Khoảng Trời Mênh Mông
(Hattie Big Sky)
Tác giả: Kirby Larson
Người dịch: Vũ Kim Dung
NXB Văn Hóa Sài Gòn - 2008
Chương 1
Arlington, Iowa
Ngày 19 tháng 12 năm 1917
Charlie
thân mến!
Mỗi
ngày, cô Simpson đều nhắc chúng em cầu nguyện cho anh và mọi quân nhân khác.
Nhưng theo em, ta nên cầu nguyện cho vua Đức tội nghiệp: Ông ta sẽ phải khấn trời
rủ lòng thương ngay khi giáp mặt anh!
Hôm
nay, em tình cờ gặp mẹ anh ở tiệm cậu Holt. Bà kể qua loa rằng, anh sẽ sớm đến
Anh quốc, rồi từ đó sang Pháp. Từ lúc đó, em không đủ can đảm nhìn bản đồ phía
sau cô Simpson vì nó bắt em nhớ giờ anh và Arlington đã nghìn trùng xa cách!
“Ngài”
Whiskers muốn nhắn anh rằng “ngài” vẫn mạnh! Mấy hôm nay trời lạnh cóng nên em
cho nó ngủ trên giường em. Khi biết chuyện, mợ Ivy nổi cơn tam bành. Ơn trời, vì
mợ bảo em lớn rồi, đánh mãi sẽ lì đòn.
Nếu
không, chắc bây giờ em chẳng còn chân mà đi.
Anh
không biết chứ mợ Ivy bây giờ khác lắm. Mợ tự may mũ màu trắng có đắp dấu thập
đỏ chói bằng vải ở vành. Mợ đội mũ ấy mỗi khi dự họp ở Hội Chữ Thập Đỏ. Chắc mợ
muốn mọi người phải biết mình có góp tiền cho Hội này. Hồi này, mợ cư xử lạ lắm,
thậm chí sáng nay còn hỏi em thấy trong người thế nào. Lần đầu tiên trong nhiều
năm ròng, mợ hỏi em khỏe hay yếu. Lạ thật. Chắc nhờ tham gia Hội Chữ Thập Đỏ
nên mợ dịu hiền hơn.
Chị
Mildred Powell đang đan đôi vớ thứ năm. Đừng vội mừng vì anh không được hưởng
trọn cả năm đâu. Chị ấy đan cho Hội Chữ Thập Đỏ đấy . Hồi này, nữ sinh chúng em
ai nấy đều bận rộn đan lát cho Hội. Tuy nhiên, em nghĩ rằng đôi đẹp nhất của chị
là dành cho anh.
Chắc
anh phải cố gắng lắm mới ních được vào bộ quân phục nhỉ! Đúng là con lật đật
(Hì hì). Đùa tí thôi chứ thật lòng em biết chắc anh sẽ khiến người thân và bạn
bè được thơm lây.
Mợ
Ivy vừa đi họp về, đang gọi em đấy. Em phải dừng bút thôi, nhưng sẽ sớm viết
thư sau gửi anh.
Bạn
cùng trường
Hattie
Inez Brooks
Thấm mực xong, tôi nhẹ tay đẩy bức thư vào
phong bì. Mợ Ivy sẽ không chần chừ đọc bất kì thứ gì lọt vào mắt bà, dù thứ đó
trong phòng tôi, trên bàn riêng của tôi.
Mợ gọi lảnh lót :
- Hattie đâu? Xuống đây ngay.
An toàn vì ở khuất tầm mắt mợ, tôi giúi lá
thư vào dưới cái gối vẫn còn hơi ẩm từ trận khóc thầm như mưa như gió đêm qua.
Từ khi Charlie nhập ngũ, gặp ai Mildred Powell cũng khóc rưng rức. Tôi không giống
chị: Chỉ có “Ngài” Whiskers và cái gối biết khi đêm về tôi thường lặng lẽ khóc
thầm vì nhớ Charlie. Tất nhiên, tôi rất lo cho sự an nguy của anh, nhưng nói thực
trò mít ướt lúc nửa đêm ấy chỉ đơn thuần xuất phát từ nỗi nhớ Charlie. Biết là
ích kỉ và yếu đuối, nhưng không hiểu sao tôi không thể cầm lòng được.
Từ nhỏ tới khi mười sáu tuổi, tôi chưa từng
gặp ai tuyệt vời như Charlie Hawley. Anh là một trong những món quà quí giá nhất
cuộc đời dành tặng tôi. Thời gian đầu dọn đến ở với cậu Holt và mợ Ivy, tôi bẽn
lẽn đến độ nói tên mình còn không rõ. Charlie luôn bênh vực tôi. Ngày đầu tiên
đi học, anh dẫn tôi vào trường và cả những ngày sau cũng thế. Cũng chính anh
cho tôi “Ngài” Whiskers, con mèo có vẻ mặt buồn xo tìm đường đến thẳng trái tim
tôi bằng tiếng kêu nũng nịu. Charlie còn dạy tôi ném bóng chày, dù tôi thuận
tay trái. Nhiều đêm, tôi khờ khạo mộng tưởng về anh, nhắm mắt bưng tai trước sự
thật: Ai cũng biết anh chỉ yêu mình Mildred. Vốn phải ăn nhờ ở đậu nhiều nơi từ
khi còn tấm bé, tôi biết mơ mộng nhiều chỉ rước họa vào thân. Mơ có bao giờ là
thực. Không tin cứ thử vươn tay về phía chúng mà xem: Giấc mơ sẽ giống lâu đài
xây bằng những đám mây nhẹ xốp.
Ngày Charlie ra trận, cả lớp tiễn anh ngoài
sân ga. Mildred bám chặt tay anh không rời. Chắc lưng anh tím bầm từng mảng vì
thỉnh thoảng cha anh vẫn có thói quen vỗ mạnh vào lưng con trai. Sau khi đọc
tràng diễn văn buồn tẻ, cô Simpson thay mặt trường tặng anh gói quà nhỏ: Một
chiếc mũ len và giấy bút viết thư.
Người soát vé giục giã:
- Tàu sắp chạy rồi cháu.
Khi Charlie bước lên mấy bậc thang bằng sắt
để vào hẳn toa tàu, tim tôi như chùng xuống. Tôi bắt mình kiềm chế, không khóc
lóc than thở như Mildred. Nhưng rồi, tôi cũng chạy lại gần và giúi vào tay anh
một thứ:
- Để cầu may!
Charlie liếc nhìn, mỉm cười, vẫy chào lần
cuối trước khi bóng anh khuất dần vào trong khoang tàu.
Mildred gục đầu vào vai bà Hawley, thổn thức:
- Ôi, Charlie!
Bà mẹ Charlie vỗ về:
- Thôi nào, nín đi cháu!
Ông Hawley rút khăn tay in hoa, điệu đà lau
mồ hôi trán, khác hẳn tác phong ngày thường. Tôi vờ như không thấy ông chấm nhẹ
khăn nơi khóe mắt.
Sau khi tàu chuyển bánh, mọi người chầm chậm
ra bãi xe ngoài ga. Tôi còn nấn ná ở lại, mắt dõi theo đoàn tàu, hình ddung
Charlie vỗ nhẹ túi quần, nơi có viên đá “cầu được ước thấy” do tôi tặng. Cũng
chính anh dạy tôi chọn đá ước:
- Em nhớ chọn viên đá màu đen, có vòng tròn
trắng ở giữa nhé. Vừa ném đá qua vai trái vừa thầm ước, chắc chắn sẽ linh nghiệm.
Anh thờ ơ ném đá ước nhiều lần, còn cười nhạo
vì tôi không hề thử. Mơ ước của tôi không thuộc loại chỉ cần ném vài hòn đá là
có ngay.
Hai tháng trôi qua, kể từ khi buổi tiễn
Charlie. Vắng anh, cuộc sống chẳng khác nào một mẻ bột bánh bích qui không bột
nở: xẹp lép, nặng trịch.
Giọng mợ Ivy chuyển sang đe nẹt:
- Hattie đâu rồi?
- Cháu đây, thưa mợ!
Tôi hối hả xuống cầu thang. Trông mợ như
quan tòa trong chiếc ghế tựa bọc da nâu. Gần đó, cậu Holt thoải mái lọt thỏm
trong ghế xích đu với đống báo chất trên đùi.
Tôi lẻn ra thềm cầm món đồ đang đan dở lên:
Một chiếc tất trông thiên thảm địa sầu. Mũi đan đầu tiên bắt đầu từ tháng mười,
khi Charlie mới nhập ngũ. Nếu chiến tranh kéo dài năm năm nữa, họa may chiếc tất
của tôi hoàn thành đúng ngày đình chiến. Tôi cầm đôi que đan, hé mắt nhìn qua lỗ
thủng do bị tụt mũi. Bạn thân như Charlie cũng chưa chắc muốn xỏ chân vào tất
này.
Mợ Ivy gỡ mũ có đính chữ thập đỏ xuống:
- Hôm nay, mợ vừa nói chuyện với bà Iantha
Wells, vui quá thể. Ông Holt này, ông còn nhớ Iantha không?
- Hừm.
Cậu Holt vừa ừ hử vừa giở báo ra đọc.
- Hattie à, mợ có khen cháu với bà ấy, ở với
mợ, cháu rất biết việc.
Tôi làm tuột thêm một mũi đan. Thực tế, gần
như ngày nào, mợ cũng ca than bảo lỗi nữ công gia chánh của tôi kể mãi cũng
không hết.
- Mà này, mợ đây chẳng cần học hành đến nơi
đến chốn. Con gái học làm gì cho lắm.
Cậu Holt hạ góc tờ báo xuống. Còn tôi tuột
một mũi đan nữa. Có chuyện rồi đây.
- Chữ nghĩa không giúp gì được đâu cháu ạ.
Nhất là khi chỗ thân tình như bà Iantha đang cần giúp một tay ở nhà trọ.
Ra thế. Mọi chuyện đã năm rõ mười. Giờ tôi
hiểu tại sao hồi này mợ tốt với tôi đến như thế. Hóa ra, mợ đang tìm cách tống
khứ tôi.
Mợ Ivy vuốt vuốt chiếc váy đang mặc:
- Thượng Đế luôn hành sự theo cách bí ẩn.
Iantha đề nghị hào phóng thế thì còn gì bằng.
Dù bụng dạ chộn rộn ngay khi mợ mở lời, tôi
biết mình chưa nên nói gì vội. Ít nhất là lúc này.
Cậu Holt nhồi nhúm thuốc lá hiệu Prince
Albert vào tẩu:
- Bà này, mấy tháng nữa là hết năm học rồi.
Cậu châm thuốc trước khi nói tiếp:
- Tôi thấy thì nên để Hattie học hết năm
nay.
Đây không phải lần đầu cậu Holt bênh tôi.
Ngay tối nay tôi sẽ đánh giày cho cậu để tỏ lòng biết ơn.
Mợ tôi nói trơn tru, như thể cậu chưa hề
lên tiếng:
- Ông và tôi từng bàn Hattie sẽ đến nơi nào
có người cần nó. Vừa hay nhà Iantha đang cần nó kìa.
Còn ở đây người ta không cần. Tôi thầm nối
lời.
Cậu Holt đưa mắt nhìn tôi qua vòng khói thuốc
xoáy trôn ốc ngát hương anh đào:
- Cháu muốn học đến hết năm nay không?
Tôi buông kim đan xuống, cân nhắc câu trả lời.
Vì ham đọc sách nên chuyện học hành với tôi không khó. Đặc biệt là khi không bị
phân tâm bởi Charlie. Nhưng so với công việc nhà Iantha Wells thì...
Mợ Ivy cấm cảu, quắc mắt nhìn tôi:
- Nó biết quá đi chứ. Vợ chồng mình phải
chú trọng tu dưỡng tâm hồn Hattie. Giúp Iantha nuôi dưỡng lòng từ tâm của trẻ
con. Nhất là lòng từ tâm, với lại...
Tới đây, mợ ấp úng như gà mắc tóc, như thể
ngay cả mợ cũng không tin làm việc trong nhà trọ có thể trau dồi kiến thức cho
ai:
- Và nhiều kĩ năng phụ nữ cần biết. Cơ hội
đích thực cho con gái chuyên cần đấy.
Hai vết đỏ rần lan trên má mợ. Rõ là mợ
đang cáu. Lý do cũng rõ ràng không kém. Mợ tự ái vì cậu Holt hỏi ý kiến tôi, nhất
là hỏi tôi quyết định tương lai mình ra sao.
Với mợ, tôi chỉ là Hattie cù bơ cù bất,
không có quyền có quan điểm riêng!
Chưa kịp thay răng sữa, tôi đã mồ côi cả
cha lẫn mẹ. Câu chuyện về cha tôi không khác gì những câu chuyện của các gia
đình thợ mỏ: bụi than ăn rỗng phổi cha. Khi ông qua đời, tôi khoảng hai, ba tuổi.
Lúc tôi lên năm, mẹ cũng theo cha mà đi. Khi đó, dì Seah mang tôi về nuôi. Bác
sĩ bảo mẹ chết vì viêm phổi, còn dì lại nói chắc như đinh đóng cột, rằng mẹ tôi
mất vì thương nhớ cha. Nhìn lại quãng đời ăn nhờ ở đậu, tôi thấy chỉ có dì đối
tốt với tôi nhất. Dì tặng tôi món quà vô giá: Niềm tin bất di bất dịch về tình
yêu mãnh liệt cha mẹ dành cho nhau. Khi dì Seah quá già yếu, không thể tiếp tục
nuôi tôi, tôi bắt đầu cuộc sống nay đây mai đó: Hôm nay ở nhà này, mai lại sang
nhà khác. Có nhiều nhà chỉ là bà con họ xa. Tôi ở nhà họ, giúp trông nom người ốm,
giúp những ai cần đỡ đần việc nhà mà không ngại nuôi thêm một miệng ăn. Cứ thế
cho đến khi tôi chẳng còn nhà bà con nào mà đi.
Khi tôi mười ba tuổi, mợ Ivy nhận tôi về dù
giữa chúng tôi không có quan hệ máu mủ. Cậu Holt chỉ là người bà con xa. Chắc mợ
không muốn tuột mất cơ hội thực hiện nghĩa vụ của một người Cơ đốc giáo. Hoặc mợ
không thể vuột mất cơ hội nhắc tôi mỗi ngày, rằng tôi trắng tay và chẳng còn ai
nương tựa. Mợ thường bảo tôi nên đếm thật kĩ mọi ơn huệ trời ban. Tất nhiên tôi
có đếm. Ngày nào tôi cũng cảm kích món quà quý nhất mà Thượng đế ban cho: Đó là
sự thật mợ và tôi không phải là ruột thịt.
Không khí trong phòng im lặng đến độ tôi có
thể nghe tiếng ống tẩu va vào răng cậu Holt. Ông phà thêm một làn khói thuốc thật
thơm trước khi lên tiếng:
- Theo tôi, chuyện này để mai hẵng bàn.
Mợ Ivy không muốn qua mặt cậu. Không đời
nào bà làm thế khi có mặt tôi. Oai phong trong ghế bành, bà khoát tay:
- Ông muốn sao cũng được.
Cậu hết loay hoay với tẩu thuốc lại quay
sang lục đống báo xếp trên đường ống nước sát ghế ngồi:
- Quái lạ! Tôi để đâu rồi nhỉ?
- Ông bảo để cái gì?
Giọng vút cao của mợ làm cửa kính cũng phải
bể.
- Thư. Thư của Hattie đến trong ngày.
Đống báo đổ xuống sàn như một thác nước nhỏ.
Dù cậu chỉ là nhân viên kế toán của một cửa hàng bách hóa, nhưng tôi chưa thấy
ai đọc nhiều như cậu Holt. Tôi mê đọc không kém, nhưng sở thích tôi là tiểu
thuyết. Cậu Holt lại thích báo chí. Cậu là người đầu tiên cảnh báo có chiến
tranh ở châu Âu. Ngay cả kẻ ngốc, nếu để ý, cũng sẽ biết có binh biến lớn. Còn
tôi, trước khi Charlie nhập ngũ, chẳng buồn để ý đến tình hình chiến sự. Thế
cũng đủ biết tôi thuộc loại người nào.
- Cháu có thư!
Thư Charlie chăng!
- Thư gửi Hattie à?
Mợ Ivy ngờ vực.
Như không thấy mợ giơ tay ra, cậu Holt trao
thẳng thư cho tôi.
Mợ Ivy hạch hỏi:
- Thư của ai mới được?
- Một người ở Montana.
Nói xong, cậu Holt biến mất sau tờ Tin tức
Arlington, dấu hiệu cho biết phần tham gia của cậu vào buổi mạn đàm buổi tối để
kết thúc.
Tôi mở phong bì. Bên trong có hai bức thư.
Bức thư thứ nhất đề ngày 11 tháng Mười một
năm 1917.
Lúc
lâm chung, cậu em có nhắn chị gửi thư cho em. Đó là điều tối thiểu chị có thể
làm để đền đáp lòng tốt vô bờ của ông. Nếu em đồng ý, chị và anh Karl, chồng chị,
sẽ hết lòng giúp đỡ em.
Hãy
nhận từ chị tình cảm chân thành nhất.
Perille
Johnson Mueller
“Đồng ý gì mới được?” Tôi mở tiếp bức thư
thứ hai.
Hattie
yêu quí.
Chắc
chắn cháu không thể nhớ cậu. Mẹ cháu chỉ có mình cậu là em trai. Nếu có lấy vợ
và sống chỉn chu, cậu đã gửi thư cho cháu từ lâu. Nhưng cậu chỉ là một gã du thủ du thực. Tuy nhiên, ở Montana này, cậu dần tạo dựng một cuộc đời mới. Chắc cháu
không biết ngay khi cậu cắm đất và dựng nên một chỗ chui ra chui vào, thầy thuốc
bảo bệnh ho sẽ kết liễu đời cậu. Ngoài việc có chung dòng máu nhà Wright trong
huyết quản, cháu và cậu giống nhau ở một điểm. Tuổi thơ ấu, cậu cháu mình đều
không có một mái nhà cho ra hồn. Cháu mồ côi, còn cậu bỏ nhà đi từ khi mới học
lớp sáu. Chắc cháu nghĩ ta không bao giờ nhớ đến cô cháu gái ở tận Iowa. Nhưng
ta chứng minh điều ngược lại bằng chính lá thư này. Nếu đến Vida, cháu sẽ có cơ
hội sở hữu đất. Cậu tin cháu có nghị lực của mẹ. Nó sẽ giúp cháu thực hiện nốt
vài yêu cầu cần đáp ứng. Nếu cháu đủ tự tin và nghị lực để thực hiện những yêu
cầu ấy (cháu có cả một năm để làm chuyện ấy), 320 mẫu đất Montana sẽ hoàn toàn
thuộc về cháu.
Tôi bấu tay chặt vào thành tràng kỷ:
- Trời!
- Cái gì thế? Chuyện không hay à?
Mợ Ivy đến bên, hau háu nhìn qua vai tôi.
Sau khi lắp bắp một chút, tôi đọc to đoạn cuối cùng của bức thư:
Tôi,
trong tình trạng tinh thần minh mẫn, tuyên bố để lại cho Hattie Inez Brooks đất
đai, căn nhà và toàn bộ đồ dùng bên trong, kèm theo một con ngựa khỏe mạnh tên
Plug và Violet - con bò cái đê tiện.
Ký
tên
Chester
Hubert Wright
Cậu của
Hattie Inez Brooks
Tái
bút: Hattie này, cháu nhớ mang theo mèo và quần áo ấm nhé.
Mợ Ivy giật phắt lá thư trên tay tôi. Còn
tôi sững sờ đến độ không kịp phản ứng. Ba trăm hai mươi mẫu đất (khoảng 128 héc
ta)! Một căn nhà chỉ của tôi mà thôi!
Montana!
Mợ tôi dõng dạc:
- Thật lố bịch! Vả lại, mợ đã hứa với
Iantha cháu sẽ sang làm cho bà ấy.
- Cơ hội tốt cho con gái siêng năng.
Giọng cậu Holt như có kèm theo cái nháy mắt
tinh quái.
Mợ Ivy lắp bắp:
- Điên rồ! Ông thôi đi cho tôi nhờ. Còn
Hattie...
Tôi lấy lại lá thư trên tay mợ, gấp lại cẩn
thận và cất vào túi áo:
- Thì mợ vẫn hay bảo “Thượng đế hành sự
theo cách bí ẩn” đấy thôi. Giờ thì, mợ cho phép cháu phúc đáp thư này.
Hồi âm của tôi cho chị Perilee chỉ vỏn vẹn
một dòng: “Em sẽ đến”.
Muốn Charlie biết tường tận, thư cần dài
hơn một chút. Tôi không muốn anh lo lắng cho mình khi đang trên đất khách quê
người. Sau hàng chục lần viết nháp, đoạn tái bút có thể gọi là đúng mực. “Hãy
tưởng tượng thư em viết từ đó sẽ thú vị biết chừng nào!”
Tôi gửi cả hai thư, một cho Charlie, một
cho chị Perilee. Thư phúc đáp từ chị Perilee đến ngay sau đó, kèm theo lời hứa
sẽ đón tôi tại ga Woft Point, sau đó đưa tôi đến tận khu đất của cậu Chester.
Như thể biết tôi nghĩ gì, chị thêm vào danh sách vài hướng dẫn ngắn ngủi của cậu
Chester:
Chị nói thêm về vật dụng cần mang theo.
Cậu
em có gần như đầy đủ mọi vật dụng trong nhà. Tuy nhiên, một chiếc mũ bền chắc
che nắng mưa và vải trải giường là cần thiết, vì ông Chester không có hai loại
vật dụng đó cho em chọn lựa.
Láng
giềng mới của em
Perilee
Mueller
Một thiếu nữ thông minh hơn tôi chắc đã
chóng mặt khi toan tính chuyện về miền Tây hoang sơ nhận đất công để cày cuốc.
Tôi từng sống ở nông trại với họ hàng, năm nào cũng giúp cậu Holt trồng rau
trong vườn, nhưng đó chỉ như thực hiện một bài thực hành môn trồng trọt mà thôi. Tôi cố tình đẩy mọi lo lắng
và hồ nghi khỏi tâm trí ngay khi chúng nhăm nhe tìm đến. Với tôi, toàn bộ chuyện
này chỉ là cơ hội bỏ lại sau lưng mợ Ivy và cảm giác mình là một vật dụng thừa.
Quyết tâm làm theo ý mình, tôi làm mọi việc
mà một chủ trại giỏi giang cần làm: tôi ra ngân hàng, rút 400 đô la tiền bố mẹ
để lại, mua quần áo ấm và tấm vé 12 đô la ở ga Great Northern. Việc thu xếp
hành lí không cần nhiều thời gian. Cậu Holt cho tôi đôi ủng cũ, cô giáo Simpson
tặng tôi cuốn Cẩm nang canh tác của Campbell xuất bản năm 1907. Anh trai cô
cũng chuyển đến Montana. Ông tin chắc đó là cuốn mọi chủ trại cần có khi canh
tác tại miền đồng cỏ phía Đông. Sau cái ôm hôn thắm thiết lúc chia tay, mẹ
Charlie tặng tôi đôi găng tay lao động bằng vải bạt dày dặn. Món đồ cuối cùng
tôi mua là chiếc lồng đan bằng cây liễu gai dành cho “Ngài” Whiskers.
Vì vẫn còn tức tối về chuyện vừa xảy đến, mợ
Ivy từ chối không ra ga tiễn tôi. Chỉ có cậu Holt đưa tôi đi trên chiếc Ford
Town Car mới cáu.
Khi bỏ rương của tôi từ xe xuống và trao
chiếc lồng có “Ngài” Whiskers cho tôi, cậu Holt bảo:
- Hattie này, cậu biết cháu đủ bản lĩnh và
nghị lực làm mọi điều mình muốn. Nhưng hãy nhớ trên đời có nhiều cách học hỏi.
Đừng quá kiêu hãnh đến độ không cần nhờ ai giúp. Chắc cháu còn nhớ lời mợ Ivy
thường hay nhắc đi nhắc lại là: Trèo cao...
Tôi tiếp lời:
- Ngã đau.
Mợ Ivy thường lo âu phiền muộn vì lòng tự
hào của tôi. Bao cây roi gãy trong tay mợ chỉ để trị tiệt nọc cho tôi cái “thói
xấu” ấy.
Cậu Holt vờ như bận rộn nhồi thuốc vào tẩu
để lẩn tránh ánh mắt buồn trong cảnh chia ly. Khi cậu châm thuốc, tôi thấy mắt
ông ươn ướt.
Ba năm với bao lần cậu tỏ chút từ tâm với
tôi chợt hiện về. Ánh mắt hai cậu cháu gặp nhau, tôi biết dù không nói ra nhưng
cậu hiểu tình cảm của tôi lúc này. Tôi lắp bắp:
- Cháu mang ơn cậu. Cháu... cháu hứa sẽ viết
thư thăm cậu ạ.
Cậu ngượng ngập vỗ vai tôi:
- Giờ chưa cần hứa gì vội kẻo thành hứa
suông đấy. Nhưng nếu nhận được tin của cháu thì tốt. Thỉnh thoảng thôi cũng được.
Người phục vụ trên tàu hô lớn:
- Mời hành khách lên tàu cả đi!
“Ngài” Whiskers và tôi vào hẳn trong
khoang. Cậu Holt vẫn còn đứng trên sân ga vẫy tay lần cuối. Tôi cũng vẫy tay
chào lại. Sau đó, tôi chỉnh tư thế ngồi, xoay mặt về hướng Tây.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét