Thứ Tư, 19 tháng 2, 2014

Những ngôi sao Eghe - (p2)

Gárdonyi Géza

Những ngôi sao Eghe
(Nguyên tác: Egri Csillagok)

Dịch giả: Lê Xuân Giang
Tiểu thuyết - Văn học Hungari
Nhà xuất bản: Văn học - Hà Nội
Năm xuất bản: 1987

(Tiếp theo)

Tiếng bước chân của hai con ngựa chìm đi trong cỏ. Chúng đi như những cái bóng. Bên trong cũng như bên ngoài các cỗ xe, chẳng một ai thức giấc.
Đến một thân cây vừa tầm, Gergơ dừng con Xám lại và trèo lên lưng nó.
- Cô cũng ngồi lên chứ. - Chú giục cô bé.
Bé Êvo không lên được, thân cây đối với em hơi cao quá. Gergơ lại phải xuống ngựa. Trước tiên chú giúp bé Êvo lên thân cây, sau đó lại giúp bé từ thân cây lên lưng ngựa.
Các em ngồi cạnh nhau trên lưng con Xám, Gergơ ngồi đằng trước, Êvo ngồi sau. Cô bé vẫn ôm khư khư con búp bê váy đỏ. Các em không hề nghĩ đến chuyện để cô bé ngồi vào yên con ngựa kia. Lẽ ra em có thể ngồi được, vì đó là một cái yên có bành cao khiến em có thể dựa rất vững vàng. Nhưng con ngựa ấy có phải là của các em đâu!
Êvixo bám vào vai chú bé, chú giật cương và con Xám cất bước ra khỏi rừng, dắt theo mình cả con ngựa Thổ.
Chẳng mấy chốc các em đã ra đến đường cái. Từ đây con Xám đã thuộc đường về. Nó bước đi nặng trĩu và ngái ngủ.
Đường đi vẫn đang tối. Trăng chỉ còn chiếu lờ mờ. Cây cối hai bên đường nom như những tên khổng lồ đen đủi. Gergơ không sợ chúng. Đó toàn là cây cối Hungari cả.
* * *
Trong nhà Xexey đêm ấy không ai ngủ được. Mọi người đi tìm bọn trẻ đến tận khuya và định đến mờ sáng hôm sau sẽ mò theo dọc suối. Chỉ các chiến sĩ ngả lưng một chút.
Giáo sĩ Balin ở lại với gia đình Xexey và cố khuyên giải đôi vợ chồng không tài nào an ủi được. Bà vợ gần như hóa rồ, bà kêu khóc cho đến lúc ngất lịm đi:
- Ôi, của quý của tôi, niềm vui của tôi, con chim độc nhất của tôi!...
Còn ông già chân gỗ, trước những lời an ủi của ông giáo sĩ, chỉ lắc đầu và cay đắng kêu lên:
- Làm gì có Chúa đâu!
- Có đấy.
- Không có! - Xexey đập bàn.
- Có!
- Không có! - Cái gì Chúa đã ban cho ta thì Chúa cũng có thể lấy đi, nhưng cái gì Chúa lấy đi, Chúa cũng có thể trả lại.
Từ khóe mắt của con người già nua tàn phế, nước mắt ứa ra.
- Nếu Chúa có lòng cho thì Người còn lấy đi làm gì nữa!
Mãi đến gần sáng, giáo sĩ mới để lão ở lại một mình. Giáo sĩ vừa bước ra khỏi cửa, người hành bộc đã nhổm dậy khỏi tấm chiếu trải ngoài hiên.
- Thưa cha đáng kính. - Y nói khe khẽ.
- Anh muốn gì đấy, hở người anh em?
- Chúng nó không chết đuối đâu cha ạ.
- Thế thì chúng nó ở đâu?
- Quân Thổ đã bắt chúng nó đi đấy.
Giáo sĩ suýt ngã vào tường.
- Làm sao anh biết điều đó?
- Khi đi tìm ở bờ suối, con thấy dấu chân của lính Thổ trên vạt đất mà lợn rừng đã dũi lên.
- Dấu chân lính Thổ?
- Vết giày không có đế gót. Người Hung ta không đi giày như thế.
- Ngộ đó là dấu hài sảo thì sao?
- Hài sảo thì đã không có cựa. Đúng là dấu chân lính Thổ rồi. Với lại có cả vết chân của ngựa Thổ ở đó nữa. Chắc cha cũng đã biết móng ngựa Thổ như thế nào rồi?
- Tại sao anh không nói ngay lúc ấy?
- Con cho là không nên nói. Ai biết được tên Thổ đã đem chúng đi đằng nào? Nếu con nói thì cả làng này sẽ chạy lung tung đi mất. Mà nào có lợi ích gì đâu? Bọn lính Thổ thì đông mà đứa nào cũng kè kè gươm giáo cả.
Giáo sĩ giương hai mắt trừng trừng, đi đi lại lại. Có lần ông đã bước đến bên cửa, nhưng rồi kịp thời dừng lại trước khi đặt tay lên quả đấm. Và ông lại quay lại chỗ người hành bộc:
- Chúng ta có thể làm gì bây giờ?
Người hành bộc nhún vai:
- Cha hãy làm như con: im lặng!
- Kinh khủng quá! Như thế thì kinh khủng quá!
- Hiện nay thì tụi lính Thổ đang kéo đi trên khắp các ngả đường. Dân làng nếu đi tìm thì đi theo hướng nào bây giờ? Về phía mặt trời mọc ư? Hay là về phía mặt trời lặn? Mà có đi thì cũng chỉ tổ đâm chém nhau và chết chóc mà thôi.
- Chẳng thà ông bà ấy cũng cùng chết theo còn hơn! - Giáo sĩ lắc đầu đau đớn.
- Có trời mới biết được chúng nó đã đi đến đâu khi ta bắt đầu đuổi theo chúng.
Giáo sĩ rầu rĩ đứng lại ngoài hiên. Đằng đông bầu trời đã chuyển sang màu hồng phơn phớt.
Rạng đông.
- Bà con ơi! Dân làng ơi! Chúng nó đã về đây này!
Giáo sĩ dỏng tai nghe. Có việc gì thế nhỉ? Ngay lập tức ông biết người kêu lên đó là người tuần đêm, và ông cũng đã nghe tiếng chân người chạy thình thịch.
- Chúng nó về rồi à? Ai về?
Tiếng thình thịch lại gần. Người ta đập rầm rầm ngoài cổng lớn.
- Mở cổng mau! Cho vào với! Bọn trẻ về rồi!
Giáo sĩ lao vào nhà:
- Có Chúa đấy Pête ạ! Dậy mau đi, có Chúa đấy!
Hai đứa trẻ đã chờ trước cổng. Các em ngồi trên con Xám, ngái ngủ và tái nhợt.
Cả làng đổ xô vào sân. Một vài mụ đàn bà đúng là chỉ kịp vơ quàng cái váy vào người; đám đàn ông không kịp đội mũ, người ta cứ thế chạy ra khỏi nhà khi nghe tiếng kêu. Mọi người tranh nhau chuyền chú bé Gergơ từ tay này sang tay nọ và cả Vixo nữa, người ta hôn tới tấp lên khắp người em.
- Con ngựa Thổ đẹp tuyệt này chúng mày lấy ở đâu ra thế?
- Cháu đem nó về đấy. - Gergơ rụt vai lại trả lời.
- Từ hôm nay trở đi Gergơ là con ta. - Xexey tuyên bố một cách trịnh trọng và đặt tay lên đầu chú bé.
Mẹ của chú đi chân đất, mặc một cái váy lót, phục xuống chân Xexey. Đôbô tò mò ngắm chú bé nông dân vừa đem được ngựa của bọn Thổ về, đoạn chàng nói với Xexey:
- Bác ạ, bác cho tôi chú bé này, để tôi đem theo lên vùng trên. Tôi sẽ dạy dỗ chú ta thành một dũng sĩ.
Chàng bế Gergơ lên.
- Cháu có thích trở thành một trang dũng sĩ không nào?
- Cháu thích lắm. - Chú bé mỉm cười với đôi mắt sáng rực.
- Ngựa cháu đã có rồi nhé, còn gươm của cháu ta cũng sẽ đoạt lấy từ tay quân Thổ.
- Thế con ngựa ấy là của cháu à?
Mấy chiến sĩ của Đôbô đang thử cho con ngựa nòi Thổ chạy trên bãi cỏ ngoài vườn và luôn miệng khen lấy khen để.
- Dĩ nhiên là của cháu. Cháu đã thu được trong chiến đấu mà lại.
- Của con đấy. - Xexey cũng xác nhận. - Với toàn bộ yên cương.
- Thế thì tiền cũng là của cháu! - Chú bé kiêu hãnh khoe.
- Tiền gì hở con?
- Tiền để trong yên ngựa ấy.
Người ta liền tháo cái yên đẹp đẽ có bành bọc nhung xuống. Lắc nghe có tiếng kêu rủng rẻng. Người ta đã tìm thấy cái nắp trượt trên cái bành và thế là một trận mưa vàng tuôn ra khỏi ngăn gỗ.
- Ái chà chà, mẹ kiếp. - Xexey trố cả mắt. - Bây giờ thì không phải ta nhận cháu làm con ta nữa, mà là cháu hãy nhận ta làm bố nhé. Nhặt tiền lên đi mụ! - Lão nói với mẹ chú bé.
Bà mẹ lóa mắt nhìn những đồng tiền vàng lăn trên mặt đất. Bà cứ tưởng mình đang nằm mơ.
- Của con đấy ư? - Mụ vừa lắp bắp vừa ngửng lên, hết nhìn Xexey lại nhìn Đôbô và giáo sĩ. - Của con đấy ư?
- Của mụ đấy. - Giáo sĩ gật đầu. - Trời đã ban cho con mụ đấy.
Mụ định rờ vạt áo nhưng sực nhớ ra là không mặc áo ngoài. Một người đưa cho mụ mượn cái mũ của mình. Mụ nhặt vàng lên với đôi bàn tay run lẩy bẩy. Chú bé nhìn mẹ nhặt tiền lên, bỗng chú lên tiếng:
- Cất kỹ đi mẹ ạ, ngày mai chúng nó sẽ đến đây.
- Ai đến?
- Bọn Thổ.
- Bọn Thổ?
Chú bé khẽ gật đầu và tiếp:
- Lúc tên Thổ nói chuyện với tên đao phủ, cháu nghe thấy thế.
- Tên đao phủ nào?
- Tên xigan đao phủ ấy mà.
- Vâng, cháu nghe chúng nó nói đến đây để cướp những đồ quý giá trong nhà ông lớn. - Và em chỉ vào Xexey.
- Cướp của quý ở nhà ta? - Xexey kêu lên, lùi lại.
Chú bé chớp chớp mắt, nói tiếp:
- Chúng nó còn nói đến những cái hòm sắt nữa, chúng nó bảo có sáu cái.
- Chuyện này nghiêm trọng đấy. - Đôbô lên tiếng. - Ta hãy vào trong phòng.
Chàng nói và cầm tay chú bé dắt vào nhà. Họ gạn hỏi cho hết những điều mà trí nhớ non nớt của chú đã ghi lại được.
- Tên mặt sẹo, da nâu à? Cái sẹo như thế nào?
- Vạch đỏ từ mép đến tai.
Đôbô bật dậy khỏi ghế:
- Môrê!
- Còn ai vào đây nữa! Thằng tướng cướp muốn thoát thân nên hắn dẫn bọn Thổ đến cướp phá nhà ta.
- Hắn thuộc đường đi lối lại ở đây ư?
- Hắn có tới đây một lần độ sáu năm về trước. Bọn hắn đã đảo lộn khắp cả nhà ta. Năm mươi tư phôrinh [33] của ta cũng bị bọn hắn cướp đi mất với cả cây thánh giá nho nhỏ bằng vàng của vợ ta và bảy con bò sữa.
Đôbô giận dữ nện gót cồm cộp khắp phòng.
- Bác có bao nhiêu người có thể cầm vũ khí?
- Có lẽ được độ bốn chục nếu ta kể tất cả mọi người.
- Ít quá! Trấn nào gần đây nhất hở bác? Pêts, có phải không? Nhưng có điều viên tướng đó lại là Xerentsên Gianốt, là phe đảng của Xopôio, kẻ thù của ta.
- Chúng ta phải chạy trốn đi thôi. - Xexey lắc đầu. - Tản vào rừng, ai biết đường nào chạy đường nấy.
- Cả làng không thể chạy hết được! Làm sao ta có thể bỏ làng lại đây chỉ vì một bầy Thổ! Lú lẫn quá, khi vấn đề là phải đánh lại bọn Thổ thì bất cứ thuộc phe đảng nào người Hung vẫn phải là người Hung chứ!
Rồi chàng bước ra ngoài và ra lệnh:
 - Lên ngựa!
Chỉ đến lúc chính mình cũng đã ngồi trên yên, chàng mới nói nốt những điều còn lại:
- Bác Xexey ạ, tôi đi đến chỗ Xerentsên đây. Từ giờ cho đến lúc tôi về, các bác hãy chịu khó làm việc đi. Tất cả các mái nhà đều phải giội nước cho ướt sũng hết đi. Hãy góp nhặt dân làng lại và tập trung hết vào trong vườn này. Hãy chất đá vào bên trong cổng làm ụ cản, chất thêm cả thùng gỗ vào đấy nữa. Cả các bà cũng hãy cầm lấy liềm, hái, cuốc chim, đinh ba vào tay. Hai giờ nữa tôi sẽ trở lại.
Chàng ngước nhìn bầu trời đang rạng dần rồi cùng các chiến sĩ phóng ngựa đi.
* * *
Trang trại của Xexey chiếm một vùng rộng độ hai công mẫu, xung quanh có tường đá bao bọc. Nhưng tường đá chỉ cao ngót đầu người và nhiều chỗ đã sụt lở.
Ngay từ sáng sớm, cả làng đã dọn hết vào vườn. Dê và lợn chạy lung tung giữa các bao bị và những đống đồ gỗ; ngỗng kêu quang quác khắp nơi, vịt chạy lạch bạch nặng nề, còn bầy gà mái thì nhanh nhẹn lăng xăng. Một người đang mài gươm, đao và lưỡi hái bên cạnh giếng nước. Giáo sĩ đeo một thanh gươm rộng bản, đã han gỉ vào thắt lưng, lúc đến giữa sân ông rút ra múa mấy vòng rồi mãn ý tra lại vào vỏ. Một tốp đàn bà nấu thức ăn trong những cái chảo lớn đặt trước nhà bếp. Trên trần nhà Xexey có sáu thứ binh khí trông giống như những mũi tên bị chuột gặm. Lão phân phát cho những ông già từng chiến đấu với lão trong cuộc chiến tranh Đôjo.
Khoảng gần trưa thì Đôbô trở lại. Chàng chỉ mang theo về được độ ba chục lính mộ, nhưng dân làng vẫn reo mừng tiếp đón họ.
Đôbô đi vòng quanh vườn. Ở một vài chỗ chàng sai bắc thang, kê giàn hoặc xếp đá lại. Chàng cho lèn chặt hai cánh cổng. Sau đó chàng gọi những dân làng có vũ khí đến bên mình - độ khoảng dăm chục người - và chia họ ra thành từng tốp giữ quanh hàng rào. Chàng cùng mười tay súng giỏi chọn chỗ ở bên cạnh cổng, trên những giá gỗ kê thùng rượu thường ngày. Chàng phái hai người lính kèn hiệu ra gác ở hai đầu làng, nhiệm vụ của họ là báo tin khi quân địch đến.
Họ không phải mất công chờ đến tối. Khoảng độ ba giờ chiều, tiếng kèn hiệu vang lên đằng cổng làng phía đông và vài phút sau đã nghe tiếng vó ngựa của hai người lính kèn phi về.
Xexey nhìn quanh và hỏi:
- Đủ mặt mọi người ở đây rồi chứ?
Chỉ còn thiếu mỗi mình người mẹ của Gergơ. Mụ đàn bà nghèo khổ đâm loạn trí vì vàng. Mụ đang mải hì hục đào đất chôn vàng. Mụ không dám để ở chỗ Xexey vì sợ quân Thổ đến cướp mất. Cũng có thể là mụ đã đi vào rừng để giấu vàng.
- Đóng cửa lại! - Đôbô cắt đặt. - Mang thêm bao đất, dầm gỗ và đá nữa lại đây. Chỉ chừa một kẽ hở đủ cho một kỵ mã lọt vào thôi.
Hai người lính kèn đã về đến nơi.
- Giặc đã đến. - Một người vội vã kêu lên từ ngoài xa.
- Nhiều không? – Đôbô hỏi.
- Chúng tôi chỉ nhìn thấy tốp đi đầu.
- Thế thì hãy quay lại ngay! - Đôbô giậm chân. - Hãy nhìn kỹ xem giặc đến có bao nhiêu đứa! Đến khi chúng đuổi, ngươi cũng vẫn còn đủ thì giờ để chạy kia mà.
Người lính mộ ở Pêts đỏ mặt, quay người phi ngựa trở lại.
- Các ngươi là lính tráng như thế cả đấy à? - Đôbô quay sang hỏi những người lính mộ ở Pêts.
- Đâu có. - Một người xấu hổ trả lời. - Cậu ấy mới nhập bọn với chúng tôi được mấy hôm nay. Trước đây cậu ấy vốn là thợ may. Cậu ấy chưa được thử thách trong chiến trận.
Vài phút sau chàng phó may lại phóng về, và đằng sau đám bụi do ngựa của cậu ta tung lên, có độ mười lăm tên akinji mũ đỏ.
- Cho nó vào. - Đôbô nói, rồi chàng vẫy những tay súng.
- Bắn!
Mười tay súng ngắm vào đích, những phát đạn nổ giòn tan. Trong bọn thổ, một tên ionisa lộn nhào xuống ngựa, rơi xuống rãnh bên đường. Những tên kia lùi cả lại. Chúng quay ngựa, phóng nước kiệu đi.
Chàng phó may tế ngựa qua cánh cổng vừa mở.
- Thế nào, bao nhiêu thằng cả thảy? - Đôbô mỉm cười với anh ta.
- Một ngàn. - Chàng phó may thở hổn hển. - Có lẽ còn nhiều hơn nữa.
Đôbô khoát tay nói:
 - Nếu chúng chỉ có độ một trăm tên thôi thì hôm nay chúng ta còn có thể khiêu vũ nữa.
- Con nói một ngàn, thưa tướng quân.
- Ta hiểu lắm, nếu ngươi thấy một ngàn tức là chúng chỉ có một trăm tên thôi, có khi chẳng đến chừng ấy nữa cũng nên.
Khói cuộn lên phía cuối làng. Tụi akinji đã bắt đầu đốt phá.
Đôbô lắc đầu:
- Sao dân làng không tưới nước lên mái nhà?
- Cỏ và rơm cháy đấy mà. - Xexey khoát tay trả lời chàng. Lão quệt gươm lên mái cổng.
Vừa lúc đó tên ionisa chột mắt hiện ra trên đường. Hắn mặc áo giáp, gươm và súng ngắn giắt quanh thắt lưng. Bên trái hắn, cũng cưỡi ngựa, là tên Hung mặt sẹo mà Gergơ gọi là tên xigan đao phủ. Phía sau là một đội akinji, và hai bên đường cạnh dãy nhà là mấy tên axap chạy bộ, tay chúng cầm những bó đuốc đang cháy.
- Môrê Laxlô! - Đôbô giậm chân thét lớn. - Đồ phản quốc! Đồ chó chết! Tội mi thật đáng xuống âm phủ.
Nghe vậy, tên ionisa chột mắt vội gò cương nhìn sang người phi ngựa bên cạnh hắn.
- Đừng tin nó, - Môrê tái mặt kêu lên. - nó chỉ làm cho ông rối trí đấy thôi.
Tên ionisa đã dừng ngựa lại để hợp với những tên đến sau.
Đôbô kêu to:
- Ta biết cả mi nữa, Yumusac ạ! Té ra danh dự Thổ Nhĩ Kỳ là thế đấy! Là đi đánh cướp những người mà mới hôm qua mi cùng kề vai chiến đấu! Đồ tướng cướp! Mi cũng chỉ là đồ vô đạo chẳng khác gì tên đồng đảng của mi.
Tên ionisa ngửng lên nhìn chàng nhưng không đáp lại.
- Lại đây, cứ dẫn xác lại đây! - Đôbô lại hét. - Bớ tên hề của Môrê, lời chào của ta đây!
Chàng nhắm vào hắn và nổ súng.
Yumusac gục người trên ngựa rồi ngã lộn nhào xuống đất. Những khẩu súng khác cũng nhất loạt nổ rền. Bọn Thổ cũng nổ súng đáp lại lời chào đó.
Môrê cúi xuống chỗ tên ionisa vừa ngã ngựa, nhưng chỉ để rút thanh gươm ra khỏi thắt lưng của hắn. Trong nháy mắt y đã dùng bản thanh gươm đập vào sườn con ngựa chiến. Con ngựa lồng lên phi nước đại - Môrê dùng hết sức kẹp chặt lấy mình ngựa.
- Vàng chạy kia kìa! - Đôbô kêu to với bọn Thổ.
Bọn chúng lặng người đi một phút, nhưng sau đó liền dồn dập phi ngựa đuổi theo Môrê, vừa đuổi vừa hò la tức tối.
Khi chúng phóng qua trước cổng. Đôbô đếm:
- Mười… hai mươi… bốn mươi… năm mươi…
Chàng chờ độ một phút rồi nhảy xuống khỏi bục cao và ra lệnh:
- Lên ngựa các cậu ơi! Bọn này chưa đến sáu chục thằng.
Họ nhảy phóc lên ngựa, Đôbô nói to với Xexey:
- Tên Thổ mặc áo giáp ấy, nếu còn sống thì giam nó lại! Còn dân làng hãy tự xử tụi đốt nhà đi!
Và chàng phóng ngựa ra khỏi cổng. Trong làng có khoảng bốn năm chỗ khói bốc ngoằn ngoèo lên trời. Tất cả dân làng khoa lưỡi hái và cuốc chim xông ra khỏi cổng.
Xexey cùng giáo sĩ với hai nông phu chạy vội ra đường. Yumusac đã ngồi dậy được. Hắn chỉ bị ngất đi. Viên đạn của Đôbô đã quật móp áo giáp của hắn ở ngay chỗ phía trên quả tim.
- Trói hắn lại, - Xexey bảo gia nhân. - Dẫn nó vào sân.
Tên Thổ không nói không rằng đưa tay ra chịu trói.
Xexey hỏi hắn:
- Mi có biết đánh cờ không?
Tên ionisa gật đầu ra hiệu có, nhưng lại nói:
- Không [34]
Lúc họ đang trói tay hắn, tên Thổ thứ hai cũng ngóc đầu lên khỏi rãnh.
- Cậu trói thằng này nhé, - người nông phu trẻ nói với bạn. - để tớ đập chết thằng kia.
- Khoan. - Xexey nói với anh ta rồi khập khiễng đi đến chỗ tên ionisa máu me bê bết và dí gươm vào ngực hắn hỏi:
- Mi có biết đánh cờ không?
- Kaplaman[35]  - Tên Thổ yếu ớt trả lời.
- Đánh cờ!
- Cờ quạt, chiếu tướng! - Tên Thổ rên rỉ hỏi lại.
- Đúng, đúng! Môhamét[36]  hãy dần cho mi một trận. Đem cả tên này vào sân, nó sẽ là nô lệ của ta!
Mãi đến chiều nhóm Đôbô mới trở về. Họ mang theo rất nhiều áo bào, giáp sắt, đủ các loại binh khí và cả một tên tù nhân nữa: Môrê Laxlô.
- Đào cho con sói này một cái hố kha khá vào nhé! - Đôbô vừa nhảy xuống ngựa vừa nói.
Xexey gần như nhảy cẫng lên vì thích thú, lão hỏi:
- Các cậu làm thế nào mà bắt được?
- Chính tụi akinji đã bắt hộ bọn tôi. Chúng nó cũng đủ khôn ngoan để không giao cho hắn cưỡi ngựa trẻ. Chúng nó đã dễ dàng đuổi kịp hắn. Tụi chúng đang trói hắn thì bọn tôi tới xử cho chúng một mẻ.
- Các cậu chém chết hết cả lũ chúng nó à?
- Tất cả những tên không kịp cao chạy xa bay.
- Bay đâu, mau đem mổ con bò tơ đẹp nhất của ta đi! - Xexey vui vẻ quát bảo gia nhân. - Thui lên! Nhưng trước tiên hãy khá mang rượu vang ra đây đã nào! Lăn cái thùng ở cuối hầm lên đây.
- Hẵng khoan. - Đôbô nói khi chàng nhìn theo tên Môrê đang được dẫn vào kho. - Chú bé Georgơ ấy đâu rồi?
- Chú muốn gì nó? Kia kìa, nó đang chơi với con gái của ta ở ngoài hiên. Người ta vừa cho biết mẹ nó đã bị bọn Thổ giết mất rồi.
- Chúng đã giết mụ ấy rồi ư?
- Phải. Một tên khốn nạn nào đó đã bắt gặp mụ trong lúc bọn hắn đi  đốt phá và đã đâm mụ chết. Thằng bé vẫn chưa hay biết gì cả.
- Còn vàng?
- Mụ nằm chết trong góc nhà, mặt úp xuống đất. Chắc mụ đã chôn vàng trong góc đó.
Đôbô căm giận, cứ ậm ừ. Chàng quay về phía chú bé và gọi:
- Gergơ! Bônemixo Gergơ! Tiểu tráng sĩ lại đây nào! Mau cưỡi lên con ngựa đẹp của cháu đi!
- Các cậu còn định đi đâu nữa?
- Đến chỗ những người nô lệ, bác ạ, những người mà chú bé này đã kể chuyện.
- Thì ít nhất hãy làm một tợp rượu đã nào. Rượu đâu, mau lên chứ! - Lão gọi đầy tớ và nói tiếp. - Tên Thổ của chú còn sống nhé! Ở trong kho ấy.
- Yumusac ấy à?
- Có nặc nô mới biết được tên nó là gì, cái đứa mà chú đã bắn ngã ấy!
- Chính hắn đấy! Té ra hắn chưa chết?
- Không, hắn chỉ bị ngất đi thôi. Tên kia bọn ta cũng đã khiêng vào nhà rồi. Ta sợ rằng hắn không ở lại dương thế được.
- Bác còn sợ như thế à? Đem treo cổ hắn lên cây cho rồi!
- Hô hô! Tên ấy là nô lệ của ta chứ.
- Thôi được, bác muốn làm gì nó thì tùy. Nhưng hãy cho điệu tên Yumusac ra đây và cho nó một con ngựa.
Các chiến sĩ nâng những cái cốc vại tu ừng ực. Người ta điệu tên Yumusac ra. Đôbô bảo hắn:
- Thế nào, Yumusac, mày thích cơ sự này lắm nhỉ?
- Hôm nay lượt tao, mai sẽ đến lượt mày! - Tên Thổ lì lợm đáp lại. Nhưng khi thấy con ngựa của hắn với chú bé Gerge cưỡi trên lưng, mồm hắn há hốc ra vì kinh ngạc. Đôbô vẫy chú bé đến bên cạnh mình rồi phi ngựa ra cổng. Các chiến sĩ vây quanh tên Thổ thúc ngựa theo sau.
- Cháu có biết chúng ta đi đâu không, hở Gergơ? - Đôbô hỏi.
- Cháu chịu.
- Bây giờ ta đi tìm gươm cho cháu đây.
- Ở chỗ bọn Thổ ấy à?
- Đúng đấy.
- Cho cháu à?
- Cho cháu. Cháu có sợ không?
- Không ạ.
- Cháu ạ, trước hết người thanh niên không được sợ gì cả, sau đó những cái khác tự nó sẽ đến.
Họ không nói chuyện gì khác nữa. Vó ngựa tung những lớp bụi trắng trên đường cái Metsec, tiếng vó ngựa của đoàn kỵ sĩ nghe đanh trên sườn núi đá. Trong tai Gergơ câu nói lặp lại như tiếng ngân nga của chuông nhà thờ vừa mới điểm:
- Cái chính là người thanh niên không được sợ gì cả!
Họ đã tìm thấy những người nô lệ ở trong rừng. Cả thảy chỉ có sáu tên axap canh giữ họ.
Khi những chàng dũng sĩ Hung vừa xuất hiện giữa rừng cây, toán nô lệ nhảy cẫng lên, vừa reo mừng vừa đập phá, giằng giật những dây xích cùm trói họ.
- Tổ cha đồ chó khốn nạn! - Gã xigan gào lên.
Dĩ nhiên là sáu tên axap bỏ chạy tán loạn. Các chiến sĩ Hung không thèm đuổi theo chúng. Họ chú ý trước hết những người nô lệ. Họ cởi trói cho những con người khốn khổ.
Trước tiên Đôbô chìa tay cho ông mục sư.
- Tôi là Đôbô Istơvan.
- Còn tôi là Sômôdi Gabô. - mục sư rơm rớm nước mắt trả lời. - Cầu chúa phù hộ cho tướng quân, Đôbô Istơvan ạ.
Những người nô lệ khóc lên vì sung sướng. Đám phụ nữ hôn tay, hôn chân, hôn quần áo của những người đã giải phóng họ. Gã xigan vừa nhào lộn vòng tròn vừa vui sướng kêu ồn cả lên.
- Các người đừng tạ ơn ta. - Đôbô từ chối. - Chính chú bé này đã cứu các người.
Chàng chỉ Gergơ.
Dĩ nhiên ai cũng tranh nhau hôn chùn chụt, gần như nuốt chửng mất chú bé, họ còn cầu cho chú bao nhiêu lời xin phù hộ. Người ta tranh nhau hôn hít chú như thể đã biết rằng sau đấy một thời gian rất dài sẽ không còn ai hôn chú nữa.
Chiến lợi phẩm thu được gồm mười lăm xe hàng chất đầy ăm ắp cùng rất nhiều binh khí.
Trước khi phân phát, Đôbô hỏi xem ai là người bị bắt đầu tiên.
Một nông phu trẻ tuổi bước tới trước mặt chàng và bỏ mũ ra:
- Có lẽ con là người bị bắt đầu tiên, thưa tướng quân.
- Tên người là gì?
- Kôtsit Gaspa, thưa tướng quân.
- Ngươi là người ở đâu ta?
- Ở Eghe, thưa tướng quân.
- Chúng nó bắt ngươi ở đâu?
- Dưới thành Pheiê, thưa tướng quân: chúng con đang chở hàng thuê xuống…
- Ngươi có biết đồ đạc trên các xe hàng này là của những ai không?
- Giá con có mặt ở những nơi chúng nó cướp bóc thì có lẽ con biết đấy. Nhưng thưa tướng quân, những tên tướng cướp này chúng nhặt nhạnh ở khắp nơi.
 Đôbô quay sang hỏi tên Thổ:
- Yumusac, mi nói đi.
- Chúng tao nhặt nhạnh ở những nơi mà Ala [37] cho phép. Tất cả những gì của bọn dị giáo đều thuộc về chúng tao cả. Chúng tao thấy ở đâu, chúng tao nhận ở đấy.
- Vậy thì các người cứ dỡ tất cả ra, ta sẽ chia cho các người.
Trong một chiếc xe có một đồng binh khí đủ các loại. Đó cũng là của vơ vét được, phần lớn lấy ở trong thành của Môrê. Giữa đống binh khí ấy nổi bật lên một thanh gươm nhỏ, nhẹ, bao bằng nhung màu bồ quân - chắc là của một công tử con quan nào đấy.
Đôbô cầm lên.
- Bôneximo Gergey, lại đây nào. Cháu hãy cầm lấy thanh gươm này. Của cháu đấy. Cháu hãy gắng trở nên một tráng sĩ trung với nước, một đệ tử hiền lành của chúa. Chúc cho thanh gươm của cháu được phù trợ may mắn.
Chàng buộc thanh gươm vào thắt lưng chú bé và hôn lên trán người dũng sĩ tí hon. Chú bé cảm động đón nhận lòng tin yêu đó. Chú tái người đi vì cảm động. Có lẽ lời nhắn gọi của tương lai đã thoáng qua tâm linh chú, chú linh cảm thấy rằng không phải người ta chỉ buộc thanh gươm vào người chú mà còn buộc cả cuộc đời chú vào thanh gươm.
Sau đó Đôbô để lại cho những người bị bắt tất cả những gì mà các chiến sĩ không cần đến nữa. Người nào cũng được chia cả xe, cả ngựa, cả vũ khí. Các chiến sĩ đã hẳn là không vồ vập những con ngựa cày gầy gò thắng trước càng xe.
Gã xigan reo mừng ầm ĩ. Gã nhảy nhót xung quanh con ngựa và cái xe vừa được chia. Nhưng rồi gã vội vàng đến chỗ đống vũ khí. Cái gì xấu xí, han gỉ mà các chiến sĩ chừa lại là gã giắt lên người tất. Gã buộc một cái khăn quanh thắt lưng theo kiểu Thổ và giắt đầy người đủ loại dao găm, gươm, mã tấu đến nỗi trông chẳng khác gì một con nhím.
Thấy một cái khiên Thổ đan bằng sậy cũng nằm ở đó, gã bèn đeo vào tay. Gã buộc hai cái cựa giày to đã gỉ vào hai cổ chân rồi chụp mũ sắt lên đầu. Gã cũng đủ thông minh để vẫn giữ nguyên cái mũ vải của hắn bên dưới cái mũ sắt. Sau đó gã chộp lấy một cái dáo dài và lẹ làng nhún nhảy như đang múa trong ngày hội, gã đi tới chỗ tên Thổ.
- Nào, Yômôsac. - gã lấy giáo khều mũi hắn và nói. - mày nà đồ Thỏ tả. [38]
Thấy tất cả mọi người cười ồ lên khi nghe gã nói, Đôbô bảo gã:
- Đừng có tếu nữa! Mi là người ở đâu?
Gã xigan liền khúm núm khom lưng xuống:
- Con là người ở khắp tứ xứ, xin hôn tay hôn chân ngài, chỗ nào có người thuê đàn hát là con đến.
- Mi có biết chữa súng không?
- Sao lại không, thưa đại nhân, hảo hán, tướng quân. Khẩu súng tồi nhất mà vào tay con thì cũng sẽ được chữa lại tốt hơn khẩu mới.
- Vậy ít người nữa nhớ đến thành Xiget nhé, vào nhà tướng công Tơrơe Balin ấy. Ở đó ngươi sẽ gặp vận đỏ.
Chàng nói rồi cầm lấy tay Georgơ và chào mọi người.
- Thưa tướng quân, tráng sĩ tôn kính đại nhân! Chúng con làm gì với con thú dữ độc ác này bây giờ? - Gã xigan gọi với theo Đôbô và chỉ vào tên Thổ.
- Treo cổ nó lên. - Đôbô quay lại trả lời.
Chàng bế Gergơ lên yên và nhảy lên ngựa.
- Nào, con chó Thổ, bây giờ đến lượt mày nhé! - Kôtsit Gaspa thét lên.
- Dây thừng ở chỗ tấm vải bạt ấy. - Người đánh xe Onđrat bảo anh.
- Mày ngoẻo nhé! - Gã xigan cũng gào lên, mắt đảo dữ dội.
- Mày đã dùng sắt cùm gẫy cả chân tao, - Gaspa nghiến răng nói.
- Mày đã giết chết bố tao! - Một mụ đàn bà thét lên giọng the thé.
- Mày đã cướp bò của tao, đốt nhà tao!
Những nắm đấm căm giận vung lên tới tấp quanh mình tên Thổ.
Họ chen nhau đẩy tên Thổ đến dưới một cây sồi cổ thụ.
Bác nông dân to đầu đã từng trải kiếp nô lệ giơ gươm cản họ:
- Để cho nó chết ngay à? Không được! Phải đốt lửa lên dưới chân nó đã!
- Đúng đấy, hãy đốt lửa dưới chân nó! - Tất cả đồng thanh kêu lên. - Phải thiêu sống con quỷ dữ này đi.
Đám đàn bà đã bẻ cành cây khô và nhóm lửa lên dưới gốc cây. Bấy giờ ông mục sư mới cất tiếng nói:
- Bà con ơi, nếu bà con mải giải trí với cái trò treo cổ này thì một toán Thổ lang thang khác sẽ có thể đến đây và ta sẽ lại bị bắt làm nô lệ.
Đám người đang phẫn nộ bừng bừng bỗng lắng xuống nhìn ra xung quanh.
Mục sư tựa người vào cây dáo Thổ có cán bằng xương và nói tiếp:
- Bà con đã biết tên này hành hạ ta như thế nào rồi. Kẻ nào có quyền xét xử con ác thú này hơn ta?
Không một ai trả lời câu hỏi đó! Hầu như tất cả đều có mặt khi bọn Thổ trói mục sư vào một cái ghế dài và dội nước sôi tra khảo ông để hòng moi ra những đồ quý giá của nhà thờ.
- Bà con hãy đi theo các tráng sĩ tới chừng nào còn có thể nương náu dưới sự che chở của họ, sau đó rồi hãy tản vào những nẻo đường hoang vắng. Cầu Chúa phù hộ và dẫn dắt cho tất cả về đến nhà đến cửa.
Ông nói rồi dang tay ra làm dấu ban phước lành.
Mọi người bỏ việc chất lửa và lần lượt nhảy lên những cỗ xe vừa được chia.
- Đi thôi, lạy Chúa!
Gã xigan cũng tót ngay lên xe của mình và gọi ra đằng sau với mụ vợ vừa gà nghĩa.
- Đi thôi Beske!
Gaspa nối xe của mình vào xe của Morơghit. Họ ngồi xuống bên nhau.
- Hành hạ hắn cho đến nơi đến chốn vào! - Anh  kêu to với mục sư.
- Đừng tiếc lửa với nó! - Một mụ đàn bà cũng góp thêm.
Rồi họ lần lượt đánh xe đi.
Người đánh xe còn ở lại sau cùng, anh là người đã từng nấu ăn cho bọn Thổ.
- Mẹ kiếp đồ Môhamét mõm lợn, chưa trả lại mày cái tát thì tao chưa đi! - Anh nói và ra tay ngay.
Cuối cùng chỉ còn ông mục sư ở lại với tên Thổ.
* * *
Gergơ cứ tưởng mình đang sống trong mơ. Trong lúc tung bụi mù bên cạnh Đôbô, trên mình con ngựa Thổ nhỏ nhắn và nhanh nhẹn, chú cứ nghĩ mãi mà không hiểu mình đã rơi tõm vào giữa vinh quang to lớn này như thế nào?
Khi chú nhìn con ngựa, khi lại nhìn thanh gươm đẹp. Chú luôn tay vuốt ve con ngựa và chốc chốc lại rút thanh gươm ra. Ví thử ngẫu nhiên chạm trán với quân Thổ và Đôbô bảo chú rằng “Chém đi Gergơ!” thì lúc này chắc chắn là Gergơ có thể xông vào giữa cả một đoàn quân địch.
Họ tiến về phía bắc trên đường cái Metsec.
Hoàng hôn đã xuống. Những đám mây vẩy cá rải rác trên trời và khi mặt trời bắt đầu hắt ánh nắng lên thì cả bầu trời rực rỡ như kết nên bằng những vẩy vàng.
Lúc họ đang phi nước kiệu xuống sườn dốc, con ngựa của Đôbô bỗng đứng dừng lại như thể chân trước đã bị chôn xuống đất. Nó ngẩng đầu lên, vểnh tai ra. Nó thở phì phì và lấy chân cuốc đất một cách bồn chồn.
Đôbô ngoái nhìn lại, chàng lắc đầu nói với các chiến sĩ:
- Ngựa ta đánh hơi thấy quân Thổ đấy. Ta hãy dừng lại đã.
Ngay lúc khởi hành chàng đã phái hai chiến sĩ đi tiền trạm. Họ dừng lại chờ hai người ấy.
Quả nhiên vài phút sau cả hai đều phi trở lại.
- Dưới thung lũng có một toán quân Thổ đang đi đến đây. - Một người báo với Đôbô.
- Chúng nó đi theo đội ngũ chỉnh tề, - Người kia nói thêm.
- Còn xa không? - Đôbô hỏi.
- Bẩm, còn khá xa. Chúng nó tới được đây cũng phải mất vài giờ nữa.
- Độ bao nhiêu đứa?
- Có lẽ phải vài trăm.
- Chúng đi theo đường cái à?
- Vâng, trên đường cái.
- Có cả nô lệ đi theo nữa?
- Cả nô lệ và rất nhiều xe cộ.
- Hừ, quân chó má! Chắc hẳn là hậu quân của Kaxôn. Một tuồng chó đẻ cả. Phải tấn công vào chúng nó…
Con đường cái lượn ngoằn ngoèo lên Metsec. Đôbô nhắm cho đội mình một chỗ ngoặt, nơi có một mỏm đá nhỏ ra chắn ngang. Ở đó họ có thể kín đáo mai phục gây chuyện bất ngờ cho bọn Thổ.
- Liệu chúng ta có đủ người không nhỉ? - Một người lính trẻ, tóc hung, mặt tàn nhang lên tiếng hỏi, một anh chàng mà ngay phút đầu tiên ta đã có thể biết là y lớn lên trong nhung lụa.
- Đủ đấy, Durơko ạ. - Đôbô mỉm cười với y. - Khi phước lành bất thình lình ập xuống đầu chúng như thế này thì chúng không còn thì giờ đâu để đếm xem chúng ta có bao nhiêu người nữa. Vả lại lúc đó cũng đã xẩm tối rồi. Sau nữa, nếu ta không thể chặt hết chúng nó thì cũng đủ khiến bọn chúng chạy tán loạn. Rồi dân chúng trong các làng xóm sẽ xử trí nốt từng tên chạy lạc.
Đám người vừa được giải thoát hiện ra ở một chỗ đường vòng, họ đi thành một hàng dài.
Đôbô nhìn Gergơ và bảo:
- Ta đã vô ích giảng giải với họ là đừng có kéo nhau đi trên đường cái.
Chàng bèn phái một chiến sĩ chạy đi bảo họ quay về phía Pêts, rồi từ đó đi sang đông hay sang tây tùy ý, miễn là đừng đi về phía nam.
Trên dốc cao có thể thấy người chiến sĩ đã đến chỗ đoàn xe, và sau đó từng chiếc một liền quay đầu trở lại.
Đôbô nhìn sang Gergơ và lẩm bẩm:
- Thật quỷ, ta biết nhét chú bé này vào đâu bây giờ?
* * *
Mục sư còn lại một mình với tên Thổ. Hắn đứng dưới gốc cây sồi, mặt cúi gằm xuống đất. Ông mục sư chống dáo đứng trước mặt hắn chừng mươi bước. Tiếng lọc cọc của đoàn xe còn vọng lại một chốc, sau đó im lặng của rừng cây bao trùm lấy họ.
Lúc đó tên Thổ mới ngẩng mặt lên, bộ mặt tái mét, hắn nói:
- Trước khi ông giết tôi, xin hãy nghe tôi một lời. Cái hầu bao ở thắt lưng tôi đầy vàng. Với một khoản thu như thế ông có thể chôn cất tử tế cho tôi.
Mục sư không trả lời, ông chỉ thản nhiên nhìn tên Thổ.
- Sau khi treo cổ tôi, - Yumusac tiếp. - ông hãy đào cho tôi một cái huyệt dưới gốc cây này và đặt tôi ngồi vào đó. Hãy quay mặt tôi về phía Mecka[39], về phía đông này này. Vì số tiền của tôi, ông có thể giúp cho tôi điều đó.
Hắn không nói gì nữa, hắn chở ông mục sư với sợi dây thừng.
- Yumusac, - lúc ấy mục sự mới lên tiếng. - hôm qua ta có nghe mày nói rằng mẹ mày là người Hung.
- Chính thế, - tên Thổ trả lời với một cái nhìn có sinh khí hẳn lên.
- Như vậy thì một phần nào mày vẫn là người Hung.
- Chính thế.
- Giặc Thổ cướp mày đi từ hồi bé à?
- Ông đoán đúng đấy.
- Từ xứ nào?
Tên Thổ nhún vai.
- Tôi quên mất rồi.
- Lúc ấy mày mấy tuổi?
- Còn rất bé.
- Mày không nhớ cha mày sao?
- Không.
- Cũng không nhớ tên cũ của mày là gì?
- Cái ấy cũng không.
- Không nhớ tên cũng không nhớ họ?
- Chẳng nhớ gì cả.
- Thế mà lạ thay mày lại không quên tiếng Hung!
- Trong trại ionisa có nhiều người Hung!
- Mày không biết một đứa nào quê xứ Lốc tên là Imre à? Sômôdi Imre?
- Đột ngột thế này tôi không thể nhớ ra được.
- Đầu nó tròn, mắt đen, người nhỏ nhắn: khi bọn giặc cướp nó đi, nó chưa đầy năm tuổi. Trên ngực bên trái có ba nốt ruồi hình bầu dục y như của ta đây này.
Mục sư phanh ngực áo: ba nốt ruồi tụ lại thành hình lá cỏ tam diệp rõ ràng trên ngực, khoảng giữa vai và vú.
- Tôi nhớ ra rồi. - Tên Thổ nói. - Tôi thường hay gặp dấu vết này khi chúng tôi đi tắm. Chỉ có điều là tên nó bây giờ đã đổi khác: Amét hay Kubát hay một tên Thổ đại loại như vậy.
- Chúng mày không cùng đi với nhau à?
- Có khi đi cùng, có khi không. Bây giờ nó đang đánh nhau ở Perica.
Mục sư nhìn thẳng vào mặt tên Thổ:
- Mày nói láo!
Tên Thổ lại cúi mặt xuống nhìn đôi ủng linh, một đôi ủng đỏ buộc dây da, tựa hồ như đang ngẫm nghĩ xem đôi ủng đã có thể rách từ bao giờ và làm thế nào mà rách được ở chỗ mõm giày chân trái?
- Đồ khốn kiếp! - Mục sư khinh bỉ nói. - Tội mày thật đáng chết!
Tên Thổ  vội quỳ mọp xuống.
- Ôi, thưa ông! Xin ông mở lượng khoan hồng tha chết cho con! Ông hãy lấy tất cả, hãy bắt con làm nô lệ! Chó cũng không trung thành được như con sẽ trung thành với ông.
- Vấn đề chỉ ở chỗ mày có còn là một con người nữa hay không, hay đã sa đọa thành ác thú? Nếu ta thả mày ra, ai dám bảo lãnh rằng mày sẽ không trở lại giết hại và cướp bóc dân tộc đáng thương của ta nữa?
- Nếu con còn cầm đến vũ khí thì xin đấng Ala cứ trừng phạt bằng những ngọn roi khắc nghiệt của Người.
Mục sư lắc đầu. Tên Thổ lại van xin:
- Con xin thề với ông bằng lời thề độc ghê gớm nhất mà chỉ người Thổ mới nói ra được.
Mục sư khoanh tay lại và nhìn vào mắt tên tù binh:
- Yumusac, giờ đây mày quỳ trước bực cửa của thần chết để xin xỏ ta và chắc mày đang nghĩ rằng ta là một kẻ ngốc nghếch, hay mày tưởng ta không biết kinh Côran (Kinh của đạo hồi) đã nói gì về lời thề trước hoàng đế của tụi mày sao?
Mồ hôi vã ra trên trán tên Thổ, hắn lại khẩn khoản:
- Vậy xin ông hãy phán bảo một lời. Dù ông phán bảo bất cứ điều gì, điều đó cũng sẽ được thực hiện.
Mục sư đưa tay nâng cằm và suy nghĩ, cuối cùng ông nói:
- Tất cả mỗi tên lính Thổ đến có một thứ bùa hộ mệnh, một thứ bùa gì đó để che chở cho hắn trong trận mạc và giúp hắn gặp may mắn.
Tên Thổ gục đầu xuống.
- Ta không cần lấy tiền của mày đâu, - ông tiếp. - ta muốn lấy cái bùa hộ mệnh ấy của mày.
Tên Thổ ngập ngừng nói:
- Ông hãy thò tay vào dưới ngực áo của con, cái bùa của con đeo ở cổ.
Mục sư đã rờ thấy cái bùa hộ mệnh của hắn đựng trong một cái túi nhỏ bằng lụa xanh, ông giật đứt sợi dây chuyền và bỏ vào túi. Sau đó ông bước ra sau lưng tên Thổ và cắt dây trói thắt khúc trên người hắn.
Tên Thổ giật tay ra khỏi dây trói và đột nhiên quay ngoắt lại. Hắn chớp mắt nhìn mục sư Gabô bằng cái nhìn cháy rực của con hổ.
Nhưng mục sư đã chĩa mũi dáo ra và cười mỉm.
- À, à, Yumusac! Hãy coi chừng kẻo lại thủng mũi bây giờ!
Yumusac tức tối gần như phì ra lửa, hắn đi giật lùi và khi  đã cách  mục sư chừng vài chục bước, hắn mới rống lên với giọng nhạo báng:
- Hãy nghe đây đồ ngu, mày có biết vừa rồi ai đã nằm trong tay mày không? Tao là con trai tổng đốc Oclu Môhamét lừng lẫy tiếng tăm đây! Đáng lẽ mày đã có thể đòi chuộc tao để lấy hàng bao tải vàng mà không biết!
Mục sư không trả lời. Vẻ mặt khinh bỉ, ông ném ngọn dáo lên xe ngựa của mình. Mặt trời vừa vặn chìm khỏi chân trời khi ông mục sư Gabô ngồi lên xe. Ông cũng đánh xe ra đường cái.
* * *
Mặt trời vừa vặn chìm khỏi chân trời khi ông mục sư Gabô ngồi lên xe. Ông cũng đánh xe ra đường cái.
Ông còn trông thấy phần cuối đoàn xe của các bạn nô lệ khi họ đi xuôi về Pêts, nhưng ông nghĩ chắc đó chỉ là một phần, những người khác có lẽ đã đi về phía bắc.
Đường về nhà thì ông thuộc lắm. Cũng chẳng còn đường nào khác đi về phía ấy ngoài con đường độc đạo từ Pêts qua Kopôtva, Xêkétphehêva rồi đến Buđa. Nhưng ông chỉ đi theo đường ấy đến Lốc, đến lâu đài của Bôkits Pan, từ đó ông sẽ rẽ về hướng tây theo một con đường xe ngựa nhỏ hẹp dẫn đến vùng hồ Ba-la-tông. Làng ông ở đó, cạnh một rừng bạch dương. Những con chiên của ông ắt sẽ ngạc nhiên và vui mừng biết mấy khi họ thấy ông thoát nạn trở về.
Ông xuống xe sửa lại cái bánh. Ông thích thú vỗ vỗ vào mõm hai con ngựa, sau đó lại ngồi lên xe và bắt đầu xuống dốc.
Nhưng toán quân của Đôbô đã chắn ngang đường.
- Ông quay lại đây làm gì? - Một người lính hỏi khi nhận ra ông.
Mục sư không hiểu câu hỏi.
- Có một toán quân Thổ đang kéo đến đây. - Người lính giải thích. - Chúng tôi mai phục chúng ở đây. Ông hãy quay lại và đi mau đến Pêts với những người kia.
- Dừng lại đã, mục sư thân mến ơi! - Đôbô gọi ông.
Chàng phi ngựa đến chỗ ông và hỏi:
- Làng của ông là làng nào đấy?
- Kishiđo.
- Bên bờ Balatông ấy à?
- Ở đấy.
- Vậy thì tôi nhờ ông mang chú bé này theo và khi nào có dịp, ông hãy gửi hộ tôi đến thành Xiget của Tơrơc Balin.
- Rất vui lòng. - Mục sư đáp.
- Tôi sợ nhỡ có chuyện gì không hay xảy ra cho chú bé. - Đôbô giải thích. - Chúng tôi ở lại đây để xua nốt một toán giặc Thổ khá đông, như vậy ông cũng thấy đấy, rất có thể một tên giặc nào đó sẽ chém phải chú ta.
Gergơ ngập ngừng nhìn Đôbô.
- Nhưng nhỡ mẹ cháu đi tìm cháu thì sao?
- Mẹ cháu sẽ không tìm đâu, cháu ạ. Mẹ cháu đã biết cháu đi đâu rồi.
Mục sư quay xe lại rồi hỏi Gergơ:
- Cháu có ngồi lên xe không? Hay cháu cưỡi ngựa của cháu?
- Cháu cưỡi ngựa của cháu thôi. - Chú bé trả lời, mắt vẫn nhìn Đôbô.
Mặc dù sắp có một trận đánh nhau ác liệt, bên cạnh Đôbô chú vẫn cảm thấy an toàn hơn. Họ sẽ chém giết lẫn nhau ư? Giặc Thổ đâu phải là người, chúng chỉ là bầy thú dữ tàn phá quê hương. Với trái tim bé nhỏ chú cũng đã căm thù bọn chúng.
- Cầu Chúa phù hộ cho chàng dũng sĩ tí hon của chú. - Đôbô từ biệt. - Chú biết cháu thích ở lại đánh nhau cùng bọn chú, nhưng cháu xem, ủng của cháu đã có đâu! Thôi, cháu hãy đi theo mục sư đáng kính đây, ít hôm nữa ta sẽ lại gặp nhau.
Mục sư nới phanh xe và quất ngựa. Gergơ buồn rầu cưỡi ngựa lẽo đẽo theo sau.
* * *
Lúc họ đi ngang dưới chân thành Pêts thì trời đã tối mịt.
Họ không nghỉ lại. Mục sư nóng lòng muốn sáng hôm sau đã về đến nhà, mà đường đi của họ thì còn phải vòng qua xứ Metsee rộng lớn.
Gần nửa đêm trăng mới ló ra. Họ cho ngựa chạy êm êm trên con đường đất sét khá hẹp.
Lúc này Gergơ luôn thúc ngựa chạy phía trước và khi đến bên một cái cầu hỏng, chú kêu lên báo với mục sư.
Đến độ nửa đêm, bóng trăng trắng của một ngôi nhà có vẻ như quán trọ hiện ra trước mặt họ.
- Vào xem thử con, - Mục sư bảo. - quán trọ hay nhà gì đây. Ta sẽ cho ngựa ăn uống.
Gergơ cưỡi ngựa vào sân, vài phút sau chú quay ra báo tin:
- Nhà bỏ không cha ạ, cửa cũng chẳng đóng.
- Tuy vậy ta cũng cứ cho ngựa ăn.
Một con chó trắng nhỏ bỗng chạy ra sủa, ngoài ra tịnh không còn ai khác.
Mục sư nhảy xuống xe và đi khắp nhà, vừa đi vừa gọi to qua các cửa sổ, cửa lớn:
- Xin chào cả nhà! Có ai trong nhà không?
Ngôi nhà tối om, hoang vắng. Trên bực cửa, một cái tủ nhỏ bị đập vỡ tan. Nơi đây bọn Thổ đã đi qua.
Mục sư lắc đầu bảo Gergơ:
- Trước hết ta hãy lại xem cái giếng, Gergơ ạ, da ta vẫn còn rát bỏng.
Ông thả gàu múc nước lên rồi bắt đầu đến lục lọi trên xe.
Trên xe có đủ mọi thứ: vải lót giường, lúa mì, hòm xiểng, mấy cái ghế chạm trổ hẳn hoi, một thùng rượu vang và những bao đầy ắp. Ấn tay vào một bao thấy mềm mềm, ông mở ra. Trong đó có đúng cái mà ông muốn tìm: quần áo.
Ông giội nước vào một cái khăn rồi cởi áo đến thắt lưng. Ông dùng khăn ướt dấp dấp khắp mình.
Gergơ cũng xuống ngựa. Chú dẫn con ngựa đến chỗ máng nước và cho nó uống.
Trong hộc bục ngồi có một cái tay nải, ông quờ tay vào sờ thấy có bánh mì.
- Con có đói không?
- Con đói quá đi ấy chứ. - Chú bé bẽn lẽn trả lời.
Mục sư rút gươm ra, trước khi cắt bánh mì, ông ngửng mặt lên trời và nói bằng một giọng thành kính, đầy biết ơn:
- Chúa thật vô cùng ân đức! Người đã giải thoát cho chúng con  khỏi xiềng xích và bây giờ lại cho chúng con cả bánh mì nữa.
Bầu trời quang đãng chi chit những vì sao. Mảnh trăng lưỡi liềm vằng vặc giữa đỉnh đầu đủ soi tỏ cho bữa ăn tối.
Họ ngồi ăn trên thành giếng. Thỉnh thoàng mục sư lại vứt cho con chó một mẩu bánh. Gergơ bẻ cho con ngựa của chú nửa phần bánh mì.
Từ xa bỗng vẳng lại tiếng vó ngựa lộp cộp khe khẽ. Hai người liền dỏng tai nghe ngóng, mồm họ ngừng lại không nhai nữa.
- Có người đi ngựa đến. - Mục sư nhận xét.
- Một người. - Gergơ nói thêm, rồi họ tiếp tục nhai.
Tiếng lộp cộp dần dần rõ lên thành tiếng rồn rập trên nền đường đất khô. Vài phút sau một kỵ sĩ phóng ngựa tới. Y hãm dần ngựa trước cửa quán và rẽ vào sân. Trông bộ dạng của y có thể biết ngay là người Hung. Đầu y không có mũ, nhưng có tóc, như vậy, chắc chắn là người Hung rồi.
Y dừng lại nhìn quanh rồi lên tiếng gọi mục sư với cái giọng khàn khàn của loài quạ:
- Mubaree Ôlonxun! [40]
Y tưởng mục sư là người Thổ vì ông đắp cái khăn trắng ở trên đầu.
- Ta là người Hung đây. - Mục sư đáp lại và đứng lên. Ngay lúc đó ông nhận ra người kia là tên Môrê. Gergơ cũng đã nhận ra hắn, chú rùng mình.
- Ai ở đây? - Môrê vừa tụt xuống khỏi con ngựa chiến đang bốc hơi vừa hỏi. - Chủ quán đâu?
- Ở đây chả có ai khác ngoài ta và chú bé này. Đây là nhà vô chủ.
- Ta cần ngựa! Ngựa đã nghỉ ngơi!
Mục sư nhún vai:
-  Ở đây khó mà kiếm ra của ấy.
- Đường ta gấp lắm nhưng ta lại không sẵn tiền. Chúng ta cùng là tín đồ Cơ đốc cả, vậy ông hãy đưa ngựa của ông đây cho ta.
Hắn ngắm kỹ cả hai con ngựa. Con thứ ba, của Gergơ đang gặm cỏ trong bóng tối. Chú ngựa nhỏ nhắn có vẻ là ngựa tồi. Môrê không đợi trả lời, hắn cứ tháo ngựa ra khỏi càng xe.
- Ơ kìa. - Mục sư lên tiếng. - Ít nhất ngươi cũng nói cho ta biết vì sao mà phải chạy gấp đến thế chứ?
- Quân Thổ đã bị Đôbô đánh tan tác, chúng tôi cũng được giải thoát.
- Ông ta đi đâu rồi?
- Chúng tôi vượt trước ông ta.
Môrê không nói gì hơn. Hắn quăng mình lên con ngựa cày và phóng đi.
- Thằng này giải quyết việc mua ngựa mau mắn thật. - mục sư làu bàu.
Lúc cử động ông cảm thấy có cái gì chuồi ra khỏi túi. Ông cầm lên và chợt nhớ ra đó là cái bùa hộ mệnh của tên Thổ chột. Trong túi lụa xanh có cái gì cưng cứng, ông lấy gươm rạch túi ra thì thấy một cái nhẫn.
Mặt đá của cái nhẫn to một cách lạ thường, đó là một viên đá đen hình bốn cạnh bằng hoa cương hoặc bằng ốpxidian (Một loại đá do hỏa diệm sơn phun ra, rất cứng và có thể mang nhiều màu sắc), dưới ánh trăng không thể nhận rõ được. Nhưng trên mặt đá ấy có thể thấy rõ một mặt trăng bằng đá quý màu vàng nhạt, xung quanh có năm ngôi sao nhỏ bằng kim cương.
Mặt trong của cái túi cũng lấp lánh những chữ Thổ thêu bằng chỉ bạc. Mục sư nghe được tiếng Thổ nhưng đọc chữ Thổ thì ông chịu.
Ông bỏ lại vào túi rồi đưa mắt nhìn Gergơ. Chú bé đã ngủ ngon lành trên bọc quần áo.
* * *
Ánh sáng mặt trời tỏa xuống mới vui tươi rực rỡ làm sao! Thế mà xung quanh vùng hồ Balatông, mặt trời không thể thấy gì khác ngoài những ngôi nhà cháy, những vườn rau bị xéo nát và những xác chết ngổn ngang khắp nơi.
Ôi, nếu như mặt trời là mặt của Trời thì chắc hẳn nước mắt đã chan hòa mặt đất thay cho ánh sáng!
Mục sư tuy đã biết trước rằng làng của ông cũng bị tàn phá, nhưng khi họ lên đến một đỉnh đồi và nhìn thấy cái tháp chuông tróc mái, nhem nhuốc nhô lên trên những cành lá của cây vườn, mắt ông vẫn nhòa lệ.
Ông không giục ngựa, cứ để mặc cho chúng lững thững đi. Cứ mỗi bước, cảnh điêu tàn càng mở ra trước mắt họ. Không đâu còn một mái nhà nguyên vẹn, không đâu còn một cổng nhà lành lặn. Mảnh đồ gỗ, ván thùng và bột mì vương vãi khắp nơi. Xác người và xác súc vật ngổn ngang trong các sân nhà.
Không nhà nào còn người sống sót. Chỉ có một vài con chó thoát khỏi tai biến đã trở về cùng một vài chú gà vịt tránh được tay lũ giặc cướp.
Mục sư xuống xe, bỏ mũ ra và bảo Gergơ:
- Con cũng bỏ mũ xuống con ạ. Đây là làng của người chết chứ có phải là làng của người sống nữa đâu.
Ông dắt ngựa đi sâu vào trong làng.
Một nông dân luống tuổi tóc rất rậm nằm dang tay trên đường, mặt ngửa lên trời. Tay người chết vẫn còn nắm chặt cây đinh ba.
- Tội nghiệp bác Ondrat.
Mục sư lắc đầu. Ông cầm cánh tay kéo người chết sang bên lề đường để lấy lối cho ngựa đi qua.
Một người khác còn trẻ hơn bị chém ngang lưng, xác buông thõng qua hàng rào, đầu ngoẹo ra phía ngoài đường, như thể anh ta đang nhìn máu của chính mình rỏ từ đầu xuống đất đã đen kịt lại.
Con lợn nhà anh đang ăn cỏ phía sau, bên một cái sân đầy lông nhồi nệm giường. Giặc Thổ chưa kịp đụng đến con lợn.
Một đứa trẻ mới lọt lòng nằm trần truồng bên cạnh cánh cổng gần đó, cái ngực bé xíu bị một vết thương to toang hoác.
Mùi tro, mùi xác chết lẩn quất khắp nơi. Tất cả cảnh tàn sát man rợ này đã xảy ra chỉ vì một tên lính thổi kèn được yêu chuộng của bọn Thổ bị đâm chết, một người chồng trẻ trong lúc bảo vệ vợ mình đã cho hắn một nhát đinh ba. Thế là những tên lính Thổ nổi khùng thét lên:
- Không để một mạng sống nào trong làng này nữa!
Mục sư dắt ngựa đi thẳng, không còn nhìn sang hai bên nữa mà cứ nhìn xuống con đường bụi vàng khè trong nắng. Cuối cùng họ về đến chỗ ở của mục sư.
Cái nhà ấy cũng không còn mái. Những vỉ kèo hình chữ A to cháy đen, chơ chỏng trên đống tro tàn của mái nhà. Bức tường phía trên cái cửa sổ trông ra đường đã đen kịt lại vì lửa táp.
Bọn giặc đã châm lửa đốt cái nhà này sau khi dùng nước sôi tra khảo ông. Cái ghế dài còn để giữa sân. Quanh đó đầy mảnh vụn của những hòm gỗ sồi: sách vở và lúa mì tung tóe đầy sân, những chậu hoa trồng trong phòng bị xéo nát bét. Bên cạnh cái bàn gãy chân, một bà già vận quần áo đen nằm sóng soài, hai tay duỗi thẳng, một vũng màu đen ngòm bên cạnh. Đó là bà mẹ già của mục sư.
- Đến nhà rồi. - Mục sư quay khuôn mặt đầm đìa nước mắt về phía Ger gơ nói. - Chúng ta về đến nhà rồi, con ạ.
* * *
Hai bác cháu chôn cất suốt hai ngày không nghỉ. Mục sư hạ cái ván thành xe xuống, mỗi lần chở được ba, bốn xác chết ra nghĩa địa.
Gergơ luôn luôn đi trước xe, bên sườn đeo thanh gươm của Đôbô tặng, tay cầm cây thánh giá của nghĩa địa. Mục sư dắt ngựa, vừa đi vừa đọc kinh cầu nguyện hoặc hát thánh ca. Đến nghĩa địa ông dùng chiếu đắp những người chết cho quạ khỏi đụng đến người họ, rồi lại quay trở về chở chuyến khác.
Sáng ngày thứ ba một mụ nông dân và một đứa bé chợt xuất hiện trong làng. Họ đã trốn vào trong bãi sậy ven hồ Balatông. Buổi tối có thêm hai người đàn ông nữa trở về - họ vừa đi vừa nấp, vừa nghe ngóng cẩn thận.
Mấy người đó giúp việc đào huyệt, mục sư cũng cùng đào với họ. Chỉ sau khi đã dọn hết xác chết và chôn cất tử tế, ông mới bắt tay chữa tạm lại căn nhà. Nhà này trước kia gồm ba phòng nhưng tất cả đều đã đổ sụp trong trận cháy.
Trước tiên ông lấy gỗ ván lợp lại mái phòng phía gần đường cái để họ có thể trú mưa, sau đó ông sửa sang lại một cái tủ, rồi cùng Gergơ nhặt nhạnh những quyển sách vứt ngổn ngang ngoài sân xếp vào đó.
Sau nhiều công việc não lòng, việc chuyển sách làm Gergơ vui thích. Chú giở quyển này quyển nọ để xem có tranh ảnh gì không. Có độ 5 quyển có ảnh, trong một quyển có toàn ảnh các loài sâu bọ, một quyển khác lại đầy những hình vẽ các loại hoa. Thư viện của mục sư có tất cả chừng ba chục quyển sách bìa da.
Mụ đàn bà dọn dẹp lại nhà bếp và lo việc nấu nướng. Mụ nấu một món đậu không có thịt và món canh trứng.
Hai đĩa thức ăn cho cả một làng!
Sau bữa trưa, mục sư nhìn ra vườn và kêu lên:
- Ơ kìa, chúng nó không phá tổ ong của ta. Ra đây, Gergơ.
Ông dẫn Gergơ ra vườn, nơi có một tổ ong nuôi trong cái am thờ. Cửa am cũng bị bọn Thổ phá tung nhưng vì không thấy gì khác ngoài một bệ thở, một cái bếp lò nhỏ, một cái bàn kê bằng mảnh ván với mấy cái chai cổ dài ngoẵng nên chúng không đập phá gì bên trong cả. Mấy cái chai ấy vẫn được dùng để làm thí nghiệm hóa học. Mục sư gần như ngạc nhiên khi thấy mấy cái chai không bị sứt mẻ gì cả.
* * *
Hôm sau hai bác cháu lên ngựa đi về phía nam, đến thành Xiget.
Hôm đó trời trong và nóng bức. Khắp nơi, ở những thôn xóm bị giặc tàn phá, người ta vẫn còn tiếp tục chôn cất và sửa sang nhà cửa. Một đôi làng cũng chỉ còn lại lơ thơ vài ông già bà cả. Có những nơi toàn thể dân làng đã bị bọn Thổ lùa đi.
Lúc đến vùng bãi sậy ngoại vi thành Xiget, mục sư ngẩng lên nhìn và bảo:
- Tướng công có nhà đấy.
Gergơ hiểu là ông nói đến Tơroc Balin, chú ngạc nhiên hỏi:
- Làm sao cha biết?
- Con không thấy lá cờ kia sao?
- Lá cờ trên đỉnh tháp ấy à? Là cờ xanh đỏ.
- Đúng đấy, đó là cờ hiệu của tướng công, lá cờ đó báo hiệu tướng công hiện có nhà.
Họ đi vào rừng sậy và phóng ngựa song song bên nhau. Nước suối Onmat chảy ra một cái hồ lớn lấp lánh trước mắt họ. Giữa hồ, một pháo đài nhô ra khỏi bức tường thành đen xạm, đang soi mình trong gương nước. Một đàn ngỗng lớn bơi trắng xóa mặt hồ.
Mục sư lại lên tiếng:
- Này con, con không nghĩ rằng tướng quân Đôbô đã xung trận với một lực lượng quá chênh lệch ư? Có thể ông ta đã nằm lại đó.
- Giữa trận ấy à?
- Ừ, giữa trận tiền.
Gergơ không nghĩ như thế. Theo chú, Đôbô là người vô địch, dù chỉ một mình ông xông vào giữa một đoàn quân Thổ chăng nữa, chú cũng chẳng hề ngạc nhiên chút nào.
- Giả dụ ông ta có làm sao, - mục sư nói tiếp. - ta sẽ nhận con làm nghĩa tử.
Ông cho ngựa nhảy lên chiếc cầu gỗ đầu tiên bắc trên những cột cao dẫn vào thành ngoài.
Dưới chân cầu đầy những đàn ngỗng, đàn vịt. Họ đi qua khu chợ mới rồi lại đến một cái cầu gỗ ngắn. Cầu này đâm vào khu chợ cũ. Trước một cái nhà thờ hai tháp chuông có ba mụ đàn bà đang ngồi bán mận. Một mụ đang đong mận vào vạt áo cho một cô bé chân đất. Cửa nhà thờ có nẹp sắt cẩn thận.
Lại đến một cái cầu nữa, cũng làm bằng gỗ nhưng đã là một cái cầu dài và rộng, nước lấp lánh ở tít dưới sâu.
- Bây giờ ta đến thành trong. - Mục sư bảo. - Cũng vừa đúng lúc.
Và ông rút khăn tay, cẩn thận lau khắp mặt mũi.
Cửa thành mở toang, từ bên trong vọng ra tiếng lộp cộp mạnh mẽ. Họ trông thấy, trên một cái sân rộng một người mặc áo giáp đang phóng ngựa như bay trong đám bụi mù, sau đó lại thấy một người khác phóng ngựa ngược lại, trông cứ như hai pho tượng cưỡi trên hai con ngựa sống. Một pho bằng bạc còn mới, pho kia đã bạc mầu, đôi chỗ đã han gỉ, hình như cho đến giờ vẫn bị để quên trong một cái kho nào đó. Hai cái mũ chiến cũng khác nhau: một cái trơn tru, hình tròn, còn cái kia có một hình đầu gấu, cũng bằng bạc, lấp lánh trên đỉnh. Ngực hai con ngựa đều có giáp sắt hình đuôi tôm che chở.
- Tướng công kia kìa, người đội mũ đầu gấu ấy. - Mục sư nói với Gergơ một cách kính cẩn.
Hai kỵ sĩ cầm thương lao vào nhau và khi đã giáp là cả, hai con ngựa chồm hai chân trước lên. Hai mũi thương đều trượt qua trên khiên.
- Chùy ! - người đội mũ đầu gấu kêu to khi hai con ngựa đã lùi xa nhau.
Nghe tiếng kêu, hai võ đồng [41] mặc quần áo xanh đỏ từ trong cửa chạy ra đưa hai quả chùy đồng cùng kiểu và hai cái khiên sắt mới cho hai đấu thủ.
Hai kỵ sĩ lại vòng ngựa ra xa nhau. Mõm con ngựa của người đội mũ sắt trơn đã sùi bọt trắng. Họ lại xồ vào nhau ở chính giữa sân. Người đội mũ trơn nện chùy trước tiên. Người đội mũ đầu gấu vội đưa khiên lên quá đầu. Cái khiên kêu đánh choang như một cái chuông sắp rạn. Nhưng từ dưới cái khiên, cánh tay kia của ông đã vung chùy ra, ông choảng vào đầu địch thủ một cái mạnh đến nỗi mũ sắt của gã bị móp vào. Gã giật cương cho ngựa lùi ra và vứt binh khí đi. Người đội mũ đầu gấu bỏ mũ sắt xuống, cất tiếng cười ha hả.
Đó là một người đàn ông mặt đầy đặn, nước da rám nắng. Bộ ria dài, rậm và đen của ông ép sát vào hai má vì bị mũ sắt đè, một bên cong lên tận lông mày, một bên rũ xuống đến cổ.
Mục sư bảo Gergơ:
- Tướng công Balin đấy, nếu ngài có nhìn lại đây thì con nhớ bỏ mũ ra nhé!
Nhưng Tơroc Balin không nhìn về phía họ. Ông đang nhìn địch thủ của mình, mấy gia nô giúp kéo mũ ra khỏi đầu cho gã. Sau khi được người ta chật vật kéo hộ cái mũ sắt bị móp ra khỏi đầu, gả nhổ ba cái răng xuống sân rồi cất tiếng chửi rủa bằng tiếng Thổ. Khoảng bảy, tám tù binh Thổ từ dưới cổng chui ra. Chúng giúp gã kia cởi bỏ áo giáp.
Té ra gã kia chỉ là một tên tù binh Thổ, cũng như những tên khác.
- Nào, đứa nào trong bọn bay còn thích giao đấu nữa? Tự do sẽ là phần thưởng cho kẻ nào đánh ngã được ta! - Tơroc Balin vừa thúc ngựa vừa kêu to.
Một tên Thổ râu ria thưa, người gân guốc, da đỏ như gà chọi, đứng ra:
- Hôm nay có lẽ con sẽ gặp may mắn hơn.
Hắn mặc bộ giáp sắt nặng nề vào người. Bọn bạn hắn thắt hộ những đai sắt ở sau lưng, ấn mũ sắt vào đầu cho hắn rồi lấy một cái lá chắn khác lắp vào chân hắn vì chân tên Thổ này rất to. Sau đó người ta dùng cần cầu giúp hắn lên ngựa và đưa cho hắn một cây mã tấu!
- Mày điên mất rồi Amét ạ! - Tơroc Balin vui vẻ nói. - Mã tấu đâu phải là thứ dùng để đánh vào giáp trụ.
- Con chỉ quen thế này thôi. Nếu Ngài không dám chơi thì con cũng chẳng thử cách nào khác nữa.
Họ nói với nhau bằng tiếng Thổ. Mục sư giảng cho Gergơ biết những lời họ nói.
Tướng Balin lại đội mũ lên đầu. Ông khoa một cây thương nhẹ và phi ngựa vòng quanh sân.
- Bắt đầu! - Ông hô to và xông vào giữa sân.
Gergơ rùng mình.
Tên Thổ hơi cúi về phía trước trên mình ngựa, hai tay nắm chắc cây mã tấu, hắn xô vào tướng Balin, mồm hét:
- Ala!
Khi hai bên giáp nhau, hắn rướn người lên và bổ xuống một nhát khủng khiếp. Tướng Balin thì hướng mũi thương vào ngang sườn tên Thổ. Mũi thương bị trượt đi, cây thương rơi khỏi tay ông. Tuy vậy ông vẫn dùng tấm khiên đỡ được nhát chém khốc liệt của tên Thổ, đồng thời trong nháy mắt đó ông tóm lấy cánh tay địch thủ giật hắn ngã ngựa.
Tên Thổ ngã nghiêng người xuống sân, bụi bốc mù lên quanh người hắn. Tơroc Balin lật lưới mũ lên, cười nói:
- Đủ rồi. Nếu ngày mai ta còn ở nhà, bọn bay lại có thể giao đấu với ta.
Ông lại cười rung cả người.
Tên Thổ, dùng cánh tay bị giật sai cả khớp, chật vật chống người lên và gào:
- Không công bằng!
- Sao lại không công bằng? - Tướng Balin hỏi.
- Người mã thượng không ai lại dùng tay mà giật địch thủ như vậy.
- Nhưng mày có phải là một trang mã thượng đâu, đồ dị giáo chó đẻ! Có lẽ tao phải đi học mày những luật lệ mã thượng chắc! Quân ăn cướp đê tiện.
Tên Thổ xị mặt im lặng. Tướng Balin lại quát:
- Chẳng lẽ chúng mày dám coi việc tao đứng ra giao đấu với chúng mày là chuyện tỷ thí thượng võ hay sao? Xem kìa, cái lũ khố rách mà thế đấy!
Ông rút chân phải ra khỏi bàn đạp định xuống ngựa nhưng một tên tù binh khác người gày gò, râu hoe hoe lại kêu lên:
- Thưa tướng công, hôm nay con lại muốn đấu với ngài.
Những người có mặt trên sân đều cười ồ cả lên.
- Tất nhiên, bây giờ mày cho rằng ta đã mệt. Nào cho mày có được một chút niềm vui.
Ông nói rồi lại chụp mũ lên đầu, cái mũ lúc nãy ông đã bỏ xuống ôm vào lòng.
- Mày đánh nhau với ta lần này là lần thứ mấy đây hả Vẹt?
- Lần thứ mười bảy. - tên tù binh có cái mũi khoẳm như mỏ vẹt trả lời, giọng thiểu não.
Tơroc Balin bèn gỡ mũ ra vứt đi.
- Nào, chấp bớt cho mày chừng ấy. Xem nào!
Sự chênh lệch về sức lực giữa hai người thật quá rõ: tướng Balin người to cao, đang tuổi sung sức, nhanh nhẹn, bắp thịt nổi rõ khắp người; còn tên Thổ đã chừng năm chục tuổi, người khẳng khiu, lưng còng.
Họ đánh nhau bằng thương. Ngay từ lượt đầu lao vào nhau, tướng Balin đã quật hắn ngã khỏi yên mạnh đến nỗi tên Thổ lộn tùng phèo trong không khí trước khi rơi bịch xuống đất.
Đám gia nô, võ đồng và cả bọn tù binh đều cười ran.
Tướng Balin ném khiên và găng tay sắt đi rồi nhảy xuống ngựa để cho các võ đồng cởi giúp nốt các đồ sắt còn lại trên người.
Tên Vẹt lồm cồm bò dậy, hắn ngoảnh bộ mặt vấy máu về phía Balin khóc lóc:
- Đức ông ơi, xin ngài hãy tha cho con về nhà. Vợ góa, con côi chờ con ở nhà đã hai năm nay rồi.
- Thế sao mày không chịu ở yên nhà ngay từ ban đầu, hở đồ dị giáo?
Balin căm tức trả lời. Ông thường điên tiết lên mỗi khi lũ tù binh nài xin tha.
- Đức ông ơi! - Tên tù binh vẫn khóc lóc và chắp tay lạy. - Xin ngài hãy rủ lòng thương. Con có thằng con trai mắt đen rất kháu, con không được thấy mặt nó đã hai năm nay.
Hắn lê gối đến trước mặt Balin rồi sụp xuống đất dưới chân ông.
- Thương hại con với đức ông ơi!
Balin rút khăn tay lau mặt, ông nói, giọng run lên:
- Ước gì tất cả bọn Thổ khốn kiếp đều bị xiềng lại ở đây cùng với hoàng đế của chúng mày! Quân cướp của giết người, chúng mày đâu có phải là người nữa mà là lang là sói!
Rồi ông bỏ đi. Tên Thổ vốc bụi lên ném theo ông và nức nở:
- Đã thế cầu cho Ala đánh chết mày đi, đồ thối bụng! Cầu cho mày phải già đời trong xiềng xích, cho vợ mày góa bụa, con mày côi cút ngay lúc mày đang sống! Ala hãy dạy cho mày biết khóc lóc gấp ba lần tao khóc, trước khi đày linh hồn mày xuống âm ti địa ngục.
Hắn vừa chửi rủa vừa khóc, nước mắt hắn chảy ròng ròng hòa với máu trên bộ mặt sây sát. Đám gia nô liền lôi cổ tên dị giáo đang tức tối đó ra giếng và múc nước giội lên người hắn.
Tơroc Balin đã quen với những cảnh như thế, nó chỉ làm ông tức giận. Trong thành của ông những lời van xin trở về cũng như những lời chửi rủa đều không tháo được cùm xích. Nói cho cùng, tất cả nô lệ, tù binh bất kỳ ở đâu và thời nào cũng đều khóc xin tự do, chỉ có điều là đứa này thì lặng lẽ, đứa kia thì ồn ào. Từ thuở bé Tơroc Balin đã quen sống trong cảnh kêu rên như vậy của đám nô lệ, hơn nữa trong thời đó nô lệ còn được tính vào giá trị của đời sống kinh tế trong gia đình. Đứa thì cho chuộc bằng tiền, đứa đem đổi lấy tù binh Hung. Như vậy thì làm sao có thể nghĩ đến chuyện thả một nô lệ của địch chỉ vì danh của Chúa!
Balin chìa lưng và tay cho các võ đồng chải bụi, sau đó vừa đưa tay xoăn ria mép trên khuôn mặt đỏ ửng vì tức giận ông vừa bước tới chỗ mục sư.
Xin chào mục sư, - ông nói và chìa tay ra. - Ta nghe nói bọn chúng nó đã luộc thầy như luộc cua. Không sao, ít nhất thầy cũng được mọc da mới.
- Thưa Đức ông, bộ da của con chỉ là chuyện nhỏ… -Mục sư trả lời, mũ cầm trong tay. - Việc chúng nó đã sát hại cả bầy chiên của con còn đau xót hơn. Bà mẹ tội nghiệp của con cũng đã bị chúng giết.
- Thế mà chó sói chưa bắt hết chúng nó đi. - Balin vừa nói vừa quay lại phía bọn Thổ. - Đứa này nguyền rủa ta vì ta không thả cho hắn về, đứa khác lại chê ta là không thượng võ. Ta đứng ra đấu với hắn, ta chỉ dùng gươm còn hắn vác một cây mã tấu như một tên đao phủ, với hắn như thế là mã thượng. Nhưng một khi ta giật hắn ngã thì hắn lại lên mặt dạy ta.
Ông bực tức thắt chặt thêm dây lưng, mặt đỏ bừng bừng trông hệt như con gấu đứng chồm lên trong cái gia huy treo trên cổng thành. Sau đó ông nhìn sang chú bé:
- Chú bé ấy đây à? - Ông hỏi và ngạc nhiên mỉm cười.
- Mau xuống ngựa đi con. - Mục sư bảo Gergơ. - Bỏ mũ ra chứ!
Chú bé chân đất mà lại đeo gươm vội vàng nằm mẹp xuống lưng ngựa và tụt xuống đất, đứng trước mặt Tơroc Balin.
- Ngựa này cháu chiếm được đấy à?
- Vâng ạ. - Chú bé đáp không khỏi tự hào.
Tơroc Balin cầm tay chú dắt đến chỗ vợ mình, ông đi nhanh đến nỗi mục sư Gabô phải vất vả mới theo kịp.
Nữ chủ nhân - một phụ nữ nhỏ nhắn, tóc hung, mặt trắng nõn nà - đang ngồi trong vườn cây bên cạnh một cái thớt đá cối xay. Bà đang cho mứt quả vừa nấu xong vào các lọ. Một cố đạo già, tay trắng trẻo cũng đang giúp bà, đó là cha xứ ở trong thành. Cạnh họ một cậu bé lên năm cùng một cậu bé lên ba đang chơi với nhau.
- Kotô yêu quý, em xem này! - Tơroc Balin gọi to. - Chú võ đồng của Đôbô đây, chú oắt ấy đây!
Gergơ hôn tay bà.
Nữ chủ nhân mỉm cười nhìn chú vẻ rất ngạc nhiên. Sau đó bà cúi xuống hôn má chú.
- Chú bé này ư? - Cha xứ cũng ngẩn người: - Đang bú tí thế này?
- Bú tí, phải, máu giặc Thổ. - Chủ tướng của tòa thành đáp.
- Cháu có đói bụng không, hở chú lính nhỏ? - Nữ chủ nhân hỏi.
- Cháu đói lắm, nhưng cháu muốn đến chỗ chú Đôbô trước đã.
- Úi, cháu ơi, cái đó thì không thể được. - Tướng Balin nghiêm nét mặt lại nói. - Chủ tướng của cháu bị thương đang nằm… - Ông quay sang mục sư. - Thầy vẫn chưa biết ư? Anh ta với năm chục mạng đã xông vào đánh hai trăm tên Thổ. Một tên đã đâm cho anh ta một dáo vào đùi mạnh đến nỗi mũi dáo xuyên vào đến yên ngựa mới dừng lại, gãy cả mũi dáo.
- Thế mà ông ta không chết? - Mục sư hỏi.
- Có chết cái ôn dịch, anh ta phạt đứt tên Thổ rồi cứ đóng đinh vào yên như thế mà phóng ngựa về.
Gergơ tái mặt lắng nghe câu chuyện. Chú hối hận là mình đã không ở lại bên cạnh Đôbô.
Giá chú ở đó thì có phải chú đã chém cho tên Thổ ấy một nhát rồi không.
Cha xứ bảo chú:
- Đi chơi đi con, ra mà chơi với các công tử.
Hai cậu bé tóc đen lúc bấy giờ đã đến đứng bên váy mẹ và đang chăm chú nhìn Gergơ.
- Nào, các con sợ gì. - Bà mẹ khuyến khích. - Anh ấy là dân Hung đấy chứ, anh ấy yêu các con đấy.
Rồi bà nói với Gergơ:
- Đây là đứa lớn: Iontsi, còn đứa bé là Pheri. [42]
Gergơ thân mật bảo hai đứa bé kia:
- Các cậu lại đây, tớ sẽ cho các cậu xem thanh gươm của tớ.
Ba đứa bé kết bạn rất nhanh chóng.
- Còn thầy, - Balin ngồi xuống ghế hỏi. - không còn con chiên nữa thì mục sư định làm gì bây giờ?
- Dù sao con vẫn sống được, nếu không khá hơn thì cũng như cuộc đời một tu sĩ. - Mục sư Gabô buồn rầu trả lời.
Tơrớc Balin vừa mân mê ria mép vừa suy nghĩ:
- Thầy có biết tiếng Thổ không?
- Có.
- Cả tiếng Đức nữa chứ?
- Con đã từng theo học hai năm trên nước Đức.
- Vậy thì ta có ý kiến như sau, thầy mục sư ạ. Thầy hãy về thu xếp nhà cửa rồi sang ở thành Xiget này. Hay đừng sang Xiget nữa mà sang thẳng thành Somodo, vì chỉ ít hôm nữa chúng ta sẽ dọn qua bên đó. Vậy thầy hãy đến đấy nhé. Vợ ta có cha xứ cựu giáo thì tại sao ta lại không có mục sư tân giáo nhỉ? Với lại, vài năm nữa bọn nhóc sẽ lớn, ta sẽ giao cho thầy dạy dỗ chúng nó.
- Bẩm đức ông, thế còn con? - Cha xứ bỏ dở nồi mứt quay lại hỏi.
- Tất nhiên cha cũng dạy chứ, cha dạy chúng nó tiếng latinh, thầy đây sẽ dạy tiếng Thổ. Cha hãy tin rằng tiếng Thổ cũng cần cho sự thành đạt chẳng kém gì tiếng latinh đâu.
Ông nhìn hai đứa con đang đuổi nhau với Gergo bên cây táo. Cả ba đều đỏ bừng mặt và cười khanh khách. Ông mỉm cười:
- Ta sẽ chiếm lại của Đôbô chú bé này. Rất có thể chú ta sẽ trở thành ông giáo thứ ba.
-------------
Chú thích:
[33] Hồi đó còn là tiền vàng, khác với phôring là đơn vị tiền tệ ngày nay của nước Hung. 
[34] Ở một vài nước vùng Bancăng như Thổ Nhĩ Kỳ, Bungari… khi người ta gật đầu có nghĩa là không, khi lắc đầu mới có nghĩa là ừ, có, đồng ý.
[35] Tiếng Thổ trong nguyên văn, có nghĩa là: tôi chết mất.
[36] Giáo tổ của Đạo Hồi, theo truyền thuyết là người đã sáng lập ra Hồi giáo ở thế kỷ VII. [37] Chúa Trời của đạo Hồi.
[38] Gã xigan nói ngọng.
[39] Đất thánh của đạo Hồi, thuộc địa phận Arập Xaudich ngày nay.
[40] Câu chào bằng tiếng Thổ, nghĩa là: chúc cho các bác được phù hộ độ trì.
[41] Thiếu niên, có khi đã là thanh niên, đi theo phù tá các tướng để rèn luyện võ nghệ, tập đánh trận. Có nơi dịch là thị đồng, nhưng trong làng võ cái tên gọi ấy có vẻ không thích hợp lắm nên chúng tôi chọn cái tên võ đồng.
[42] Iontsi là cách gọi thân mật của Gianôt, các cách gọi thân mật khác: Giannôtko, Iontsiko. Pheri là cách gọi thân mật của Pherenx, các cách gọi thân mật khác: Pherike, Pherikô…
-----------
tiếp p3: http://bloggenguoixuthanh.blogspot.com/2014/02/nhung-ngoi-sao-eghe-p3.html

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét