Thứ Ba, 21 tháng 1, 2020

Ba Gã Cùng Thuyền (Chưa Kể Con Chó) - Chương 15

Ba Gã Cùng Thuyền (Chưa Kể Con Chó)
(Three Men in Boat)

Tác giả: Jerome K. Jerome
Người dịch: Petal Lê
NXB Văn Học - 2016

Chương 15

Trách nhiệm gia đình - Tình yêu lao động - Bờ sông xưa, những gì anh ta đã làm và những gì anh ta bảo đã làm - Sự hoài nghi của thế hệ mới - Hồi tưởng ban đầu về chuyến chơi thuyền - Thả bè - George sành điệu - Người lái thuyền già và phương pháp của ông - Thật yên bình, êm ả làm sao - Người mới vào nghề - Đi thuyền thúng - Một tai nạn buồn - Những điều thú vị của tình bạn - Căng buồm, kinh nghiệm đầu tiên của tôi - Lý do hợp lý tại sao chúng tôi không chết đuối.

SÁNG HÔM SAU CHÚNG TÔI DẬY KHÁ MUỘN, và, theo mong muốn tha thiết nhất của Harris, cùng chia sẻ một bữa sáng đơn giản, không “kén ăn” gì hết. Rồi chúng tôi dọn dẹp và sắp xếp mọi thứ cho gọn gàng ngăn nắp (một công việc nặng nhọc liên miên bắt đầu khiến tôi có cái nhìn thông suốt hơn về một vấn đề thường khiến tôi băn khoăn - ấy là, làm sao một phụ nữ có thể tiêu tốn hết thời gian của mình trong khi chỉ phải đảm đương công việc của mỗi một hộ gia đình), và đến khoảng mười giờ chúng tôi bắt đầu một chuyến đi mà tất cả đều xác định sẽ là một chuyến du hành tốt lành.
Chúng tôi nhất trí rằng sáng nay sẽ chèo thuyền để có chút thay đổi so với việc kéo thuyền, và Harris nghĩ tiện nhất là George và tôi chèo còn hắn lái. Tôi chẳng hề phụ họa ý kiến này; tôi bảo theo tôi, Harris sẽ chứng tỏ hắn là một con người chân chính hơn nếu đề xuất hắn và George sẽ lao động còn để tôi nghỉ ngơi một lúc. Tôi thấy có vẻ như trong chuyến đi này tôi đã làm nhiều hơn phần việc của mình và tôi bắt đầu cảm thấy bực với vấn đề này rồi.
Có vẻ như lúc nào tôi cũng phải làm nhiều hơn so với nghĩa vụ của mình. Không phải tôi phản đối lao động, xin quý vị lưu ý cho; tôi yêu lao động; công việc khiến tôi bị mê hoặc, tôi có thể ngồi nhìn nó hàng tiếng cũng được. Tôi thích giữ nó bên mình; chỉ nghĩ đến việc rũ bỏ nó cũng khiến tôi gần như tan nát trái tim.
Bạn không thể trao cho tôi quá nhiều việc; dồn đống công việc gần như đã trở thành niềm đam mê của tôi; việc nghiên cứu công việc của tôi bây giờ đã kín mít đến độ chẳng còn chỗ trống để cho thêm việc vào nữa. Tôi sẽ sớm kiệt sức mất thôi.
Và tôi cũng biết giữ gìn công việc của mình nữa. Này nhé, một số công việc tôi đang giữ bây giờ đã thuộc sở hữu của tôi năm này qua năm khác, và chẳng có một dấu tay nào trên ấy. Tôi tự hào về công việc của mình ghê gớm; thỉnh thoảng tôi tháo xuống và phủi bụi cho nó. Không ai bảo quản công việc của mình tốt hơn tôi.
Nhưng, mặc dù khao khát công việc, tôi vẫn muốn công bằng. Tôi sẽ không đòi hỏi nhiều hơn so với phần của mình.
Nhưng tôi vẫn nhận được việc dù không đòi hỏi - ít nhất đối với tôi là thế - và việc này làm tôi lo ngại.
George bảo hắn không nghĩ tôi cần phải băn khoăn về vấn đề này. Hắn nghĩ chỉ do bản tính thận trọng quá mức nên tôi mới sợ mình phải làm nhiều hơn phận sự; và rằng, thực ra tôi còn chưa làm đến một nửa phần việc của mình. Nhưng tôi cho là hắn chỉ nói thế để an ủi tôi thôi.
Trên một con thuyền, tôi luôn nhận thấy mỗi thành viên thủy thủ đoàn đều có cái suy nghĩ bất di bất dịch rằng anh ta đang phải làm tất cả mọi việc. Quan điểm của Harris là chỉ có mỗi mình hắn làm việc mà thôi, và rằng cả George lẫn tôi đều lợi dụng hắn. Trong khi đó, George cười khẩy trước cái ý kiến cho rằng Harris làm được bất cứ chuyện gì ngoài ăn và ngủ, và hắn khẳng định một cách chắc như đinh đóng cột rằng chính hắn - George - là người đã phải làm tất cả những công việc đáng kể.
Hắn nói hắn chưa bao giờ đi chơi với những tên trốn việc lười nhác nào như Harris và tôi.
Việc này làm Harris buồn cười lắm.
- George già hâm nói về lao động cơ đấy! - hắn cười phá lên; - thế tại sao chỉ nửa tiếng lao động cũng đủ giết chết hắn nhỉ. Cậu đã bao giờ thấy George lao động chưa? - hắn nói thêm, quay về phía tôi.
Tôi đồng ý với Harris là tôi chưa bao giờ thấy thế - chắc chắn là chưa kể từ khi chúng tôi khởi hành.
- Được thôi, tôi chẳng hiểu các cậu làm sao để biết được cái việc ấy, dù bằng cách này hay cách khác, - George vặn lại Harris, - vì tôi sẽ thật may mắn nếu các cậu không ngủ hết cả nửa thời gian. Cậu đã bao giờ thấy Harris hoàn toàn tỉnh ngủ, ngoại trừ lúc ăn chưa? - George hỏi tôi.
Sự thật buộc tôi phải ủng hộ George. Ngay từ lúc khởi hành, cứ dính đến cái gì cần giúp đỡ trên thuyền là Harris chẳng tỏ ra hữu ích được bao nhiêu.
- Này, khoan đã, dù sao thì tớ cũng lao động nhiều hơn lão J. đấy chứ, - Harris xía vào.
- Ái chà, đúng là cậu không thể lao động ít hơn được đâu, - George đế thêm.
- Tớ cho rằng J. nghĩ hắn là hành khách đấy, - Harris tiếp tục.
Và đó là cách bọn hắn bày tỏ lòng biết ơn đối với tôi vì đã mang cả bọn hắn lẫn con thuyền già nua ọp ẹp này suốt từ Kingston tới đây và vì đã trông nom mọi việc cho bọn hắn, chăm sóc bọn hắn và làm nô lệ cho bọn hắn. Đó chính là cách thế giới vận hành đấy.
Chúng tôi giải quyết khó khăn hiện tại bằng cách bố trí cho Harris và George chèo qua Reading, còn tôi sẽ phải kéo thuyền kể từ đó. Bây giờ tôi chẳng còn mấy hứng thú với chuyện kéo một con thuyền nặng đi ngược dòng nữa. Đã có thời, lâu lắm rồi, tôi từng kêu la đòi làm việc nặng: bây giờ tôi muốn trao cho cánh trẻ một cơ hội.
Tôi nhận thấy hầu hết những tay kỳ cựu sông nước ai cũng đều lui về hậu trường mỗi khi cần chèo chắc tay. Nói chung ta luôn có thể chỉ ra ai là tay kỳ cựu sông nước nhờ cách hắn duỗi người trên tấm đệm ở đáy thuyền và khích lệ các tay chèo bằng cách kể cho họ nghe các giai thoại về những kỳ công chói lọi mà hắn đã thực hiện năm ngoái.
“Gọi những gì các cậu đang làm là lao động nặng nhọc ấy à!”, hắn dài giọng giữa hai lần khịt mũi tự mãn, nói với hai tay chèo tập sự đầm đìa mồ hôi đã cật lực chèo ngược dòng suốt một tiếng rưỡi qua; “này nhé, năm ngoái Jim Biffles, Jack và tôi đã chèo từ Marlow đến Goring chỉ trong một buổi chiều thôi đấy - không dừng lại lấy một lần. Cậu còn nhớ không, Jack?”
Jack, nhân vật đã tự dọn cho mình một cái giường ở mũi thuyền bằng tất thảy chăn gối cùng áo khoác thu thập được và suốt hai tiếng qua đã nằm ườn ra đó mà ngủ, hơi hơi tỉnh dậy nhờ có sự kêu gọi này và hồi tưởng lại toàn bộ câu chuyện, lại nhớ thêm rằng hồi đó còn có một con nước mạnh ngược dòng bất thường nữa - cứ như một cơn cuồng phong vậy.
“Chắc phải ba mươi tư dặm, phải thế đấy”, vị diễn giả đầu tiên nói thêm, với tay lấy thêm một cái đệm nhét xuống dưới gáy.
“Không, không; đừng có phóng đại thế, Tom”, Jack lẩm bẩm vẻ trách móc; “chỉ độ ba mươi ba dặm thôi”.
Rồi Jack và Tom, khá kiệt sức vì nỗ lực trao đổi thông tin này, lại gục xuống ngủ tiếp. Còn hai tay chèo trẻ chất phác thì cảm thấy khá tự hào vì được phép chở những tay chèo tuyệt vời như Jack và Tom, bèn lao động cật lực hơn bao giờ hết.
Hồi trẻ, tôi từng được các vị huynh trưởng kể cho nghe nhiều chuyện như thế, và tiếp nhận chúng, nuốt lấy từng lời và đòi nghe thêm nữa; nhưng thế hệ mới có vẻ không có được niềm tin ngây thơ của thời xưa đó. Chúng tôi - George, Harris và tôi - năm ngoái đã đi cùng một tay chèo mới vào nghề, và chúng tôi ra sức tấn công cậu ta bằng những lời bịa đặt thông thường về những kỳ công mà chúng tôi đã thực hiện được.
Chúng tôi nhồi cho cậu mọi câu chuyện theo đúng quy củ - những lời nói dối truyền thống về trách nhiệm trên sông nước đã đi theo mọi người chèo thuyền từ hàng bao nhiêu năm nay - và bổ sung bảy câu chuyện mới toanh do chúng tôi tự sáng tác, gồm cả một chuyện y như thật mà xét theo mức độ nào đó thì quả là đã được dựa trên những tình tiết thật đã thực sự xảy ra với bạn bè chúng tôi nhiều năm trước, chỉ có điều đã được chỉnh sửa đôi chút - một câu chuyện mà trẻ con có thể tin được, chẳng tác hại gì.
Và cậu thanh niên kia đã nhạo báng tất cả những câu chuyện ấy, thỉnh thoảng còn đề nghị chúng tôi kể lại các chiến công, rồi cá mười ăn một rằng chúng tôi đã không làm được như thế.
Sáng nay chúng tôi tán gẫu về kinh nghiệm chèo thuyền của mình và kể lại những nỗ lực đầu tiên của chúng tôi trong nghệ thuật chèo thuyền. Kỷ niệm xa xưa nhất mà tôi nhớ được là năm chúng tôi mỗi người góp ba xu trèo lên một cái bè được thiết kế rất kỳ lạ trên hồ công viên Regent và sau đấy phải lau khô người trong nhà của bảo vệ công viên.
Sau vụ đó, có được niềm yêu thích sông nước rồi, tôi đã nhiều lần lái bè trong các trại gạch ngoại ô - một việc khiến ta thích thú và phấn khích hơn tưởng tượng nhiều, nhất là khi ta đang ở giữa ao thì chủ nhân của các thứ vật liệu kết nên cái bè bỗng dưng xuất hiện trên bờ, tay lăm lăm cây gậy to tổ chảng.
Cảm giác đầu tiên lúc ta nhìn thấy quý ông này là, không hiểu sao, ta cảm thấy mình không đủ khả năng đồng hành hay trò chuyện, và rằng nếu có thể làm thế này mà không tỏ ra thô lỗ thì ta thà tránh gặp ông ta còn hơn; và do đó mục tiêu của ta là trèo lên bờ ao đối diện chỗ ông ta và lẳng lặng chuồn vội về nhà, vờ như không nhìn thấy ông ta. Ông ta, trái lại, tha thiết muốn nắm tay trò chuyện với ta.
Có vẻ như ông ta quen bố ta, và cũng biết ta khá rõ, nhưng điều này cũng không lôi kéo được ta về phía ông. Ông ta nói ông ta sẽ dạy ta kết bè bằng các tấm ván của ông ta; nhưng xét tới việc ta đã khá thạo việc này rồi thì lời mời ấy, dù rõ ràng vô cùng tử tế, vẫn có vẻ hơi thừa và ta bất đắc dĩ phải gây phiền cho ông ta bằng cách chấp nhận nó.
Tuy nhiên niềm mong mỏi được gặp ta của ông này miễn nhiễm với mọi sự lạnh nhạt của ta, và cái cách ông ta hăm hở đi qua đi lại khắp ao sao cho có thể xuất hiện đúng chỗ để đón mừng khi ta cập bờ thật sự khiến ta được tâng bốc ghê gớm.
Nếu ông ta là người mập lùn, ta có thể dễ dàng tránh được những răn dạy của ông ta, nhưng nếu người này thuộc tạng trẻ trung, cao ráo thì chẳng thể thoát khỏi cuộc gặp gỡ. Tuy nhiên cuộc phỏng vấn vô cùng ngắn gọn và hầu hết câu nói đều là từ phía ông ta, những bình luận của ta phần lớn chỉ là một từ cảm thán đơn âm và ngay khi có thể dứt ra được là ta chuồn ngay.
Tôi đã cống hiến khoảng ba tháng cho việc lái bè, và ngay khi đã đủ thành thạo trong nghệ thuật này, tôi quyết định học cách chèo thuyền và gia nhập một trong những câu lạc bộ bơi thuyền Lea.
Có mặt trong một con thuyền trên sông Lea, nhất là vào chiều Chủ nhật, sẽ sớm khiến ta thành thạo trong việc điều khiển bè, nhanh nhẹn trong việc chạy thoát khỏi bọn du côn hay tránh khỏi bị mấy cái sà lan làm cho sa lầy; và nó còn mang đến vô khối cơ hội để tiếp thu phương pháp nằm úp sấp xuống sàn thuyền một cách duyên dáng và nhanh chóng nhất sao cho khỏi bị hất ra sông khi băng qua đám dây kéo thuyền.
Nhưng nó không mang đến cho ta phong cách. Chỉ tới khi đến sông Thames tôi mới có phong cách. Phong cách chèo thuyền của tôi bây giờ đang rất được hâm mộ. Người ta nói nó trông hay hay lạ lạ vô cùng.
George mãi đến năm mười sáu tuổi mới đến gần mặt nước. Hồi đó một hôm thứ Bảy, hắn và tám quý ngài sêm sêm tuổi nhau kéo xuống Kew với ý định thuê một con thuyền ở đó, chèo đến Richmond rồi quay lại; một trong số họ, một thanh niên tóc tai bù xù tên Joskins từng một hai lần đi thuyền trên Serpentine, bảo bọn hắn rằng chèo thuyền cực kỳ vui!
Khi bọn họ đến được bến tàu thì thủy triều đang lên nhanh, và trên sông có gió mạnh, nhưng bọn hắn không hề nao núng mà vẫn đi chọn thuyền.
Có một chiếc thuyền đua tám mái chèo đang đậu trên bến; đấy chính là chiếc thuyền bọn hắn thích. Bọn hắn bảo xin để cho bọn hắn con thuyền đó đi. Người chủ thuyền đã đi vắng, chỉ còn mỗi cậu con trai ở đó. Cậu bé cố gắng dập tắt nhiệt tình của bọn hắn dành cho chiếc thuyền đua và chỉ cho bọn hắn hai ba chiếc thuyền trông rất tiện nghi khác do gia đình cậu đóng, nhưng chẳng ăn thua gì; cái thuyền có mái chèo kia mới đúng là cái bọn hắn cho là tốt nhất.
Vậy là cậu bé cho thuyền hạ thủy, và bọn hắn cởi áo khoác sẵn sàng vào chỗ. Cậu bé đề nghị George, người mà kể cả vào cái thời xa xưa ấy vẫn luôn là kẻ to béo nhất trong bất kỳ nhóm hội nào, sẽ là số bốn. George nói hắn rất vui lòng được là số bốn, và ngay lập tức ngồi vào chỗ mũi thuyền quay lưng lại phía đuôi thuyền. Cuối cùng thì người ta cũng làm cho hắn ngồi đúng vị trí, và những người khác vào theo.
Một cậu chàng vô cùng căng thẳng được chỉ định làm người điều khiển thuyền, và Joskins giải thích các nguyên tắc lái thuyền cho cậu này nghe. Joskins sẽ chèo giữ nhịp. Hắn bảo những người kia là đơn giản lắm, tất cả những gì cần làm là bắt chước theo hắn thôi.
Cả bọn tuyên bố sẵn sàng, và cậu nhóc trên bến lấy sào đẩy bọn họ rời bờ.
Chuyện gì xảy ra sau đó thì George không tài nào mô tả chi tiết được. Hắn nhớ lại khá lộn xộn rằng ngay khi bắt đầu khởi hành, lưng hắn bị mông của tay chèo số năm huých một cú chí mạng, cùng lúc đó ghế của hắn dường như biến mất một cách thần kỳ, để hắn ngồi trên sàn. Hắn cũng nhận thấy một tình huống kỳ lạ là lúc đó tay chèo số hai ngay lập tức nằm kềnh ra trên sàn thuyền, chân chổng lên trời, có vẻ đã ngất đi.
Họ chui qua cầu Kew, phía bên mạn, với vận tốc tám dặm một giờ. Joskins là người duy nhất còn chèo. George, khi ngồi lại được rồi, cố gắng hỗ trợ anh ta nhưng khi nhúng chèo xuống nước, trước sự sửng sốt tột độ của hắn, cái mái chèo ngay lập tức biến mất dưới con thuyền và suýt nữa lôi hắn theo luôn.
Rồi thì “người điều khiển thuyền” vứt cả hai cái bánh lái qua mạn và khóc nức khóc nở.
Làm thế nào bọn hắn quay trở lại được thì George không bao giờ biết, nhưng cả bọn đã phải mất đến bốn mươi phút. Một đám người đông nghịt thích thú theo dõi trò tiêu khiển này từ cầu Kew và ai nấy cũng đều gào lên với bọn hắn từ đủ mọi hướng. Ba lần bọn hắn tìm cách cho thuyền quay lại qua nhịp cầu, cũng là ba lần bọn hắn bị mắc ở bên dưới nó, và mỗi lần “người điều khiển thuyền” ngẩng lên nhìn thấy cây cầu ở trên đầu, anh ta lại tuôn ra những cơn thổn thức mới.
George bảo rằng buổi chiều hôm đó hắn gần như không thể nghĩ rằng có khi nào đó mình lại có thể thật sự thích đi chơi thuyền.
Harris thì quen chèo trên biển hơn trên sông và nói rằng nếu coi đó là một môn thể dục thì hắn thích thế hơn. Tôi thì không. Tôi nhớ hè năm ngoái đã chèo một con thuyền nhỏ trên Eastbourne: trước đây tôi đi thuyền trên biển nhiều rồi, và tôi nghĩ sẽ ổn thôi; nhưng hóa ra tôi đã quên sạch nghệ thuật chèo rồi. Khi một mái chèo vục sâu dưới làn nước, mái chèo kia sẽ khua khoắng loạn xạ trong không khí. Để cả hai mái chèo rẽ nước đi cùng lúc, tôi phải đứng lên. Khu phố này đông đặc những con người thanh lịch cao quý, và tôi phải chèo qua họ trong cái bộ dạng nực cười này. Đi được nửa đường thì tôi cho thuyền lên bờ nhờ một bác chài già đưa về.
Tôi thích ngắm một bác chài già chèo thuyền, nhất là những người được thuê theo giờ. Trong cách chèo của họ có một vẻ bình tĩnh thư thái thật đẹp. Nó như hoàn toàn thoát khỏi sự vội vã bực bội, sự vật lộn kịch liệt mà càng ngày càng trở thành tai ương của cuộc sống thế kỷ mười chín. Bác chài không cố sức vượt qua thuyền khác. Nếu bị thuyền nào bắt kịp và vượt qua, bác không bận lòng; và thực tế là các thuyền khác đều bắt kịp và vượt qua bác - tất cả những thuyền đi cùng hướng với bác. Với một số người thì chuyện này hẳn đã gây ra khó chịu bực mình rồi; sự thư thái siêu phàm của bác chèo thuyền thuê dưới thử thách này cho chúng ta một bài học tuyệt đẹp về việc chống lại tham vọng và bon chen.
Chèo thuyền hợp rơ không phải một nghệ thuật quá khó đạt được, nhưng nó đòi hỏi một anh chàng phải thực hành kha khá thì mới có thể cảm thấy thoải mái khi chèo trước mắt phụ nữ. Đó là “thời điểm” làm một thanh niên lo lắng. “Vui thật đấy”, cậu ta nói trong khi gỡ mái chèo của mình ra khỏi mái chèo của bạn lần thứ hai mươi trong năm phút vừa qua; “khi tôi đi một mình thì ổn cả!”
Thật hết sức thú vị khi nhìn hai chàng tân binh cố gắng theo nhịp của nhau. Người chèo mũi nhận thấy không thể giữ vận tốc theo người đứng lái vì người này chèo theo một kiểu đến là khác thường. Người đứng lái vô cùng phẫn nộ với điều này, và giải thích rằng suốt mười phút vừa rồi cậu ta đã cố gắng điều chỉnh phương pháp chèo để phù hợp với năng lực hạn chế của người chèo mũi. Đến lượt người chèo mũi thấy bị xúc phạm và yêu cầu người đứng lái khỏi cần quan tâm đến anh ta (người chèo mũi) làm gì, chỉ việc cống hiến tâm sức để đứng lái cho hợp lý là được.
“Ôi, tôi có nên đứng lái không đây?” anh ta nói thêm, với cái ý rõ rành rành rằng việc này ngay lập tức sẽ giải quyết được toàn bộ vấn đề.
Họ bì bõm thêm một trăm mét nữa với thành công vẫn tương đối khiêm tốn, và rồi toàn bộ bí mật về vấn đề của họ đột ngột sáng bừng lên trong tâm trí người đứng lái như một tia sáng cảm hứng.
“Tôi bảo nhé: cậu cầm mái chèo của tôi đi”, anh ta gào lên, quay lại phía người chèo mũi; “đưa mái chèo cậu đây”.
“Được thôi, cậu biết không, tôi đang tự hỏi không biết sao mình chẳng thể xoay sở được với chúng nữa”, người chèo mũi trả lời, rạng rỡ hẳn lên và hết sức ủng hộ sự trao đổi này. “Bây giờ chúng ta sẽ ổn thôi”.
Nhưng họ không ổn - ngay cả lúc đó cũng không. Người đứng lái bây giờ phải vươn cánh tay gần như đứt khỏi bả vai để với lấy mấy cái mái chèo; trong khi mái chèo của người chèo mũi, mỗi khi được kéo lại đều cho anh này một đập ra trò vào ngực. Vì thế họ lại đổi một lần nữa và đi đến kết luận rằng cái người đưa mái chèo cho họ đã nhầm lẫn hết cả; và với việc cùng lên tiếng rủa xả người này, cả hai đã trở nên hết sức thân thiện và thông cảm cho nhau.
George bảo hắn thường mong được đi thuyền thúng để đổi gió. Chèo thuyền thúng không dễ như ta tưởng. Cũng như chèo thuyền có mái chèo, ta sẽ sớm học được cách xoay xở và vận dụng các mánh khóe, nhưng phải thực hành chán mới có thể chèo một cách đường hoàng mà không làm bắn nước lên khắp tay áo.
Một thanh niên tôi quen đã gặp phải một tai nạn đáng buồn khi lần đầu chèo thuyền thúng. Anh ta xoay sở khá tốt, đến mức càng lúc càng bạo gan, đi đi lại lại trên thuyền thúng, khua khoắng cây sào với vẻ duyên dáng bất cẩn nhìn khá hấp dẫn. Thế rồi anh ta diễu đến trước mũi thuyền, cắm sào xuống rồi chạy đến mũi thuyền bên kia như một tên ngốc. Ôi! Đến là hoành tráng.
Và mọi việc hẳn vẫn sẽ hoành tráng như thế nếu không phải trong khi mải nhìn ngang nhìn ngửa thưởng thức cảnh quan, anh ta không may bước thừa một bước và ngã lộn khỏi con thuyền. Chiếc sào cắm chặt dưới bùn, còn anh ta bị treo lủng lẳng ở đó trong khi con thuyền trôi đi mất. Đấy là một tư thế không được đường hoàng cho lắm với anh ta. Một thằng nhóc bất lịch sự trên bờ ngay lập tức gào lên với một thằng quỷ khác đi sau là “nhanh đến xem khỉ leo cây này”.
Tôi không thể đến giúp anh ta được vì rủi thay chúng tôi đã không nhận được lời khuyến cáo đúng đắn phải mang thêm sào dự phòng. Tôi chỉ có thể ngồi nhìn anh ta. Tôi sẽ không bao giờ quên vẻ mặt anh ta lúc cả sào cả người từ từ chìm xuống; thật quá nhiều suy tư trên ấy.
Tôi chứng kiến anh ta dần dần chìm xuống mặt nước rồi nhìn anh ta bò lổm ngổm lên bờ, ướt sũng và buồn bã. Tôi không nhịn được cười, trông anh ta ngộ nghĩnh không tả được. Tôi vẫn còn khúc khích cười một mình thêm một lúc nữa, rồi bỗng nhiên tôi nhận ra rằng khi nghĩ về chuyện đó thật sự chẳng có nhiều thứ để cười cho lắm. Tôi ngồi đó, một mình trong thuyền thúng, không có sào và bất lực trôi theo dòng nước - rất có thể về phía một con đập.
Tôi bắt đầu thấy phẫn nộ với bạn mình vì đã trèo ra khỏi thuyền mà đi mất như thế. Dù sao thì hắn cũng nên để lại cho tôi cái sào chứ.
Tôi trôi độ một phần tư dặm thì lọt vào tầm nhìn của một chiếc thuyền thúng câu cá bỏ neo giữa dòng, trên có hai bác chài già. Họ nhìn thấy tôi đang tiến về chỗ họ bèn gọi với ra để tôi tránh đường.
- Tôi không thể, - tôi hét với lại.
- Nhưng anh đã thử đâu, - họ trả lời.
Tôi giải thích vấn đề cho họ biết khi tới gần hơn, và họ giữ tôi lại rồi cho tôi mượn một cái sào. Con đập chỉ cách đó có năm mươi mét. Tôi thật mừng vì có họ ở đó.
Lần đầu tiên tôi đi thuyền thúng là cùng với ba tên khác; bọn chúng sẽ cho tôi xem đi thuyền thúng ra sao. Chúng tôi không thể khởi hành cùng nhau, vậy nên tôi nói tôi sẽ xuống trước, kiếm một cái thuyền thúng, và rồi tôi có thể lang thang tập luyện một chút cho tới khi họ đến.
Chiều hôm đó tôi không thể thuê được thuyền thúng, tất cả đều đã có người; vì thế tôi chẳng biết làm gì ngoài việc ngồi bên bờ sông ngắm nhìn dòng nước và chờ các bạn.
Ngồi chưa được bao lâu thì tôi chợt chú ý tới một người đàn ông trên một chiếc thuyền thúng, ngạc nhiên nhận thấy anh ta đang mặc áo khoác và đội mũ giống hệt tôi. Rõ ràng anh ta là người mới tập chèo thuyền thúng, và màn trình diễn của anh ta thì không thể thú vị hơn được. Ta chẳng bao giờ biết điều gì sẽ xảy ra khi anh ta ấn cây sào xuống; rõ ràng chính anh ta cũng không biết. Có lúc anh ta tiến lên, có lúc lùi xuống, và có lúc thì chỉ đơn giản là xoay vòng vòng rồi tiến về phía bên kia cây sào. Và với mọi kết quả đạt được, anh ta dường như đều ngạc nhiên và bực bội như nhau.
Sau một lúc thì người người quanh sông bắt đầu bị anh này thu hút ghê gớm và bắt đầu cá với nhau xem lần cắm sào tới của anh ta sẽ đạt được thành quả gì.
Đúng lúc đó các bạn tôi đã về đến bờ bên kia, và bọn chúng cũng dừng lại ngắm anh chàng. Lưng anh ta quay về phía bọn chúng, nên chúng chỉ nhìn thấy áo khoác và mũ của anh ta thôi. Ngay lập tức bọn chúng dựa vào đó để kết luận rằng người ấy là tôi, bạn đồng hành yêu quý của chúng, người đang phô mình ra trước bàn dân thiên hạ, và niềm vui sướng của bọn chúng thật vô bờ bến. Bọn chúng bắt đầu giễu cợt anh ta không thương tiếc.
Ban đầu tôi không biết bọn chúng nhầm lẫn và tôi nghĩ, “Cái bọn này thật thô lỗ khi cư xử như thế với một người hoàn toàn xa lạ!”. Nhưng chưa kịp hét lên quở trách bọn chúng thì tôi đột nhiên hiểu ra vấn đề và bèn nấp dưới một cái cây.
Ôi, bọn chúng hỉ hả biết bao khi chế nhạo chàng thanh niên kia! Chúng đứng đó suốt năm phút, hét lên những lời tục tĩu, cười cợt, chế giễu, nhạo báng anh ta. Chúng còn thêm mắm thêm muối bằng những câu đùa cũ rích, thậm chí còn sáng tác ra vài câu đùa mới và ném vào mặt anh chàng kia. Chúng tung vào anh chàng tất cả những câu trêu chọc riêng tư chỉ bọn tôi mới biết và anh chàng kia hẳn là chẳng hiểu gì. Và rồi, không thể chịu nổi sự chế nhạo thô lỗ của bọn chúng nữa, anh chàng quay về phía bọn chúng, vậy là chúng nhìn thấy mặt anh ta!
Tôi thật vui sướng khi nhận thấy bọn chúng vẫn còn dây thần kinh xấu hổ để có một vẻ mặt ngớ ngẩn hết sức. Chúng giải thích rằng bọn chúng tưởng anh ta là người quen. Chúng nói hy vọng anh ta không nghĩ rằng bọn chúng có khả năng nhục mạ ai đó không phải bạn thân của chúng.
Dĩ nhiên chuyện tưởng nhầm anh chàng là bạn đã bào chữa được cho bọn chúng. Tôi nhớ Harris từng kể cho tôi nghe về lần hắn tắm biển ở Bourlogne. Hắn đang bơi gần bãi biển thì bỗng cảm thấy bị chộp vào gáy và bị dìm xuống nước. Hắn vật lộn điên cuồng, nhưng kẻ túm lấy hắn dường như khỏe không khác gì Hercules, và mọi nỗ lực đào thoát của hắn đều bất thành. Hắn đã thôi không phản kháng nữa và đang cố nghĩ đến những vấn đề nghiêm túc thì bỗng nhiên kẻ tóm cổ hắn thả hắn ra.
Hắn lấy lại thăng bằng và nhìn quanh tìm kẻ sát nhân. Kẻ ám sát này đang đứng ngay cạnh hắn, cười rũ rượi, nhưng ngay khi nhìn thấy mặt Harris nổi lên từ dưới nước, hắn ta giật mình lùi lại và có vẻ vô cùng hoang mang.
- Thật sự xin lỗi anh, - hắn lắp bắp bối rối, - nhưng tôi cứ tưởng anh là bạn tôi!
Harris nghĩ may cho hắn là thằng cha kia không tưởng hắn là họ hàng, chứ không dễ hắn bị dìm chết rồi ấy chứ.
Đi thuyền buồm cũng là một việc cần kiến thức và thực hành - mặc dù khi còn nhỏ tôi không nghĩ thế. Tôi từng cho rằng việc đó rất tự nhiên, như trò bóng run đơ hay bóng bầu dục thôi. Tôi quen một thằng nhóc khác cũng nghĩ tương tự, và rồi một ngày lộng gió, chúng tôi quyết định thử môn thể thao này xem sao. Chúng tôi dừng ở Yarmouth và quyết định làm một chuyến đến Yare. Chúng tôi thuê một chiếc thuyền buồm ở gần cầu và lên đường. “Hôm nay gió mạnh đấy”, người ta bảo khi chúng tôi khởi hành, “tốt hơn là cuốn mép buồm lại và lái theo đúng chiều gió khi đến chỗ ngoặt”.
Chúng tôi nói chúng tôi sẽ ghi nhớ, và để ông ta lại đó cùng lời tạm biệt vui vẻ, tự hỏi người ta làm thế nào để “lái theo đúng chiều gió” được, và chúng tôi biết kiếm cái “mép buồm” ở chỗ nào chứ, và khi kiếm được rồi thì chúng tôi biết làm gì với nó đây.
Chúng tôi chèo cho đến khi không còn nhìn thấy thành phố nữa, và rồi, với một dải nước bao la trước mặt và một cơn cuồng phong đang thổi dữ dội, chúng tôi cảm thấy đã đến lúc khởi sự rồi đây.
Hector - tôi nghĩ đó là tên cậu ta - tiếp tục chèo trong khi tôi căng buồm. Có vẻ việc đó khá phức tạp, nhưng cuối cùng tôi cũng hoàn thành và rồi nảy sinh một vấn đề, đầu nào là đỉnh buồm đây?
Dĩ nhiên nhờ một bản năng tự nhiên nào đó, chúng tôi cuối cùng đã quyết định rằng đáy buồm chính là đỉnh, và bắt tay vào dựng ngược nó lên. Nhưng bằng cách này hay cách khác thì cũng phải mất một lúc lâu chúng tôi mới làm được. Có vẻ như cánh buồm có ấn tượng rằng chúng tôi đang chơi trò đám ma, tôi là xác chết còn bản thân nó là tấm vải liệm.
Khi nhận ra không phải thế, nó đập đánh bốp vào đầu tôi và nhất định không chịu làm gì hết.
- Nhúng ướt đi, - Hector nói; - thả nó xuống và nhúng ướt đi.
Cậu ta bảo người đi thuyền bao giờ cũng nhúng ướt buồm trước khi giương lên. Vậy là tôi nhúng ướt cái buồm; nhưng việc này chỉ khiến mọi việc thêm rắc rối. Một cánh buồm khô ráo mắc vào chân ta và cuốn quanh đầu ta vốn đã chẳng dễ chịu gì, nhưng khi cánh buồm ướt sũng thì chuyện ấy đúng là khó chịu ghê gớm.
Cuối cùng chúng tôi, cả hai chúng tôi, cũng giương được buồm lên. Chúng tôi dựng nó, không hẳn là dựng ngược mà hơi nghiêng sang bên thì đúng hơn, và buộc nó lên cột buồm bằng cái dây neo đã được chúng tôi cắt ra cho mục đích này.
Tôi chỉ có thể tuyên bố một cách đơn giản rằng con thuyền không lật úp. Tại sao nó không lật úp thì tôi không thể lý giải được. Kể từ hồi đó tôi vẫn thường nghĩ về vấn đề ấy, nhưng chưa bao giờ thành công trong việc tìm được một lời giải thích thỏa đáng cho hiện tượng này.
Có lẽ kết quả ấy bắt nguồn từ sự ngoan cố tự nhiên của mọi thứ trên thế giới này. Có thể con thuyền, dựa trên quan sát sơ qua thái độ của chúng tôi, đã đi đến kết luận rằng sáng đó chúng tôi đang định tự tử, và do đó đã quyết định làm chúng tôi thất vọng. Đó là giả thuyết duy nhất tôi có thể đưa ra.
Bằng cách cố sống cố chết bám vào mép thuyền, chúng tôi vẫn ở nguyên trên thuyền, nhưng việc đó làm chúng tôi kiệt sức ghê gớm. Hector bảo nói chung khi gặp bão, bọn hải tặc và dân đi biển sẽ buộc bánh lái vào cái gì đó và đổi hướng buồm tam giác ở trên đỉnh, vậy nên hắn nghĩ chúng tôi nên thử làm tương tự; nhưng tôi thì ủng hộ ý tưởng cứ mặc kệ con thuyền đương đầu với gió.
Vì tính đến thời điểm đó lời khuyên của tôi là việc dễ thực hiện nhất nên rốt cuộc chúng tôi làm như thế và tìm cách ôm chặt mép thuyền còn thì mặc con thuyền tự đi mà lo lấy.
Con thuyền chu du ngược dòng khoảng một dặm với một vận tốc mà kể từ ngày đó tôi chưa từng và cũng không muốn thử lại. Thế rồi ở một khúc quanh, nó nghiêng đi cho đến khi một nửa cánh buồm ngập trong nước. Sau đó nó lại tự đứng thẳng lên một cách thần kỳ và bay vào một bãi bùn mềm trải dài dưới thấp.
Bãi bùn đó đã cứu chúng tôi. Con thuyền cày vào giữa bãi bùn và rồi dừng lại. Nhận thấy lại một lần nữa có thể di chuyển theo đúng mong muốn thay vì bị tung ném như những hạt đậu trong ruột bóng, chúng tôi bò lên phía trước và cắt buồm đi.
Thế là quá đủ với trò giong buồm rồi. Chúng tôi không muốn làm quá sức để mà phát ngấy lên. Chúng tôi đã có một chuyến đi thuyền buồm - một chuyến đi thuyền buồm tuyệt vời, thú vị, hấp dẫn tuyệt đối - và giờ có lẽ chúng tôi sẽ chèo, chỉ để có chút thay đổi thôi.
Chúng tôi vớ lấy mái chèo cố đẩy thuyền ra khỏi bùn, và trong khi làm thế đã lỡ đánh gãy mất một mái chèo. Sau đó chúng tôi tiếp tục với sự cẩn trọng không để đâu cho hết, nhưng cặp chèo đó cũ nát lắm rồi, nên chiếc thứ hai nứt toác ra dễ dàng chẳng kém chiếc thứ nhất, và để mặc chúng tôi bất lực đứng đó.
Bãi bùn trải dài khoảng hơn một trăm mét trước mặt chúng tôi, còn đằng sau chúng tôi là nước. Việc duy nhất có thể làm là ngồi chờ cho đến khi có ai đó đi ngang qua.
Đó không phải một ngày khiến người ta có cảm hứng ra sông, và phải ba tiếng sau mới có một con người xuất hiện trong tầm mắt. Đó là một lão chài đã già, và sau bao khó khăn cuối cùng cũng giải thoát được cho chúng tôi, rồi sau đó chúng tôi kéo thuyền quay về bến trong nhục nhã.
Với việc thưởng cho ông già đã đưa chúng tôi về nhà và chi trả cho đôi mái chèo bị gãy cũng như cho bốn tiếng rưỡi đồng hồ rong chơi, chuyến chơi thuyền ấy đã tiêu tốn của chúng tôi khoản tiền tiêu vặt đáng kể của mấy tuần liền. Nhưng chúng tôi tiếp thu được kinh nghiệm, và người ta nói rằng như thế luôn luôn rẻ dù với bất kỳ giá nào.
------------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét