Thứ Tư, 22 tháng 1, 2020

Ba Gã Cùng Thuyền (Chưa Kể Con Chó) - Chương 16

Ba Gã Cùng Thuyền (Chưa Kể Con Chó)
(Three Men in Boat)

Tác giả: Jerome K. Jerome
Người dịch: Petal Lê
NXB Văn Học - 2016

Chương 16

Reading - Chúng tôi được thuyền máy hơi nước kéo đi - Cách cư xử khó chịu của những con thuyền nhỏ - Làm thế nào mà chúng có thể ngáng đường những chiếc thuyền máy hơi nước - George và Harris lại trốn việc - Một câu chuyện đã nhàm - Streatley và Goring.

ĐẾN MƯỜI MỘT GIỜ chúng tôi nhìn thấy Reading. Sông ở đây bẩn thỉu và ảm đạm. Người ta không thể la cà quanh Reading được. Riêng thành phố ấy là một nơi nổi tiếng đã có từ lâu đời, kể từ những tháng ngày u ám thời vua Ethelred, khi người Hà Lan neo đậu tàu chiến ở Kennet và khởi hành từ Reading để cướp phá khắp miền Wessex; và tại nơi này Ethelred cùng người em trai Alfred đã chiến đấu và đánh bại họ, Ethelred thì cầu nguyện còn Alfred chiến đấu.
Thời gian sau đó, có vẻ như Reading được coi là một nơi thuận tiện để chạy đến mỗi khi ở London mọi việc không được suôn sẻ. Thông thường Nghị viện hay chạy về Reading mỗi khi ở Westminster có bệnh dịch; rồi đến năm 1625, tòa án cũng bắt chước và tất cả các phiên tòa đều được tiến hành ở Reading. Hẳn cũng bõ công khi thỉnh thoảng ở London phát sinh một trận dịch bình thường để tống khứ cả luật sư lẫn Nghị viện.
Trong thời kỳ Nghị viện phải vật lộn với bệnh dịch, Reading bị Bá tước vùng Essex vây hãm, và một phần tư thế kỷ sau, ông hoàng xứ Orange dẫn quân đội của vua James đến đây.
Henry I được chôn cất ở Reading, trong tu viện dòng Thánh Benedict do ngài thành lập mà những di tích của nó cho đến nay người ta vẫn có thể nhìn thấy; và cũng ở tu viện đó công tước John vĩ đại của thành Gaunt đã kết hôn với phu nhân Blanche.
Ở cửa sông Reading chúng tôi gặp một chiếc thuyền hơi nước thuộc quyền sở hữu của mấy người bạn của tôi, và họ kéo chúng tôi theo khoảng một cây số đến Streatley. Được một chiếc thuyền hơi nước kéo đi thật thú vị biết bao. Tôi thích thế hơn là tự mình phải kéo. Chuyến đi hẳn còn thú vị hơn nữa nếu chiếc thuyền hơi nước của chúng tôi không bị khá nhiều con thuyền nhỏ cũ nát liên tục chắn đường, và để tránh đâm phải chúng, chúng tôi liên tục phải đi chậm và dừng lại. Đúng là khó chịu bậc nhất, cái cách đám thuyền chèo tay đó chắn đường thuyền máy hơi nước đang đi trên sông ấy; phải làm gì đó để chặn việc này lại đi chứ.
Và chúng lại còn xấc xược quá đỗi. Ta cứ việc bấm còi cho đến khi sắp làm nổ tung nồi súp de thì bọn chúng mới chịu nhanh nhanh lên cho. Giá mà tìm ra được cách gì đó thì thỉnh thoảng tôi đã lôi theo độ hai ba cái để dạy cho chúng một bài học rồi.
Qua Reading một chút thì con sông trở nên rất đáng yêu. Ở gần Tilehurst đường sắt đã phần nào làm hỏng nó, nhưng từ Mapledurham đến Streatley thì thật tuyệt vời. Phía trên cửa sông Mapledurham một chút ta sẽ qua tòa nhà Hardwick, nơi Charles I từng chơi ki. Khu Pangbourne, nơi có quán trọ Thiên nga nhỏ nhắn xinh xắn, hẳn rất quen thuộc với khách quen của các triển lãm nghệ thuật cũng như với chính cư dân của nó.
Chiếc thuyền hơi nước của bạn tôi thả chúng tôi lại ngay bên dưới hang động và rồi Harris muốn làm rõ rằng giờ đến lượt tôi chèo. Đối với tôi việc này có vẻ không hợp lý chút nào. Sáng nay đã nhất trí rằng tôi sẽ đưa thuyền đi quá Reading ba dặm. Và đây, chúng tôi đã cách Reading những mười dặm! Chắc chắn giờ đến lượt bọn hắn chèo chứ.
Tuy nhiên, tôi không tài nào thuyết phục George hay Harris nhìn nhận vấn đề theo quan điểm đúng đắn này; vì vậy, để khỏi phải tranh luận tôi bèn cầm mái chèo. Tôi chèo chưa quá một phút thì George nhận thấy có vật gì đó màu đen đang lập lờ trên mặt nước, vậy là chúng tôi tiến về phía nó. Khi chúng tôi đến gần, George cúi xuống túm lấy nó. Và rồi hắn lùi lại kèm theo một tiếng kêu, mặt tái nhợt.
Đó là thi thể một người đàn bà. Nó bồng bềnh trên mặt nước, gương mặt dịu dàng bình thản. Đó không phải một gương mặt xinh xắn; nó có vẻ quá già trước tuổi, quá gầy gò và u sầu để có thể được coi là xinh; nhưng đó là một gương mặt dịu dàng đáng yêu dù đã in hằn dấu ấn của túng quẫn và nghèo đói, và trên đó là một vẻ an bình thanh thản đôi khi vẫn hiện trên mặt người ốm khi cuối cùng cơn đau cũng rời bỏ họ.
May cho chúng tôi - chúng tôi không hề muốn bị giam chân tại những phiên tòa xử các vụ chết bất thường - một vài người trên bờ cũng nhìn thấy cái xác và giờ họ sẽ thay chúng tôi chịu trách nhiệm về nó.
Sau này chúng tôi được biết câu chuyện về người đàn bà ấy. Dĩ nhiên đó là một bi kịch thông thường cũ rích. Cô yêu và bị lừa - hoặc tự lừa dối mình. Dù gì thì cô cũng đã lầm lỗi - đôi khi một vài người trong chúng ta cũng vậy - và gia đình bạn bè cô, choáng váng và căm phẫn một cách tự nhiên, đã sập cửa lại trước mặt cô.
Bị bỏ lại một mình trong cuộc chiến với thế giới, trách nhiệm nặng nề đè nặng hai vai, cô càng lúc càng chìm sâu. Có tuần cô cùng đứa con phải cầm cự bằng mười hai xu tiền công nhận được sau mười hai giờ lao động nặng nhọc một ngày, sáu xu dành cho đứa bé và sáu xu còn lại để giúp cô giữ cho linh hồn và thể xác mình gắn kết với nhau.
Sáu xu một tuần không giữ cho linh hồn và thể xác gắn kết chặt chẽ với nhau. Chúng muốn tách khỏi nhau một khi giữa chúng chỉ có mối liên hệ lỏng lẻo đến thế; và tôi cho là một ngày kia, nỗi đau và sự đơn điệu u ám của nó đã hiển hiện trước mắt cô một cách rõ rệt hơn bao giờ hết, và nỗi ám ảnh về chuyện bị chế nhạo đã khiến cô khiếp sợ. Cô kêu gọi bạn bè lần cuối cùng, nhưng trước bức tường lạnh lẽo của tư cách đáng trọng của họ, tiếng nói của con người lầm lỗi bị xã hội ruồng bỏ này chẳng được ai để ý đến; và rồi cô đến thăm con mình, ôm nó vào lòng và hôn nó trong tâm trạng mệt mỏi thẫn thờ, không để lộ bất kỳ cảm xúc đặc biệt nào, và để đứa con lại sau khi đã đặt vào tay nó hộp sô cô la một xu cô đã mua, rồi sau đó, với những đồng xu cuối cùng của mình, cô mua vé đi Goring.
Có vẻ như những suy nghĩ cay đắng nhất của cuộc đời cô đã tập trung hết ở những khúc sông cây cối rậm rạp và những cánh đồng xanh tươi quanh Goring; nhưng kỳ lạ thay, phụ nữ thường bám chặt lấy con dao đã đâm họ, và có lẽ, giữa nỗi cay đắng, cũng trộn lẫn cả những ký ức vui vẻ về những giờ phút ngọt ngào trong bóng râm dưới những hàng cây cao lớn cành lá là là.
Cô lang thang cả ngày quanh khu rừng gần bờ sông, và rồi, khi đêm xuống và hoàng hôn màu xám đã trải chiếc áo choàng tối màu của nó lên mặt nước, cô dang tay về phía con sông tĩnh lặng đã biết hết mọi niềm vui nỗi buồn của cô. Và con sông già nua đã đón cô vào vòng tay êm ái của nó, để mái đầu mỏi mệt của cô ngả vào lòng nó và xua tan nỗi đau.
Vậy là cô đã lầm lỗi trong mọi chuyện - lầm lỗi trong việc sống và cả trong việc chết. Cầu Chúa phù hộ cho cô! Và cho tất cả những kẻ lầm lỗi khác, nếu vẫn còn.
Goring bên bờ trái và Streatley bên bờ phải đều là những nơi tuyệt vời để ở lại vài ngày. Khúc sông xuôi xuống Pangbourne thì thầm dụ dỗ người ta làm một chuyến giong buồm trong nắng hay chèo thuyền dưới ánh trăng, và khu đồng quê quanh đó thì tuyệt đẹp. Chúng tôi đã định hôm đó đi thẳng đến Wallingford, nhưng vẻ tươi cười đáng yêu của khúc sông này đã dỗ dành chúng tôi nấn ná thêm chút nữa; vậy là chúng tôi bỏ thuyền lại bên cầu và vào Streatley ăn trưa ở quán Bò Mộng, một việc khiến con Montmorency quá chừng thỏa mãn.
Người ta nói rằng những ngọn đồi hai bên dòng nước từng có thời gắn liền với nhau tạo thành một hàng rào chắn ngang nơi bây giờ là sông Thames, và hồi đó con sông kết thúc ở phía trên Goring tại một hồ nước rộng mênh mông. Tôi không phản đối hay khẳng định lời tuyên bố này. Tôi chỉ nêu nó ra thôi.
Streatley là một nơi cổ kính, có từ thời Briton và Saxon, giống như hầu hết thành phố và thị trấn ven sông khác. Goring không hẳn là một chốn nhỏ nhắn xinh xắn để dừng chân giống như Streatley, nếu ta được phép lựa chọn; nhưng chỉ để đi qua đó thôi thì nơi đây cũng có nét đẹp riêng của mình, và nó lại còn gần đường ray tàu hỏa, phòng trường hợp ta muốn chuồn đi mà không trả hóa đơn khách sạn.
------------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét