Khoảng Trời Mênh Mông
(Hattie Big Sky)
Tác giả: Kirby Larson
Người dịch: Vũ Kim Dung
NXB Văn Hóa Sài Gòn - 2008
Chương 11
Ngày
3 tháng Tư năm 1918
Cách
Vida ba dặm về phía Tây Bắc, Montana.
Cậu
Holt kính mến!
Cháu
biết cảm ơn cậu thế nào cho đủ đây? Chẳng khác nào đồng lúa mì sắp gieo hạt sẽ
phát triển đều đặn, khoản tiền nhuận bút cũng sẽ đến đều với cháu mỗi tháng. Thử
nghĩ mà xem: Cô Simpson biết đâu lại đọc bài báo đầu tiên của cháu cho cả lớp
nghe. Chắc chắn cô sẽ sớm tìm ra lỗi từ không rõ nghĩa và kiểu viết câu lạ lùng
của cháu. Nhưng cháu mặc kệ, dù người ta nêu tên mình như nêu gương xấu cũng chẳng
sao!
Khi
nghe cháu kể về nghiên cứu khoa học trình bày trong cuốn Cẩm Nang Canh Tác của
Mr. Campbell, anh Karl lắc đầu. Theo sách đó, cháu chỉ cần bảy giạ hạt giống
cho bốn mươi mẫu đất. Anh bảo cháu nên đặt mua hai mươi giạ! Chênh nhau những
mười ba giạ. Trước nay, không có anh Karl hướng dẫn, cháu cứ lúng túng, không
biết phải làm sao. Nhưng Mr. Campbell là khoa học gia. Với giá lúa mì giống 2.5
đô la một giạ như hiện nay, làm theo Karl cháu sẽ mất thêm 33 đô la nữa. Nếu được
cậu góp ý, cháu xin đa tạ.
Cuối
tuần này, trường học ở Vida có tổ chức một sự kiện lớn; vũ hội quyên tiền mua
Trái phiếu Tự do. Ngoài đi lễ nhà thờ, đây là dịp hoạt động xã hội đầu tiên của
cháu. Chị Perilee đang nướng bánh mang theo, còn cháu nên mang bánh kẹp cho an
toàn. Bánh mì cháu làm giờ hơn xa thứ bánh đầu tay vừa cứng vừa khô lúc trước.
Cháu
của cậu
Hattie
Inez Brooks
Đêm trước vũ hội, tôi bày hai bộ áo lên
bàn:
- Theo mày, tao nên mặc bộ nào? Váy liền áo
bằng vải bông kẻ màu vàng hay váy rời bằng len màu xanh biển và áo riêng?
“Ngài” Whiskers ngửi ngửi cả hai bộ. Rồi nó
hắt xì khinh bỉ vào váy len rời. Tôi chọn bộ vàng:
- Tao cũng nghĩ thế. Đã đến lúc thêm chút sắc
màu cho khung cảnh quanh đây rồi.
Chọn quần áo màu nổi không phải ý hay.
Nhưng sự ngang bướng của tôi không chỉ dừng ở đó. Tôi còn chăm sóc cái tổ quạ
trên đầu mình nữa kia. Trước tiên, tôi gội đầu và xả lần cuối bằng nước đường.
Sau đó, tôi quấn khăn thật nhiều để ủ. Tôi cứ quấn khăn như thế cho tới thứ bảy,
lúc gần lên đường mới tháo ra. Chỉ cần chải chỗ này một tí, vuốt chỗ kia một tí
là trông tóc đã khá chỉnh tề. Để tóc hai bên má không xõa xuống, tôi dùng mấy
chiếc lược đồi mồi của mẹ cài lại cẩn thận. Sau một hồi nghiêng ngó, “Ngài”
Whiskers vừa ý kêu meo meo.
Vừa chuẩn bị xong đống bánh kẹp, tôi đã
nghe tiếng vó ngựa của Jim Gà Trống gõ lộc cộc ngoài sân. Tôi xếp bánh vào chiếc
đĩa men ít sứt mẻ nhất, lấy khăn sạch phủ lên rồi vơ vội áo khoác và khăn
choàng.
Người như Jim mà còn trèo từ thùng xe xuống
để đỡ tôi lên:
- Trời, hôm nay cô đẹp dễ sợ.
- Nhìn anh xem, bớt khắt khe với mình chút
đi.
Tôi trêu chọc. Từ khi thành bạn chơi cờ với
tôi, Jim Gà Trống bớt nặng mùi hẳn. Chắc anh có tiến bộ về mặt vệ sinh. Hoặc do
tôi đã dần quen với cái mùi bốc lên từ người anh ta.
- Mong là cô có đôi giầy thoải mái, tiện lợi.
Cô sẽ khiêu vũ cả đêm đấy.
Tôi thẹn đỏ cả mặt nhưng vẫn tìm cách chuyển
chủ đề của mọi câu bình phẩm về tôi sang tình hình chiến sự. Quân Đức vừa tấn
công Pháp dữ dội. Mục tiêu của chúng là vùng đất nằm giữa hai con sông Somme và
Arve. Chúng rêu rao đã bắt được chín ngàn tù binh. Nghe tin ấy, tôi không thể
không lo cho Charlie.
- Cô đã đoán được bạn mình đang ở đâu chưa?
- Chưa. Có thư, anh ấy nhắc đến tên một thị
trấn, nhưng đội kiểm duyệt cắt đi mất. (Tôi bất chợt trầm tư) Tôi hay tự an ủi
là khi có sự cố, người ta sẽ cố giữ các sân bay không để bị thiệt hại nặng, có
thế máy bay mới an toàn được.
- Nói chung, mình cũng chỉ hy vọng thế
thôi, cô ạ.
- Vâng, tôi hy vọng thế và cầu trời được
như thế.
Tôi cố xua đi cảm giác kinh hãi. Tuần trước,
vùng này đã có con số thương vong đầu tiên, anh Kirkpatric ở Terrace. Dù không
quen biết nhau, nhưng tin anh hy sinh đã đưa chiến tranh đến sát vách nhà tôi.
Suốt quãng đường còn lại, cả Jim và tôi đều đắm mình trong im lặng.
Cô Leafie đứng ngay ngưỡng cửa vẫy chúng
tôi vào:
- Trong này ấm, dễ chịu lắm.
Hai chúng tôi nhanh chóng vào trong, cởi áo
khoác, giúp bày bánh kẹp, bánh ngọt, súp đậu và phomai làm từ sữa đã gạn kem...
ra bàn. Tôi giúp mọi người chuẩn bị cà phê, còn chị Perilee khẩn trương mang
bánh ra.
Cô Leafie reo lên:
- Thơm quá! Làm sao em làm được bánh ngon
như vậy? Hồi này, nguyên liệu làm bánh có đầy đủ như trước đâu?
- Từ nhỏ em đã mê làm bánh. Bà em thường
làm bánh rất ngon, dù nguyên liệu rất nghèo nàn. Chắc em giống bà ở điểm ấy.
(Chị cười bẽn lẽn) Mình nấu nho khô lên trước chị ạ. Mẹo ấy giúp bánh mềm, ngọt
hơn.
Mattie chạy đến ôm chân tôi:
- Nhà em có mèo con. (Cô bé buông chân tôi
để chải nhúm tóc ít ỏi còn trên đầu Mullie). Em, Chase và Mullie, mỗi người phải
đặt tên cho một con mèo. (Cô bé ghé sát lại, thì thầm). Mullie nghĩ mãi không
ra, nên em phải chọn hộ đấy.
Trước khi tôi kịp hỏi mèo tên gì, Mattie đã
chạy biến, tìm một cô bé khác tôi không biết tên gì để cùng chơi đuổi bắt.
Chẳng bao lâu sau, căn phòng đã chật ních
người. Rất nhiều người lạ mà tôi chưa hề gặp và biết tên. Tôi vẫy Grace
Robbins, đang cùng anh Wayne, chồng chị cùng hai con bước vào. Olive, con gái
chị, nhảy chân sáo đến bên Mattie và cô bạn. Hai anh em nhà Schillinger dạo thử
vài bản bằng vĩ cầm. Còn nhóm trẻ lớn đuổi nhau chạy vòng quanh lớp học. Tôi
phát hiện Chase trong góc phòng, ngồi núp sau dãy bàn, mải mê đọc sách. Bà con
đến dự cười nói vui vẻ. Nhìn quanh nãy giờ, tôi vẫn không thấy Traft đâu.
Tôi hỏi cô Leafie:
- Theo cô, nhà Martin có đến không?
Mới nghe nhắc đến tên, cô đã nhăn mặt khó
chịu:
- Đời nào họ bỏ qua màn diễn Trái phiếu Tự
do.
- Cháu tưởng mua trái phiếu là đóng góp vào
sự nghiệp chung chứ ạ?
Cô Leafie nhíu mày:
- Này Hattie, chừng nào cháu mới hiểu gã đó
chỉ chuyên gây rắc rối?
- Cháu tưởng con ngựa của Traft mới thế chứ.
Tôi cố tình nói đùa. Cô Leafie cười, phát mạnh
vào tay tôi:
- Đừng đùa nữa. Ngày xưa, mẹ cô thường dạy:
Tốt gỗ hơn...
- ... tốt nước sơn. Mợ cháu cũng bảo thế.
- Vừa nhắc rời miệng xong.
Cô hất hàm ra cửa. Traft Martin cùng một
nhóm cao bồi bước vào.
Chỉ vài người gật đầu chào nhóm nhân vật đến
muộn. Vừa lúc ấy, nhạc nổi lên hướng sự chú ý của mọi người vào sàn nhảy.
- Nhà Schillinger có chơi nhạc clacket
không nhỉ?
Cô Leafie thúc nhẹ khuỷu tay vào sườn tôi.
Lúc đầu, hai cô cháu chỉ đứng xem người khác nhảy, rồi cùng vỗ tay hò reo thật
sôi nổi.
Sau điệu nhảy nhịp hai bốn, có người vỗ nhẹ
vai tôi. Tôi quay ngoắt lại vào đối mặt với Traft Martin.
- Chào cô Brooks.
Tóc anh ta bóng mượt, mùi sáp chải tóc
Packer’s Scalptone thoảng bay. Charlie cũng dùng đúng loại này; hồi ấy, anh lén
dùng trộm của bố.
- Chào anh.
Tôi vuốt lọn tóc nhỏ ướp đường cứng đơ.
Traft giang tay mời:
- Cho phép tôi mời cô một bài.
Tôi ngoái nhìn cô Leafie. Cô cau mày, xoay
lưng lại. Tôi kiếm cớ thoái thác:
- Chẳng biết tôi có trụ nổi đến hết bài
không nữa.
Traft mỉm cười, giống lúc anh nhặt đá hộ
tôi.
- Nếu cứ đứng một chỗ thì làm sao tiến bộ
được.
Dù biết ánh mắt cô Leafie đang khoan thủng
lưng mình, tôi vẫn cầm tay Traft cùng bước ra sàn nhảy.
Anh em Schillinger chuyển sang chơi một bản
tươi vui.
- Tôi đã cảnh báo trước rồi, anh đau chân
thì đừng có trách.
Tôi bước vào hàng nữ. Hóa ra, khiêu vũ cũng
không khó lắm. Schillinger “cha” xướng lên, hàng ria mép quặp của ông nhún nhảy:
- Quý cô cúi đầu chào, quý ông cúi thấp hơn
đi nào. Tiến sát vào nhau, cùng xoay vòng thật nhanh. Rồi buông tay, quý ông về
chỗ cũ.
Sàn nhảy quá đông, không còn chỗ để bước lỗi.
Nếu có nhầm, người ta chỉ cười, nắm tay bạn nhảy và bắt đầu lại.
Tiếp theo là điệu van. Traft hỏi:
- Bài nữa nhé?
Tới gật đầu không chút do dự. Anh vòng tay
ôm ngang eo tôi, tay phải tôi nằm gọn trong bàn tay trái anh. Có ông già Nôen
chứng giám, tôi thề lúc ấy có một dòng điện chạy từ đầu đến chân tôi. Tôi giật
phắt tay lại.
- Ối!
Anh ta chùi tay vào ống quần Jeans:
- Tay tôi có chai à ? Hay ướt mồ hôi?
Tôi không đời nào thú nhận:
- Không phải đâu. Tay tôi... vẫn còn đau vì
mới đóng xong hàng rào.
Hy vọng tôi ăn nói trôi chảy để Traft tin lời
nói dối vô hại ấy.
- Thế thì đau lắm, tôi biết mà. Tôi sẽ cố hết
sức nhẹ nhàng.
Rồi anh lại nắm tay tôi, dịu dàng và thận
trọng như đang nâng chiếc ly sứ đẹp nhất của bà Martin vậy.
Cứ thế, hai chúng tôi xoay khắp căn phòng.
Tôi chưa khiêu vũ với ai như với Traft cả. Hồi còn học lớp tám, Charlie và tôi
có cùng nhảy một lần, nhưng anh còn vụng về hơn cả tôi. Nói hồi ấy hai chúng
tôi thi nhau giẫm lên chân nhau thì đúng hơn. Còn lần này, Traft cho tôi cảm
giác là công chúa trong chuyện cổ tích đang xoay vòng trong lâu đài lộng lẫy.
Thật tiếc là bản nhạc kết thúc quá nhanh.
- Mời các vị vào bàn!
Cô Leafie gõ bình nước, miệng gọi lớn.
Traft cảm ơn rồi bỏ đi, còn tôi bị cuốn vào đám đông xếp hàng chờ lấy bánh. Tiết
mục khiêu vũ đã kết thúc, một cảm giác tiếc nuối đang len lỏi trong tôi.
Grace bước nhẹ đến xếp hàng phía sau tôi.
Ngón tay chị chọc vào lưng tôi đau điếng:
- “Chàng” của Hattie đẹp trai chưa kìa!
Chị chòng ghẹo. Hai má tôi đỏ bừng, nhưng
không phải do phòng ngột ngạt. cô Leafie giơ tay lên trời:
- Lạy Thượng Đế đoái thương!
Tôi lúng búng:
- Làm gì có.
Schillinger cha gọi lớn:
- Bà con láng giềng chú ý. Hãy ăn chút lót
dạ rồi chúng ta cùng bàn mục đích chính của buổi tiệc hôm nay.
Mọi người lấy thức ăn đầy đĩa, cà phê đầy
ly. Ông Saboe bắt đầu vận động mọi người tham gia mua trái phiếu. Dù nói năng
không trôi chảy lắm, nhưng quan trọng là ông rất nhiệt tâm. Ông mào đầu:
- Như bà con cũng biết, mấy thằng con trai
tôi giờ đang ngoài mặt trận.
Có tiếng phụ nữ nói lớn (có phải bà Ervick
không nhỉ?):
- Cả con tôi nữa, ông chớ có quên đấy.
Ông Saboe gật đầu:
- Tôi nghe nói trong Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ,
bang Montana ta có nhiều con em tham chiến nhất.
Đám đông hò reo hưởng ứng. Ông Saboe vẫy
tay yêu cầu mọi người trật tự:
- Không ai dám bảo bang này không hỗ trợ tiền
tuyến (lại reo hò). Tuy nhiên, vẫn còn một cách hỗ trợ khác mà tất cả mọi người
đều có thể tham gia. Đó là mua Trái phiếu Tự do. Chỉ tiêu của cuộc vận động Cho
Vay Vì Tự Do Lần thứ Ba cho bang Montana là ba triệu đô la.
Có tiếng huýt sáo nghe chói tai. Ông Saboe
nói tiếp:
- Tưởng chừng như bất khả thi, phải không ạ?
Nhưng tôi tính trong bang ta, bất kể đàn ông, đàn bà hay trẻ em, chỉ cần mỗi
người đóng góp năm mươi đô la là đủ. Để đổi lấy tự do giá ấy quá rẻ. Tôi biết
quý vị sẽ ủng hộ hết mình. Tôi ở phía sau kia chờ các vị tiến lên góp phần đánh
bại quân Đức. Mỗi đô la của quý vị đều là đóng góp quý báu vào chiến thắng của
ta.
Cô Leafie nói lớn:
- Mời bà con ra mua trái phiếu rồi quay lại
dùng thêm bánh...
Schillinger cha tiếp lời:
- Để có sức khiêu vũ thêm vài bài nữa.
Tôi bước thấp bước cao đều bên bàn ông
Saboe, mang theo tờ giấy bạc năm đô la. Ông viết tên tôi vào sổ:
- Đây mới là tiền mặt cho lần đầu tiên.
Thêm bốn tờ mười đô la nữa, cháu sẽ có trong tay Trái phiếu Tự do có đảm bảo. Lần
trả tiền kế tiếp sẽ nhằm vào ngày hai mươi mốt tháng Mười một. (Ông đưa cho tôi
cây viết) Cháu ký vào đây.
Khi ký tên mình vào sổ, tôi nhớ đến
Charlie. Khoản đóng góp của tôi tuy nhỏ, nhưng nếu mỗi người dân Mỹ đều góp phần
nhỏ nhoi ấy, cộng lại sẽ thành con số đáng kể. Góp phần vào thắng lợi, như ông
Saboe nói. Ơn trời vì tôi mới nhận nhuận bút. Không có nó, tôi chẳng thể mua nổi
vài con tem, chưa nói gì đến trái phiếu.
Ông Saboe trao cho tôi một huy hiệu màu
xanh:
- Cầm đi Hattie. Nó chứng tỏ cháu đã mua
trái phiếu của chính phủ liên bang.
Cúi xuống gắn huy hiệu lên ngực áo, tôi thấy
có người bước lên. Traft.
- Ông Saboe, đưa tôi xem tên mấy người
trong đó.
Ông Saboe gấp sổ ký nhận lại:
- Không liên quan tới cậu.
- Thế à. Tôi lại nghĩ khác.
Anh ta nhìn bao quát căn phòng rộng như
nhìn bãi chăn thả gia súc nhà mình:
- Là thành viên Hội đồng Tự vệ hạt Dawson,
tôi thề sẽ chỉ mặt vạch tên những ai chểnh mảng, đồng thời nỗ lực khích lệ họ
thực hiện nghĩa vụ với đất nước.
Giọng oang oang của anh ta khiến mấy đứa trẻ
đang nô đùa phải im bặt. chị Perilee hối hả kéo Mattie về. Còn tôi tìm mãi vẫn
không thấy Chase đâu.
Ông Saboe nghiêm mặt đáp trả:
- Trong hai lần vận động cho nhà nước vay
tiền đầu tiên, hạt ta đã hoàn thành chỉ tiêu. Không có lý gì lần này lại khác.
Traft trợn mắt nhìn xuống bàn anh Karl:
- Hình như nếu vận động không thành, có kẻ
sẽ hả hê lắm.
Tôi nín thở. Hai bàn tay hộ pháp của Karl nắm
chặt. Ánh mắt tôi nhìn anh van vỉ. Tôi biết làm cho kẻ chuyên đi bắt nạt nổi
xung dễ như thế nào. Đó là kinh nghiệm xương máu của tôi học được trong những
ngày đầu mới chuyển đến nhà mợ Ivy. Khi biết tôi mồ côi, Frannie Thompson luôn
giở trò tai ác. Cho đến một ngày nọ, tôi nhất định không để hắn giở trò. Nếu
Charlie không bước vào can thiệp, có lẽ giờ này mỗi khi thấy nhau, tôi và hắn vẫn
sẽ nhảy xổ vào nhau như hai con gà chọi.
Karl sấn lên một bước. Lập tức, Traft cũng
bước lên.
Cô Leafie phá vỡ bầu không khí căng thẳng:
- Bác Schillinger, nổi nhạc đi thôi.
Tiếng vỗ tay của cô nghe như tiếng súng nổ.
Cô đi ngang qua phòng, giơ tay mời Ông Saboe:
- Quý cô được quyền chọn bạn nhảy. Tôi chọn
ông nhé, Ông Saboe.
Ông Schillinger vội giơ cây vĩ cầm, tấu lên
một khúc nhạc vui. Traft chưa chịu thôi:
- Này, này, tôi đang hỏi mọi người đã đóng
góp cả chưa?
Nhóm cao bồi đi cùng Traft bước lên đứng
sau anh ta, không thèm đếm xỉa đến tiếng nhạc dành cho điệu cracket sôi động.
Tôi thoáng thấy những giọt mồ hôi lấp lánh rịn phía dưới cánh mũi Ông Saboe. Cô
Leafie xoay vòng đến chỗ trống giữa Traft và bàn ghi tên. Hai bàn tay tôi rịn mồ
hôi nhớp nháp, hai chân như bị chôn chặt xuống đất từ lâu. Tôi hết liếc nhìn chị
Perilee, (Mattie đang bíu chặt gấu váy mẹ) lại nhìn đôi bàn tay to bè của anh
Karl đã từng đóng hàng trăm cây đinh trên hàng rào của tôi. Anh là hàng xóm. Là
bạn tốt của tôi kia mà. Tôi hít thật sâu, lau khô tay vào váy và bước lên:
- A... anh M... Martin, lần này con gái chọn
bạn nhảy. Mời anh khiêu vũ với tôi có được không?
Traft Martin sửng sốt. Ánh mắt anh ta như
mũi khoan xuyên thủng từ trước mặt ra đến nút áo cài phía sau gáy tôi.
- Thưa cô Brooks, chưa có lời mời nào lịch
lãm đến vậy.
Anh ta nắm tay tôi, dẫn tôi lướt đi trên
sàn, hòa vào đám đông đang lả lướt theo tiếng nhạc. Tôi xoay vòng bên cạnh hai cặp Wayne và Grace Robbins, cô Leafie
và ông Saboe. Cô thậm chí không thèm nhìn tôi.
Khi gần hết bản nhạc, Traft cầm tay tôi dẫn
ra ngoài:
- Cảm ơn cô đã khiêu vũ cùng tôi. Xin hãy
nghe tôi khuyên một lần.
Tôi vuốt lọn tóc bắt đầu dinh dính xõa xuống
mặt:
- Thưa, gì vậy ạ?
Anh ta ngã mũ:
- Đừng bao giờ đùa với lửa.
Nói xong, Traft hất hàm với nhóm cao bồi rồi
cả bọn ra về. Ông Schillinger không bỏ lỡ một giây, tiếp tục chuyển sang giai
điệu khác.
Đến lúc này, tôi mới dám thở mạnh. Đôi chân
mềm nhũn dẫn tôi đến bên chị Perilee. Tôi đỡ lấy bé Fern trên tay chị:
- Nhảy vài bài với anh Karl đi chị. Thoải
mái một chút cũng tốt mà.
- Anh ấy thích khiêu vũ lắm.
- Vậy chị ra đi thôi.
Tôi tìm ghế ngồi. Bé Fern dễ thương, khuôn
mặt bầu bĩnh, hài lòng với cả bàn tay bế bé ít kinh nghiệm nhất. Nói chính xác
thì tôi thuộc chuẩn đánh giá ấy.
Mattie đến bên tôi:
- Fern thích được ẵm thẳng người để bé nhìn
được xung quanh. Thế này này!
Mattie xoay bé Fern trong tay tôi, để lưng
bé áp vào ngực tôi, mặt bé hướng ra sàn nhảy. Khi ôm một hài nhi ấm áp trong tay,
ta mang cảm giác dịu dàng khó tả. Bé Fern xoa dịu mọi cảm xúc khó chịu đang lên
tới tột đỉnh trong tôi. Tôi bất giác mỉm cười. Hai bé con này đang là điểm tựa
tinh thần của tôi mới lạ chứ.
Mattie kéo cái nơ trên tóc con búp bê:
- Hôm trước Mullie làm mẹ khóc đấy.
- Trời! Thật thế sao?
Mattie buồn bã gật đầu:
- Mullie hát em bài ngày xưa mẹ dượng Karl
hay hát cho dượng nghe.
- Nghe hát mà mẹ em khóc ư?
Mới nhú một răng mà bé Fern đã hăm hở nắm lấy
ngón trỏ của tôi mà gặm. Tôi nhìn bao quát căn phòng. Có hai cặp cau có rời
sàn, quyết tỏ thái độ đối đầu với chị Perilee và anh Karl. Không còn nghi ngờ
gì nữa, họ bị lời nói và thái độ của Traft kích động. Tôi nín thở quan sát.
Đúng lúc đó, Grace và Wayne Robbins rời khoảng sàn trống, xoay đến sát anh chị
Karl với thái độ khiêu khích. Tôi lẩm bẩm:
- Cầu trời phù hộ!
Mattie kể tiếp:
- Nhưng anh Chase bảo tại hàng rào đổ.
Chính vì thế mẹ mới khóc.
Tôi quay sang nhìn Mattie:
- Hàng rào ư ?
Con bé gật đầu :
- Nhiều cọc hàng rào đổ lắm. Không phải do
bão, cũng không bị bò húc, tự nhiên đổ thế thôi.
Mattie lau ngón tay bé Fern vào gấu váy
mình, rồi ngước lên nhìn tôi:
- Chị Hattie ơi, có phải dượng Karl là giặc
Đức không?
Nghe giọng ngây thơ của Mattie nói từ đó
khiến lòng tôi như xát muối. Tôi ôm vai nó vỗ về:
- Đừng nghe mấy lời đó nghe em!
Mattie vân vê gấu áo rách bươm của Mullie:
- Dượng Karl đang đóng nôi cho Mullie. Mẹ bảo
nôi đó của em bé, nhưng cả dượng và em đều biết nôi của Mullie. (Con bé vùng khỏi
tay tôi) Cô Leafie nướng bánh qui giòn. Chị ăn không, em đi lấy cho?
- Chắc bánh ngon phải biết.
Bé Fern nặng trĩu trên tay tôi. Tôi nhẹ
nhàng xoay em lại, để đầu bé tựa vào vai tôi. Tôi vỗ về lưng bé, hít hà hơi thở
thơm tho của hài nhi. Chị Perilee và anh Karl xoay vòng đến gần: Anh cao lớn, vững
chãi; chị chất phác đôn hậu với cái bụng căng tròn. Tình cảm mãnh liệt trào
dâng trong tim tôi, đe dọa tràn qua mí mắt tôi. Có thể Traft làm tôi xao xuyến,
nhưng đó không phải điều tôi đang tìm kiếm. Tôi mong chờ một thứ vững chãi,
đáng tin như 320 mẫu đất Montana này. Đáng tin như những người bạn tốt, chẳng hạn
như anh chị Mueller đây.
Nửa đêm, một đợt bánh kẹp và cà phê nữa lại
được dọn lên, mọi người say sưa khiêu vũ thêm vài bài nữa. Tôi nhảy thật nhiều
với Jim Gà Trống, ông Saboe, thậm chí còn dành một bản cho Chase.
- Bản cuối cùng đây.
Ông Schillinger tuyên bố trước khi tấu lên
bản van có tựa đề Ngôi Nhà Dấu Yêu.
Khi cùng mọi người rửa đĩa đựng bánh kẹp và
ly cà phê, chị Perilee ngáp dài. Chúng tôi bày bát đĩa sạch lên bàn để ai mang
gì đến sẽ lấy đúng thứ đó mang về, tránh nhầm lẫn.
Vầng đông hửng sáng khi mọi người rục rịch
ra về. Anh Karl, chị Perilee và tôi mỗi người bế một đứa trẻ say giấc nồng ra
thùng xe nhà Mueller.
- Ngủ ngon nhé, Hattie!
Chị ngái ngủ, ngả đầu vào vai chồng. Chắc
xe chưa kịp ra khỏi sân trường, chị đã ngủ khò.
Jim Gà Trống và tôi im lặng suốt quãng thời
gian bầu trời đêm chuyển từ màu xanh thẫm sang màu hồng.
Khi tôi rời ghế sau thùng xe xuống trước
nhà, Jim dặn với tôi:
- Đi ngủ ngay nhé!
Tôi che miệng đáp:
- Tôi cũng mong thế. Khoảng hơn tiếng đồng
hồ nữa đã phải vắt sữa bò rồi. Cảm ơn anh đã cho đi nhờ xe.
Tôi uể oải vẫy tay chào tạm biệt khi tiếng
nhạc ngựa của Jim xa dần.
Tôi huých sườn phải vào cánh cửa. Cánh cửa
mở toang, tôi mang giỏ bước vào. Đặt cái giỏ đánh rầm lên bàn, tôi ngồi ngáp. Mải
mê khiêu vũ cả tối khiến bao tử tôi kêu đói. Tôi mở khăn phủ giỏ thức ăn, tìm
chiếc bánh kẹp còn dư mang về từ buổi tiệc. Bàn tay tôi chạm phải vật gì đó.
Mullie! Không thấy Mullie, Mattie sẽ kêu ca, càm ràm như bà lão sáu mươi mất
thôi. Tôi cắn vội miếng bánh rồi hối hả quay ra cửa. Ai cần ngủ cơ chứ? Plug có
thể đưa tôi đến nhà Mueller và trở về kịp giờ vắt sữa cho Violet. Sau đó, tôi
tha hồ ngủ bù vào buổi trưa.
Mới đi được hai mươi bước, tôi đã lấy làm
tiếc vì quyết định anh hùng rơm khi nãy. Không có gì đáng ngại bằng đồng cỏ trống
trải lúc sáng sớm. Lộc cộc, lộc cộc! Vó con Plug nghiến trên nền đất lún phún cỏ
xanh trải dài tít tắp, đây đó có thêm vài bụi xương rồng. Lộc cộc, lộc cộc! Gan
ruột tôi nôn nao. Chắc tại bữa khuya quá trễ tràng. Tôi nổi da gà khi nhớ đến
con sói xuất hiện hai tháng trước. Giờ này. Chắc cái đuôi của Violet đã được
tiêu hóa kỹ lắm rồi. Chắc chắn con sói nọ đang tìm thứ thế vào chỗ cái đuôi bò
ngày ấy. Một thứ cao khoảng 1,52 mét, nặng 48,5 kg chẳng hạn. Tôi rùng mình, lấy
làm mừng vì đang an tọa trên lưng Plug.
Chẳng ai thích cảnh đồng cỏ mênh mang, ngút
tầm mắt bởi trên đó chẳng có chỗ nghỉ chân hoặc tránh thú hoang.
- Nhanh lên, Plug.
Tôi thúc gót chân vào sườn ngựa, giục nó đi
nhanh hơn trên nền đất cứng. Chỉ có Chúa mới biết tại sao tôi luôn tin rằng con
ngựa già này chạy nhanh nhất trên đời, có thể đưa tôi vượt mọi hiểm nguy. Quả
thật, khi một mình trên đồng cỏ vào lúc bình minh, người ta khó có thể suy nghĩ
sáng suốt được.
Nếu không sợ hãi, dỏng tai nghe âm thanh của
đồng cỏ lúc trời chạng vạng, tôi đã nhận ra sự việc sớm hơn. Khi đến chân một
gò đá, cách đích đến khoảng một dặm, tôi ngửi thấy mùi hiểm họa.
Khói.
Tôi thúc ngựa trèo lên. Tới đỉnh rồi, mùi
khói khét lẹt xộc vào mũi tôi. Tôi bật ngửa người như vừa hứng một trái bóng
chày bay đến với một lực cực kì mạnh. Khói.
Và khói ấy bay từ hướng nhà chị Perilee.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét