĩ có gì đó
là lạ ở đây, nhưng hắn cứ nín thinh cho đến khi, rốt cuộc, họ đi ngang qua nửa
cây nấm thông nằm dưới đất mà người bà con của Harris thề là đã nhìn thấy ở đó
bảy phút trước. Harris bảo: “Ồ, không thể nào!” nhưng người phụ nữ có con nhỏ bảo,
“Không sai tí nào”, vì chính cô đã giật nó ra khỏi tay đứa bé và vứt xuống đấy
ngay trước lúc gặp Harris. Cô này còn nói thêm cô ước gì mình chưa bao giờ gặp
Harris, và phát biểu rằng hắn là một thằng lừa đảo. Chuyện này làm Harris cáu
điên, và hắn bèn trình ra cái bản đồ và giải thích giả định của mình.
- Có thể cái bản đồ ấy chỉ đúng đường, - một
người trong đoàn lên tiếng, - nếu anh biết bây giờ chúng ta đang ở chỗ quái quỷ
nào trong ấy.
Harris không biết, và đề xuất rằng lúc này
điều nên làm nhất là quay trở lại lối vào và bắt đầu từ đầu. Cái phần bắt đầu từ
đầu của ý tưởng này không được hưởng ứng nhiệt tình cho lắm, nhưng chuyện quay
trở lại lối vào thì mọi người đều nhất trí tán thành, vậy là họ bèn quay đầu,
và lại đi theo Harris, theo hướng ngược lại. Mười phút nữa trôi qua, và họ thấy
mình đang đứng giữa mê cung.
Lúc đầu Harris nghĩ nên giả vờ rằng đây
chính là nơi hắn định đến, nhưng trông đám đông có vẻ nguy hiểm quá, thế nên hắn
đành quyết định coi đó là rủi ro vậy.
Dù sao chăng nữa, họ cũng đã có một cái gì
đó để mà xuất phát. Họ biết họ đang ở đâu, và tấm bản đồ đã trở nên hữu dụng một
lần nữa, mọi chuyện có vẻ đơn giản hơn bao giờ hết, vậy là họ khởi hành lại từ
đầu lần thứ ba.
Và ba phút sau, họ trở lại giữa mê cung một
lần nữa.
Sau đó thì họ tuyệt đối không thể đi đến bất
cứ nơi nào khác. Con đường nào họ rẽ vào cũng dẫn ra giữa mê cung. Cuối cùng việc
ấy lặp đi lặp lại nhiều đến mức một vài người dừng hẳn lại, chờ cho những người
khác đi vòng vòng rồi quay trở lại với họ. Sau một hồi, Harris lại lôi bản đồ
ra, nhưng sự xuất hiện của nó chỉ làm đám đông nổi điên lên, và họ bảo hắn cầm
cái bản đồ ấy mà xéo đi. Harris bảo hắn không thể không cảm thấy rằng, ở một mức
độ nào đó thì hắn đã trở nên không được ưa thích cho lắm.
Cuối cùng tất cả đều nổi điên lên và đồng
thanh gọi người gác cửa, vậy là anh này xuất hiện và leo lên cái thang bên
ngoài, rồi gào lên chỉ đường cho cả bọn. Nhưng đến lúc này thì mọi cái đầu đều
đã quay cuồng rối loạn đến mức không thể nào hiểu được cái gì với cái gì cả, thế
là anh kia bèn bảo họ cứ đứng yên đấy, anh ta sẽ đến chỗ họ. Đám đông túm tụm lại
với nhau chờ đợi, và anh kia bèn trèo xuống thang và đi vào.
Anh chàng là một người gác cửa trẻ tuổi, và
tình cờ thay, anh ta cũng vừa mới làm việc ở đây được ít ngày, và khi vào
trong, chàng trẻ tuổi không thể tìm thấy họ, anh ta đi vòng vòng, cố tìm cách tới
chỗ đám người đang kêu cứu, và rồi anh ta cũng lạc nốt. Thỉnh thoảng họ thấy
anh chàng lao về phía bên kia của tường rào, rồi anh ta cũng nhìn thấy họ và
lao đến chỗ họ, rồi họ chờ độ năm phút, và anh kia sẽ tái xuất hiện tại đúng chỗ
lúc nãy, và hỏi họ rằng họ đã ở đâu thế.
Họ phải chờ cho đến khi một người gác cổng
già quay lại sau khi ăn xong bữa tối thì mới ra được bên ngoài.
Harris nói, hắn nghĩ rằng chừng nào hắn chỉ
là người đứng ngoài nhận xét, thì đó là một mê cung rất tuyệt; sau đó chúng tôi
đều đồng ý là trên đường về chúng tôi sẽ thử lôi George vào đấy xem sao.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét