Ba Gã Cùng Thuyền (Chưa Kể Con Chó)
(Three Men in Boat)
Tác giả: Jerome K. Jerome
Người dịch: Petal Lê
NXB Văn Học - 2016
Chương 14
Wargrave
- Các hình sáp - Sonning - Món hầm của chúng tôi - Montmorency bị chế nhạo - Cuộc
chiến giữa Montmorency và cái ấm trà - Sự nghiệp nghiên cứu đàn banjo của
George - Không được khuyến khích - Những khó khăn trên con đường chơi nhạc nghiệp
dư - Học chơi kèn túi - Harris thấy buồn sau bữa ăn khuya - George và tôi đi dạo
- Quay về đói mềm và ướt sũng - Có gì đó kỳ lạ ở Harris - Harris và đám thiên
nga, một câu chuyện đáng nhớ - Harris có một đêm rắc rối.
SAU BỮA TRƯA CHÚNG TÔI bắt được một cơn gió
nhẹ thổi thuyền nhẹ nhàng lướt qua Wargrave và Shiplake. Êm ả dịu dàng trong
ánh mặt trời uể oải chiều hè, náu mình nơi khúc ngoặt của dòng sông, Wargrave tạo
nên một bức tranh cổ đẹp đẽ, một bức tranh còn đọng lại thật lâu trong những
võng mạc của ký ức người nhìn.
Quán “George & Rồng” ở Wargrave có một
tấm biển hiệu được sơn bên này bởi Leslie, bên kia bởi Hodgson, cả hai đều là
Viện sĩ Viện hàn lâm Hoàng gia. Leslie đã mô tả cuộc chiến đấu còn Hodgson tưởng
tượng ra quang cảnh “Sau trận chiến” - George, công việc đã hoàn thành, đang
thưởng thức vại bia.
Day, tác giả của cuốn Sandford và Merton đã sống và bị giết (chuyện này còn góp nhiều
công sức hơn trong việc mang lại danh tiếng cho nơi đây) ở Wargrave. Trong nhà
thờ có một tấm bia tưởng niệm bà Sarah Hill, người đã để lại khoản tiền thưởng
Phục sinh thường niên một bảng chia đều cho hai cậu bé và hai cô bé “chưa bao
giờ cãi lời cha mẹ; chưa bao giờ bị phát hiện thấy nói tục, nói dối, ăn cắp hay
làm vỡ kính cửa sổ”. Cứ thử hình dung phải từ bỏ những thứ ấy chỉ vì năm xu mỗi
năm xem! Thật chả bõ.
Dân thị trấn đồn rằng nhiều năm trước, từng
có một cậu bé không bao giờ làm những việc ấy thật - hay trong mọi trường hợp,
đúng theo những gì người ta ta yêu cầu hay có thể trông đợi, chưa bao giờ bị
phát hiện là làm thế - và do đó đã giành được vương miện vinh quang. Suốt ba tuần
sau đó cậu được triển lãm ở tòa thị chính trong một cái lồng kính.
Không ai biết chuyện gì xảy ra với món tiền.
Người ta nói rằng nó luôn luôn được chuyển đến cuộc trình diễn hình sáp gần nhất.
Shiplake là một ngôi làng xinh xắn, nhưng từ
mặt sông không thể nhìn thấy nó đang ngự trên đồi. Nhà thơ Tennyson đã cưới vợ ở
nhà thờ Shiplake.
Trên đường đến Sonning, con sông chảy ngoằn
ngoèo qua nhiều hòn đảo nhỏ, rất bình lặng, êm ả và đơn côi. Mãi tới lúc chạng
vạng mới có một vài cặp tình nhân thôn quê đi dạo dọc bờ sông. Harry và ngài
Fitznoodle [Một
chiến binh nổi tiếng của nước Anh] đều bị bỏ lại Henley, còn vùng
Reading bẩn thỉu ảm đạm thì vẫn chưa tới. Đó là một khúc sông thích hợp để mơ
màng về quá khứ, về những gương mặt những hình dáng không còn nữa và về những
gì lẽ ra có thể phá hoại chúng nhưng đã không làm được.
Đến Sonning chúng tôi rời thuyền đi dạo
quanh ngôi làng. Đó một góc nhỏ thần tiên nhất trên toàn bộ con sông. Nó giống
một ngôi làng trên sân khấu hơn là được xây từ gạch đá vôi vữa. Nhà nào cũng ngập
trong hoa hồng, và bây giờ, giữa những ngày đầu tháng Sáu, hoa hồng đang bừng nở
thành những đám mây rực rỡ đáng yêu. Nếu bạn dừng lại ở Sonning, hãy đến quán
“Bò mộng” ngay sau nhà thờ. Đó là hiện thân thực thụ của một quán trọ nông thôn
xưa, với một mảnh sân nhỏ xanh tươi vuông vắn phía trước, nơi tối tối, các cụ
già tụ tập dưới gốc cây để uống bia và bàn tán về những chuyện xảy ra ở làng; với
những căn phòng thấp kỳ quặc và cửa sổ mắt cáo, cầu thang khó đi, lối đi ngoằn
ngoèo.
Chúng tôi chơi rong quanh vùng Sonning tươi
đẹp đó khoảng một tiếng đồng hồ, và rồi vì đã quá muộn để có thể cố đi qua được
Reading, chúng tôi quyết định quay lại một trong những hòn đảo của Shiplake và
nghỉ đêm ở đó. Khi chúng tôi tới nơi trời vẫn còn khá sớm, và George bảo, vì
chúng tôi còn vô khối thời gian, đây sẽ là cơ hội tuyệt vời để thử một bữa tối
ngon lành đến tứa cả nước miếng. Hắn nói hắn sẽ cho chúng tôi thấy cách thức nấu
nướng trên sông, và gợi ý rằng với rau cỏ, phần thịt bò nguội còn lại và những
thứ linh tinh khác, chúng tôi nên làm món hầm Ailen.
Có vẻ đấy là một ý tưởng quá tuyệt vời.
George gom củi nhóm lửa, Harris và tôi bắt đầu gọt khoai tây. Tôi chưa bao giờ
nghĩ rằng gọt khoai tây lại khó đến thế. Đây hóa ra lại là một trong những việc
khó khăn nhất tôi từng làm. Chúng tôi bắt đầu một cách vui vẻ, thậm chí còn có
thể nói là hớn hở háo hức, nhưng sự nông nổi của chúng tôi đã tan biến sau khi
củ khoai đầu tiên được gọt xong. Chúng tôi càng gọt thì chỗ vỏ còn lại dường
như càng nhiều hơn; cho đến khi chúng tôi gọt hết vỏ và loại bỏ xong toàn bộ mắt
thì chẳng còn củ khoai nữa - ít nhất là một củ khoai có thể gọi là củ khoai.
George đến ngó một cái - nó chỉ còn độ bằng hạt lạc. Hắn bảo:
- Ôi, làm thế không được đâu! Các cậu lãng
phí khoai quá. Các cậu phải cạo đi.
Thế là chúng tôi cạo vỏ khoai, và nó còn vất
vả hơn việc gọt nhiều. Đám khoai tây ấy, chúng có những hình thù đúng là phi
thường hết sức, toàn những u cùng bướu, chỗ lồi chỗ lõm. Trong suốt hai mươi
lăm phút làm việc bền bỉ, chúng tôi xử lý được bốn củ khoai. Thế rồi chúng tôi
bèn đình công. Thà dành suốt thời gian còn lại của buổi tối để cạo chính mình
còn hơn.
Tôi chưa bao giờ thấy một việc gì có thể
làm cho người ta điên lên như việc cạo vỏ khoai. Thật khó tin được rằng công việc
cạo vỏ khoai mà Harris và tôi đảm trách, suýt nữa thì tắc thở, lại có thể giải
quyết xong bốn củ khoai. Điều này cho thấy phương pháp tiết kiệm và sự chú tâm
có thể làm được những gì.
George bảo thật phi lý nếu chỉ có mỗi bốn củ
khoai tây trong món hầm Ailen, vì thế chúng tôi rửa khoảng nửa tá khoai và trút
vào nồi mà chẳng cần gọt vỏ. Chúng tôi còn cho thêm một cái bắp cải và nửa hộp
đậu hạt nữa. George ngoáy tất cả lên và bảo có vẻ như còn rất nhiều chỗ, vì thế
chúng tôi bèn sục trong cả hai cái hòm và lôi ra tất tật những thứ linh tinh,
những của đầu thừa đuôi thẹo và bổ sung vào món hầm. Còn lại nửa cái bánh nhân
thịt và một mẩu thịt muối luộc nguội ngắt, vậy là chúng tôi cho chúng vào luôn.
Rồi George tìm thấy nửa hộp cá hồi đóng hộp và hắn trút sạch vào nồi.
Hắn nói đó chính là ưu điểm của món hầm
Ailen: ta tống khứ được hàng đống thứ kiểu như thế. Tôi mò được hai quả trứng
đã rạn vỏ và chúng tôi cho chúng vào nồi. George nói chúng sẽ làm nước hầm sánh
hơn.
Có thêm nguyên liệu nào nữa thì tôi quên rồi,
nhưng tôi biết chẳng có gì bị phí hoài cả; và tôi còn nhớ rằng, đến phút cuối,
con Montmorency, kẻ đã bộc lộ niềm hứng thú tột cùng trong suốt quá trình kể
trên, thong thả lượn đi với vẻ nghiêm chỉnh và trầm ngâm rồi vài phút sau tái
xuất hiện với một con rái cá chết trong mõm, thứ mà nó rõ ràng muốn được coi
như phần đóng góp cho bữa tối; dù tôi không biết là với tinh thần mỉa mai hay với
một khao khát hỗ trợ thật sự.
Chúng tôi đã có hẳn một cuộc tranh luận xem
liệu có nên sử dụng con rái cá hay không. Harris nói rằng hắn nghĩ món ấy trộn
với các thứ khác thì cũng được thôi, và rằng bất kỳ sự hỗ trợ nào dù là nhỏ
nhoi cũng đáng giá cả; nhưng George đã bảo vệ cho các tiền lệ. Hắn nói hắn chưa
bao giờ nghe nói có rái cá trong món hầm Ailen, và hắn muốn chắc ăn hơn, không
thử nghiệm gì cả.
Harris bảo:
- Nếu không thử một thứ mới thì làm sao cậu
biết nó thế nào? Chính những kẻ như cậu đã kìm hãm sự phát triển của thế giới.
Cứ thử nghĩ về người đầu tiên thử món xúc xích Đức mà xem!
Đó là một thành công vĩ đại, cái món hầm
Ailen ấy. Tôi không nhớ ra đã có lần nào được thưởng thức một bữa ăn ngon lành
đến thế hay chưa. Nó có gì đó thật mới mẻ và kích thích. Khẩu vị của chúng tôi
đã chán những món ăn cũ nhàm: đây là một món có mùi vị mới, có một vị không giống
bất kỳ thứ gì trên thế giới.
Và nó còn bổ dưỡng nữa. Như George đã nói,
có bao nhiêu thứ bổ béo trong ấy. Đậu và khoai tây lẽ ra nên mềm hơn chút nữa,
nhưng chúng tôi đều có bộ nhá khá tốt, vậy nên không vấn đề gì; còn nước hầm
thì đúng là một bài thơ - có lẽ hơi nhiều chất đối với một cái dạ dày yếu,
nhưng giàu chất dinh dưỡng.
Chúng tôi kết thúc bằng món trà và bánh tạc
anh đào. Trong bữa trà, con Montmorency đã ẩu đả với cái ấm nước, và rồi thua
đau thua đớn.
Suốt chuyến đi con chó đã bày tỏ sự tò mò
sâu sắc dành cho cái ấm. Nó ngồi ngắm ấm nước sôi với vẻ bối rối ra mặt, và thỉnh
thoảng gầm gừ cố chọc tức cái ấm. Khi cái ấm bắt đầu kêu lục bục và phì hơi nước,
nó coi đó là một thách thức và định xông vào tẩn cho một trận, chỉ có điều ngay
lúc đó, luôn có người xông tới xách cổ con mồi của nó lên trước khi nó kịp tấn
công.
Hôm nay nó quyết sẽ ra tay trước. Ngay khi
cái ấm rít lên tiếng đầu tiên, nó đứng dậy, gầm gừ và tiến về phía cái ấm với vẻ
đe dọa. Đấy chỉ là một cái ấm bé tí, nhưng lại không thiếu lòng dũng cảm, sẵn
sàng đương đầu và phun phì phì về phía con chó.
“Á! Mày dám à!”, Montmorency vừa gầm gừ vừa
nhe răng ra; “tao sẽ dạy cho mày một bài học vì dám láo xược với một con chó
chăm chỉ đáng kính, cái đồ vô lại khốn khổ mũi dài bẩn thỉu kia. Nào!”
Rồi nó lao về phía cái ấm nhỏ tội nghiệp và
ngoạm lấy vòi ấm.
Thế là sự tĩnh lặng của đêm bị xé nát bởi một
tiếng rú làm đông cả máu người ta, và Montmorency nhảy ra khỏi thuyền, làm liền
ba vòng quanh đảo với tốc độ 35 dặm/giờ, thỉnh thoảng dừng lại để dúi mũi vào một
vũng bùn mát.
Kể từ hôm đó Montmorency nhìn cái ấm với một
cảm xúc hỗn độn vừa kinh hoàng vừa nghi ngờ trộn lẫn căm ghét. Mỗi khi nhìn thấy
cái ấm, nó bèn gầm gừ và vội lùi lại, đuôi cụp xuống và ngay khi cái ấm được đặt
lên bếp lò, nó sẽ phóng ra khỏi thuyền rồi ngồi trên bờ cho đến khi chuyện trà
nước đã xong xuôi.
Sau bữa khuya, George lôi cây đàn banjo ra
định chơi, nhưng Harris phản đối: hắn nói hắn bị đau đầu và cảm thấy không đủ sức
khỏe để chịu được cái của ấy. George thì nghĩ âm nhạc biết đâu lại tốt cho thằng
cha ấy, hắn nói âm nhạc thường xoa dịu thần kinh và chữa khỏi cơn đau đầu; rồi
hắn dạo thử vài ba nốt, chỉ để cho Harris nghe thử.
Harris bảo hắn thà bị đau đầu còn hơn.
Cho đến tận ngày hôm đó, George chưa bao giờ
chơi đàn banjo. Hắn đã gặp phải quá nhiều sự phản đối từ xung quanh. Có một vài
tối trong lúc chúng tôi chèo xuôi dòng, hắn cũng tập tọe chơi thử, nhưng chẳng
bao giờ thành công. Ngôn ngữ của Harris đủ để làm bất kỳ ai cũng phải mất nhuệ
khí; thêm vào đó con Montmorency thường ngồi xuống mà tru theo một cách bền bỉ
ngay khi cuộc biểu diễn bắt đầu. Chuyện này không cho thằng cha có được một cơ
hội công bằng.
- Sao nó cứ muốn tru như thế mỗi khi tớ
chơi nhạc nhỉ? - George thốt lên phẫn nộ trong khi rút một cái giày ống ra nhắm
vào con chó.
- Sao cậu cứ muốn chơi như thế mỗi khi nó
tru nhỉ? - Harris vặn lại, tóm lấy cái giày. - Cậu để nó yên đi. Nó làm sao mà
nhịn tru được. Nó có tai nhạc đấy, và nhạc của cậu làm nó tru chứ còn gì.
Vậy là George quyết định sẽ hoãn công cuộc
nghiên cứu đàn banjo cho đến khi về nhà. Nhưng kể cả ở đó hắn cũng không có nhiều
cơ hội. Bà P. thường leo lên nói rằng bà ta hết sức tiếc - riêng bà ta thì bà
ta rất thích nghe hắn chơi - nhưng quý bà trên gác đang trong tình trạng vô
cùng yếu ớt, và bác sĩ sợ rằng thứ này sẽ làm đứa bé bị tổn thương.
Vậy là đêm đến George lôi đàn ra thử chơi
quanh quảng trường. Nhưng dân cư đã phàn nàn với cảnh sát, và một đêm nọ người
ta bèn phục kích, và tóm gọn hắn. Bằng chứng chống lại hắn rất rõ ràng, và hắn
bị theo dõi suốt sáu tháng để duy trì sự an bình của khu vực đó.
Sau đó hắn có vẻ đã ngã lòng về vấn đề này.
Hết sáu tháng ấy, hắn cũng có vài nỗ lực không đáng kể để chơi lại, nhưng lúc
nào cũng vẫn sự ghẻ lạnh ấy - vẫn là nhu cầu được đồng cảm của thế giới trong
việc chống lại nó; và sau một thời gian thì hắn hoàn toàn tuyệt vọng và đăng quảng
cáo bán phá giá nhạc cụ ấy - “người sở hữu không sử dụng nữa” - và thay thế bằng
cách học trò tráo bài.
Việc học cách sử dụng nhạc cụ chắc hẳn khiến
người ta mất hết nhuệ khí. Ta tưởng rằng Xã hội, vì lợi ích của nó, sẽ làm tất
cả những gì có thể để hỗ trợ một người nắm bắt được nghệ thuật chơi một thứ nhạc
cụ. Nhưng hóa ra không phải!
Tôi từng biết một thanh niên học chơi kèn
túi, và quý vị sẽ ngạc nhiên trước tổng số trở ngại mà cậu ta phải đương đầu.
Này nhé, ngay cả thành viên gia đình cậu cũng không cho cậu cái mà người ta gọi
là sự khuyến khích thiết thực. Bố cậu kịch liệt phản đối việc này ngay từ đầu
và nói về vấn đề này một cách không chút cảm thông.
Bạn tôi thường dậy sớm tập đàn, nhưng cậu
ta phải từ bỏ kế hoạch đó vì chị gái mình. Chị cậu phần nào có thiên hướng mê
tín, và cô này bảo bắt đầu một ngày như thế thì có vẻ tệ hại quá.
Vậy là cậu ta dậy giữa đêm và chơi nhạc sau
khi cả gia đình đã đi ngủ, nhưng việc này cũng không ổn, nó khiến nhà này mang
tai mang tiếng. Những người về nhà muộn sẽ dừng ở bên ngoài lắng nghe, rồi sáng
hôm sau rêu rao khắp thị trấn rằng đêm hôm trước ở nhà ông Jefferson đã xảy ra
một vụ giết người kinh khủng; và sẽ mô tả họ đã nghe thấy tiếng rú của nạn
nhân, tiếng chửi thề rủa xả thô lỗ của tên sát nhân, được nối tiếp bởi tiếng cầu
xin tha mạng và tiếng ặc lên cuối cùng của kẻ hấp hối.
Vậy là người ta đành để cậu tập chơi vào
ban ngày, ở bếp sau và đóng chặt cửa rả; nhưng thông thường những đoạn nhạc
thành công hơn của cậu vẫn lọt được vào phòng khách, bất chấp những sự phòng ngừa
ấy, và khiến mẹ cậu gần như trào nước mắt.
Bà nói nó làm bà nhớ lại ông bố tội nghiệp
của bà (ông này bị một con cá mập nuốt chửng, thật tội nghiệp, trong khi đang tắm
ngoài biển New Guinea - mối liên hệ giữa hai chuyện này là gì thì bà ta không
tài nào giải thích được.)
Thế rồi họ dựng cho cậu ta một góc nhỏ ở cuối
vườn, cách nhà khoảng một phần tư dặm, và bắt cậu ta khi nào muốn chơi thì mang
kèn ra đó; đôi khi nhà có vị khách chưa biết sự tình đến chơi, mà người ta lại
quên mất không kể chuyện này để cảnh báo anh ta, vậy là anh ta bèn thơ thẩn ra
vườn và bỗng dưng lọt ngay vào tầm nghe của tiếng kèn túi trong khi không hề
chuẩn bị gì, cũng như không hay biết nó là gì. Nếu đó là một người tinh thần vững
vàng, nó chỉ khiến anh ta bực mình thôi; nhưng nếu đó là một người có trí tuệ
trung bình, anh ta dễ phát điên lắm.
Cũng phải thừa nhận rằng có gì đó rất buồn
bã trong những nỗ lực ban đầu của một người chơi kèn túi nghiệp dư. Chính tôi
cũng cảm thấy thế khi nghe người bạn trẻ của mình chơi nhạc. Có vẻ như đó là một
nhạc cụ rất khó biểu diễn. Ta phải gom đủ hơi cho toàn bộ giai điệu trước khi bắt
đầu - ít nhất đó cũng là điều tôi đúc rút được từ việc quan sát Jefferson.
Cậu ta bắt đầu vô cùng hoành tráng với một
nốt nhạc hoang dại, âm lượng tối đa, giống như âm thanh chiến trận, khiến ta
tràn đầy cảm hứng. Nhưng rồi cậu ta càng lúc càng thổi một cách êm dịu hơn, và
nói chung khúc cuối cùng thường tắt lịm nửa chừng với tiếng phì phì và tiếng
rít lên.
Để chơi kèn túi bạn cần phải có sức khỏe.
Chàng thanh niên Jefferson chỉ học một điệu
kèn: nhưng tôi không bao giờ nghe thấy bất kỳ lời phàn nàn nào về vốn tiết mục
nghèo nàn của cậu - không lời nào cả. Điệu nhạc đó là “Những người lính Campbell đang đến, Hurah… Hurah!”, cậu bảo thế, mặc
dù bố cậu luôn bảo rằng đó là bài “Những
cái chuông xanh Scotland”. Không ai có thể dám chắc bài cậu chơi là gì,
nhưng tất cả đều nhất trí rằng có vẻ là nhạc Scotland.
Những người lạ được phép đoán ba lần, và hầu
hết đều mỗi lần đoán ra một điệu khác nhau.
Sau bữa tối Harris có vẻ cau có - tôi nghĩ
món hầm đã làm hắn khó chịu: hắn vốn không quen với đời sống cao - vì thế
George và tôi để hắn lại trên thuyền và dạo một vòng Henley. Hắn bảo hắn nên kiếm
một cốc whisky, một cái tẩu, và chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ cho đêm đó. Khi nào
quay lại chúng tôi cứ kêu to lên, hắn sẽ chèo từ đảo ra đón chúng tôi.
- Đừng có lăn ra ngủ đấy, anh già, - lúc
lên đường chúng tôi dặn hắn.
- Không sợ vấn đề ấy đâu chừng nào cái món
hầm này còn trong bụng tớ, - hắn càu nhàu khi chèo về đảo.
Henley đã sẵn sàng cho cuộc đua thuyền và
khắp nơi hối hả ồn ào. Chúng tôi gặp kha khá người quen quanh thị trấn, và với
sự đồng hành dễ chịu của họ, thời gian trôi qua khá nhanh; vậy nên đã gần mười
một giờ đêm khi chúng tôi bắt đầu chặng đường cuốc bộ bốn dặm về nhà - theo
cách giờ đây chúng tôi dùng để gọi con thuyền nhỏ của mình.
Đó là một đêm ảm đạm lạnh giá mưa lây rây;
và trong lúc lầm lũi băng qua những cánh đồng tối đen vắng vẻ, khe khẽ nói chuyện
với nhau và tự hỏi không biết mình có đi đúng đường hay không, chúng tôi nghĩ về
con thuyền ấm cúng với ánh đèn rạng rỡ xuyên qua lớp bạt kín; về Harris, con
Montmorency, món whisky và ước gì mình đã ở trên thuyền rồi.
Chúng tôi hình dung cảnh mình đang trên
thuyền, mệt mỏi và hơi đói; về con sông u ám và cây cối không hình không dạng;
và như một con đom đóm khổng lồ bên dưới chúng là con thuyền cũ kỹ thân yêu của
chúng tôi, gọn gàng xinh xắn, ấm cúng và vui vẻ. Chúng tôi có thể thấy mình
đang ăn tối ở đó, nhấm nháp món thịt nguội và chuyền tay nhau những khoanh bánh
mì; chúng tôi có thể nghe thấy tiếng dao nĩa lách cách vui tai, tiếng cười tràn
ngập không gian và qua khe hở tuôn trào ra trời đêm. Và chúng tôi rảo bước để
biến viễn cảnh đó thành hiện thực.
Cuối cùng chúng tôi cũng tới được đường kéo
thuyền, và điều này khiến chúng tôi hân hoan vô cùng; bởi vì trước đó chúng tôi
không chắc mình đang tiến về phía con sông hay đi xa khỏi nó, và khi đã mệt mỏi,
buồn ngủ thì những sự không chắc chắn ấy thường khiến ta lo lắng. Chúng tôi qua
Shiplake khi chuông đồng hồ điểm mười hai giờ kém mười lăm, và rồi George nói vẻ
suy tư:
- Cậu có tình cờ nhớ ra đấy là hòn đảo nào
không?
- Không, - tôi trả lời, cũng bắt đầu trở
nên suy tư. - Tớ không nhớ. Có bao nhiêu đảo tất cả nhỉ?
- Chỉ có bốn thôi, - George trả lời. - Rồi
sẽ ổn thôi, miễn là cậu ta còn thức.
- Thế nếu không thì sao? - tôi hỏi; nhưng
chúng tôi gạt dòng suy tưởng ấy đi.
Khi đến đối diện với hòn đảo đầu tiên,
chúng tôi gào lên gọi, nhưng không có tiếng trả lời; vì thế chúng tôi đi đến gần
hòn đảo thứ hai và thử lại, rồi cũng nhận được kết quả tương tự.
- Ôi! Bây giờ thì tớ nhớ ra rồi, - George
nói, - đó là hòn đảo thứ ba.
Vậy là chúng tôi khấp khởi hy vọng chạy tới
hòn đảo thứ ba, cất tiếng gọi.
Không có trả lời!
Tình hình đã trở nên nghiêm trọng. Giờ đã
quá nửa đêm. Các khách sạn ở Shiplake và Henley đều đông nghịt; còn chúng tôi
thì chẳng thể đi vòng vòng, dựng các chủ nhà dậy giữa đêm để hỏi xem họ còn chỗ
ngủ không! George gợi ý đi bộ quay lại Henley và tấn công một viên cảnh sát, và
nhờ thế sẽ có được một đêm trọ tại đồn. Nhưng rồi lại nảy ra ý nghĩ:
- Thế nhỡ anh ta chỉ nện trả chứ không chịu
nhốt chúng ta lại!
Chúng tôi không thể mất cả đêm đánh nhau với
cảnh sát. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng không muốn làm quá tay để lĩnh sáu tháng
tù giam.
Một cách tuyệt vọng, chúng tôi thử với cái
trong bóng tối có vẻ như là hòn đảo thứ tư, nhưng cũng không nhận được kết quả
khả quan hơn. Mưa đang rơi mau hạt, và rõ ràng là còn lâu mới tạnh. Chúng tôi ướt
như chuột lột, lạnh cóng và khốn khổ. Chúng tôi bắt đầu tự hỏi không biết có phải
chỉ có bốn hòn đảo hay không, liệu chúng tôi có đến gần hòn đảo nào thật không,
hay liệu chúng tôi đang ở đâu đó cách độ một dặm so với nơi chúng tôi cần đến
hay đã sang nhầm bờ sông bên kia rồi; trong bóng tối mọi thứ trông thật kỳ lạ
và rất khác. Chúng tôi bắt đầu hiểu những gì mà những đứa trẻ lạc trong rừng phải
chịu đựng.
Ngay khi chúng tôi đã từ bỏ mọi hy vọng -
vâng, tôi biết trong tiểu thuyết và truyện kể đấy luôn là lúc mọi chuyện xảy
ra, nhưng tôi chẳng thể làm khác được. Khi bắt tay viết cuốn sách này, tôi đã
quyết tâm sẽ tuyệt đối trung thực trong mọi chuyện, vậy nên tôi sẽ làm vậy, cho
dù có phải sử dụng những cụm từ nhàm chán cho mục đích ấy.
Đó chính là lúc chúng tôi đã từ bỏ mọi hy vọng,
vì vậy tôi phải nói như thế. Vậy là, đúng lúc chúng tôi đã từ bỏ mọi hy vọng, bỗng
nhiên tôi nhìn thấy phía dưới chúng tôi một quãng ngắn, một tia sáng kỳ lạ le
lói giữa đám cây cối ở bờ sông bên kia. Trong một thoáng tôi đã nghĩ đó là ma;
ánh sáng ấy kỳ lạ mờ ảo đến thế kia mà. Khoảnh khắc tiếp theo trong tôi lóe lên
suy nghĩ đó là con thuyền của chúng tôi, và tôi gào vọng sang bờ bên kia một tiếng
lớn đến nỗi khiến cho đêm dường như cũng rung lên trên giường ngủ của nó.
Chúng tôi nín thở chờ một lát, và rồi - ôi!
thứ âm nhạc thần thánh nhất của bóng đêm! - chúng tôi nghe thấy tiếng sủa trả lời
của con Montmorency. Chúng tôi đáp lại bằng một tiếng gào đủ để đánh thức đến bảy
nàng công chúa ngủ trong rừng ấy chứ - chính tôi cũng không bao giờ hiểu nổi tại
sao đánh thức bảy nàng công chúa ngủ trong rừng lại cần nhiều âm thanh hơn so với
khi đánh thức một nàng - và, sau một lúc tưởng như cả tiếng đồng hồ, nhưng thật
ra chắc chỉ độ năm phút, chúng tôi nhìn thấy chiếc thuyền sáng trưng đang chậm
chạp bò qua bóng tối và nghe thấy giọng Harris ngái ngủ hỏi xem chúng tôi đang ở
đâu.
Ở Harris có một vẻ kỳ lạ không thể lý giải
được. Có gì đó còn hơn cả sự mệt mỏi bình thường. Hắn kéo thuyền lên một góc bờ
mà chúng tôi không thể trèo lên thuyền từ đó được và ngay lập tức lăn ra ngủ.
Phải mất một tràng la hét gào rống đáng kể
mới đánh thức hắn dậy lần nữa và làm hắn hiểu được chút ít vấn đề; nhưng cuối
cùng chúng tôi cũng thành công và lên thuyền an toàn.
Harris có vẻ hết sức buồn bã, chúng tôi nhận
thấy thế khi đã lên được thuyền. Hắn gợi cho ta ý nghĩ về một người đã trải qua
nhiều sóng gió. Chúng tôi hỏi có chuyện gì không, và hắn trả lời:
- Thiên nga!
Có vẻ như chúng tôi đã buộc thuyền khá gần
một tổ thiên nga, và ngay sau khi George và tôi đi khỏi, con thiên nga mái quay
về làm om sòm hết cả lên. Haris xua nó đi, vậy là nó đi, và tìm ông bố già của
nó. Harris nói hắn đã chiến đấu ra trò với hai con thiên nga này; nhưng cuối
cùng lòng can đảm cùng sự khéo léo đã thắng thế, và hắn đã đánh bại chúng.
Nửa giờ sau chúng quay lại với mười tám con
thiên nga khác! Đấy hẳn là một trận chiến kinh hoàng, theo như chúng tôi hiểu từ
lời Harris. Lũ thiên nga cố lôi hắn và con Montmorency ra khỏi thuyền để dìm xuống
nước, vậy là hắn phải tự vệ như một anh hùng trong suốt bốn tiếng đồng hồ và
cũng giết được kha khá, rồi tất cả bọn chúng đều phải bơi đi chịu chết.
- Cậu nói có bao nhiêu con thiên nga? -
George hỏi.
- Ba mươi hai, - Harris ngái ngủ trả lời.
- Vừa nãy cậu bảo là có mười tám con, -
George nói.
- Không, tớ bảo thế bao giờ, - Harris làu
nhàu; - tớ bảo mười hai mà. Cậu nghĩ tôi không biết đếm hẳn?
Chúng tôi không bao giờ tìm hiểu được sự thật
về lũ thiên nga này. Sáng hôm sau chúng tôi hỏi Harris về vấn đề này, vậy là hắn
bảo, “Thiên nga nào?” và có vẻ như nghĩ chắc George và tôi đã mơ ngủ.
Ôi, tuyệt vời biết bao khi chúng tôi được
an toàn trên thuyền sau những nỗi sợ hãi và thử thách ấy! Chúng tôi, George và
tôi, ăn bữa khuya một cách nhiệt tình, và hẳn là sau đó đã uống thêm chút rượu
mạnh nếu có thể tìm được whisky, nhưng chúng tôi không tìm thấy. Chúng tôi tra
hỏi Harris xem hắn đã làm gì với chỗ rượu; nhưng hình như hắn không hiểu
“whisky” mà chúng tôi nhắc đến nghĩa là gì, hoặc không hiểu chúng tôi đang nói
chuyện gì. Con Montmorency nhìn cứ như thể biết chuyện gì đó, nhưng tịnh không
nói một câu.
Đêm đó tôi ngủ khá ngon giấc, và lẽ ra còn
ngủ ngon hơn nếu không có Harris. Tôi nhớ mang máng là cả đêm đã bị đánh thức
ít nhất chục lần vì Harris cứ cầm đèn bão lang thang quanh thuyền để tìm quần
áo. Có vẻ như hắn lo lắng về chỗ quần áo của mình suốt cả đêm.
Hắn đã hai lần lăn tôi và George sang một
bên để xem liệu chúng tôi có nằm lên quần của hắn không. Đến lần thứ hai thì
George nổi điên.
- Giữa đêm giữa hôm cậu muốn làm gì trò khỉ
gì với cái quần ấy hả? - hắn hỏi đầy căm phẫn. - Sao không nằm xuống ngủ đi hả?
Lần bị đánh thức tiếp theo tôi thấy hắn
đang gặp vấn đề vì không làm sao tìm ra đôi tất; và ký ức mơ hồ cuối cùng của
tôi là về chuyện mình bị lăn sang một bên và nghe thấy Harris lầm bầm gì đó về
việc thật kỳ lạ vì cái ô của hắn đã biến đi đâu mất tiêu.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét