Khoảng Trời Mênh Mông
(Hattie Big Sky)
Tác giả: Kirby Larson
Người dịch: Vũ Kim Dung
NXB Văn Hóa Sài Gòn - 2008
Chương 6
Ngày
14 tháng Hai năm 1918
Cách
Vida ba dặm về phía Tây Bắc, Montana
Charlie
thân mến!
Em nghĩ, nếu có nhập ngũ, em cũng
không gây phiền toái nhiều cho quân đội của anh. Lúc này dù cho ngoài trời rét
cỡ nào em cũng giữ ấm được. Chị Perilee bảo tuần trước nhiệt kế nhà chị xuống tới
âm 19 độ.
Ở Woft Creek, bác hàng xóm Durfey xẻ
băng được nhiều tảng băng dày 50 cm. Nhưng quanh “đất của em” (sao mà em thích
viết mấy từ này đến thế), chỉ có những đụn tuyết nhỏ rất đẹp. Nhiều lúc em tưởng
mình đang trên tiên giới.
Cách đây mấy ngày, chị Perilee và bọn
trẻ vừa qua chơi. Chase và Mattie suýt làm thủng xô giặt quần áo của em. Nước
chảy đóng thành băng trên mái nhà kho. Bọn trẻ trèo lên rồi trượt xuống không
biết bao nhiêu lần. Khi em bắt chúng vào nhà, mấy ngón chân bé tẹo của chúng đã
tím ngắt cả. Chân Mattie vừa sưng vừa ngứa. “Có phải em bị cước không chị?” Con
bé lo lắng hỏi em bằng cái giọng nũng nịu dễ ghét. Em ngâm chân Mattie vào nước
ấm cho hết “cước”. Chị Perilee gọi Mattie là chích chòe. Biệt danh ấy quả là hợp
với nó. Mấy chị em rang ngô ăn, em còn đọc một chương trong truyện Đảo Giấu
Vàng cho hai em nghe. Giá mà anh được thấy mắt Chase sáng rực lên khi chuyện.
Violet và em biết ơn anh đến cuối đời
vì đã dạy em ném bóng. Ước gì hôm xảy ra chuyện, anh cũng ở đó. Một con sói đói
bám theo Violet, may mà con bò thì xấu tính, còn em ném trúng đích nên giờ này
em vẫn còn sữa tươi để uống. Bây giờ, em có con bò cụt đuôi ngộ nghĩnh nhất
bang Montana. Mong anh có ngày đến chơi và thấy nó.
Em còn bao nhiêu việc phải làm trong
thời gian chín tháng ngắn ngủi. Tới mùa xuân, công việc mới thực sự bắt đầu,
nhưng em không thể giục mùa xuân tới sớm. Lúc này, em chỉ biết đọc đi đọc lại
chồng sách mỏng giới thiệu về hạt giống, đồng thời nghiên cứu kỹ cách trồng
hàng rào. Em còn học chơi cờ nữa đấy, dù với ông thầy Jim Gà Trống, em không tiến
bộ nhiều. Jim lập dị nhưng rất tốt tính anh ạ. Anh ấy cho em đi nhờ xe trượt
tuyết đến Vida, thị trấn gần nhất, những hai lần. (Gọi là thị trấn cho oai, chứ
Vida chỉ bé bằng cái đầu kim!). Vì chỉ cách nhà em ba dặm nên khi xuân đến, em
sẽ đi bộ lên thị trấn. Em không bỏ qua một mẩu báo nhỏ nào. Chị Perilee và anh
Karl giúp em bổ sung lương thực đều đặn. Tất nhiên, hồi này có nhiều tin bài
nói về chiến tranh, về bọn Đức xảo quyệt, tàn ác. Nhưng Charlie này, em thấy
ngược đời làm sao, khi chị Perilee bảo anh Karl phải trình báo vì anh là người
gốc Đức. Quả thật anh sinh tại Đức, nhưng anh Karl là người hàng xóm tốt nhất của
em, khác giặc Đức dùng lưỡi lê đâm chết hài nhi một trời một vực. Giá anh có ở
đây giải thích rõ nguồn cơn chuyện này, giống như ngày xưa anh thường giảng cho
em cách phân tích câu trong môn ngữ pháp.
Ước gì em gửi được cho anh bánh ngọt
chị Perilee tự tay làm lấy. Nếu thi làm bánh, chị Perilee sẽ thắng cả Mildred
Powell cơ đấy!
Bạn
cũ
Hattie
Innez Brooks
Cơn gió, gầm rú như một đoàn tàu đang đến gần,
kéo tâm trí tôi rời bức thư gửi Charlie. Tôi bất giác rùng mình.
- Tao chẳng muốn ra ngoài đâu. Chắc mày
cũng thế, phải không?
“Ngài” Whiskers trả lời bằng cách rúc đầu
vào chăn. Nhưng thời tiết đẹp hay xấu, thì ngày nào cũng có từng đó việc phải
làm cho xong. Tôi nhảy xuống giường, vừa pha cà phê vừa liếc cuốn lịch của Ngân
hàng Quốc gia, chi nhánh Vida.
- Mừng ngày Valentine!
Trước khi đi lấy sữa, tôi bỏ cà phê vào nước
chờ sôi.
- Không biết Charlie có nhận được quà
Valentine của tao không. Quà của Mildred ướt át, lãng mạn đủ rồi nên tao đến
bưu điện kiêm cửa hàng của ông Bub Nefzger ở Vida chọn tấm bưu thiếp rẻ tiền,
ngộ nghĩnh nhất. Xa nhà, Charlie nên tìm cách cười vui càng nhiều càng tốt. Nếu
không sẽ nhớ nhà hoặc lo âu lắm.
Từ cửa sổ duy nhất nhìn ra, tôi chỉ thấy bầu
trời xám xịt như một tấm chăn xấu xí. Tuyết rơi dày đến độ tôi phải căng mắt mới
nhìn thấy nhà kho kiêm chuồng gia súc. Dù gì cũng không thể bỏ bê công việc.
Tôi kéo áo khoác sát vào người hơn nữa rồi hì hụi ra chuồng gia súc. Đang chần
chừ chưa muốn thả Plug, tôi đã thấy nó nhanh trí đào tuyết tìm cỏ bị vùi phía
dưới. Tôi có đủ thức ăn cho cả nó và Violet cho đến hết mùa đông. Áy náy quá,
tôi bèn thêm cho Plug một khẩu phần yến mạch nữa trước khi mở cửa chuồng. Sau
đó, tôi quay sang cho con bò cái ti tiện ăn, uống nước và vắt sữa.
- Ngoan nào!
Tôi vỗ vào mạng sườn nó. Con bò bồn chồn
không yên, rống lên tiếng kêu thê thảm nhất.
- Mày làm sao thế?
Tôi quyết định về nhà lục đống sách của cậu
Chester tìm cẩm nang chăm sóc gia súc. Tôi đã cứu mụ phù thủy bốn chân này khỏi
bị sói ăn thịt, nên tôi sẽ không để mất nó vì một căn bệnh quái ác nào đó.
Cẩn thận cất xô sữa sang một bên, tôi bước
ra ngoài và chợt thấy cơn bão tuyết ập tới. Khi nãy gió đã rất mạnh rồi, nhưng
giờ còn mạnh hơn. Gió xoáy quanh đầu tôi, đe dọa rút hết chút sức sống còn sót
lại trong phổi tôi. Gió đông còn hăm he thổi bạt cả hơi thở của tôi.
- Plug!
Tôi gào lên, toan át tiếng gió rít. Nhưng sức
của tôi không địch nổi. Mẹ Thiên nhiên tống mọi ngôn từ trở lại cuống họng tôi.
Một cơn gió thổi mạnh tới, suýt đẩy tôi té nhào. Chắc chắn khôn như con Plug sẽ
biết đường tránh cơn bão tuyết này. Còn tôi phải trở vào nhà ngay.
Băng tuyết lạnh buốt quật mạnh vào đầu, vào
vai tôi. Mấy tuần qua, tôi nhiều lần vấp phải cuộn dây của cậu Chester, nhưng
đành chịu không biết cất nó ở đâu cho gọn vì nhà hết chỗ rồi. Giờ tôi đã tìm thấy
công dụng của nó: tôi sẽ cột một đầu dây trong nhà, một đầu ở nhà kho. Nếu đến
mai bão tuyết chưa tạnh, tôi sẽ phải theo dây ấy tìm đường đến nhà kho chăm sóc
Violet.
Cất xô sữa vào nhà xong, tôi vơ vội cuộn
dây. Cậu Chester đã gắn khoen sắt rất chắc ngay trước cửa lều. Cột chặt một đầu
dây vào đó, tôi lần dây, gắng sức đi xuyên cơn gió bão về phía nhà kho. Cơn cuồng
phong nhất định không cho tôi thở. Bị cảm giác hoảng loạn bóp nghẹt lồng ngực
nhưng tôi không cho phép mình lùi bước. Băng giá đọng lại trên mi tôi cứng ngắc.
Tôi không sao nhắm mắt được. Hai mắt tôi mở lớn, mi mắt cứng đờ. Thế mà gần như
tôi chẳng thấy gì. Gió mạnh và buốt giá quật, cào vào người tôi còn ghê gớm hơn
đuôi con Violet. Dù muốn tiến về phía trước, tôi vẫn phải cố đặt dấu ủng sau
nhích hơn ủng trước một chút.
Cứ thế, tôi vật lộn với gió bão để đến nhà
kho, miệng lẩm bẩm cầu cứu:
- Lạy Chúa lòng lành, một mình con đến nhà
kho không nổi.
Nhưng chẳng có ai đến cứu tôi cả. Tôi phải
dựa vào sức mình. Lấy lại bình tĩnh, tôi hít không khí lạnh buốt vào trong, tôi
quyết định mình không thể thất bại, không thể đi lạc hay để mất con bò. Suy
nghĩ ấy đẩy tôi đi thêm được vài bước. Cuối cùng, khi đến được nhà kho, tôi thở
hổn hển, cố nạp thêm chút khí lạnh vào phổi. Mặt tôi bỏng rát. Máu mặn chát chảy
thành dòng xuống miệng. Tôi kéo khăn trùm kín mặt. Khăn chỉ là lớp lá chắn mỏng
manh, nhưng vẫn giúp được phần nào.
Hai bàn tay tôi lạnh cứng trong đôi găng hở
ngón, lúng túng mãi vẫn chưa cột được đầu dây thứ hai. Vừa tháo găng ra, tôi cảm
giác như mình vừa sục tay vào dòng sông băng. Những khớp xương nhức buốt khiến
tôi phải ngồi thụp xuống. Mười ngón tay không còn thuộc về tôi nữa. Chúng như
mười cái que cứng quèo nối vào lòng bàn tay.
- Làm đi chứ. Vòng dây lên, lôi xuống. Thắt
nút chặt.
Khi sắp thắt xong nút buộc, một cơn gió mạnh
quật tôi quỵ gối. Tôi cố đứng, rồi lại ngã, rồi lại đứng lên. Cũng phải mất mấy
tiếng đồng hồ tôi mới thắt xong nút dây. Hai chân tôi nặng như chì. Tôi níu vào
sợi dây. Tay trái buông, tay phải níu... Cứ thế, tôi cố kéo lê thân xác trở lại
nhà.
Một vật màu sẫm hiện lên trên ngưỡng cửa.
“Ngài” Whiskers! Hai chúng tôi gần như đổ sầm vào trong lán. Tôi thở hổn hển,
nó kêu meo meo. Với sức gió mạnh cỡ này, mấy bức tường dựng bằng ván gỗ và giấy
tráng nhựa đường không phải loại vật liệu xây dựng tốt. Mỗi cơn gió đều mang
theo lời đe dọa trực tiếp cho căn lều ọp ẹp. Mắt tôi dần ấm hơn, nước mắt bắt đầu
chảy dàn dụa. Thấy nắm củi thông khó giữ lửa trong bếp, tôi bèn đóng đinh treo
tấm chăn dự trữ quý giá lên cửa ra vào để giữ lấy ngọn lửa.
Mỗi khi có cơn gió mạnh thổi tới, căn chòi
của cậu Chester kẽo kẹt, rền rĩ, lung lay. Cứ đà này, chắc chắn nó không trụ được
lâu. Tôi mặc thêm áo len, bụng dạ bảo nhất quyết không ra khỏi chòi. Không thể
để ông trời đuổi tôi ra khỏi nhà được.
Đúng lúc ấy, tôi nghe tiếng người thoảng
bay trong gió. Tiếng ấy vút cao, át cả tiếng gió đang gầm gào. Đúng là tiếng
người. Hình như ai đó gọi tên tôi.
Tôi lắc đầu, tiếp tục nghe ngóng. Chẳng có
gì ngoài tiếng gió rú rít. Nhưng... nghe này! Chính xác là tiếng người. Tiếng
trẻ con! Tôi tung chăn, mở cửa ngó ra ngoài.
Thoạt đầu, tôi chẳng nhìn thấy gì ngoài tuyết
rơi mù mịt.
- Ai gọi đấy?
Vừa thoát khỏi miệng tôi, mấy tiếng ấy đã bị
gió cuốn phăng. Tôi cố lấy hết sinh bình sinh gào to:
- Ai gọi tôi đấy?
Vẫn giọng khi nãy vang lên:
- Chị Hattie! Chị Hattie ơi!
Thứ tôi nhìn thấy quật tôi quỵ gối nhanh
hơn bất kỳ cơn gió khủng khiếp nào. Một cái bóng lù lù đang đi về hướng tôi.
Plug. Con ngựa yêu quý. Nắm chặt đuôi nó như bám riết lấy sự sống chính là
Chase và Mattie.
Quên cả áo khoác, tôi chạy ngay ra ngoài, vịn
tay vào sợi dây thừng vừa căng khi nãy.
- Plug, đằng này. Lại đây các em.
Tôi gào lên bằng giọng khản đặc. Phải rất
lâu sau, Plug mới lảo đảo bước tới. Tôi ôm vội Mattie vào lòng, đoạn ra hiệu bảo
Chase vịn vào sợi dây. Chúng tôi nắm tay nhau, gắng gỏi trở về lều. Plug thoải
mái khi được sắp chỗ ở một góc khuất gió sau nhà.
Tay Mattie lạnh cóng khi tôi bế con bé vào
trong, cởi hết lớp quần áo phủ đầy tuyết.
- Có chuyện gì thế hai em?
Giọng tôi run lên vì lo lắng.
Chase xoa hai bàn tay tím ngắt, bước tới gần
bếp lửa:
- Lúc bão tới, chúng em đang ở trường. Thầy
Nelson cho cả lớp về. Em tưởng trước khi gió mạnh lên, Mattie và em về nhà kịp.
Nào ngờ...
Giọng Chase nghẹn ngào. Tôi an ủi:
- Giờ em an toàn rồi. (Cảm ơn trời xui khiến
ngựa Plug cứu hai đứa nhỏ). Em là anh hùng nhỏ, vừa tìm được Plug lại còn dẫn
nó về nữa.
Chase khuỵu xuống nền nhà. Hai vai cậu run
run. Tôi hướng sự chú ý của Mattie sang chỗ khác, không muốn làm Chase buồn khi
có người thấy cậu khóc.
Tôi nhanh tay xoa xoa hai bàn chân cô bé:
- Tiểu thư nhí này, để chị tìm váy áo xem
có cái nào vừa với em không.
Mặc quần áo khô xong, Mattie giống bù nhìn
rơm, không còn là cô bé lên sáu nữa. Dù thế, trong lúc chờ quần áo hong khô
trên bếp, Mattie vẫn thoải mái trò chuyện với con búp bê vải.
- Ta còn phải tìm đồ ấm cho Chase nữa.
Tôi lục rương. Chẳng có món đồ nào hợp với
một cậu bé lên tám. Thấy tôi giơ chiếc váy ngủ bằng lanh lên, Chase bảo:
- Em thà chết rét còn hơn.
- Ừ, cũng không trách em được.
Trong góc phòng xếp gọn gàng đống quần áo của
cậu Chester. Toàn thứ quá rộng, tôi không mặc được. Tôi định phá đống áo sơ mi
để may chăn ghép, còn quần làm giẻ lau. May thay, tôi vẫn chưa làm thế. Lòng
kiêu hãnh, và cả mạng sống của một cậu bé tám tuổi đang lệ thuộc vào một áo sơ
mi bằng vải lanh và chiếc quần nam bằng len.
Quần tuy có hôi một chút nhưng nhờ chút
kinh nghiệm tiếp xúc với Chase, tôi biết hình như cậu cũng có mùi sẵn rồi. Tôi
reo lên:
- Vừa vặn quá.
Sau khi lo xong cái mặc cho hai anh em, tôi
lại lo đến cái ăn.
- Hai em uống cà phê sữa bao giờ chưa?
Mattie thỏ thẻ:
- Mẹ không bao giờ cho em uống cà phê. Bây
giờ chắc mẹ đang lo cho chúng em, phải không chị?
- Mẹ biết các em lanh trí mà. Mẹ biết các
em sẽ tìm được nơi an toàn trú bão thôi.
Nghe thế, Mattie có vẻ yên tâm. Chase khoe:
- Mùa gặt năm ngoái, mẹ cho em uống cà phê.
Tôi gật đầu, rót sữa từ xô vào ấm nhỏ đặt
lên bếp:
- Hồi chị còn bé hơn Mattie bây giờ, mẹ chị
cũng hay cho chị uống cà phê. Thế nên chắc mẹ em cũng đồng ý. (Tôi mang ba ly lớn
từ kệ xuống) Giờ các em muốn ăn gì chung với cà phê nào?
Chase đáp:
- Em chẳng ăn gì đâu.
Mattie không làm khách như anh trai:
- Em có. Mulie đói lắm rồi.
Tôi cắt bánh mì:
- Nếu phết nhiều mứt, bánh này ăn cũng được
đấy.
Vừa nói, tôi vừa bày đĩa trước mặt mọi người.
Bánh mì không phải là món tủ của tôi, cũng không phải món ăn ưa thích của hai
anh em, nhưng bọn trẻ vẫn dũng cảm ăn một cách ngon lành, không hề phàn nàn. Phải
nói chị Perilee dạy con rất khéo.
Để phá tan không khí lạnh se sắt, sau khi ăn
xong, tôi liền nghĩ ra những trò chơi.
- Này, hai em đã bao giờ chơi trò Năm Trăm
chưa?
Mattie lắc đầu, còn Chase tròn xoe mặt bảo:
- Chưa ạ.
- Vậy, hôm nay, chị sẽ hướng dẫn hai em
chơi trò này nhé!
Hai đứa trẻ không biết và chưa hiểu gì về
trò chơi tôi sắp đưa ra, nhưng chúng cũng rất tò mò và háo hức.
Tôi lấy bộ bài trên bàn, giải thích luật
chơi.
- Chị với Mattie một bên, em một bên. Cẩn
thận kẻo thua nghe Chase.
Cuộc chơi càng lúc càng hấp dẫn, sôi động
và kịch tính. Chase lượm bài quá nhanh khiến tôi phải ngạc nhiên. Cậu tính toán
cũng mau lẹ nữa. Chưa kể Chase có trí nhớ hơn người. Cậu hầu như nhớ hết mặt
bài.
Tôi trầm trồ:
- Chắc ở trường, em học giỏi lắm.
Chase nhún vai:
- Cũng tàm tạm.
Tôi gom và tráo bài. Suốt buổi chiều, ba chị
em chỉ chơi bài thôi.
- Các em có muốn chơi trò khác không?
Mattie đề nghị:
- Hay mình chơi trò “Ước gì” đi. Em nói trước
(Cô bé cắn môi). Ước gì em có một con búp bê bằng sứ Trung Quốc. (Với cái nhìn
âu yếm, cô bé vỗ nhẹ mái tóc bằng sợi chỉ đen của Mulie). Để Mulie có bạn.
Chase cười:
- Ước gì ngày nào em cũng được ăn bánh quế.
Tôi thoải mái ngồi trên đáy xô úp ngược:
- Chị ước bây giờ là mùa xuân để chị trồng
lúa mì.
Chase ngẩng phắt lên:
- Chị phải trồng lanh trước, sau đó hẵng trồng
lúa mì. Dượng Karl bảo đến cuối tháng Tư là trồng được rồi.
Mattie phản đối:
- Đó đâu phải ước. Đó là làm việc mà.
- Vậy coi như chị thua.
Tôi hiểu điều mình vừa nói làm cô bé lên
sáu thất vọng, nhưng tôi nhất định phải canh tác trên đất mới. Đó là một trong
những yêu cầu cần thực hiện nếu tôi muốn thực sự làm chủ trang trại này. Chỉ
còn vài tháng nữa là đến tháng Mười. Hạn chót sắp đến, không lo sao được. Giờ
đã là giữa tháng Hai, vậy mà hàng rào chưa xong, đất cũng chưa cày vỡ. Suốt
ngày tôi chỉ biết chống chọi với cái lạnh và bão tuyết. Để vơi bớt nỗi lo canh
cánh trong lòng, tôi đọc và nghiên cứu nội dung cuốn sách cô Simpson cho.
Chase cãi:
- Người ta ước gì chẳng được. Trò ấy có luật
đâu. Mẹ bảo thế mà.
Tôi lấy thêm một nắm than quí giá cho vào bếp,
rồi khẽ khàng:
- Mẹ nói có bao giờ sai.
Bọn trẻ chợt im bặt như những pho tượng.
Trong nhà im lặng đến nỗi tiếng than nổ lép bép nghe rõ mồn một.
Mattie chợt vỗ tay:
- Em ước có hai con búp bê.
- Hoài bão lớn đấy. Còn Chase, em ước gì
nào?
Cậu ngoái đầu ra sau cái thư viện nhỏ của
tôi, đến bên kệ, tay vuốt nhẹ từng gáy sách:
- Em ước được sống trong một nơi xung quanh
toàn sách. Trong một thị trấn ra trò, một thư viện đích thực. Ở đó, em được đọc
sách về cướp biển, thám hiểm và mọi thứ...
Chase nhìn sững vào khoảng không giây lát,
như đang hình dung chính mình được ở trong khung cảnh mơ ước.
- Chị mong điều ước của em sẽ thành sự thật.
Cả Mattie cũng thế.
- Còn chị, thực ra chị mong ước thứ gì nhất?
Tôi vung tay:
- Chị cũng không biết nữa.
Biết giải thích thế nào cho hai đứa trẻ hiểu
tôi ước ao đến cháy lòng những gì chúng đang có? Có gia đình, người thân. Có một
nơi gọi là nhà. Nhưng thôi, tốt hơn là đừng nói làm gì.
Tôi nhìn qua mấy cuốn sách:
- Chase này, hay chị em mình đọc sách đi.
Kiểu này, bão còn lâu mới tạnh. Tối nay, hai em cứ ở đây với chị.
Mattie thỏ thẻ:
- Nhưng chúng em chưa ngủ ở nhà ai bao giờ.
Mặt bé buồn xo. Cô bé co chân lên chiếc ghế
làm bằng thùng táo, khẽ lắc lư. Nước mắt lặng lẽ chảy thành dòng trên má.
Mattie ôm chặt con búp bê hơn nữa. Nước mắt của Mattie đã làm ướt đẫm mái tóc
Mulie.
- Thôi nào, nín ngay! (Phát hoảng khi thấy
mình chợt cao giọng giống mợ Ivy, tôi hạ giọng). Không nín, chị bắt ăn thêm miếng
bánh mì bây giờ.
Nghe tôi nói đùa, cả hai anh em đều toét miệng
cười. Tiếng cười trong trẻo phá tan sự im lặng, buồn tẻ. Tôi nắm tay Mattie bóp
nhẹ. Một, hai, ba.
- Đó là mật hiệu mẹ chị dạy chị đấy. Khi
nào về, em nhớ chơi cùng mẹ nhé.
Mattie lau nước mắt vương trên gò má:
- Nó có nghĩa gì?
Tôi đỏ mặt. Nếu nói to thì ngượng quá. Tôi
thì thầm vào tai cô bé:
- Nghĩa là “Chị yêu em”.
Cặp mắt nâu to tròn của Mattie ngước lên
nhìn tôi. Lát sau, cô bé cũng nắm lấy tay tôi, bóp nhẹ: một, hai, ba. Tôi xúc động tận đáy lòng, mắt rơm rớm nước.
Chase đã chọn sách xong:
- Ở trường, thầy Nelson sắp đọc cuốn Đảo giấu vàng cho tụi em nghe rồi, vì thế
em chọn cuốn này.
Chase giơ cuốn Vườn thơ của trẻ nhỏ lên rồi lỉnh ra chiếc ghế vốn làm bằng thùng gỗ
đựng táo cạnh bếp.
Mattie đứng cạnh đầu gối tôi. Thấy tôi mở
sách, cô bé sán lại gần.
- Khi đọc sách, mẹ thường cho em ngồi vào
trong lòng mẹ.
Tôi bối rối:
- Vậy à? Thế em ngồi lên đây nhé.
Tôi vỗ tay lên đùi. Mattie leo lên ngay,
nép thân hình nhỏ nhắn, rắn chắc của nó sát vào người tôi. Cô bé thơm mùi cà
phê, mứt và vải len ẩm. Khi tôi cất tiếng đọc, cô bé thoải mái dựa hẳn vào tôi,
như thể hai chị em tôi đã hòa thành một.
Nghe xong hai bài thơ, Mattie ngủ thiếp đi.
Nghe xong đến bốn bài thơ, đến lượt Chase ngáy như kéo gỗ. Tôi đưa cả hai lên
giường, kéo chăn ấm đến tận cằm. Sau đó, tôi cũng chuẩn bị lên giường cùng
chúng. Trong lúc ngủ có một lần, Mattie gọi: “Mẹ ơi”, nhưng lại ngủ tiếp. Tôi lại
đắp chăn cho cô bé rồi say sưa ngắm hai anh em đang say giấc nồng. Thở phào nhẹ
nhõm, tôi cuộn tròn bên mép giường, ngủ một giấc bình an nhất trong suốt quãng
đời dài mười sáu năm của mình.
*
* *
Nghe tiếng chuông ngựa kêu leng keng, tôi
chợt tỉnh. Hai đứa trẻ xoay tứ phía trên giường. Chưa tỉnh hẳn nên tôi thoáng
giật mình: “Trẻ con ở đâu ra thế này?”
Có tiếng người gọi xen lẫn tiếng chuông
reo:
- Cô Hattie, có nhà không?
Giọng trầm trầm quen thuộc ấy nghe nghèn
nghẹn. Ngay cả giọng ngoại quốc đặc sệt của anh Karl cũng không giấu nổi nỗi sợ
hãi.
Tôi tung chăn đứng dậy mở rộng cửa, gọi với
ra:
- Bọn trẻ trong này. Bình an cả. Con Plug
đưa chúng về.
Anh Karl buộc ngựa rồi nhảy xuống xe trượt.
Hai chân muốn khụyu xuống nên anh phải vịn vào xe mới đứng vững. Tôi vẫy anh
vào nhà, rồi vội đi hâm cà phê:
- Anh lạnh cóng rồi kìa.
Bé Mattie tụt xuống giường, lao vào lòng
anh.
- Dượng Karl!
Tôi kịp thấy một giọt nước đọng trên khóe mắt
anh. Mừng quá, tôi nói không kịp thở:
- Xin thú thật là em làm hư cả hai anh em
nó. Chơi bài này, còn uống cà phê nữa.
Karl nặng nề ngồi xuống, không nói câu nào.
Mattie vẫn bám riết lấy anh, không rời. Tôi vờ như không biết anh đang khóc vì
sung sướng và hạnh phúc:
- Trời lạnh thế này, mũi em chảy nước như
thác Niagara ấy.
Karl lục túi lấy chiếc khăn tay màu đỏ lau
mũi:
- Giống Karl đấy.
Tôi đặt ly cà phê trước mặt anh:
- Em có bánh mì và mứt đây.
- Cảm ơn.
Anh gật đầu, vươn tay xoa đầu Chase. Cậu bé
dặn dò:
- Dượng ngâm bánh vào nước cà phê cho mềm rồi
hãy ăn.
Tôi bật cười, tát yêu vào má cậu:
- Chê bánh chị không ngon chứ gì. Nhớ đấy.
Chase lủi thật nhanh, núp sau lưng cha dượng.
Không biết Karl có hiểu trò đùa vừa rồi không, nhưng nhìn nét mặt anh, tôi biết
anh hiểu Mattie và Chase an bình ở với tôi. Anh nhắc lại:
- Cảm ơn!
- Thấy chưa. Dượng em thích món bánh này đấy
chứ.
Tôi vừa cắt thêm bánh, vừa chuẩn bị chiên
vài lát thịt muối:
- Ba cha con ăn vài miếng cho ấm bụng rồi
hãy về. Giờ này, chắc mẹ em đang mòn mỏi trông các con, còn lòng dạ nào mà nấu
với nướng.
Anh Karl với tay lấy thêm lát bánh mì. Tôi
để ý thấy bàn tay anh nứt nẻ, rỉ máu. Hai má anh xuất hiện những mảng đốm màu
trắng. “Lạnh quá nên bị cước đây”.
- Anh tháo ủng ra em xem.
Tôi ra lệnh. Anh làm theo. Cổ họng tôi nghẹn
đắng khi thấy mấy ngón chân anh trắng bợt. Nhìn qua cũng biết anh đã lang thang
ngoài trời bão tuyết cả đêm để tìm con cho chị Perilee. Tôi chớp mặt cố ngăn giọt
lệ tràn mi, đoạn bảo Chase:
- Lấy cho chị cái chậu. Nếu ngón chân bị lạnh,
ngâm nước nóng là tốt nhất đấy.
Tôi cố giữ giọng bình thản và tìm cách làm
bọn trẻ phải luôn chân luôn tay, tránh cho chúng khỏi nhìn thấy bàn chân của
cha dượng.
Karl nhăn nhó khi tôi đổ nước ấm lên chân
anh đang đặt trong chậu. Tôi nhúng khăn vào nước ấm rồi bảo anh đắp vào những nốt
da bị cước và nứt nẻ trên má. Có người bảo mẹo hay nhất là lấy tuyết chà xát
vào vết cước, nhưng tôi thấy cách làm ấm vết thương xem ra có lý hơn.
Khi mặt và các ngón chân anh chuyển sang
màu đỏ sẫm, tôi cố moi óc nghĩ xem nên làm gì tiếp. Hai bàn chân anh sưng to,
da có nhiều vết phồng mọng nước. Dù những vết phồng nặng nhất có được chữa chạy
bằng cách đắp bột nở nướng bánh pha với nước lên trên, anh Karl vẫn khó lòng xỏ
chân vào ủng được.
Tôi chưa làm xong, anh Karl đã hết kiên nhẫn:
- Perilee lo...
Anh chỉ nói được có thế, nhưng tôi hiểu cả.
Ở nhà chị Perilee đang sốt ruột chờ tin anh và các con. Anh muốn đưa bọn trẻ về.
Mấy chị em tôi quấn lấy quần áo đã hong khô đang treo quanh nhà. Tôi thay quần
áo cho hai anh em Chase trong lúc anh Karl uống cạn ly cà phê thứ hai.
Tôi lục tung đống quần áo của cậu Chester:
- Giá như chờ cho bít tất khô thì hay quá.
Anh đi tạm đôi này nhé.
Giờ lại xỏ chân vào giày và bít tất ướt thì
không tốt chút nào.
Karl đi tất khô, rồi tới giày và găng tay.
Anh cầm tay tôi, định nói gì đó nhưng rồi chỉ đằng hắng dọn giọng rồi thôi.
Anh bế Mattie lên, đưa con bé lại gần tôi.
Mattie hôn tôi vào má với cái hôn ướt át của một cô bé lên sáu. Nhưng tôi không
đưa tay lên chùi má.
- Khoan đã, chờ chị chút.
Tôi lấy trên kệ sách cuốn ba chị em vừa đọc
khi nãy đưa cho Chase:
- Cho em mượn đấy.
Chase cẩn thận giấu cuốn sách vào trong áo
khoác:
- Em hứa sẽ giữ sách thật cẩn thận ạ.
- Thôi, ba cha con đi cẩn thận nhé.
Ba cha con anh Karl vội vã chạy ra xe trượt
tuyết trong tiết trời giá rét. Từ khung cửa sổ bé tí tẹo của căn chòi, tôi
không thể nhìn thấy họ ra đi, nhưng tôi có thể nghe thấy tiếng nhạc ngựa. Tôi
ngồi một mình, lắng nghe không sót tiếng leng keng nào.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét