Ba Gã Cùng Thuyền (Chưa Kể Con Chó)
(Three Men in Boat)
Tác giả: Jerome K. Jerome
Người dịch: Petal Lê
NXB Văn Học - 2016
Chương 2
Các kế
hoạch được thảo luận - Niềm vui thú của việc “cắm trại ngoài trời” vào những
đêm đẹp trời - Như trên, vào những đêm mưa gió - Quyết định thỏa hiệp -
Montmorency, ấn tượng đầu tiên - Những nỗi lo ngại rằng nó quá tuyệt vời đối với
thế giới này cuối cùng đã bị bác bỏ vì không có căn cứ - Cuộc họp bị hoãn.
CHÚNG TÔI TRẢI BẢN ĐỒ RA VÀ THẢO LUẬN CÁC KẾ
HOẠCH. Bọn tôi bố trí khởi hành vào thứ Bảy tuần sau ở Kingston. Harris và tôi
sẽ xuống đó từ sáng và mang thuyền đến Chertsey, còn George, vì không thể rời
khỏi thành phố trước buổi chiều (George có nhiệm vụ đến một ngân hàng để ngủ từ
mười giờ sáng đến bốn giờ chiều mỗi ngày, trừ các ngày thứ Bảy, khi họ đánh thức
hắn dậy và tống ra ngoài lúc hai giờ), sẽ gặp chúng tôi ở đó.
Chúng tôi nên “cắm trại ngoài trời” hay ngủ
trong nhà trọ đây?
George và tôi ủng hộ cắm trại bên ngoài.
Theo chúng tôi thì như thế sẽ thật phóng túng và tự do, thật hết sức nam tính.
Ký ức dát vàng của một mặt trời đã chết mờ
nhạt dần trong trái tim những đám mây lạnh lẽo u buồn. Lặng lẽ như những đứa trẻ
đang sầu não, lũ chim ngừng hót bài ca của chúng và chỉ còn tiếng kêu não nùng
của những con gà gô đỏ cùng tiếng cục cục của lũ gà nước làm khuấy động sự tĩnh
lặng đáng sợ quanh làn nước, nơi ngày tàn đang trút hơi thở cuối cùng.
Từ những cánh rừng âm u hai bên bờ, đoàn
quân ma quái của Bóng đêm, những bóng xám lặng lẽ bò ra xua đuổi đạo quân tập hậu
của ánh sáng đang lảng vảng, rồi với đôi chân vô hình không gây tiếng động,
chúng lướt trên lớp cỏ đang dợn sóng dập dềnh và xuyên qua làn sóng đang thở
dài; Bóng đêm, trên ngai vàng ảm đạm của nó, gập đôi cánh đen bao phủ thế giới
đang tối dần, và từ cung điện bóng ma được các ngôi sao xanh nhờ chiếu sáng của
mình, Bóng đêm ngự trị trong tĩnh lặng.
Lúc ấy chúng tôi đã chèo con thuyền nhỏ vào
một góc yên tĩnh nào đấy, chiếc lều bạt đã được dựng lên, bữa tối đạm bạc đã được
nấu và ăn xong. Thế rồi, những cái tẩu lớn được nhồi đầy thuốc và châm lên, cuộc
tán gẫu dễ chịu đưa đẩy vòng quanh trong tiếng thì thầm du dương; trong khi đó,
giữa những khoảng lặng trong câu chuyện của chúng tôi, dòng sông nô giỡn quanh
con thuyền, thì thào những câu chuyện và những bí mật cổ xưa kỳ lạ, khe khẽ ca
bài hát thiếu nhi xưa cũ mà nó đã hát hàng nghìn năm nay - và hàng nghìn năm
sau nữa vẫn sẽ hát, trước khi giọng nó trở nên khàn đặc và già nua - một bài
hát mà chúng tôi, những người đã học cách yêu vẻ mặt luôn thay đổi của nó, những
người đã thường xuyên được ấp ủ yên ấm trong lồng ngực mềm mại của nó, không hiểu
sao nghĩ rằng mình hiểu, mặc dù chúng tôi không thể kể lại bằng lời cho bạn
nghe câu chuyện mà chúng tôi lắng nghe ấy.
Và chúng tôi ngồi đó, bên bờ sông, trong
khi mặt trăng, cũng yêu dòng sông tha thiết, cúi xuống hôn nó bằng nụ hôn của
tình chị em và quàng hờ vòng tay bạc quanh nó; và chúng tôi ngắm nhìn con sông,
vẫn hát rì rầm, vẫn thì thào như thế, trôi đến gặp biển cả, chúa tể của nó -
cho đến khi giọng chúng tôi tắt đi trong im lặng, và tẩu thuốc đã cháy hết -
cho đến khi chúng tôi, những kẻ thường dân, những chàng trai bình thường, lạ
lùng thay lại cảm thấy trong mình tràn đầy những suy tư, vừa buồn man mác vừa
ngọt ngào, và chẳng còn khao khát hay mong muốn nói ra thành lời nữa - cho đến
khi chúng tôi cười thành tiếng, đứng lên, gạt tàn thuốc từ những chiếc tẩu đã
cháy hết và nói “Chúc ngủ ngon,” rồi được tiếng sóng vỗ bập bềnh và những hàng
cây xào xạc ru ngủ, chúng tôi thiếp đi dưới những ngôi sao vĩ đại đang đứng yên
lặng lẽ, và mơ thấy thế giới trẻ lại - trẻ trung và ngọt ngào như đã từng như
thế, trước khi bao thế kỷ lo phiền làm hằn sâu những nếp nhăn trên gương mặt đẹp
đẽ của người, trước khi bao tội lỗi và hành động rồ dại của con cái khiến trái
tim yêu thương của người già nua đi - lại ngọt ngào như đã từng như thế trong
bao tháng ngày xưa cũ, khi người mới là một bà mẹ trẻ, nuôi nấng chúng ta, con
cái của người, trong lồng ngực rộng lớn ấy - trước khi những mưu kế của nền văn
minh được tô vẽ dụ dỗ chúng ta xa khỏi vòng tay yêu thương đó, và những lời nhạo
báng tẩm thuốc độc của sự nhân tạo đã khiến chúng ta thấy xấu hổ với cuộc sống
giản dị mà chúng ta đã có bên người, và với tổ ấm đơn sơ, đường hoàng nơi nhân
loại đã được sinh ra bao nhiêu ngàn năm trước ấy.
Harris bảo:
- Nếu trời mưa thì sao nhỉ?
Chẳng bao giờ khích động được Harris. Chẳng
có cái gì gọi là thơ mộng trong Harris hết - hắn không hề có cái mong muốn
ngông cuồng là được với tới những thứ không thể. Harris chẳng bao giờ “tôi buồn
chẳng hiểu vì sao tôi buồ”. Nếu Harris mà có đầm đìa nước mắt thì quý vị có thể
chắc chắn rằng đấy là vì hắn đã ăn hành sống, hoặc cho quá nhiều tương ớt
Worcester lên miếng sườn mà hắn vừa tọng vào bụng.
Nếu bạn đứng bên bờ biển trong đêm với
Harris và nói rằng:
“Nghe này! Cậu không nghe thấy ư? Đó là tiếng
các nàng tiên cá hát ở tít sâu dưới làn nước đang dập dềnh kia; hay những linh
hồn u sầu đang ngâm nga bài ca cầu hồn cho những xác chết tái nhợt bị rong biển
quấn quanh?”
Harris sẽ chộp lấy cánh tay bạn và nói:
“Tôi biết đấy là cái gì rồi, anh già ơi; cậu
dính cảm đấy. Nào, đi với tớ. Tớ biết một chỗ ở ngay góc kia thôi, ở đấy cậu có
thể nhấp một ít whisky Scotland ngon nhất trần đời - và rồi cậu sẽ trở lại bình
thường ngay cho mà xem”.
Harris luôn biết một chỗ nào đấy ngay ở góc
kia, nơi ta luôn có thể có gì đó tuyệt vời để uống. Tôi tin rằng nếu ta gặp
Harris trên Thiên đường (cứ giả sử là có nơi nào đó như thế đi), hắn sẽ ngay lập
tức chào đón ta thế này:
“Hay quá, cậu đến rồi, bạn già ơi. Tớ biết
một chỗ ở ngay góc kia, cậu sẽ kiếm được ít tiên tửu thượng hảo hạng ở đấy đấy”.
Tuy nhiên, trở về với hoàn cảnh hiện tại, về
vụ cắm trại ngoài trời, thì quan điểm theo chủ nghĩa thực tế của hắn quả là một
lời nhắc nhở đúng lúc. Cắm trại ngoài trời trong cơn mưa gió không phải chuyện
dễ chịu cho lắm.
Lúc ấy trời đã tối. Ta ướt nhẹp từ đầu đến
chân, có đến năm centimet nước lõng bõng trong thuyền và tất cả mọi thứ đều ướt
sũng. Sau khi tìm được một chỗ trên bờ sông không có quá nhiều vũng nước và ngầu
bùn như những chỗ khác, ta đổ bộ và lôi lều ra, và hai người bọn ta bắt đầu xử
lý cái lều.
Cái lều ướt sũng và nặng trịch, nó cứ sụp
xuống và đổ vào đầu ta, rồi lủng lẳng trên đầu và làm ta điên tiết. Mưa thì cứ
dần nặng hạt thêm mãi. Trời khô ráo đã khó dựng được cái lều cho chắc chắn rồi;
lúc trời mưa thì nhiệm vụ này đúng là phải khỏe như Hercules may ra mới làm được.
Thay vì đỡ ta một tay thì có vẻ như cái thằng cha kia chỉ làm tình hình rối
thêm. Chẳng hạn ta vừa mới dựng xong bên thành lều của mình một cách đẹp đẽ,
thì hắn lại húc một phát vào phía bên kia cái lều và làm hỏng bét hết cả.
- Đây cơ mà! Cậu làm cái gì thế hả? - ta gào
với sang.
- Cậu đang làm cái gì thế? - hắn vặn lại. - Không nhanh lên được à?
- Đừng có mà kéo; cậu làm lộn hết cả lên rồi,
đồ ngu! - ta gào lên.
- Tớ chẳng làm gì cả, - hắn gào trả lại, - buông bên ấy ra!
- Tớ bảo là cậu đã làm lộn hết cả lên rồi! - ta rống lên, ước gì có thể túm lấy hắn, và ta kéo sợi dây bên mình một phát mạnh
đến mức tất cả các cọc lều phía hắn bị nhổ bật cả lên.
- Ối giời, đồ ngu của nợ! - ta nghe thấy hắn
lầu bầu một mình; và sau đó là một cái giằng thô bạo, và cọc bên ta cũng bật
tung lên sạch. Ta đặt cái vồ xuống và bắt đầu đi sang phía bên kia để bày tỏ
cho hắn biết ta nghĩ gì về toàn bộ chuyện này, và chính trong lúc ấy hắn cũng
đi vòng cùng chiều với ta để sang bên này và giải thích quan điểm của hắn cho
ta. Và hai người cứ đi vòng quanh mãi thế, chửi rủa lẫn nhau cho đến khi cái lều
lộn nhào xuống thành một đống, để lại cả hai nhìn nhau trừng trừng qua mớ hoang
tàn, rồi căm phẫn đồng thanh thốt lên:
- Đấy! Tớ đã bảo cậu thế nào hả?
Trong lúc đó thì kẻ thứ ba, người vừa tát hết
nước khỏi con thuyền và để nước chảy tong tỏng dọc ống tay áo sơ mi, lại còn chửi
rủa một mình trong suốt mười phút vừa qua, cũng muốn biết hai thằng kia đang
lên cơn chơi trò gào thét rú rít gì thế, và tại sao cái lều tội nghiệp vẫn chưa
được dựng lên.
Cuối cùng, bằng cách này hay cách khác, cái
lều cũng được dựng xong và ta đem đồ đạc lên bờ. Nỗ lực nhóm lửa bằng củi là vô
vọng, vì thế ta phải đốt bếp cồn và xúm xít quanh nó.
Nước mưa là món chính của bữa tối ăn kiêng.
Độ hai phần ba bánh mì được tẩm nước mưa, bánh nhân bít tết thì ngâm sũng nước,
và món xúp là một thứ hổ lốn kết hợp từ thịt dăm bông, bơ, muối, cà phê và nước
mưa.
Sau bữa tối, ta thấy thuốc lá bị ẩm, và ta
không thể hút thuốc được. May là ta còn có một chai gì đó có thể khiến người ta
vui lên và say sưa nếu uống với liều lượng thích hợp, và chính cái này đã trả lại
cho ta đủ niềm yêu sống để lên giường đi ngủ.
Ở đấy ta mơ thấy có một con voi bỗng nhiên
ngồi chễm chệ lên ngực ta và rằng núi lửa đã phun trào và ném ta xuống tận đáy
biển - nhưng cái con voi kia vẫn ngủ một cách bình yên trên lồng ngực ta. Ta tỉnh
dậy và lập tức trong đầu hiện ra ngay ý tưởng rằng thật sự có gì đó khủng khiếp
đã xảy ra. Ấn tượng đầu tiên là ngày tận thế đã đến; rồi ta lại nghĩ rằng không
thể thế được, và rằng đó là bọn kẻ cắp và giết người, hoặc nếu không thì đã có
hỏa hoạn, và ta bộc lộ ý kiến này theo cách thông thường nhất. Tuy nhiên, chẳng
thấy ai đến cứu giúp, và tất cả những gì ta biết là có đến hàng nghìn kẻ đang
đá tới tấp vào mông ta và ta đang sắp chết ngạt đến nơi.
Có vẻ như ai đó khác cũng đang gặp rắc rối.
Ta có thể nghe thấy tiếng kêu yếu ớt của hắn ta đâu đó bên dưới giường mình.
Quyết định rằng, dù trong tình huống nào đi nữa cũng không thể bán rẻ cuộc đời
mình, ta vừa gào thét dữ dội vừa vùng vẫy quyết liệt, chân tay đập lung tung
sang cả trái lẫn phải, và cuối cùng cái thứ đó cũng phải nhường lối cho ta, để
rồi ta nhận ra đầu mình đang ở ngoài không khí trong lành. Cách đó chừng nửa
mét ta lờ mờ thấy một tên vô lại mình trần đang chờ sẵn để cắt tiết ta, và ta
đang chuẩn bị tinh thần cho một cuộc vật lộn sống mái với hắn thì bỗng dưng nhận
ra đó chính là Jim.
- Ô, cậu đấy à? - hắn nói, cùng lúc đó cũng
nhận ra ta.
- Ừ, - ta trả lời, dụi dụi mắt, - chuyện gì thế?
- Cái lều khốn kiếp đổ sụp xuống, tớ nghĩ thế, - hắn nói. - Bill đâu rồi?
Thế rồi cả hai cùng cao giọng lên hét gọi
“Bill!” rồi mặt đất dưới chân ta bỗng rùng rùng chuyển động, cái giọng nghèn
nghẹt mà ta đã nghe thấy lúc trước đáp lại trong đống đổ nát hoang tàn:
- Nhấc cái chân ra khỏi đầu tôi đi, được
không hả?
Và Bill vất vả chui ra, trong hình hài một
đống thảm hại bị giẫm đạp và bê bết bùn, và với một vẻ cau có hết sức không cần
thiết - hắn đang có một niềm tin vững chắc rằng tất cả chuyện này đều được thực
hiện một cách có chủ ý.
Suốt buổi sáng cả ba đều chẳng nói được câu
nào vì đã bị cảm lạnh nặng trong đêm; cả bọn đều thấy cáu kỉnh hết sức, và cả
lũ chửi rủa nhau bằng cái giọng khàn khàn phều phào suốt bữa sáng.
Vì thế nên chúng tôi quyết định rằng chúng
tôi sẽ ngủ ngoài trời vào những đêm đẹp trời; và nếu trời mưa hay khi thấy muốn
thay đổi thì sẽ ngủ ở khách sạn, nhà trọ hoặc quán rượu như những con người
đáng kính.
Con Montmorency chào đón sự thỏa hiệp này với
vẻ rất đồng tình. Nó chẳng ham thích cái kiểu cô độc lãng mạn ấy lắm. Cho nó thứ
gì đó ồn ào, nếu có thêm ít tiếng súng đì đùng thì càng vui hơn nữa. Nhìn
Montmorency bạn sẽ hình dung rằng nó là một thiên thần, vì lý do nào đó mà loài
người không được phép biết đến, đã bị đày xuống hạ giới trong hình dạng một con
chó săn cáo nhỏ. Có một vẻ kiểu như ôi-đây-thật-là-một-thế-giới-tồi-tệ-và-ước-gì-tôi-có-thể-làm-gì-đó-khiến-nó-tốt-đẹp-và-cao-quý-hơn
trong Montmorency, cái vẻ mà ai cũng biết là đã đem đến những giọt nước mắt
long lanh trong mắt các quý bà quý ông già nua ngoan đạo.
Lúc đầu khi nó đến ăn nhờ ở đậu chỗ tôi,
tôi không bao giờ nghĩ mình có thể giữ nó ở lại được lâu. Trước đây, tôi hay ngồi
ngắm nó những lúc nó ngồi trên tấm thảm ngước mắt nhìn tôi, và nghĩ: “Ôi, cái
con chó kia sẽ chẳng sống nổi đâu. Rồi nó sẽ bị tóm cổ vào một cỗ xe ngựa rồi
bay thẳng lên trời thôi, đấy là điều chắc chắn sẽ xảy ra với nó”.
Nhưng sau khi đã phải trả tiền cho khoảng độ
nửa tá gà con bị nó làm thịt; và đã phải tóm gáy nó lúc nó đang vừa gầm gừ vừa
đá chân lung tung để kéo nó ra khỏi độ một trăm mười bốn cuộc đánh lộn ngoài phố;
và đã bị một quý bà giận dữ gọi tôi là kẻ giết người mang một con mèo chết đến
dí vào mặt bắt phải điều tra; và đã được người hàng xóm cách một nhà mời sang
phàn nàn vì tội là chủ của một con chó dữ thả rông đã khiến ông ta phải chết dí
trong nhà kho của chính mình, không dám ló mặt ra khỏi cửa suốt hai giờ liền
trong một đêm lạnh lẽo; và biết rằng một người làm vườn, mà chính tôi cũng chẳng
quen, đã thắng ba mươi xu nhờ đặt cược cho nó trong cuộc cá cược giết chuột
tính giờ, thì cuối cùng tôi cũng bắt đầu nghĩ rằng có lẽ người ta đã để cho nó ở
lại trái đất này hơi lâu quá chăng.
Quẩn quanh bên một cái chuồng ngựa và tập hợp
một đám đàn em toàn những con cẩu có thành tích bất hảo nhất trong khu phố và dẫn
chúng diễu qua các khu ổ chuột để đánh nhau với những con cẩu mất dạy khác, đây
chính là ý niệm về “cuộc sống” của Montmorency; và vì thế, như tôi đã nhận định
từ trước, nó ủng hộ đề xuất về các nhà trọ, quán rượu và khách sạn với sự tán
thành nồng nhiệt nhất.
Vậy là đã thu xếp xong vấn đề ngủ nghê thỏa
lòng cả bốn chúng tôi, điều duy nhất cần bàn bạc là chúng tôi sẽ mang theo những
gì; và cả bọn lại bắt đầu tranh cãi, lúc này Harris chợt nói đêm nay hắn nghe
diễn văn đủ rồi, và gợi ý rằng chúng tôi nên đi chơi và tươi tỉnh lên một tí,
tiện thể nói thêm rằng hắn mới tìm được một chỗ ngay góc đằng kia, và chúng tôi
có thể tới đó nhấm nháp một ít cái thứ rượu Ailen xịn rất bõ công đổ vào mồm.
George bảo hắn thấy khát (tôi chưa lúc nào
thấy George không khát cả); và vì tôi có linh cảm rằng chút whisky ấm với một
lát chanh sẽ có ích cho căn bệnh của mình, cuộc tranh luận được dời sang tối
hôm sau với sự đồng thuận của tất cả; rồi các đại biểu đội mũ vào và tớn đi
chơi.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét