Ba Gã Cùng Thuyền (Chưa Kể Con Chó)
(Three Men in Boat)
Tác giả: Jerome K. Jerome
Người dịch: Petal Lê
NXB Văn Học - 2016
Chương 8
Tống
tiền - Cách xử trí đúng đắn - Sự ích kỷ quê mùa của bọn chủ đất ven sông - Bảng
“thông báo” - Những cảm giác không giống người Cơ đốc của Harris - Harris hát một
bài hát vui nhộn như thế nào - Bữa tiệc thượng lưu - Cách cư xử đáng hổ thẹn của
hai thanh niên bị bỏ rơi - Một số thông tin vô bổ - George mua một cây đàn
banjo.
CHÚNG TÔI DỪNG LẠI dưới rặng liễu gần công
viên Kempton và ăn trưa. Chỗ này là một nơi xinh xắn; một bờ cỏ xanh vui mắt chạy
dọc theo mép nước và bên trên là hàng liễu rủ bóng. Chúng tôi vừa bắt đầu món
thứ ba - bánh mì và mứt - thì một quý ông ăn mặc giản dị miệng ngậm tẩu ngắn đi
đến hỏi xem chúng tôi có biết mình đang xâm phạm đất đai của người khác không.
Chúng tôi trả lời rằng chúng tôi vẫn chưa nghiên cứu vấn đề một cách đầy đủ để
đi đến một kết luận dứt khoát về điểm này, nhưng nếu hắn ta khẳng định với tư
cách của người quân tử rằng chúng tôi đã xâm nhập trái phép thì chúng tôi sẽ
không còn chần chừ gì nữa mà tin ngay thôi.
Tay đó bèn cam đoan thế và chúng tôi bèn cảm
ơn hắn, nhưng thằng cha vẫn lởn vởn ở đấy và có vẻ như chưa được thỏa mãn cho lắm,
vậy là chúng tôi hỏi mình có thể làm gì hơn cho hắn không; và Harris, vốn tính
thân thiện, còn mời hắn ta một miếng bánh mì và mứt nữa.
Tôi đoán tay này là thành viên của một hội
nào đó đã thề kiêng bánh mì và mứt, vì hắn từ chối lời mời này hết sức thô lỗ,
cứ như thể phật ý với chuyện bị cám dỗ bằng cái món đó hay sao ấy, thằng cha
còn bổ sung thêm rằng nhiệm vụ của hắn là tống chúng tôi ra khỏi chỗ này.
Harris nói nếu đúng đó là nhiệm vụ thì cần
phải thi hành thôi, và hỏi tay kia xem hắn nghĩ cách nào thì tốt nhất để thực
thi được nhiệm vụ ấy. Harris thuộc loại người mà chúng ta vẫn gọi là một gã to
cao cân đối, trông vừa gân guốc vừa khỏe mạnh, và sau khi ngắm nghía đánh giá
Harris chán chê, tay kia bèn tuyên bố hắn sẽ đi hỏi ý kiến ông chủ, rồi sẽ quay
lại quăng cả hai chúng tôi xuống sông cho xem.
Dĩ nhiên chúng tôi chẳng bao giờ gặp lại hắn
nữa, và, tất nhiên, những gì hắn thật sự cần là một vài xu. Có một cơ số những
thằng du côn ven sông như thế, chúng đã kiếm được kha khá tiền trong mùa hè bằng
cái trò đi vòng vòng hai bên bờ và tống tiền những người khờ dại yếu bóng vía
như vừa rồi. Chúng tự giới thiệu chúng được chủ đất cử đến. Trong trường hợp ấy
tốt nhất là để lại tên và địa chỉ cho chủ đất - nếu như người này thật sự có gì
liên quan đến vấn đề này - gọi ta đến, và chứng minh xem ta đã gây ra thiệt hại
gì đến đất của ông ta khi ngồi lên một mẩu bé tí trong ấy. Nhưng hầu hết mọi
người đều vừa lười vừa nhát nên họ thà xì tiền ra nộp để khích lệ thêm sự bắt
chẹt này còn hơn là xử lý đến nơi đến chốn vụ việc vốn chỉ cần chút kiên định
này.
Nếu tên chủ đất nào thật sự muốn gây hấn, hắn
sẽ phải thò mặt ra. Đúng là sự ích kỷ của cái bọn chủ đất ven sông mỗi năm một
lớn. Nếu có cách chắc bọn chúng còn rào luôn cả sông Thames lại ấy chứ. Mà thật
sự thì bọn chúng đã rào chắn các nhánh sông nhỏ và vùng nước đọng ven sông rồi.
Chúng đóng cọc vào giữa dòng, giăng xích từ bên này sang bên kia và đóng những
tấm biển thông báo to tướng trên từng cái cây. Những tấm biển kiểu này đã làm
khơi dậy trong tôi mọi bản năng xấu xa nhất. Tôi muốn giật tung từng cái biển
xuống và nện nó vào đầu thằng nào đã dựng nó lên cho đến khi thằng cha ấy chết
nhe răng, rồi tôi chôn hắn và lấy cái biển ấy làm bia mộ luôn thể.
Tôi chia sẻ những cảm giác của mình với
Harris và hắn nói hắn sẽ còn tàn độc hơn thế. Hắn nói không những hắn muốn giết
chết tươi thằng nào dựng mấy tấm biển ấy lên mà còn muốn tru di cả nhà nó, cả bạn
bè họ hàng hang hốc và đốt nhà thằng ấy ra tro luôn. Theo tôi thì làm vậy hình
như hơi quá tay, tôi bảo Harris thế, nhưng hắn trả lời: “Chẳng quá tay chút nào
đâu. Xử lý chúng nó xong rồi thì tớ sẽ còn đến ca một bài vui nhộn trên đống
tro tàn nữa cơ”.
Tôi thấy thật buồn lòng khi Harris nói tiếp
với giọng điệu khát máu như thế. Chúng ta không bao giờ được để bản năng phán
xét của mình xuống cấp thành lòng hận thù như thế. Phải mất một lúc lâu tôi mới
có thể thuyết phục được Harris nhìn nhận vấn đề trên quan điểm có tính chất của
người theo đạo Cơ đốc hơn, tuy nhiên cuối cùng tôi cũng thành công, và hắn hứa
với tôi sẽ tha cho bạn bè và họ hàng hang hốc của kẻ tội đồ và sẽ không hát một
bài vui nhộn trên đống đổ nát nữa.
Bạn chưa bao giờ nghe Harris hát một bài
vui nhộn, nếu không bạn sẽ hiểu tôi đã làm được gì cho nhân loại. Một trong những
ý tưởng chắc như đinh đóng cột trong đầu Harris là hắn có thể ca một bài vui nhộn;
và trái lại, trong đầu những người bạn đã từng nghe Harris hát thì lại là hắn
không thể, và sẽ không bao giờ có thể, và hắn không được phép thử điều đó.
Khi Harris có mặt ở một bữa tiệc và được
yêu cầu hát một bài, hắn sẽ trả lời:
- À, tôi chỉ có thể hát được một khúc ca
vui nhộn thôi, quý vị biết rồi đấy. - và hắn sẽ nói câu ấy với một giọng điệu ẩn
ý rằng dù thế, tiếng hát của hắn là thứ mà bạn chỉ cần nghe một lần trong đời
là có thể nhắm mắt xuôi tay.
- Ôi, thật là tuyệt quá, - bà chủ nhà nói. -
Hát đi, ngài Harris ơi; - và Harris sẽ đứng lên đi tới chiếc đàn piano với vẻ mặt
tươi vui rạng ngời của một người hào hiệp đang sắp sửa trao tặng ai đó một món
quà.
- Xin mọi người trật tự cho, - bà chủ nhà
quay người một vòng nói, - ngài Harris sẽ hát một khúc ca vui nhộn!
- Ôi chao, thật tuyệt vời! - quan khách rì
rầm, và họ vội vàng chạy vào từ nhà kính bên cạnh, từ dưới cầu thang đi lên, gọi
những người khác từ khắp nơi trong nhà, tụ tập trong phòng khách và ngồi thành
vòng tròn, tất cả đều mỉm cười chờ đợi.
Thế rồi Harris bắt đầu.
Ta không trông chờ nhiều vào chất giọng
trong một khúc ca vui nhộn. Ta không trông chờ người hát phải phân nhịp đúng
hay xướng âm chuẩn. Ta cũng chẳng nề hà nếu như đang hát dở một nốt nhạc người
hát mới phát hiện ra mình đã lên giọng cao quá và rồi xuống tông ngay tắp lự
như một thằng dở hơi. Ta cũng chẳng mấy quan tâm đến nhịp phách. Ta chẳng nề hà
gì lắm khi một người hát nhanh hơn dàn nhạc đệm vài ba nhịp, và giảm thanh ở giữa
một đoạn để tranh cãi với người chơi piano, và sau đó bắt đầu hát lại từ đầu.
Nhưng ở ca từ thì ta có trông đợi đấy.
Ta không trông đợi một ai đó chả bao giờ nhớ
được quá ba dòng đầu của đoạn thứ nhất và cứ hát đi hát lại mãi mấy câu ấy cho
đến khi bắt đầu điệp khúc. Ta không trông đợi ai đó bỏ ngang giữa một dòng và
cười toe cười toét mà rằng, buồn cười quá, thực là phúc tổ cho anh ta nếu anh
ta nhớ ra được phần còn lại của bài hát, và rồi cố tự bịa ra; và sau đó, khi đến
một đoạn hoàn toàn khác của bài hát, hắn lại sực nhớ ra, và đột ngột ngừng lại
mà không có dấu hiệu gì báo trước, để hát lại đoạn cũ và bắt ta nghe đoạn trước
xọ đoạn sau. Ta không… à, thôi để tôi cung cấp cho bạn ít khái niệm về chuyện
Harris hát khúc ca vui rồi thì bạn tự đánh giá lấy vậy.
HARRIS (đứng trước piano phát biểu với đám
đông đang chờ đợi):
- Tôi e rằng đây là một bài hát rất xưa rồi,
quý vị biết đấy. Tôi mong là tất cả quý vị đều biết bài này. Đó là bài duy nhất
tôi biết. Đó là bài hát của ngài Thẩm phán trích trong vở Cái tạp dề - à không, tôi không định nói là vở Cái tạp dề - tôi muốn nói - quý vị biết tôi muốn nói gì rồi đấy - một
vở khác, quý vị biết đấy. Tất cả các vị phải đồng thanh hát với tôi đoạn điệp
khúc, quý vị biết rồi đấy.
Có tiếng rì rầm vui sướng và băn khoăn về
việc hòa chung đoạn điệp khúc. Khúc dạo đầu bài hát của ngài Thẩm phán trong Vụ
xử án được tay nhạc công piano bị căng thẳng thần kinh trình diễn tuyệt vời. Đã
đến đoạn Harris cần vào nhịp. Harris chẳng để ý gì hết. Nhạc công piano bị căng
thẳng bắt đầu chơi lại khúc dạo đầu và Harris bắt đầu hát đúng lúc đó, nhảy cóc
hai dòng đầu trong bài hát của ngài Bộ trưởng của vở Cái tạp dề. Nhạc công
piano bị căng thẳng cố gắng tăng tốc khúc dạo đầu, rồi bỏ cuộc, và cố chơi phần
đệm cho bài hát của ngài Thẩm phán trong vở Vụ xử án để theo kịp Harris, sau đó
nhận ra là không khớp nhạc, và cố nhớ xem mình đang làm gì, đang ở đoạn nào, rốt
cuộc cảm thấy đầu óc mình đầu hàng hoàn toàn và dừng lại ngay sau đó.
HARRIS (với vẻ khuyến khích rất tử tế): Tốt
lắm. Ông chơi thế rất ổn rồi, thực đấy, tiếp tục đi.
NHẠC CÔNG PIANO BỊ CĂNG THẲNG: Tôi e có nhầm
lẫn ở đâu đó. Ngài đang hát bài gì vậy?
HARRIS (ngay lập tức): Bài hát của ngài Thẩm
phán trong vở Vụ xử án. Ông không biết bài ấy à?
MỘT SỐ BẠN CỦA HARRIS (từ cuối phòng):
Không phải, đồ đầu đất, cậu đang hát bài của ngài Đô đốc trong vở Chiếc tạp dề
cơ mà.
Tranh luận dài dòng giữa Harris và bạn của
Harris về việc Harris thật sự đang hát gì. Cuối cùng, đám bạn hắn cũng nêu ý kiến
là Harris hát cái gì không quan trọng bằng việc hắn cứ tiếp tục hát cho xong,
và Harris, rõ ràng có một cảm giác dày vò day dứt trong thâm tâm, yêu cầu nhạc
công chơi lại từ đầu. Nhạc công, ngay sau đó bắt đầu chơi lại đoạn nhạc dạo bài
hát của ngài Đô đốc, Harris bèn tóm ngay một đoạn mà hắn coi là đoạn vào nhạc
thuận lợi nhất, và bắt đầu.
HARRIS:
“Khi
tôi còn trẻ và được gọi ra trước tòa”.
Một tràng cười rộ lên, được Harris coi như
dấu hiệu khen ngợi. Người nhạc công piano, nghĩ đến vợ và gia đình, đã từ bỏ cuộc
đua tài không cân xứng này và rút lui; một người có thần kinh vững vàng hơn thế
chỗ.
NHẠC CÔNG PIANO MỚI (vui vẻ): Bây giờ, anh
giai ơi, anh bắt đầu trước đi và tôi sẽ chơi theo. Chúng ta chẳng quan tâm đến
nhạc dạo nhạc diếc làm gì.
HARRIS (đang dần dần vỡ ra vấn đề - cười thật
tươi): Ôi Chúa ơi! Cho tôi xin lỗi nhé. Tất nhiên - tôi đã trộn lẫn hai bài hát
với nhau. Một con quỷ đã làm tôi lẫn lộn rồi, quý vị biết đấy. Bây giờ thì…
Hát; giọng hắn nghe như vọng từ dưới hầm rượu
lên, và âm trầm đầu tiên cứ như dấu hiệu cảnh báo về một trận động đất đang tiến
đến.
Khi
còn trẻ tôi phục vụ một học kỳ
Làm cậu
bé chạy việc cho hãng luật tư
(Thì thầm với nhạc công piano): Tông thế thấp
quá, ông ơi; nếu ông không phiền chúng ta sẽ bắt đầu lại nhé.
Lại hát hai câu trên lần nữa, lần này bằng
một giọng cao the thé.
Khán giả cực kỳ ngạc nhiên. Quý bà có tuổi
thần kinh yếu đứng gần lò sưởi bắt đầu khóc, người khác phải dìu bà ra ngoài.
HARRIS (tiếp tục):
Tôi
quét cửa sổ và tôi quét cửa ra vào,
Và
tôi…
Không, không, tôi lau cửa sổ của cái cửa to đằng trước. Và tôi đánh bóng sàn nhà,
không, bỏ qua, tôi xin lỗi, lạ thật, tôi không nhớ ra câu ấy. Và tôi… và tôi… ôi, chúng ta tiếp tục đến
phần điệp khúc đi thôi (hát):
Và
tôi là lá la la la la la la,
Cho đến
giờ thì tôi là người đứng đầu hải quân của Nữ hoàng rồi.
Thôi nào, điệp khúc rồi - lặp lại hai câu vừa
rồi ấy, quý vị ơi.
HỢP XƯỚNG:
Và
tôi là lá la la la la la la,
Cho đến
giờ thì tôi là người đứng đầu hải quââần của Nữ hoàng rồi
Và Harris chẳng bao giờ hiểu hắn đã biến
mình thành thứ khốn kiếp xiết bao, và đã quấy rầy đến độ nào biết bao nhiêu con
người chưa bao giờ làm gì hại đến hắn. Hắn thành thực tưởng tượng rằng như thế
là hắn đã đối đãi họ hết sức trọng vọng và nói rằng hắn sẽ hát tiếp một khúc nhạc
vui sau bữa ăn khuya.
Lại nói về các khúc nhạc vui và những buổi
tiệc, tôi nhớ ra một sự việc khá kỳ dị mà tôi đã từng góp một tay gây ra; những
thứ mà vì đã rọi sáng hoạt động tinh thần của bản tính con người nói chung nên
theo tôi cần phải được lưu giữ trên những trang giấy này.
Chúng tôi là một nhóm sang trọng và có đẳng
cấp. Chúng tôi diện những bộ đẹp nhất, chúng tôi nói năng nhã nhặn và rất vui vẻ
- tất cả đều vui vẻ trừ hai chàng trẻ tuổi, sinh viên, vừa ở bên Đức về, các chàng
dân thường trẻ tuổi có vẻ khá bứt rứt và không thoải mái, như thể họ thấy các
nghi thức ở đây chậm quá vậy. Sự thực là, chúng tôi quá thông minh so với họ.
Những cuộc đối thoại sắc sảo nhưng tinh tế cùng gu thưởng thức cao cấp của
chúng tôi vượt xa tầm của bọn họ. Họ bị lạc lõng giữa chúng tôi. Họ không bao
giờ nên xuất hiện ở đây mới phải. Sau này, tất cả mọi người đều nhất trí như vậy.
Chúng tôi chơi những đoạn trích trong tác
phẩm của các bậc thầy người Đức. Chúng tôi đàm đạo về triết học và đạo đức.
Chúng tôi tán tỉnh nhau với vẻ nghiêm trang duyên dáng. Chúng tôi thậm chí còn
hài hước nữa - theo kiểu thượng lưu.
Ai đó ngâm một bài thơ tiếng Pháp sau bữa tối
và chúng tôi khen bài ấy thật tuyệt vời; sau đó một quý bà cất giọng ca một bản
ballad đầy cảm xúc bằng tiếng Tây Ban Nha, khiến cho một hai người trong chúng
tôi bật khóc - thật thê lương.
Rồi sau đó hai chàng trai trẻ kia đứng dậy
và hỏi xem chúng tôi đã bao giờ nghe Ngài Slosseen Boschen (ông này vừa mới đến
và đang ở phòng ăn) hát khúc nhạc vui tiếng Đức tuyệt vời của ông ta chưa.
Không ai trong chúng tôi từng nghe bài này,
đó là những gì chúng tôi có thể nhớ.
Hai chàng trai trẻ bảo đó là bài hát buồn
cười nhất từng được sáng tác, và nếu chúng tôi thích thì họ sẽ đi mời cái Ngài
Slosseen Boschen mà họ rất thân ấy hát. Họ nói bài hát ấy buồn cười đến độ có một
lần Ngài Slosseen Boschen hát trước Hoàng đế nước Đức, ngài (hoàng đế vĩ đại của
nước Đức) đã phải để người ta khiêng về giường.
Họ nói không ai hát được bài ấy giống như
Ngài Slosseen Boschen; ông ấy cố làm ra vẻ nghiêm trang trong suốt cả bài hát,
đến nỗi người ta ngỡ rằng ông đang ngâm nga một điệu ca buồn vậy, và điều đó dĩ
nhiên là làm cho nó buồn cười hơn nhiều. Họ bảo chẳng bao giờ người ta nghĩ ông
ta đang hát cái gì vui vui khi nhìn vẻ mặt và nghe giọng ông hết - như thế sẽ
làm hỏng bét cả bài hát. Chính cái vẻ nghiêm trang, gần như bi ai của ông đã
khiến cho nó buồn cười không thể cưỡng lại nổi.
Chúng tôi nói mình tha thiết muốn được nghe
bài ấy, vì chúng tôi muốn cười một mẻ cho ra trò; thế là họ xuống nhà, dẫn Ngài
Slosseen Boschen lên.
Ông này có vẻ rất sẵn lòng hát cho mọi người
nghe, vì ông xuất hiện ngay và ngồi luôn xuống chỗ cây đàn piano mà chẳng nói
năng gì.
- Ôi, bài hát sẽ làm các vị thích thú. Các
vị sẽ cười lăn ra cho mà xem, - hai cậu sinh viên thì thầm khi đi ngang căn
phòng và chọn lấy một vị trí kín đáo phía sau ngài Giáo sư.
Ngài Slosseen Boschen tự đệm đàn cho mình.
Khúc dạo đầu chính xác là không làm nảy lên trong trí người nghe một bài hát
vui. Nó đem lại cảm giác u buồn kỳ lạ. Nó khiến người ta rùng mình; nhưng chúng
tôi thì thầm với nhau rằng phong cách Đức nó thế, và chuẩn bị thưởng thức nó.
Tôi thì chẳng hiểu tiếng Đức. Tôi có học ở
trường nhưng đã quên sạch sau khi tốt nghiệp được hai năm, và từ đó cảm thấy dễ
chịu hơn rất nhiều. Tuy nhiên tôi không muốn những người ở đấy nhận ra sự kém
hiểu biết của mình; vì thế tôi nảy ra một ý, mà theo tôi, đó là một sáng kiến
thông minh vô cùng. Tôi không rời mắt khỏi hai cậu sinh viên nọ và bắt chước
theo họ. Khi nào họ cười khúc khích, tôi cười khúc khích, khi họ cười phá lên,
tôi cũng cười phá lên; và thỉnh thoảng tự tôi cũng gia giảm thêm ít cười nụ và
cười mỉm cho phong phú nữa, như kiểu tôi đã tìm ra được vài điểm dí dỏm riêng
mà những người khác không phát hiện ra vậy. Tôi đã nghĩ đây là mánh đặc biệt mà
chỉ riêng mình mới có.
Khi bài hát được trình bày, tôi nhận thấy
khá nhiều người khác có vẻ cũng dán chặt mắt lên hai thanh niên kia y như tôi.
Những người này cũng cười khúc khích khi hai cậu kia cười rúc rích, cười phá
lên khi hai cậu cười phá lên; và khi hai cậu cười khúc khích rồi cười phá lên
và sau đấy cười lăn cười lộn liên tục suốt cả bài hát thì đám đông cũng hoạt động
liên tục như vậy.
Ấy thế mà vị giáo sư người Đức kia không có
vẻ gì là vui vẻ. Lúc đầu khi chúng tôi bắt đầu cười phá lên, mặt ông có vẻ kinh
ngạc cực độ, cứ như thể tiếng cười là điều cuối cùng trên đời ông trông đợi rằng
sẽ được mang ra để chào đón mình. Chúng tôi nghĩ việc này thật quá chừng dí dỏm:
chúng tôi nói rằng chỉ riêng vẻ nghiêm trang của ông cũng góp nửa phần vào sự
buồn cười rồi. Nếu ông này có chút xíu xiu manh mối nào để biết được bản thân
mình ngộ nghĩnh ra sao thì sẽ hỏng hết cả. Khi chúng tôi tiếp tục bò ra cười, sự
ngạc nhiên của ông nhường chỗ cho vẻ phẫn nộ và bực mình ghê gớm, và ông bèn mắng
mỏ thậm tệ tất cả lũ chúng tôi (chỉ trừ có hai cậu sinh viên ngồi sau lưng ông
nên ông không nhìn thấy). Chuyện này lại khiến chúng tôi cười đến thắt cả ruột.
Chúng tôi bảo nhau rằng cứ thế này thì chết hết mất thôi. Chỉ riêng lời lẽ của
ông ta, chúng tôi bảo nhau thế, đã đủ khiến chúng tôi chết ngất mất rồi, nhưng
thêm cái vẻ nghiêm trang giả vờ của ông ta nữa thì - ôi thôi, quả tình là quá sức
chịu đựng!
Đến đoạn cuối bài hát, ông ta không còn là
mình nữa. Ông ta quắc mắt nhìn khắp lượt chúng tôi với một vẻ hung tợn dữ dội đến
độ nếu không được cảnh báo về cách hát các bài hát vui nhộn kiểu Đức thì chúng
tôi hẳn đã bị căng thẳng lắm rồi; và ông ta còn tung vào đoạn nhạc bất thường ấy
một nốt nhạc ai oán đau đớn không gì tả xiết đến độ nếu không biết trước rằng
đó là một bài hát vui, chúng tôi hẳn đã trào nước mắt.
Ông ta kết thúc màn biểu diễn giữa một
tràng cười ré hoàn hảo. Chúng tôi nói đó là thứ hài hước vui nhộn nhất mà chúng
tôi từng được nghe từ khi cha sinh mẹ đẻ đến giờ. Chúng tôi nói thật kỳ lạ xiết
bao vì mặc dầu đã có những thứ như thế này rồi mà bàn dân thiên hạ vẫn cho rằng
người Đức chẳng có chút xíu khiếu hài hước nào. Và chúng tôi hỏi giáo sư sao
không dịch bài hát sang tiếng Anh để người bình thường cũng có thể hiểu được nó
và nghe xem thế nào là một bài hát vui nhộn đích thực.
Thế rồi Ngài Slossenn Boschen đứng dậy và
trở nên vô cùng đáng sợ. Ông ta chửi rủa chúng tôi bằng tiếng Đức (thứ ngôn ngữ
tôi xét thấy cực kỳ hiệu quả cho những mục đích như thế), và ông ta nhảy nhót,
vung vẩy nắm đấm và gọi chúng tôi bằng tất cả những từ tiếng Anh mà ông ta biết.
Ông ta nói cả đời chưa bao giờ bị sỉ nhục đến như thế.
Hóa ra nó chẳng phải bài hát vui nhộn gì hết.
Bài hát kể về một thiếu nữ sống ở núi Hartz đã hy sinh mạng sống để cứu linh hồn
người yêu; và cậu này cũng chết, gặp lại linh hồn cô trên không trung, và rồi ở
đoạn cuối cùng của bài hát, cậu ta phụ tình cô và bỏ đi với một linh hồn khác -
tôi không nhớ rõ chi tiết, nhưng tôi biết đó là một câu chuyện buồn. Ngài giáo
sư nói ông từng hát bài này cho Hoàng đế nước Đức nghe và ngài (hoàng đế Đức)
đã khóc nức khóc nở như một đứa trẻ. Ông (Ngài Boschen) nói rằng nhìn chung bài
hát này được coi như một trong những bài hát cảm động và bi ai nhất trong ngôn
ngữ Đức.
Đúng là một tình huống gay go đối với chúng
tôi - hết sức gay go. Có vẻ như không có lời giải nào. Chúng tôi nhìn quanh để
tìm hai thanh niên đã gây ra việc này nhưng chúng đã lặng lẽ chuồn ra khỏi đấy
ngay sau khi bài hát kết thúc.
Bữa tiệc kết thúc ở đấy. Tôi chưa bao giờ thấy
một bữa tiệc nào tàn lặng lẽ đến thế và với ít ồn ào đến thế. Chúng tôi thậm
chí còn không chào tạm biệt nhau. Chúng tôi lần lượt xuống gác, bước rón rén và
len lén nép mình vào một góc. Chúng tôi thì thầm hỏi gia nhân để lấy mũ và áo
khoác, tự mở cửa, chuồn ra ngoài và rẽ ngoặt thật nhanh, tránh đụng mặt nhau được
chừng nào hay chừng ấy.
Kể từ đó tôi không bao giờ còn hứng thú với
các bài hát Đức nữa.
Chúng tôi đến Sunbury lúc ba rưỡi. Con sông
duyên dáng xinh đẹp nằm ngay kia trước khi ta đến chỗ cổng, và vùng nước xoáy
ngược thật quyến rũ; nhưng đừng có hòng chèo thuyền lên đó.
Tôi từng thử một lần rồi. Tôi chèo bằng mái
chèo và hỏi mấy gã chiến hữu điều khiển bánh lái là bọn hắn nghĩ liệu có chèo
qua được không và bọn hắn bảo, ồ, được chứ, bọn hắn nghĩ là có thể đấy, nếu như
tôi chèo thật hăng vào. Lúc bọn hắn nói thế, chúng tôi đang ở ngay phía dưới một
cây cầu nhỏ dành cho người đi bộ bắc ngang qua hai đập nước, và tôi bèn bò ra
mà chèo, rồi ngồi thẳng dậy và chèo.
Tôi chèo cật lực. Tôi chèo thành nhịp hết sức
nhịp nhàng. Tôi sử dụng cánh tay, chân và cả lưng mình mà chèo. Tôi vận những
đường chèo mạnh, nhanh, dứt khoát và lao động thật sự nhiệt tình. Hai người bạn
của tôi bảo rằng nhìn tôi chèo thật thích thú. Sau năm phút, tôi nghĩ chúng tôi
chắc phải đến khá gần mấy cái đập rồi, và tôi ngước nhìn lên. Chúng tôi đang ở
dưới cầu, chính xác đúng tại vị trí tôi bắt đầu chèo, và hai thằng ngu kia thì
đang cười như rồ như dại. Tôi đã lao động quần quật như một thằng điên để giữ
cho con thuyền đứng nguyên tại chỗ ở dưới cây cầu đó. Bây giờ thì tôi kệ cho mọi
người đi mà chèo ngược dòng.
Chúng tôi chèo đến Walton, một nơi khá lớn
so với một thị trấn ven sông. Giống như với tất cả những thị trấn ven sông
khác, chỉ có một góc nhỏ xíu của nó chạy xuống bên mép nước, vì thế nhìn từ
thuyền ta có lẽ sẽ tưởng rằng đó là một ngôi làng chỉ có chừng dăm sáu nóc nhà
cả thảy. Windsor và Abingdon là những thị trấn duy nhất nằm giữa London và
Oxford mà từ trên sông ta có thể thực sự nhìn cho ra nhìn. Tất cả những thị trấn
khác đều ẩn phía sau các ngã rẽ và chỉ hé ra có một góc phố tí xíu tiếp giáp với
bờ nước; tôi thấy thật biết ơn chúng vì đã chu đáo để bờ sông lại cho những khu
rừng, cánh đồng và trạm cấp nước.
Thậm chí Reading, mặc dù đã cố hết sức để hủy
hoại, để làm hoen ố và bôi xấu dòng sông ở bất kỳ chỗ nào nó vươn tới được,
cũng đủ tốt tính để giữ cho bộ mặt xấu xí của nó tránh xa tầm nhìn.
Dĩ nhiên Caesar đã có một tòa lâu đài nhỏ ở
Walton - một trại lính, một cái hào hay thứ gì đó tương tự. Caesar là một con
người sông nước đích thực. Lại thêm nữ hoàng Elizabeth nữa, bà cũng đã từng ở
đó. Dù có đi đến đâu thì ta vẫn chẳng bao giờ thoát khỏi người đàn bà đó.
Cromwell và Bradshaw (không phải kẻ chỉ điểm mà là tên đao phủ của vua Charles)
cũng từng tạm trú tại đó. Bọn họ mà tề tựu lại thì hẳn phải là một nhóm vui phải
biết.
Có một cái “khóa miệng” bằng sắt ở nhà thờ
Walton. Thời xưa người ta dùng thứ ấy để kiềm chế miệng lưỡi của đàn bà. Giờ
thì họ từ bỏ nỗ lực ấy rồi. Tôi cho rằng vì sắt đang càng ngày càng hiếm, mà lại
chẳng có loại gì khác đủ lực.
Cũng có nhiều ngôi mộ đáng chú ý trong nhà
thờ ấy, và tôi đã e rằng mình sẽ chẳng bao giờ lôi nổi Harris thoát khỏi mấy
cái mộ ấy; nhưng hắn có vẻ không để tâm đến chúng, và chúng tôi đi tiếp. Qua khỏi
cây cầu, con sông uốn éo cật lực. Việc này khiến cảnh quan trông đẹp như tranh;
nhưng xét theo quan điểm của người phải chèo hay kéo thuyền thì việc ấy dễ khiến
ta phát cáu và, nó cũng gây nên nhiều tranh cãi giữa người chèo và người lái.
Ven bờ sông bên phải, ta sẽ đi qua công
viên Oatlands. Đó là một địa điểm nổi tiếng đã khá lâu đời. Vua Henry VIII đã
đoạt lấy nơi này từ tay người nào đó, giờ thì tôi quên béng mất là ai rồi, và sống
tại đấy. Trong công viên có một cái hang mà ta phải mua vé mới được vào xem và
người ta cho rằng nó vô cùng tuyệt vời; nhưng tôi thì chẳng thấy có gì hay ho.
Nữ Công tước xứ York quá cố, vốn từng sống tại Oatlands, rất yêu chó và nuôi cả
một đàn đông đúc. Bà ta đã cho xây một khu mộ đặc biệt để khi chúng chết sẽ được
chôn tại đấy, và chúng nằm đó, khoảng năm mươi con, con nào cũng có bia mộ và
văn bia kèm theo.
Vậy đấy, tôi dám nói rằng chúng xứng đáng với
những thứ ấy không thua gì một người Cơ đốc bình thường.
Tại “Những Chiếc Cọc Corway” - khúc quanh đầu
tiên nằm trên đoạn sông từ cầu Walton ngược lên thượng nguồn - đã từng có một
trận chiến giữa Caesar và Cassivelannus. Cassivelannus đã bày binh bố trận trên
sông để chờ Caesar bằng cách đóng đầy cọc bên dưới (và chắc chắn là không chăng
cái biển thông báo nào). Nhưng dù có thế Caesar vẫn đi qua được. Ta không thể
dùng con sông để nuốt chửng Caesar. Ông thuộc kiểu người mà bây giờ ta muốn có
bên cạnh khi qua vùng nước xoáy.
Cả Halliford lẫn Shepperton đều là những địa
điểm nhỏ nhắn xinh xắn tại những chỗ chúng tiếp giáp với con sông, nhưng nói
chung chúng không có gì đáng chú ý. Tuy nhiên ở nghĩa địa Shepperton có một
ngôi mộ trên khắc một bài thơ, và tôi đã lo rằng Harris có thể sẽ muốn lượn lờ
lãng phí thời gian cho nó. Khi chúng tôi đến gần bến tàu, tôi nhận thấy hắn dán
con mắt hau háu lên đó, vì thế với một động tác khéo léo, tôi cố tình hất cái
mũ của hắn bay xuống nước, và trong niềm hân hoan vì giành lại được nó cộng với
nỗi căm phẫn trước sự vụng về của tôi, hắn đã quên sạch mấy ngôi mộ yêu quý của
mình.
Ở Weybridge, kênh Wey (một con kênh xinh xắn
nơi thuyền nhỏ có thể đi qua để đến Guildford, và là con kênh mà tôi đã luôn dự
tính sẽ thám hiểm nhưng chưa bao giờ thám hiểm), kênh Bourne và kênh đào
Basingstoke đều đổ vào sông Thames. Cửa sông nằm ngay đối diện với thị trấn và
thứ đầu tiên chúng tôi thấy khi thị trấn lọt vào tầm mắt là cái áo cộc tay của
George trên một trong các cánh cổng ở cửa sông, và đến khi quan sát gần hơn thì
thấy có George ở trong.
Con Montmorency oăng oẳng một tràng điếc
tai, tôi ré lên, Harris gầm lên; George vẫy mũ hét đáp trả. Người gác cửa sông
lao ra mang theo câu móc vì tưởng có người rơi xuống nước và có vẻ hết sức bất
bình khi thấy chẳng có ai bị như thế cả.
George cầm trong tay một cái gói lạ mắt bọc
vải dầu. Gói này tròn và một đầu dẹt với một cái tay cầm dài thòi ra ngoài.
- Cái gì thế? - Harris hỏi. - Chảo à?
- Không, - George nói với một tia nhìn lạ
lùng hoang dại trong mắt, - mấy cái này đang mốt đấy; ai cũng mang chúng khi đi
trên sông. Đấy là một cái đàn banjo.
- Tớ không biết là cậu lại chơi đàn banjo
cơ đấy! - Harris và tôi gào lên cùng một lúc.
- Không hẳn thế, - George trả lời, - nhưng
người ta bảo tớ là chơi cũng dễ thôi, và tớ có sách hướng dẫn cơ mà!
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét