Thứ Năm, 23 tháng 1, 2020

Ba Gã Cùng Thuyền (Chưa Kể Con Chó) - Chương 17

Ba Gã Cùng Thuyền (Chưa Kể Con Chó)
(Three Men in Boat)

Tác giả: Jerome K. Jerome
Người dịch: Petal Lê
NXB Văn Học - 2016

Chương 17

Ngày giặt giũ - Cá và người đánh cá - Về nghệ thuật tạo dáng - Một người câu cá bằng ruồi có lương tâm - Câu chuyện về cá.

CHÚNG TÔI Ở LẠI STREATLEY hai ngày và mang quần áo ra giặt. Chúng tôi cố gắng tự mình giặt giũ ở sông, dưới sự giám sát của George, và đấy là một thất bại. Thật tình nó còn hơn cả thất bại vì sau khi giặt quần áo, chúng tôi trở nên nghèo hơn trước nhiều. Trước khi chúng tôi giặt, đám quần áo rất, rất bẩn, đúng thế thật; nhưng ít ra vẫn còn mặc được. Sau khi chúng tôi giặt chúng - thế đấy, đoạn sông giữa Reading và Henley, sau khi chúng tôi giặt quần áo ở đấy thì nó sạch hơn trước rất nhiều. Mọi rác rưởi chứa trong đoạn sông giữa Reading và Henley đã được chúng tôi tập trung lại trong khi giặt giũ và cho hết vào quần áo của chúng tôi rồi.
Bà thợ giặt ở Streatley bảo bà ta cảm thấy có lỗi với bản thân khi tính tiền giặt lại chỗ quần áo ấy gấp có ba lần giá bình thường. Bà ta bảo có mà đang đào đất chứ chẳng phải giặt với chả giũ.
Chúng tôi trả tiền mà không hề hó hé một câu.
Khu vực quanh Streatley và Goring là một trung tâm câu cá tuyệt vời. Có vô khối cá để câu. Con sông đầy những cá chó, cá ratilut, cá đác, cá đục, lươn, ngay đây kìa; và ta có thể ngồi đó mà câu cả ngày cũng được.
Một số người câu cả ngày thật. Họ chẳng bao giờ câu được cá. Tôi không hề quen biết một ai từng câu được bất kỳ thứ gì trên sông Thames, trừ loài cá tuế hay bọn mèo chết, nhưng dĩ nhiên chuyện này chẳng liên quan gì đến việc câu cá! Sách hướng dẫn người câu cá địa phương chẳng đả động lấy một lời về chuyện câu được bất cứ thứ gì. Tất cả những gì nó viết là nơi này là “một địa điểm câu cá tốt”; và từ những gì quan sát được ở vùng này, tôi khá sẵn sàng xác nhận tuyên bố trên.
Trên thế giới này chẳng có nơi nào bạn có thể câu cá được lâu hơn, hoặc có thể câu trong một thời gian dài hơn. Một số tay câu đến đây ngồi câu một ngày, một số khác nán lại câu một tháng. Bạn có thể bám trụ lại mà câu cả năm nếu muốn: cũng thế cả thôi.
Sách Chỉ dẫn của người câu cá về sông Thames viết rằng, “cũng bắt được cá chó nhỏ và cá rô ở quanh đây”, nhưng về điểm này thì Chỉ dẫn của người câu cá đã sai bét. Cá chó nhỏ và cá rô có thể có ở đây. Quả thật, tôi biết chúng có ở đây. Ta có thể nhìn thấy chúng ở chỗ nước nông, khi ta đang tha thẩn trên bờ; chúng đến và nhô nửa người lên trên mặt nước, miệng há ra đớp bích quy. Và nếu ta đi tắm, chúng sẽ xúm đông xúm đỏ xung quanh, cản đường và quấy rầy ta. Nhưng chúng không thể bị “bắt” bằng một mẩu giun ở đầu lưỡi câu được, hay bằng bất kỳ thứ gì tương tự thế - với chúng thì còn lâu!
Tôi không phải một tay câu giỏi. Hồi trước, tôi từng dành khá nhiều tâm sức cho chuyện này và theo tôi nghĩ thì cũng xoay xở khá tốt; nhưng những tay câu cự phách cho rằng có lẽ tôi sẽ chẳng bao giờ thành thạo được và khuyên tôi nên bỏ cuộc thì hơn. Họ bảo tôi vung cần gọn ghẽ vô cùng, rằng tôi có vẻ chẳng thiếu sự tháo vát cho việc này, và cũng có đủ sự lười biếng về thể chất. Nhưng họ dám chắc tôi sẽ không bao giờ trở thành một tay câu. Tôi không có đủ trí tưởng tượng cần thiết.
Họ nói nếu là một nhà thơ, một nhà văn viết truyện ly kỳ, một nhà báo, hay bất cứ nghề gì đại loại thế thì tôi có thể đáp ứng đủ điều kiện, nhưng để giành được chỗ đứng với tư cách một tay câu trên sông Thames sẽ đòi hỏi nhiều kiểu tưởng tượng hơn, nhiều khả năng bịa đặt hơn những gì tôi có.
Một số người có ấn tượng rằng tất cả những gì cần thiết để trở thành một tay câu cá giỏi là khả năng nói dối mà không đỏ mặt; nhưng nghĩ thế là lầm to. Bịa đặt một cách nghèo nàn khô khan thì chẳng tác dụng gì; một lính mới thực thụ cũng có thể làm được việc ấy. Chính sự chi tiết trong hoàn cảnh, sự tường tận đã được thêm mắm dặm muối của các khả năng, cái vẻ tuyệt đối chân thật thông thường - gần như mô phạm - mới thể hiện dáng vẻ một tay câu kinh nghiệm đầy mình.
Bất kỳ ai cũng có thể đi vào mà nói “Ôi, tối qua tôi bắt được mười lăm tá cá rô đấy”. Hay “Thứ Hai tuần trước tôi tóm được một con cá đục nặng hơn tám cân đấy, từ đầu đến đuôi dài gần một mét”.
Những thứ kiểu như thế chẳng đòi hỏi nghệ thuật nào, kỹ năng nào. Nó cho thấy sự gan dạ, nhưng chỉ thế mà thôi.
Không; một tay câu rành ngón nghề không thèm nói dối như thế. Phương thức của ông ta rất đáng để nghiên cứu.
Ông ta lặng lẽ đi vào, mũ vẫn đội trên đầu, chọn ngay chiếc ghế bành êm ái nhất mà ngồi, châm tẩu lên và bắt đầu bập bập từng hơi thuốc trong im lặng. Ông ta để mặc bọn choai choai tha hồ khoác lác, và rồi trong lúc câu chuyện tạm thời lắng xuống, ông ta nhấc tẩu ra khỏi môi và vừa gẩy tàn thuốc vào gạt tàn vừa bình luận:
“À, tối thứ Ba tôi có một mẻ cá hồi chẳng đáng để kể cho mọi người lắm”.
“Ồ! Tại sao lại thế?”, họ hỏi.
“Vì tôi không nghĩ sẽ có ai tin nếu tôi kể đâu”, ông già bình thản đáp lại, trong giọng nói không hề nhuốm vẻ cay đắng, và ông lại nhồi thuốc đầy tẩu, yêu cầu chủ nhà mang ra ba chai Scotch lạnh.
Có một khoảng dừng sau đấy, không ai cảm thấy đủ tự tin để có thể phản đối quý ông cao tuổi này. Vậy là ông tự nói tiếp chẳng cần ai khích lệ.
“Không”, ông ta tiếp tục với vẻ trầm ngâm; “chính tôi còn chẳng tin nếu có ai đấy kể cho nghe chuyện này ấy chứ, nhưng nó là sự thật trăm phần trăm. Tôi đã ngồi cả chiều hôm đó mà chẳng bắt được gì, không gì cả theo đúng nghĩa đen - trừ vài tá cá đác và hai chục con cá chó nhỏ; và tôi đang định kết thúc buổi câu tồi tệ ấy thì bỗng nhiên cảm thấy cần câu bị kéo mạnh. Tôi nghĩ lại một con be bé xinh xinh nữa đây, và tôi bèn đến giật cần lên. Ôi trời, xin cứ treo cổ tôi lên nếu tôi có thể nhúc nhắc được cái cần! Phải mất đến nửa tiếng đồng hồ - nửa tiếng, thưa các ngài! - tôi mới lôi được con cá đó lên bờ; và lúc nào tôi cũng sợ dây đứt đến nơi! Cuối cùng tôi cũng tóm được nó, và quý vị nghĩ nó là gì nào? Một con cá tầm! Một con cá tầm độ hai chục ký! Bằng cần câu, thưa quý ngài! Vâng, các vị có vẻ khá ngạc nhiên - cho tôi thêm ba chai Scotch nữa đi, ông chủ ơi”.
Và rồi ông ta tiếp tục kể về sự kinh ngạc của tất cả những ai nhìn thấy con cá; về những gì vợ ông ta nói khi ông ta về nhà và về việc John Buggles nghĩ gì về nó.
Tôi từng yêu cầu một ông chủ quán trọ bên sông, nếu điều này không khiến ông thấy bị xúc phạm, xin ông thi thoảng hãy lắng nghe các câu chuyện mà những tay câu quanh đó kể; và ông ta bảo:
- Ôi không; không phải bây giờ, thưa ngài. Hồi đầu tôi cũng ngạc nhiên vô cùng, nhưng cầu Chúa phù hộ cho ngài, ngày nay tôi và các quý cô đây suốt ngày phải nghe mấy cái chuyện ấy thôi. Chuyện đó các vị cũng quen rồi mà, các vị biết đấy. Chuyện đó các vị cũng quen rồi mà.
Tôi từng quen một thanh niên, một gã có lương tâm nhất trần đời và khi đi câu cá bằng ruồi, hắn quyết định không bao giờ phóng đại các mẻ cá của mình quá 25 phần trăm.
“Khi tôi bắt được bốn mươi con cá”, hắn ta nói, “thì tôi sẽ kể cho mọi người rằng tôi đã bắt được năm mươi con, vân vân. Nhưng tôi sẽ không nói dối nhiều hơn đâu, vì nói dối là có tội”.
Nhưng kế hoạch 25 phần trăm có vẻ không hiệu quả cho lắm. Hắn ta chẳng bao giờ có thể sử dụng được kế hoạch ấy. Số cá lớn nhất hắn từng câu được trong một ngày là ba con, và ta không thể cộng 25 phần trăm cho ba được - ít nhất là với cá thì không.
Vậy là hắn bèn tăng tỉ lệ phần trăm lên ba mươi ba, một phần ba, nhưng thế thì vẫn rất khó xử khi hắn chỉ bắt được một hay hai con; vậy là để đơn giản hóa vấn đề, hắn quyết định cứ việc nhân đôi số lượng.
Hắn trung thành với kế hoạch này được độ vài tháng, và rồi hắn bắt đầu không thỏa lòng với nó tí nào. Chẳng ai tin khi hắn bảo hắn chỉ tăng gấp đôi số lượng, và do đó hắn cũng chẳng được vinh quang là mấy, trong khi sự khiêm tốn đã khiến hắn gặp nhiều bất lợi so với các tay câu khác. Khi hắn thật sự bắt được ba con cá nhỏ, và nói hắn bắt được sáu con, hắn hết sức ganh tỵ khi nghe một gã mà hắn biết chỉ bắt được mỗi một con, đi kể cho mọi người nghe rằng gã ta đã bắt được hai tá cá.
Vậy là cuối cùng hắn đã tự đề ra cho mình một thỏa thuận dứt khoát, một thỏa thuận mà hắn đã tuân thủ theo một cách đầy ý thức kể từ đó, rằng mỗi con cá bắt được sẽ được đếm thành mười, và giả sử mười sẽ là con số đầu tiên. Chẳng hạn nếu không bắt được con nào, hắn sẽ bảo hắn bắt được mười con - ta chẳng bao giờ bắt được ít hơn mười con theo phương pháp của hắn; đó chính là nền tảng của phương pháp này. Thế rồi nếu tình cờ có khi nào đó hắn bắt được một con thật, hắn sẽ kể là hai mươi, còn hai con thành ba mươi, ba là bốn mươi, vân vân.
Đó là một kế hoạch đơn giản, dễ thực hiện, và gần đây đã có một vài cuộc trao đổi về việc sử dụng phương pháp đó trong hội câu cá nói chung. Thật ra khoảng hai năm trước ủy ban Hội Những tay câu sông Thames đã đề xuất việc áp dụng phương pháp này, nhưng một số ủy viên cũ phản đối. Họ nói họ sẽ cân nhắc ý kiến này nếu con số được nhân đôi, và mỗi con cá được tính là hai mươi.
Nếu khi nào đó bạn có một buổi tối rảnh rỗi ở bên sông, tôi khuyên bạn hãy ghé vào một quán trọ nhỏ thôn quê và kiếm một chỗ bên quầy rượu. Chắc chắn bạn sẽ gặp một hay hai tay câu già đang từ tốn uống rượu ở đấy, và trong nửa tiếng đồng hồ họ sẽ kể những câu chuyện về cá đủ cho bạn tiêu hóa trong cả tháng.
George và tôi - tôi không biết Harris ra sao rồi; hắn ra ngoài cạo râu từ đầu buổi chiều rồi sau đó quay về ngồi suốt bốn mươi phút đánh bóng đôi giày của hắn, và kể từ lúc ấy chúng tôi không nhìn thấy hắn đâu nữa - vì thế, buổi tối thứ hai, George, tôi và con chó, bị bỏ lại một mình, bèn đi bộ đến Wallingford và trên đường về nhà chúng tôi ghé vào một quán trọ nhỏ ven sông để nghỉ ngơi này nọ.
Chúng tôi vào ngồi trong phòng khách. Ở đó có một bác già đang hút một tẩu thuốc dài và chúng tôi bắt đầu chuyện phiếm một cách rất tự nhiên.
Bác già bảo chúng tôi hôm nay là một ngày đẹp trời và chúng tôi bảo bác rằng hôm qua cũng đẹp trời, và rồi chúng tôi bảo nhau rằng ngày mai có lẽ cũng đẹp trời; và George bảo vụ mùa rồi sẽ tươi tốt lắm.
Sau đó, chuyện chẳng hiểu dẫn dắt theo kiểu nào mà hóa ra chúng tôi là những người lạ ở khu này, và rằng sáng hôm sau chúng tôi sẽ đi.
Thế rồi cuộc nói chuyện ngừng lại một lát, trong thời gian đó chúng tôi đảo mắt quanh phòng. Cuối cùng mắt chúng tôi dừng lại ở một chiếc hộp thủy tinh cũ bụi bặm được treo rất cao phía trên bệ lò sưởi bên trong có một con cá hồi. Cái con cá hồi ấy khiến tôi có phần bị mê hoặc; nó đúng là một con cá khổng lồ. Thật ra khi mới nhìn tôi cứ tưởng đó là cá tuyết.
- À! - bác già nhìn theo ánh mắt tôi và nói, - anh chàng được đấy chứ?
- Thật hiếm thấy, - tôi lẩm bẩm; và George hỏi bác già liệu bác nghĩ nó nặng bao nhiêu cân.
- Độ tám cân rưỡi, - người bạn của chúng tôi vừa nói vừa đứng lên cởi áo khoác. - Đúng thế, - bác tiếp tục, - đến mùng ba tháng sau là tròn mười sáu năm tôi bắt được nó. Tôi bắt được nó ngay dưới chân cầu bằng một con cá tuế. Người ta bảo tôi nó sống ở dưới sông, vậy là tôi bảo tôi sẽ bắt nó, và tôi đã làm được. Tôi cho là ngày nay các vị không thấy nhiều con cá có cỡ ở đây đâu. Chúc ngủ ngon nhé, các quý ngài, chúc ngủ ngon.
Và bác ta bỏ đi, để chúng tôi lại.
Sau đấy chúng tôi không thể rời mắt khỏi con cá. Nó quả thật là một con cá đáng chú ý. Chúng tôi vẫn đang nhìn con cá thì một bác chở hàng địa phương, vốn vừa ghé vào quán, bước đến cửa phòng với một vại bia trong tay, và bác này cũng nhìn con cá.
- Con cá to ra trò đấy nhỉ, - George nói, quay về phía bác này.
- À! Các ngài có thể nói như vậy, - bác này trả lời, và rồi sau một ngụm bia, bác ta nói thêm: - Có lẽ các ngài đã không có mặt ở đây lúc bắt được con cá này nhỉ?
- Không, - tôi bảo bác ta. - Chúng tôi là khách lạ ở vùng này.
- Ái chà! - bác chở hàng nói, - vậy thì tất nhiên làm sao quý vị biết được? Gần năm năm trước tôi đã bắt được con cá hồi ấy đấy.
- Ô! Vậy ra ông là người bắt được con cá ấy à? - tôi hỏi.
- Vâng thưa ngài, - bác già vui tính trả lời. - Tôi bắt được nó ngay dưới cửa sông - hoặc ít ra thì hồi đó chỗ đấy cũng là cửa sông - vào một buổi chiều thứ Sáu; và điều đáng nói là tôi đã bắt nó bằng một con ruồi. Tôi định câu cá chó, cầu Chúa phù hộ, có bao giờ nghĩ đến cá hồi đâu, và khi tôi nhìn thấy cái thứ to lớn khác thường đó ở đầu cần câu, Chúa trừng phạt tôi đi nếu nó không làm tôi phải nhảy bật lại phía sau. À, quý vị thấy đấy, nó cũng khoảng hơn chục cân. Chúc ngủ ngon, các quý ông, chúc ngủ ngon.
Năm phút sau, người thứ ba đi vào và kể tỉ mỉ vào một sáng sớm anh ta đã bắt được nó như thế nào bằng cá mương Âu; rồi anh ta bỏ đi, và một người trung niên vẻ nghiêm nghị bình thản bước vào ngồi bên cửa sổ.
Chúng tôi không ai nói gì một lúc lâu, nhưng cuối cùng George cũng quay sang người mới đến mà rằng:
- Xin lỗi, tôi hy vọng ông sẽ tha thứ cho sự mạo muội của chúng tôi - những người hoàn toàn xa lạ ở vùng này, nhưng bạn tôi và tôi sẽ biết ơn vô cùng nếu ông có thể kể cho chúng tôi nghe ông đã bắt được con cá hồi kia như thế nào.
- Ái chà chà, ai nói với quý vị là tôi đã bắt được con cá đó thế? - một thắc mắc vô cùng ngạc nhiên đáp lại.
Chúng tôi bảo rằng chẳng ai kể cho chúng tôi nghe thế cả, nhưng chẳng biết làm sao mà chúng tôi lại linh cảm rằng chính ông ta là người đã câu được nó.
- À, chuyện này thật khác thường bậc nhất đấy, - người lạ bình thản kia trả lời, cười thành tiếng; - bởi vì, thực tế là các vị hoàn toàn đúng. Chính tôi đã bắt được nó. Nhưng cứ thử hình dung là quý vị lại đoán được như vậy mà xem. Ôi chao, chuyện này thật khác thường bậc nhất đấy.
Và rồi ông ta tiếp tục kể cho chúng tôi nghe rằng nào là ông ta đã mất nửa tiếng đồng hồ mới lôi được con cá lên bờ, nào là nó đã làm gãy mất cần câu của ông ta. Ông ta bảo khi về đến nhà ông ta đã cân rất cẩn thận, và con cá nặng những hơn mười lăm ký lô.
Đến lượt ông ta bỏ đi, và khi ông ta đã khuất dạng, ông chủ nhà bước đến chỗ chúng tôi. Chúng tôi kể cho ông ta nghe những câu chuyện khác nhau mà chúng tôi được nghe về lịch sử con cá của ông, và ông buồn cười hết sức, vậy là tất cả chúng tôi đều cười hết sức thoải mái.
- Cứ thử hình dung Jim Bates, Joe Muggles, ông Jones và lão Billy Maunders kể với các ông rằng họ đã bắt được con cá mà xem. Ha! Ha! Ha! Ái chà, thế cũng hay, - ông già trung thực nói, cười vang sảng khoái. - Đúng, bọn họ sẽ trao nó cho tôi, để treo trong quán rượu của tôi thật đấy, nếu họ bắt được nó! Ha! Ha! Ha!
Và rồi ông già kể cho chúng tôi nghe lịch sử thật sự của con cá. Có vẻ như nhiều năm trước, hồi còn trẻ, chính ông ta đã bắt được con cá; không phải do nghệ thuật hay kỹ năng gì, mà là nhờ cái vận may không thể lý giải nổi có vẻ như luôn chờ đợi một cậu chàng khi cậu ta trốn học để đi câu vào một buổi chiều rực nắng bằng một mẩu dây buộc vào đầu cành cây.
Ông ta kể rằng vì mang được con cá ấy về nhà mà ông ta đã thoát khỏi một trận đòn, và rằng kể cả ông hiệu trưởng cũng nói con cá xứng với vài tiết học lý thuyết và thực hành cộng lại.
Đúng lúc đó có người gọi ông ta ra ngoài, còn George và tôi lại chòng chọc nhìn con cá.
Nó quả thật là một con cá hồi đáng ngạc nhiên bậc nhất. Chúng tôi càng nhìn càng thấy kinh ngạc. Con cá khiến George hưng phấn đến độ hắn trèo lên lưng ghế để nhìn cho rõ hơn.
Và rồi cái ghế đổ xuống và George tóm bừa lấy cái hộp đựng con cá để tự cứu mình, rồi thì kéo nó rơi xuống đánh rầm một tiếng, George và cái ghế đè lên trên.
- Cậu không làm con cá bị thương đấy chứ? - tôi hét lên thất thanh, lao đến.
- Hy vọng là không, - George nói, thận trọng nâng người dậy và nhìn xung quanh.
Nhưng hắn đã nhầm. Con cá hồi nằm đó, vỡ tan thành nghìn mảnh - tôi nói là một nghìn, nhưng chắc chỉ độ chín trăm thôi. Tôi có đếm đâu.
Chúng tôi nghĩ thật kỳ lạ và không thể giải thích nổi là một con cá hồi nhồi trấu lại có thể vỡ tan thành từng mảnh vụn như thế.
Và việc này đúng là sẽ thật kỳ lạ và không thể giải thích nổi nếu như đó là một con cá hồi nhồi trấu thật, nhưng nó có phải thế đâu.
Con cá hồi được làm từ thạch cao Paris.
------------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét