Khoảng Trời Mênh Mông
(Hattie Big Sky)
Tác giả: Kirby Larson
Người dịch: Vũ Kim Dung
NXB Văn Hóa Sài Gòn - 2008
Chương 16
Tháng
Sáu, năm 1918
THỜI BÁO ARLINGTON
Mục Chuyện Nhà Nông
Thời gian May Vá
Cô
Simpson, cô giáo trung học của tôi sẽ tán thành những bài học cuộc sống mới
đang dạy tôi, dù trong đó có ít phần dựa trên sách vở. Nhiều kỹ năng nữ công
gia chánh của tôi đang tiến bộ rõ rệt - ngoài mức cần thiết. Dù chưa bao giờ
dám thi nướng bánh với chị láng giềng Perilee, nhưng chắc những món do tôi nấu
ăn không đến nỗi nào. Nếu nói thế là không cường điệu thì kỹ năng may chăn ghép
của tôi đứng hạng nhất trong lãnh vực nữ công gia chánh. Những đêm tĩnh mịch
nơi đây cho người ta không gian thích hợp để đào sâu suy nghĩ. Khi mới chân ướt
chân ráo đến đây, tôi cứ tưởng vùng đất này buồn tẻ và nhạt nhẽo. Giờ đây tôi
ngắm nhìn mọi gò đất, đồi cao, mọi hẻm đá khe sâu bằng ánh mắt trìu mến. Phong
cảnh đẹp như tranh này nhất định phải được ghi lại trên chăn ghép.
Trước
khi bắt tay may chăn mới, tôi phải may xong tấm chăn dành cho một cư dân mới sắp
chào đời nay mai. Tôi nhớ hồi ở Arlington, các bà mẹ trông cậy vào bác sĩ Tupper;
còn ở đây họ trông cậy vào cô Leafie Pulvis.
- Chị đọc tờ báo này chưa?
Tôi vuốt dọc sợi chỉ đến đoạn cuối để thắt
nút. Cuối cùng, mợ Ivy đã có thể hãnh diện về tôi. Không bị tuột chỉ này. Không
cần phải thắt nút quá chặt để chỉnh lại mảnh ghép cho ngay hàng thẳng lối này.
Tôi cắt bớt phần chỉ thừa:
- Chị định làm gì cho cái Tháng Sáu Không
Lúa Mì này?
Chị Perilee thở dài, bắt sang một đường
khâu mới:
- Làm như loạt quy định cũ về lương thực
chưa làm người ta đủ khổ ấy. Vậy mà chị tưởng sẽ không còn phải thèm vị bánh mì
nhạt chế biến theo kiểu cũ nữa.
Tôi dừng tay, với chiếc bánh ngô trên đĩa:
- Chị thật khéo chọn nguyên vật liệu thay
thế. Em ăn mãi bánh này không chán.
Đang chăm chú may, chị ngẩng lên nhăn mặt:
- Chị chịu không thấu mùi bánh ngô này.
Tôi kéo sợi chỉ trong ống, lấy một đoạn đủ
dài. Nói chị Perilee xanh mặt quả không ngoa. Có lẽ đem chuyện đồ ăn thức uống
ra bàn lúc này chẳng phải khôn ngoan nhất. Lúc trước, cô Leafie đã kéo tôi ra một
chỗ, giảng giải về thể trạng chị Perilee trong khoảng thời gian ngay trước lúc
lâm bồn: “Perilee sẽ giống gà mái, chỉ muốn
ấp trứng, không quan tâm gì đến ăn uống cả”. Tôi muốn động viên chị ăn thêm
cho có sức khỏe. Cô Leafie cũng chỉ bảo vài động tác cần thực hiện khi chị bắt
đầu cơn vượt cạn, nhưng tôi không chịu nghe cho kỹ. Cần gì phải nghe kỹ chứ. Hễ
có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy em bé muốn “chui ra”, anh Karl sẽ đi đón cô
Leafie ngay. Tôi nhớ mỗi việc trải báo ra dưới giường và dùng chỉ thắt cuống rốn
thôi. Cuối cùng, tôi van vỉ: “Thôi cô đừng
nói nữa. Nếu không cháu phát sợ, lóng ngóng làm hỏng chuyện bây giờ”. Nghe
vậy, cô Leafie nhìn tôi, chép miệng chán chường.
Tôi đổi đề tài:
- Giờ em ngồi đây, chịu kim đâm đến xương
vì đứa nhỏ trong bụng chị kia. (Nghe thế, chị âu yếm vỗ về cái bụng bự). Vậy
bao giờ chị mới cho em hay chị định đặt tên gì cho thằng bé?
Chị mỉm cười:
- Hoặc con bé.
- Ừ nhỉ.
Perilee lắc đầu:
- Tụi chị cứ đắn đo mãi. Nếu là trai, chị
muốn đặt tên theo bố. Nhưng nếu là gái, con bé sẽ lấy tên mẹ: Charlotta.
Tôi vừa gật đầu vừa xâu kim. Chị nói thêm:
- Nhưng chỉ gọi tắt là Lottie thôi.
- Dễ thương quá.
Tôi lại cắm cúi khâu. Châm kim vào vải, đẩy
kim xuống, kéo sợi chỉ. Rồi lại châm, đẩy, kéo. Cứ thế không ngừng. Chị Perilee
cắn chỉ:
- Nhưng anh Karl không đồng ý. Anh ấy bảo đặt
tên như thế chỉ tổ sau này rước họa vào thân.
Nghe vậy, tôi không khỏi nghĩ ngợi. Hồi này,
sao người ta khắc nghiệt với nhau quá thể. Ngoài chuyện gây sự với anh Elmer và
nhiều người khác, Traft và đám bạn anh ta còn đi khắp nơi thúc ép bà con vào Hội
Ái quốc: “Cách chống giặc Đức hiệu quả
ngay tại địa phương”. Tôi có nghe Traft lải nhải bên tai ông Schillinger
như thế. Vậy nhưng, anh ta tuyệt nhiên không đả động đến tôi. Chắc Traft thừa
biết tôi đã có giấy mời nhập Hội “giao tận nhà”.
Tôi cố giữ giọng đều đều:
- Chắc anh Karl muốn lường trước chuyện mai
sau. Hay ta dùng làm tên đệm vậy?
Chị ngả hẳn vào lưng ghế, tay xoa xoa vùng
eo dưới:
- Chị cũng nói y như em vậy. Nhưng anh ấy vẫn
không chịu. Ôi. Tại ngồi lâu quá đấy mà.
Chị với tay lên kệ phía trên bếp lấy cái mũ
cũ xuống:
- Vì thế ta hãy làm theo cách của chị. Mỗi
người viết một tên vào giấy rồi bỏ vào mũ. Mình gắp trúng tên nào thì em bé sẽ
mang tên đó.
- Chị định làm thế thật à?
Chị cười tươi:
- Đừng nói với ai nhé: Chị đốt hết mấy cái
tên chị không ưng đi rồi. Này nhé: Mattie đòi đặt tên em là Mullie hoặc Công
Chúa, Chase lại muốn là John Dòng Sông Bạc. (Chị chìa chiếc nón về phía tôi).
Em cũng bỏ tên vào đây đi.
Tôi trêu chọc:
- Để chị lại ném vào bếp ấy à? Thôi, cảm
ơn. (Tôi cũng vươn vai). Hôm nay làm thế thôi vậy. Em còn vài việc ở nhà phải
làm cho xong.
Chị Perilee giơ tấm chăn lên. Hai chị em
tôi đang dùng vải hoa vàng may viền bốn góc chăn.
- Chắc là đẹp lắm đây. Mình gọi nó là Sao Lấp
Lánh nhé. (Chị vuốt nhẹ mặt trước tấm chăn). Chị đang mong con từng ngày.
- Đừng. Phải chờ may xong chăn đã chứ. Theo
em tính thì phải vài tuần nữa, chị em mình mới may xong được.
Chị Perilee vờ hờn dỗi:
- Xin vâng. Theo ý cô, chị đành “nhịn đẻ”
thêm vài tuần nữa vậy.
Trước nay, chị Perilee đã hứa là làm. Nhưng
hóa ra lần này, chị lại thất hứa.
Mấy ngày sau, một đêm tôi đang ngủ say chợt
giật mình vì tiếng vó ngựa giậm thình thịch quanh sân. Tiếng anh Karl sang sảng:
- Cô Hattie! Em bé.
Tôi mặc vội quần áo:
- Đừng phí thời gian ở đây. Anh đi đón cô
Leafie đi.
Anh gật đầu, giục con Star đi mau. Plug cáu
kỉnh vì phải đi lúc nửa đêm, nhưng khi biết không thể quay lại chuồng, nó biết
điều chạy thẳng đến nhà chị Perilee.
Chase chạy ra đón tôi. Khi nhận dây cương từ
tay tôi, nó bảo:
- Mẹ đang gọi chị kìa.
Lo lắng khiến khuôn mặt hình trái tim của
nó cau lại. Nên giao việc cho Chase để giúp cậu giải tỏa căng thẳng:
- Em đi lấy củi được không? Chắc cô Leafie
cần lắm đấy.
Chase gật đầu, nghiêm chỉnh thực hiện ngay
công việc được giao.
Tôi vội vào nhà. Fern và Mattie (tất nhiên
cả Mullie) nép vào nhau ngủ say sưa trên chiếc giường nhỏ kê gần bếp lửa. Mấy
cô bé có tài ngủ ngay cả lúc sấm động, bão lớn.
Chị Perilee đang nằm ở phòng trong.
- Đứa nhỏ không chịu chờ may xong chăn hả
chị?
Tôi mang khăn ẩm đến lau trán cho chị. Chị
nắm lấy tay tôi:
- Sao lần này nhanh thế không biết.
Chị nhăn mặt đau đớn, miệng rên khe khẽ. Chị
vẫy tay ra hiệu cho tôi đóng cửa phòng ngủ. Tôi an ủi:
- Không sao đâu. Cô Leafie đến ngay bây giờ.
Chị lắc đầu:
- Khác mấy lần trước lắm em ạ.
Tôi vuốt tóc chị:
- Em ở ngay đây.
- Anh Karl mong đứa con này lắm.
Nước mắt chảy thành dòng trên má chị.
- Rồi anh ấy lại chiều nó đến phát hư mất
thôi, chị nhỉ.
Nghe vậy chị mỉm cười yếu ớt. Nhưng ngay
sau đó, nụ cười biến thành cái nhăn mặt đau đớn.
- Chị muốn em làm gì nào?
Chị gượng ngồi dậy, chỉ vào phần lưng dưới:
- Chỗ này đau như dần. Em xoa hộ chị tí
nhé?
Quỳ một chân lên giường, tôi ghé sát lại nắn
nhè nhẹ bên ngoài lớp váy ngủ bằng lanh.
- Đỡ không chị?
Chị chỉ gật đầu. Tôi cứ xoa như thế cho đến
khi hai tay mỏi nhừ. Cuối cùng, chị bảo:
- Chị phải nằm xuống đây.
Tôi đỡ chị ngả xuống giường. Ra đến ngưỡng
cửa, tôi dừng lại:
- Cô Leafie chắc cần nhiều nước nóng. Lấy
nước đầy ấm xong, em sẽ vào ngay.
Chase không chỉ lấy đầy một xô mà cả hai xô
chất đốt. Lúc này cậu đang cời đống lửa cháy rừng rực.
- Giỏi quá, chị có làm cũng không hay bằng.
Giờ em giúp thêm việc nữa nhé. (Tôi đưa cậu từng xách nước). Mình cần đun nước
em ạ. Chị đoán phải ba xô này mới đủ.
Tôi chưa kịp nói hết câu, thằng bé đã ra tới
cửa. Chẳng mấy chốc, ấm nước đầy đã chờ sôi trên bếp lửa. Xách xong thùng nước
cuối cùng, Chase hỏi:
- Giờ em làm gì hả chị?
Tôi chỉ vào túi sách mang theo từ nhà:
- Tìm trong túi chị ấy. Chắc sẽ có thứ em
quan tâm.
Tôi không ở lại xem thằng bé phản ứng ra
sao với cuốn David Copperfield. Perilee
đang đợi. Chỉ cần thoáng qua, tôi cũng đoán được chuyện gì sắp xảy đến. Tôi lẩm
bẩm giục thầm: “Cô Leafie ơi, nhanh lên chứ”. Chị Perilee thở hổn hển:
- Leafie... chưa đến.
- Chưa. Nhưng đến ngay bây giờ đấy.
Vừa nói tôi vừa cầu lời mình sẽ thành sự thật.
Chị Perilee ngước lên nhìn tôi:
- Không... chờ... được. Lấy... báo.
Tôi bủn rủn chân tay. Tôi nâng chị dậy, luồn
mấy lớp báo xuống dưới giường.
Làm gì tiếp bây giờ? Sửa soạn đón em bé. Ở
nông trại không có nôi bằng mây đắt tiền như mấy cô gái ở Iowa thường kháo
nhau. Tôi vớ lấy giỏ đựng quần áo đan bằng cây liễu gai, lấy chăn lót sạch xung
quanh. Còn đệm cho em bé sẽ là cái gối nhồi lông vũ. Chị hét lên:
- Hattie! Con chị!
Tôi vội chạy đến bên. Chị vừa thở hổn hển vừa
rặn mạnh. Khuôn mặt tái nhợt ướt đầm mồ hôi.
- Chết rồi, em bé!
Không còn lựa chọn nào khác. Tôi đứng xuống
cuối giường, cố tận dụng hết khả năng của mình. Sau một cú trượt nhẹ, một hình
hài nhỏ xíu nằm gọn trong tay tôi. Tôi hét lên:
- Là con gái!
Chị Perilee nhắm mắt, vật đầu xuống gối.
Dùng chỉ vẫn thường khâu chăn, tôi thắt dây rốn và cắt ngay đoạn trên. Tôi biết
thỉnh thoảng người ta đánh nhẹ vào mông em bé cho nó khóc. Như thế mới nở phổi.
Nhưng tôi không thể tưởng tượng mình có thể đang tâm đánh sinh linh nhỏ bé, quý
giá vô ngần này. Trẻ sơ sinh nào cũng bé tẹo thế này sao? Ơn trời, chắc con bé
cũng biết tôi mới tập tọng chơi trò “bà đỡ”. Nó tự khóc:
- Oa! Oa!
- Người thì bé mà ồn ào quá thể!
Tôi trầm trồ. Mặt nhắm nghiền, chị Perilee
mỉm cười mãn nguyện. Tôi lau em bé rồi trao vào tay bà mẹ. Trong lúc hai mẹ con
chăm chú ngắm nhau lần đầu, tôi cố lẹ làng dọn giường, chăm sóc chị Perilee.
Khi thấy quá nhiều máu, tôi phải cố trấn tĩnh. Ước gì cô Leafie đến ngay và bảo
tôi rằng như thế là bình thường.
Dù mới bé tẹo, hài nhi đã biết phải làm gì
khi được đưa đến gần vú mẹ. Bên cạnh Perilee, trông nó mới nhỏ nhoi làm sao.
Cửa buồng ngủ bật mở, cô Leafie ào đến như
một cơn gió. Cô phát nhẹ vào lưng tôi:
- Nhìn qua cũng thấy cháu xoay sở giỏi đấy.
Cô xua tôi ra ngoài rồi quay sang chăm sóc
Perilee. Vài phút sau, cô gọi tôi và anh Karl vào. Cô trao hài nhi quấn trong mấy
lớp chăn bằng vải lanh cho anh Karl.
Anh dịu dàng ôm con, áp con vào mặt mình,
khẽ khàng hôn trán bé. Cô Leafie tỏ ra vui vẻ nhưng tôi đã thấy tia lo âu ẩn
trong khóe mắt cô.
- Trông con bé dễ thương chưa kìa.
Tôi hỏi:
- Cháu làm gì bây giờ?
- Trước hết, hãy hôn bé Charlotta một cái
thật kêu nào.
Tôi quay sang chị Perilee:
- Em tưởng chị sẽ rút thăm tên trong mũ?
Chị mỉm cười. Anh Karl đưa hài nhi cho tôi
rồi quay sang vợ. Tôi thơm bé thật trìu mến. Cô Leafie cúi xuống em bé, nhân tiện
bảo nhỏ tôi:
- Phải giữ ấm cho thiên thần nhỏ này. Cháu
đặt con bé vào nồi nước lớn, loại thường để nướng bánh ấy. Nhưng nhớ lót chăn
trước đã. Sau đó đặt nồi sát cửa bếp.
Tôi nhìn cô:
- Cô nói nghiêm túc ấy chứ?
Cô gật đầu:
- Hơn một đứa trẻ đã được cứu sống bằng
cách ấy.
Tôi làm đúng như cô bảo và giữ em bé trước
cửa lò suốt đêm. Mỗi khi bé Lottie tỉnh giấc, khóc oe oe như mèo con, tôi lại vội
bế bé vào cho chị Perilee. Bé bú, ợ hơi xong tôi lại nhanh chóng đưa bé trở ra
bếp. Chúng tôi theo trình tự ấy đúng một tuần liền. Mỗi sáng, khi làm xong việc
nhà, tôi lại chạy sang nhà chị Perilee và ở lại cho đến khi trời sẩm tối. Cầu
trời phù hộ Jim Gà Trống; suốt một tuần đó anh sang giúp tôi nhổ cỏ vườn nhà
tôi, nhân tiện chăm sóc đàn gà. Cuối cùng, vẻ lo âu trên mặt cô Leafie biến mất
hoàn toàn. Cô bảo:
- Theo cô, giai đoạn đáng lo ngại nhất đã
qua rồi. “Cô nương” Lottie sẽ ổn thôi.
Chị Perilee cũng tươi tỉnh hơn. Một hôm,
khi tôi đang giúp chị nướng bánh, chị bảo:
- Xin lỗi em vì chị hay cả lo. Chị chỉ sợ
nhỡ có bề gì. (Chị vỗ nhẹ lưng em bé đang ngủ trên vai). Nói ra chắc em tưởng
chị dở hơi, nhưng tình hình chiến sự ác liệt cùng bao chuyện dồn dập tới thế
này, chị chỉ lo... (Chị nhìn thẳng vào mắt tôi) anh Karl không kịp vui khi đón
đứa con này.
Hai cánh tay tôi nhào bột đã rã rời. Tâm tư
tôi cũng buồn rũ, sau bao buồn tủi đã qua, chị Perilee vẫn không thể thanh thản
tận hưởng những điều tốt đẹp cuộc đời ban cho mình.
- Nếu ông trời có mắt, sao không giáng sấm
sét xuống cái Hội đồng Tự vệ quỷ tha ma bắt ấy?
Câu nói đùa của tôi kéo về một nụ cười hiếm
hoi trên khuôn mặt chị Perilee. Chị phụ họa:
- Hay xuống đầu vua Đức chẳng hạn?
- Hay xuống bà Martin Chủ nhật nào cũng diện
cái váy vàng chóe ấy?
Hai chị em cùng cười. Perilee chuyển bé
Lottie sang vai bên kia.
- Này Hattie, em phải cẩn thận đấy. Ác miệng
thế thì không chừng sét đánh trúng em bây giờ.
- Vâng, em biết thân rồi.
Vui vì khiến chị vui lên một chút, tôi hăng
hái chia nắm bột thành hai ổ lớn và khoảng mười bánh tròn:
- Giờ em làm gì tiếp.
Chị Perilee vừa chải tóc cho Mattie xong:
- Thôi, không làm gì nữa cả. Chị cả trong
nhà cũng không chăm bằng em hôm nay đâu.
Tôi cởi tạp dề treo cạnh bếp:
- Nếu chị thấy tự xoay sở được, chắc em về
nhà mấy ngày. Em còn bài báo, với lại phải nhổ cỏ nữa.
Sự thật là, dù được Jim Gà Trống giúp nhiều
nhưng công việc ở nhà tôi vẫn còn nhiều lắm.
Tuy nhiên, tôi không muốn chị Perilee buồn.
Cảnh nhà thật quạnh quẽ, ngay cả lúc “Ngài”
Whiskers cáu kỉnh kêu meo meo, ra điều không bằng lòng vì tôi đi lâu quá. Người
tôi luôn đau nhức: đau lúc làm cỏ ngoài đồng, đau lúc xách nước tưới cây trong
vườn, đau khi cho đàn gà ăn và đau cả khi dọn phân trong chuồng ngựa. Lúc đầu,
tôi tưởng mình mắc chứng cúm vào hè. Đến đêm thứ hai ở nhà, một mình một bóng
bên bàn ăn, tôi mới biết mình đoán sai. Chính nỗi cô đơn, không phải bệnh tật,
đang gặm nhấm xương tủy tôi. Tôi nhớ tiếng Mattie hát vang nhà, nhớ bé Fern cười
khúc khích, nhớ mùi hương dịu ngọt của hài nhi, nhớ lúc đọc sách cho Chase trước
giờ đi ngủ và nhớ cảnh gia đình quay quần quanh bàn ăn khi màn đêm buông xuống.
Tôi nhớ gia đình.
Ngày
18 tháng Sáu năm 1918
Cách
Vida ba dặm về hướng Tây Bắc
Charlie
thân mến,
Đọc
thư anh viết: “Từ khi sang Pháp, anh đã thay đổi, em rất hiểu tâm sự của anh.
Anh chỉ nhắc đến những thay đổi thể chất. Còn nữa, em không tin anh lên gần mười
kilogram! Tuy nhiên, dù anh không kể, em vẫn hiểu anh vẫn còn trải qua nhiều
chuyện khác nữa.
Thư
trước em có báo chị Perilee sắp sinh. Hôm 11 tháng Bảy vừa rồi, chị ấy đã cho
ra đời một bé gái, Charlotta. Em cũng giúp bà đỡ một tay đấy nhé. Chuyện ấy chắc
cũng giúp anh hình dung những thay đổi của em trong thời gian qua. Khi mới đến,
em tưởng mình chỉ sắp có quyền sở hữu một miếng đất nhỏ. Nhưng thứ mảnh đất nhọc
nhằn này tặng cho em còn hơn thế gấp nhiều lần.
Em
nghe mẹ anh kể bà gửi cho anh vài bài báo ngớ ngẩn của em đăng trong mục Chuyện
Nhà Nông của tờ Thời báo Arlington. Dù giọng văn chưa sắc sảo, nhưng chúng sẽ
giúp anh hiểu rằng trái tim em giờ gắn bó bền chặt với nơi này, chẳng khác nào
cây đào nhà Jim Gà Trống cắm sâu chùm rễ vào đất mẹ Montana.
Mãi
là bạn anh
Hattie
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét