Khúc Cầu Hồn
Tác giả: John Hart
Dịch giả: Phạm Thiện
Công ty phát hành Alphabooks & Nhà xuất bản Thời Đại
Ngày xuất bản: 04/2011
Ba mươi chín
Hunt và Yoakum chờ ở sảnh lầu một của một cao ốc lớn dưới phố.
Văn phòng gã Ken Holloway nằm ở lầu năm, nhưng người tiếp tân, một phụ nữ có
khuôn mặt sắt đá tuổi trên năm mươi, gây khó khăn. Bên ngoài, bầu trời càng
ngày càng tối sầm đi. Rác rưởi bị gió cuốn bay ngang sân xi măng, sau đó tốc
lên và quay vòng trong gió.
- Chúng tôi không cần xin hẹn.
Thẻ hành sự của Hunt nằm gọn trong lòng bàn tay. Người phụ nữ
đứng đằng sau cái quầy gỗ tếch to lớn, hệ thống điện thoại đặt ở một bên, những
nút chớp đỏ và xanh. Công ty của gã Holloway chiếm cứ toàn bộ cao ốc. Nhìn sơ
qua danh bạ cũng thấy phần nào tầm cỡ của nó. Môi giới Địa ốc, Phát triển, Xây
dựng Thương mãi, Tư vấn, Quản trị Địa ốc. Holloway làm chủ thương xá, vài cao ốc
ở phố trung tâm, ba rạp hát, hai sân gôn; và đó mới chỉ ở thành phố này. Tài sản
gã ta trải dài khắp nơi trong tiểu bang.
- Đây là vấn đề hình sự, - Hunt nói. - Tôi có thể trở lại
trong vòng hai mươi phút với trát đòi và lệnh khám xét.
Điện thoại của người phụ nữ reo vang và bà ta trả lời. Khi
cúp máy, giọng bà ta lạnh lùng và cô đọng, khuôn mặt không hề nhượng bộ.
- Ông Holloway là một trong những người tử tế nhất của thành
phố này, và tất cả mọi người ở đây đều rõ chuyện ông gây xách nhiễu. Không thiếu
người sẵn sàng làm nhân chứng khai trước tòa chống lại ông nếu những trò đó vẫn
tiếp diễn ở đây ngày hôm nay.
Nét mặt bà ta thay đổi và bà mỉm cười.
- Ông Holloway sẽ gặp ông bây giờ.
Bà trỏ một cánh tay.
- Thang máy ở phía bên tay phải của ông.
Họ đi ngang qua sàn nhà lát đá cẩm thạch và bước thẳng vào
thang máy. Yoakum bấm nút và hai cánh cửa đóng khít lại.
- Quá tuyệt, - ông nói.
- Bà tiếp tân à?
- Một phụ nữ có duyên.
Văn phòng Holloway chiếm dụng toàn bộ tầng lầu. Hunt thấy một
phòng họp, vài văn phòng phụ trợ, toàn bộ còn lại là không gian mở. Holloway đứng
đằng sau bàn làm việc. Đứng ngay bên phải là ông luật sư; đứng bên trái, một
nhân viên bảo vệ mặc đồng phục, đeo súng. Ba bờ tường lát kính cho một cái nhìn
bao quát gần hết dưới phố, cả nha cảnh sát thành phố, nhìn bé tẻo teo và dơ bẩn.
Từ độ cao này có thể thấy cơn giông đang ầm ầm kéo đến với một bức tường màu
tím thẫm và đen đúa.
- Thám tử, - Holloway nói.
Hunt bước vào tấm thảm Á Đông và đi quá chiếc bàn phòng họp
mà giá trị của nó hơn cả chiếc ô tô của ông. Ông dừng lại trước bàn làm việc. Nụ
cười của Holloway gượng gạo, những ngón tay của ông ta trắng dã trên mặt bàn
nơi chúng chịu lực cơ thể của ông ta.
- Ông chắc vẫn còn nhớ ông luật sư của tôi. Đây là ông
Bruce. - Ông chỉ vào tay bảo vệ.
Hunt nhìn chằm chằm từ trên xuống dưới Bruce. Gã ta trạc bốn
mươi, cao lớn và đen đủi trong bộ đồng phục xanh ủi hồ thẳng tắp với huy hiệu
vàng đeo trên ngực áo và huy hiệu tương tự may trên vai áo. Nét mặt gã không hề
biểu lộ sắc thái. Súng đeo loại bán tự động.
- Ông có mang theo giấy phép giữ súng không, Bruce?
- Ông ta có, - Holloway nói.
- Ông ta không tự trả lời được sao?
- Không.
- Ông ta là người trưởng thành rồi.
- Ông ta đang làm việc cho tôi.
Hunt nhướng mày nhìn Bruce, nghiêng đầu và nhún vai.
- Chúng tôi đang điều tra về khả năng có sự liên đới giữa một
vụ án hình sự với một trong các nhân viên của ông. Chúng tôi cần tên và hồ sơ
nhân viên của tất cả các nhân viên bảo vệ, đặc biệt là những người làm việc tại
thương xá.
- Vụ án hình sự loại gì vậy?
- Chúng tôi muốn lấy tên các nhân viên.
Ông luật sư nghiêng người qua cái bàn.
- Tôi đã cố vấn thân chủ của tôi trả lời “Không” với tất cả
các câu hỏi khi chưa có lệnh tòa án.
Holloway giơ hai tay để chứng tỏ ông ta không có chọn lựa,
và Hunt gặp đôi mắt dò xét của tay luật sư.
- Đó có phải quyết định tối hậu không?
- Đúng, - tay luật sư nói.
- Ông cũng đã cố vấn thân chủ của ông không được cản trở cuộc
điều tra của chúng tôi?
- Dĩ nhiên.
- Ông ta sẽ không được báo động cho ai về cuộc thăm viếng
này. Cuộc điều tra đang diễn tiến.
Holloway nở một nụ cười xã giao.
- Chúng ta không có gì để thảo luận bên ngoài tòa án, Thám tử
Hunt. Không về nhân viên của tôi, về cuộc điều tra của ông, hay sự lựa chọn sai
trái khác thường. Không về bà Katherine Merrimon hay đứa con trai ngổ ngáo của
bà ấy.
Hunt nhìn đối mắt, sau đó quay gót.
- Ồ, nhưng trước tiên, - Holloway nói. - Tôi nghĩ ông nên biết
rằng Katherine Merrimon đã từ chối không gặp tôi nữa. Thay đổi khóa cửa. Kích động.
Chuyện bình thường.
Hunt dừng bước, trở lại cái bàn.
- Chuyện thật vậy sao?
- Chúng tôi đã tống đạt đơn xin trục xuất khỏi gia cư sáng
hôm nay. Bà ta sẽ phải dọn ra đường trong vòng ba mươi ngày.
- Bà ta sẽ tự lo liệu được, - Hunt nói.
- Bà ta có làm được không?
Tầm nhìn của Hunt bị thu hẹp lại cho đến khi ông thấy nụ cười
trên cặp môi như bôi mỡ của gã Holloway. Ông cảm thấy áo jacket của ông bị giật
và biết Yoakum gọi khéo.
- Thôi đi, Clyde.
Yoakum quay đi nhưng Hunt chưa chịu bỏ cuộc. Ông nhìn gã
Bruce, rồi Holloway.
- Có phải các nhân viên an ninh của ông đều mang vũ khí? -
Ông hỏi.
- Tôi sẽ không trả lời câu hỏi của ông, - Holloway nói. - Tôi
nghĩ tôi đã rõ ràng trong vấn đề này.
Hunt nhìn gã bảo vệ.
- Hắn ta cũng sẽ không nói với ông bất cứ điều gì.
Bruce giữ kín mồm miệng, đứng thẳng lưng; nhưng khi ông
Holloway không nhìn gã nữa, gã đặt một ngón tay trên báng súng.
Ông luật sư nghiêng đầu.
- Một ngày tốt lành, thám tử. Người tiếp tân sẽ vui vẻ xác
nhận tích kê đậu xe của ông.
Họ bước ngang căn phòng, tiếng giầy nhẹ nhàng trên sàn trải
thảm, kêu to khi chúng chạm vào sàn gỗ. Cánh cửa thang máy mở, rồi đóng.
- Văn phòng lịch sự nhỉ, - Yoakum nói. Hunt giữ yên lặng, những
móng tay cấu vào lòng bàn tay. - Tầm nhìn tuyệt vời.
Họ đi ngang qua người tiếp tân, bà ta liếc họ nhưng họ làm
ngơ. Bên ngoài đường đi bộ, cao ốc vươn cao và tối đen bên trên hai người. Tĩnh
điện đầy trong không khí, và giọng Hunt dường như chứa đầy mức năng lượng thô
đó.
- Ông thấy không?
- Tôi thấy.
- Nhân viên an ninh của gã ta mang súng.
- Không phải tất cả như vậy.
- Nhưng một người.
- Đúng vậy.
- Một người đeo súng.
Họ bước ra xe và gió làm cho ống quần của họ quất phần phật.
Đồng phục, huy hiệu, và cây súng.
Một đứa trẻ mười ba tuổi có thể nhầm lẫn người đó là cớm.
Dễ dàng như bất cứ thứ gì.
Dễ như ăn kẹo.
Ở ngoài xe ô tô, Yoakum đặt hai tay lên mui xe. Hunt đứng ở
phía bên kia xe, con đường lộ sau lưng họ vắng ngắt.
- Tôi cần nói vài điều, - Yoakum nói. - Và tôi không muốn
ông nhảy múa về chuyện này.
- Chuyện gì đó?
- Chúng ta không cần phải sưu tra hồ sơ nhân viên.
- Chúng có thể có ích.
- Nhưng chúng ta không cần chúng.
Hunt nhún vai.
- Tôi muốn gặp gã ta. Tôi muốn gã ta biết rằng tôi đang lùng
sục.
- Nhưng lý do đó chưa đủ.
- Có lẽ ông đúng.
- Vậy thì tại sao lại đến đây làm gì? Tại sao lại liên can
Holloway nếu chuyện đó không cần thiết? Ông biết gã sẽ không trả lời câu hỏi của
ông. Gã căm ghét ông.
Hunt nhìn trả lại, hai mắt nhắm nghiền.
- Thôi chết rồi.
- Vào xe, - Hunt nói.
Cả hai chui vào trong xe; tiếng ồn ào của gió biến mất.
- Gã sẽ gọi điện cho người của gã, - Yoakum nói.
- Thì gã trước giờ vẫn vậy. - Hunt đề máy xe.
- Có lẽ giờ này gã đang nói chuyện trên điện thoại.
- Có thể. - Hunt gài số xe, kiểm tra xe cộ trên đường lộ, và
lao xe lướt đi khỏi lề đường.
- Ông đã giăng bẫy gã ta, - Yoakum tiếp tục. - Gã sẽ gọi điện
cho người của gã và ông sẽ buộc gã tội cản trở điều tra.
Hunt im lặng không nói gì.
Ông lái xe đến thương xá.
Thương xá là một tảng xi-măng nguyên khối và trát vữa, trông
ảm đạm và vươn trên bầu trời tối sẫm. Cửa kính chớp chiếu từ màu xám qua tím
khi người ta ra khỏi, tất tả về nhà trước khi cơn giông đến. Hunt luồn lách qua
đám đông xe cộ. Ông rẽ góc và vài hạt mưa to rơi lộp độp trên kính trước. Họ đi
qua những thùng rác, bệ lên xuống hàng hóa và những chiếc xe cũ kỹ.
Họ đang đi giữa đường xuống bức tường phía đằng sau thì thám
tử Hunt thắng gấp. Cửa phía bên ông bung mở và ông ra khỏi xe trước khi Yoakum
gọi.
- Ông đang làm trò gì vậy?
Nhưng Hunt đã lên đường.
- Thưa bà? - Hunt gọi người phụ nữ đang đứng khom người chỗ
ngoài cùng của một bệ lên xuống hàng hoá gần đấy nhất. - Thưa bà?
Người phụ nữ trạc tuổi sáu mươi, đẹp lão. Tóc bạc trắng bồng
bềnh ở cổ, vận chiếc áo đầm sang trọng. Hunt cười nụ cười khả dĩ nhất.
- Chào bà. Tôi là Thám tử Hunt. - Ông chìa thẻ hành sự. - Xin
lỗi làm phiền bà.
- Tôi giúp được ông điều gì? - Bà là người phụ nữ mảnh khảnh
và thanh lịch. Hạt kim cương đeo ở cổ phải vào khoảng hai cara và hàng thật.
Vài giọt mưa rơi xuống mặt đường trải đá dăm.
- Tôi không tài nào không để ý đến... - Hunt trỏ vào cái mà
bà đang cầm ở tay.
- Cá ngừ. - Bà nghiêng cái lon, ngượng ngập. Nắp hộp đã
khui, cá ngừ bốc mùi thiu. Bà trỏ vào góc của bệ lên xuống hàng hóa, nơi bà vừa
đặt một hộp cá tươi mới khui. - Con mèo khôn ngoan. Tôi không tài nào có thể ngồi
nhìn nó quanh quẩn kiếm ăn ở thùng rác.
- Con mèo mệt mỏi chán cá ngừ rồi hả bà? - Ông nghiêng đầu
và nhìn vào lon cá.
- Tôi không thấy nó đã mấy hôm rồi.
- Con mèo hình dáng như thế nào?
Sự bối rối của bà hiện rõ trên khuôn mặt, do vậy Hunt nở nụ
cười khả dĩ nhất.
- Nếu bà không ngại, tôi cũng là người yêu quý mèo.
Bà tươi cười, bước lại gần hơn.
- Con mèo nâu với đôi mắt vàng và hai chân trắng. - Bà giơ
cao cả hai tay, cười rạng rỡ. - Nó khôn lắm!
Hunt bước lên cái bệ lên xuống hàng hóa.
- Chúng tôi được phép vào cửa hiệu của bà không?
- Tôi không biết...
- Tôi phải yêu cầu như vậy.
Cửa hiệu bán quần áo. Hunt và Yoakum đi vào qua nhà kho, sau
đó qua phòng thử quần áo. Các bà nhìn lên, kinh ngạc, nhưng Hunt làm ngơ họ, tiến
thẳng đến thang máy.
- Clyde. Chậm lại một chút.
Vẫn còn nhiều người ở đó, mặc dầu trời đang giông gió. Gia
đình, con nít - tràn ngập màu sắc và tiếng ồn ào.
- Clyde!
Hunt vượt nhanh qua đám đông, Yoakum theo sát phía đằng sau.
- Đúng là gã này.
- Gã này là gã nào? Ông đang nói chuyện gì vậy?
- Cùng là con mèo vứt ở nhà Johnny. Mèo nâu với hai chân trắng.
Gã này là người chúng ta đang lùng.
- Ai?
- Gã nhân viên an ninh nào đó đeo súng.
- Gã cớm của Johnny.
Hunt bước vào thang máy và bấm thang máy chạy lên trên đó.
Ông xuất hiện ở khu vực bán hàng ăn, vượt qua một nhóm người mua sắm và tiến đến
cánh cửa đánh dấu AN NINH. Cửa đóng. Hunt bấm chuông.
- Bộ phận an ninh đây.
Hunt nhận giọng nói.
- Ông Steve. Tôi là Thám tử Hunt. Mở cửa ngay.
- Có vấn đề gì không?
Hunt đập tay trên tấm kim loại lạnh tanh.
- Bấm mở cánh cửa này ngay lập tức.
Cánh cửa mở và Hunt nhảy hai bậc cầu thang lao lên phía bên
trên. Yoakum chạy theo huỳnh huỵch phía sau. Cả hai phóng lên bệ đỡ cầu thang,
vũ khí rút ra cầm tay. Ông Steve gặp họ ở trên đầu cầu thang, cánh cửa mở ngay
đằng sau ông ta.
- Bước qua một bên, ông Steve.
- Ui trời. Ê.
Hai tay ông Steve giơ lên khi ông trông thấy súng. Trong văn
phòng an ninh, gã nhân viên an ninh béo ngồi nhìn màn ảnh vô tuyến, một người
khác đứng ngay trước cửa sổ bằng kính nhìn xuống khu vực bán đồ ăn. Cả hai kinh
ngạc, sợ hãi. Không ai trong họ mang vũ khí.
- Văn phòng, - Hunt nói, sau đó nhìn cánh cửa đóng, cửa sổ
có rèm che kín.
- Ông. - Ông trỏ một tay vào người nhân viên an ninh đang đứng.
- Ngồi xuống.
Gã nhân viên an ninh chạy vội đến chiếc ghế gần nhất. Hunt
di chuyển đến cánh cửa văn phòng và Yoakum kèm chặt một bên. Steve nhìn sững sờ.
- Có ai trong đó không? - Hunt hỏi.
- Ông Meechum? Ông ta đi rồi.
- Meechum là ai?
- Ông sếp.
Hunt ra hiệu cho Steve tránh xa cửa, sau đó nhìn Yoakum và đếm
ngược từ ba. Cánh cửa mở dễ dàng, và họ tràn vào, bên trong văn phòng trống rỗng.
- Tôi đã nói... - Steve đứng che lấp cánh cửa mở. - Ông
Meechum vừa rời khỏi.
- Khi nào?
- Năm phút, có lẽ.
- Miêu tả ông ta xem, - Hunt nói.
- Tôi không biết. Sáu mươi lăm tuổi. Ốm nhách nhưng khỏe mạnh.
Tóc mỏng, mũi gãy. Tính tình khó ưa.
- Y có đeo súng không? - Hunt hỏi. - Y mặc đồng phục?
- Thường ông ta mặc quần jeans, áo sơ mi kaki. Nhưng ông ta
đeo súng ở thắt lưng. Ông ta là người duy nhất được phép đeo súng.
- Loại gì?
- Hả?
- Cây súng. Kích cỡ nào?
- Bốn lăm, tôi nghĩ vậy.
Hunt chạm mắt Yoakum, và cả hai đều hiểu. Cùng kích vỡ với vỏ
đạn tìm thấy ở trong xe của David Wilson.
- Y có mang còng không? - Yoakum hỏi.
- Tất cả chúng tôi đều mang.
- John. - Hunt trỏ vào cái bàn trong văn phòng. Nó cũ kỹ và
nhiều dấu vết, không có gì đặc biệt. Một hàng đầu máy vô tuyến đặt trên mặt
bàn, đấu dây vào hệ thống theo dõi của thương xá. Ba đầu máy vô tuyến đấu vào
camera thu hình ảnh khu vực bán đồ ăn. Mỗi cái hiện cùng một cảnh: một cái bàn
toàn con gái trẻ, có thể tuổi mười bốn, có thể trẻ hơn. Hình ảnh được thu vào.
Hunt có thể thấy niềng răng, mụn trên mặt, nụ cười, tóc chải.
- Gã này là người chúng ta tìm.
Yoakum nghiêng người nhìn vào.
- Đồ chó má.
- Tại sao Meechum đi khỏi đây? - Hunt hỏi, và có một điều gì
đó rất chắc chắn gã này chính là người họ đang truy tìm.
Steve không ngần ngại.
- Ông ta nhận một cú điện thoại gọi từ ông Holloway. Tôi
không biết họ nói với nhau chuyện gì, nhưng chính tôi chuyển cú điện thoại ấy.
- Khi nào?
- Vừa mới đây. Ngay trước khi các ông đến đây.
- Steve, - Hunt nói. - Chúng tôi cần địa chỉ nhà của gã
Meechum.
- Tôi không biết địa chỉ nhà gã, nhưng ông có thể đi bộ đến
nhà gã trong vòng hai phút.
- Đi bằng cách nào? - Hunt hỏi.
- Y sống ngay đằng sau thương xá. Qua vài bụi cỏ dại, một hoặc
hai cái mương, là ông đến ngay sau cửa nhà gã.
- Chỉ cho tôi, - Hunt nói.
- Ngay bây giờ?
- Ngay giây phút này.
Steve liếm môi, sợ hãi nhìn xung quanh căn phòng.
- Thật vậy sao?
- Thật. - Tay Hunt đập mạnh trên vai ông ta. - Thật vậy.
Mưa lạnh hắt mạnh vào mặt Hunt khi ông mở cánh cửa phía đằng
sau thương xá; mưa quất xuống các góc, vỡ tan thành màn che mờ trên nóc xe màu
đen. Tầm nhìn xa gần như bằng không, như thể ánh sáng bị hút mất khỏi không
khí. Một cái xe phóng vèo qua, kính trước xe mờ mịt, gạt nước hất văng nước theo
hình vòng cung.
- Ở đâu? - Hunt lên cao giọng.
Steve trỏ tay. Cánh cửa nặng đóng sầm đằng sau ông ta.
- Đằng kia. Giữa những cái cây.
Hunt thấy những cái cây, hai bụi tuyết tùng vươn cao từ bờ
viền của con mương vắt ngang bãi đậu xe.
- Có con đường mòn. Không dài lắm đâu.
- Tôi muốn ông chỉ cho tôi.
- Ôi trời. - Steve nhìn lên trời mưa. - Ông sẽ làm tôi ướt
sũng và bị đuổi việc đấy.
Không ai cười.
- Ngay bây giờ, - Hunt nói.
Họ lao nhanh ngang qua mặt đường ngập nước, len lỏi giữa một
chiếc Suburban đang đậu và chiếc Ford cũ rích với băng keo dán che kín một bên
cửa sổ. Đằng sau những chiếc xe, con mương đã bắt đầu ngập nước. Nước đen ngòm
cuốn theo giấy gói đồ ăn nhanh, túi nhựa, những loại hộp thuốc lá xuống chỗ thấp.
Con đường mòn bắt đầu chỗ hàng cây, chật hẹp và thẳng tắp qua những bụi cỏ dại
mọc cao và những lô đất còn trống. Tay Yoakum rơi trúng vào vai Hunt.
- Có cần tiếp viện không? - Ông đưa máy liên lạc lên.
- Chúng ta không chờ đợi.
- Tốt. - Yoakum nhét máy liên lạc vào trong túi và lên đạn cây
súng. - Tôi ghét chờ đợi.
- Căn nhà nào?
Steve nghiêng về phía trái để nhìn giữa hai cây tuyết tùng.
Một dãy nhà bé nhỏ ở phía đằng sau những lùm cỏ dại. Hunt thấy những hàng hiên
chật hẹp và lò nướng thịt vỡ bể, một vài chiếc xe đạp. Steve chỉ một lần nữa.
- Thấy căn nhà màu xám có chiếc xe đạp đỏ trong hàng hiên
sau nhà không?
- Thấy.
- Căn nhà thứ ba phía bên trái của căn nhà đấy.
Hunt đếm về phía trái, thấy một căn nhà thấp với những vết
sơn loang lổ và một bụi cây nhựa ruồi chết khô ở một góc. Không đèn điện. Không
có sự chuyển dịch. Ông chỉ cho Yoakum.
- Ông ta sống một mình? - Hunt hỏi.
- Tôi nghĩ vậy.
- Ông ở ngay tại đây. - Hunt dò chừng Yoakum. - Ông sẵn sàng
chưa?
- Không chê vào chỗ nào!
Họ nhảy qua con mương và chui vào những bụi cỏ, cong gập người,
súng ngắn rút ra nòng hạ xuống. Cỏ dại mọc cao ngất ngưởng và thò những cành lá
dài ẩm ướt đụng vào họ khi họ di chuyển. Sấm chớp ầm ĩ. Con đường mòn ướt đẫm
và trơn trượt.
Họ dừng ở một mái che nhỏ trước cái sân trơn bao quanh nhà
gã Meechum. Một mùi gì đó vương trong không khí, mùi nồng nặc hóa chất không rõ
xuất xứ từ đâu.
Họ lao nhanh một đoạn ngắn chừng bảy mét cuối cùng, tựa lưng
vào bức tường dưới cái cửa sổ to nhất. Nước ào thoát xuống từ những máng xối bị
nghẽn. Mùi hóa chất nồng nặc, cái gì đó đang cháy. Hunt thò đầu ngó vào trong cửa
sổ. Rèm cửa kéo đóng kín nhưng có một khoảng hở ở giữa. Đó là phòng khách, một
khoảng không gian tăm tối với bàn ghế cũ kỹ và trần nhà thấp lè tè. Thảm màu
vàng cam, tường ốp gỗ thông rẻ tiền. Meechum hệt như Steve diễn tả. Mình dây và
khòm khòm, y ngồi cong người trước máy tính, áo sơ mi ướt đẫm mồ hôi. Trong lò
sưởi, nhiều đĩa máy tính xếp thành chồng và đang bốc cháy.
- Gã ta đốt hủy tang chứng, - Hunt nói, khom người xuống,
lao nhanh ra cửa sau. - Anh ra cửa trước. Chúng ta sẽ xông vào trong sáu mươi
giây.
Yoakum di chuyển ra phía đằng trước, để Hunt một mình trong
trời mưa. Ông mạo hiểm nhìn một lần nữa xuyên qua cửa sổ. Tóc tai dựng đứng
hoang dại trên đầu Meechum. Y đập tan bàn phím, rồi đập mạnh vào thành máy
tính, đập một lần nữa. Hunt không thấy cây rìu cho đến khi Meechum với lấy nó.
Nó dựa vào bàn, cán gỗ mại châu và lưỡi rìu rỉ sét đen ngòm ngoại trừ dọc phần
lưỡi sáng lấp lánh. Cây rìu được giơ lên và mặt Meechum đanh lại, môi trề ra,
hai mắt nhắm nghiền; sau đó cái rìu rơi xuống cái rầm, nhựa vỡ, và kính bay
tung tóe.
Máy tính.
Tổ cha.
Hunt tụt xuống khỏi cửa sổ, lao nhanh đến cửa ra vào. Ông thử
núm vặn cửa. Khóa cứng. Ông kê vai vào gỗ, cảm thấy nó mỏng mảnh và rẻ tiền.
Khung cửa bật tung dằm đâm tua tủa dưới sức nặng của ông, và ông lao vào trong
nhà bếp, sàn nhựa trơn trượt dưới đôi chân đầy bùn của ông. Một dấu hiệu chuyển
động qua cánh cửa vào phòng khách và súng của Hunt đưa lên khi ông lao vào
phòng.
- Cảnh sát! Cảnh sát đây. Mẹ kiếp!
Máy tính bị chọc thủng trên đỉnh, Meechum đứng trên nó, rìu
vung lên và đông cứng người khi y nhìn chòng chọc vào cái nòng súng đang chĩa về
hướng mình. Ông thấy sự thất kinh trong đôi mắt của y.
- Đứng im! - Hunt bước sâu vào bên trong căn phòng, đường bắn
vuông góc với đối tượng.
Căn phòng hôi nồng nặc mùi nhựa cháy. Meechum lắc đầu, lưỡi
thò ra như lưỡi kỳ nhông.
- Hãy buông cây rìu xuống. - Hunt tìm kiếm Yoakum, sau đó
nghe tiếng kính vỡ ở ngoài cửa trước.
- Hãy buông cây rìu xuống, - Hunt nói.
Khuôn mặt gã đàn ông co giật. Lồng ngực y phập phồng khi
khói đen ngòm bốc lên từ ống khói. Hunt nhìn thấy sự quả quyết hằn rõ trên
khuôn mặt của Meechum, ngay cả khi đằng sau cánh cửa y đứng phát ra tiếng lục đục.
Hunt thấy ánh lên sắc kim loại, và Yoakum với khẩu súng giữ trên cao lao vào
trong căn phòng. Cái đầu rìu nâng lên khi xương sống của Meechum cong gập.
- Đừng, - Hunt hét lên, nhưng lúc đó đã quá trễ.
Meechum vung cái rìu, và Yoakum bắn gã xuyên thấu tim. Thi
thể rớt mặt úp xuống, một cái giật nhẹ ở hai ngón tay cong. Hunt bước ngang
phòng đến lò sưởi và đá những cái đĩa nhựa văng ra xa khỏi ngọn lửa. Chụp cái
cây khều lửa, ông đào bới sâu hơn, xổ tung mớ nhựa đang cháy dở dang và cố gắng
cứu vãn được cái nào có thể. Cuối cùng, Yoakum giúp ông ta. Năm đĩa không bị
thiệt hại gì, một chục cái khác bị cháy xém. Mười cái đĩa bị cháy toàn bộ không
còn cơ hội cứu vãn.
Hunt lùi bước. Giầy của ông đen ngòm, cổ họng đắng khét. Ông
nhìn Yoakum, khuôn mặt ông ấy điềm tĩnh.
- Ông có cần thiết phải giết gã không? - Hunt hỏi.
Yoakum nhìn thi thể.
- Gã định bửa ông bằng cây rìu.
- Gã định bửa cái máy tính.
Khuôn mặt Yoakum không hề có biểu hiện hối hận hoặc nhận lỗi.
- Góc nhìn quá tệ. Tôi không nhìn thấy ông. Tôi không thể thấy
ông rút súng ra đưa lên hay không. Khi tôi vừa vào phòng thì lưỡi rìu vung xuống.
Tôi nghĩ gã ta bửa ông.
- Tôi ước gì ông không giết gã.
- Phát đạn bắn đúng lẽ.
Hunt ngừng, rất yên lặng.
- Tôi chưa bao giờ nói nó không hợp lý.
- Nó là phát đạn đúng lẽ.
Mùi máu bốc lên trong căn phòng. Yoakum tra súng trở vào
bao, hai mắt đen và bóng loáng như kính.
- Hết chạy, - ông nói, và quay đi.
Năm phút sau, tiếp viện đổ đến, đi chung trong đám họ có ông
Cảnh sát trưởng, và những câu hỏi, không câu nào dễ dàng. Cớm tràn ngập căn
nhà. Cơn giông vẫn nặng hạt. Khi mặt trời lặn, thi thể đã được chuyển đi, những
cái đĩa nhựa được gói chặt và chuyển giao cho chuyên viên kỹ thuật máy tính thượng
thặng thuộc nha cảnh sát. Cảnh sát trưởng gọi thám tử Hunt và Yoakum vào trong
nhà bếp.
- Một lần chót. Cho tôi biết đây có phải là hắn không?
- Chúng tôi nghĩ hắn ta có liên can với Burton Jarvis.
- Tại sao?
- Biển số ăn cắp. Mèo chết từ thương xá. Tờ ghi chú của
Johnny Merrimon...
- Đừng nói với tôi về tờ ghi chú của anh nhóc đó.
- Những điểm nhận diện của gã trùng hợp, - Hunt cả quyết. - Tuổi
tác, chiều cao, màu tóc. Chúng ta đã từng trải qua chuyện này ba lần.
- Nói lại một lần nữa.
Và Hunt giải thích mọi chuyện. Cảnh sát trưởng không hề ngắt
lời. Ông ta hiếm khi chớp mắt.
- Chúng tôi thu giữ được vài cái đĩa, - Hunt kết luận. - Ổ cứng
nhìn còn nguyên. Nó sẽ cho chúng ta biết nhiều hơn.
Ông Cảnh sát trưởng nhìn từ người này đến người kia.
- Tôi muốn hai ông trở về sở cảnh sát, - ông nói. - Tôi muốn
cả hai ông viết báo cáo. Ngoài chuyện đó, tôi không muốn bất cứ ai trong hai
ông nói một lời nào cho bất cứ ai về chuyện này, cả giữa hai ông, cả bạn gái
các ông hoặc những cảnh sát khác - cho đến khi nào tôi có trong tay bản báo cáo
của hai ông. Chúng ta rõ ràng rồi chứ?
- Nghe rõ.
Cảnh sát trưởng chỉ cái cửa.
- Báo cáo. Ngay bây giờ.
- Tôi đang muốn đi uống bia, - Yoakum đáp lời. - Chúng tôi
làm báo cáo ngày mai được chứ?
Cảnh sát trưởng không hề thích thú.
- Báo cáo, - ông nói. - Từ cả hai ông. Riêng biệt. Sau đó
tôi muốn hai ông về nhà và ngủ vài tiếng. Ngày mai tôi cần phải nghĩ đến chuyện
làm sao giải quyết cái đống xà bần này.
- Đống xà bần, - Yoakum nhắc lại, giọng không bằng lòng.
- Vậy theo ông phải gọi là gì? - Cảnh sát trưởng không hề
lùi bước.
- Phát súng chính đáng.
Cảnh sát trưởng chống nạnh hai tay, hếch cái cằm nhẵn thín,
cong môi.
- Một gã đàn ông bị bắn gục ở ngay phòng khách nhà ông ta.
Nó thực sự chính đáng hơn cả lý và lẽ.
Hunt lái xe riêng của ông nhưng Yoakum bị buộc phải đi cùng
với một cảnh sát trên xe tuần tiễu.
- Tôi không thích cái cảm giác này chút nào, - Yoakum nói và
cả hai ông đều hiểu.
Cảnh sát trưởng không muốn họ bàn bạc về bản báo cáo khi họ
lái xe. Ông ta muốn họ bất ngờ và không chuẩn bị tinh thần. Hunt không thấy
Yoakum khi ông đến. Ông được đón ngay tại cổng bởi một sĩ quan an ninh nội vụ
tên là Matthews. Ông ta là người mới được chuyển đổi phụ trách khu vực, do vậy
Hunt chỉ biết ông ta qua hình dáng và danh tiếng. Ông ta hẳn là người thông
minh, tử tế. Ông ta có đôi mắt mệt mỏi và cái mồm phản đối; chân đi hơi cà nhắc
khi ông ta dắt thám tử Hunt vào một căn phòng họp khác thường. Trước tiên là những
câu hỏi bình thường, loại câu hỏi đặt ra sau một lần liên quan đến súng nổ, và
nếu nó dài hơn bình thường, chi tiết hơn, là vì hành động nổ súng gây tử vong.
Hunt tiếp nhận câu hỏi dễ dàng. Ông đã từng qua cửa ải này trước đây.
Những câu hỏi bất thình lình khác thường sau ba mươi phút.
- Ông và Thám tử Yoakum là bạn, điều đó đúng không?
- Chúng tôi là cộng sự.
- Câu trả lời không đáp ứng, Thám tử.
- John Yoakum là bạn tôi.
- Ông có bao giờ thấy Thám tử Yoakum rút súng bắn trong cơn
bực tức không?
- Không. Dĩ nhiên là không.
- Ông ta có bao giờ dùng vũ lực quá mức không?
- Vũ lực áp dụng như thế nào là chuyện giải pháp tình huống.
Thám tử Yoakum là người luôn cẩn thận phán đoán không chê trách vào đâu được.
- Theo nhận định của ông?
- Đúng.
- Như là bạn ông ta.
- Là thám tử chỉ huy trong những vụ án lớn. - Hunt cảm thấy
sức nóng dưới lớp áo. - Là một sĩ quan với mười bảy năm kinh nghiệm. Chúng ta
xong chưa?
- Thêm vài câu hỏi nữa.
- Bắt đầu đi.
Matthews gõ nhịp đầu bút chì xuống bàn và bật ngửa người
trên ghế.
- Thám tử Yoakum có mặt ở văn phòng ông hồi sớm hôm nay?
- Đúng.
- Các ông thảo luận chuyện gì?
Sự kiên nhẫn của Hunt bốc hơi.
- Gần đây chúng tôi có hơn một vài thứ để thảo luận.
Đôi môi Matthews mấp máy, nhưng nụ cười không đồng bộ với
ánh mắt.
- Dĩ nhiên. - Cây bút chì gõ nhịp. - Tiffany Shore. Những đứa
trẻ bị thảm sát.
Ông có thể nói về một gã đầu nậu xì ke hoặc cái bẫy tốc độ bắt
người.
- Tôi sẽ cho ông đúng một phút, - Hunt nói. - Sau đó tôi sẽ
bước ra khỏi đây.
Matthews nghiêng người về phía trước.
- Trong khi ở văn phòng của ông ngày hôm nay, Thám tử Yoakum
có nói ai đó phải đền mạng cho những gì đã xảy ra với những đứa trẻ không?
Hunt không hề nói gì.
- Ông ta có nói như vậy không?
- Tôi nghĩ chúng ta xong rồi. - Hunt đứng dậy.
- Ông chưa trả lời câu hỏi của tôi.
Hunt gằn giọng:
- Những gì đã nói hoặc không nói ở văn phòng tôi không liên
can gì đến chuyện xảy ra ngày hôm nay. Meechum cầm cây rìu. Yoakum đã làm những
gì ông ta nghĩ ông ta phải làm.
- Ông có chắc về điều đó không, Thám tử? - Matthews ngả cái
ghế ra đằng sau tựa vào tường, và Hunt không thấy điều gì vui vẻ trên khuôn mặt
của gã đàn ông. - Hãy nghĩ về điều đó.
Hunt không nói chuyện với ai khi ông rời văn phòng nha cảnh
sát. Đồng hồ của ông chỉ bảy giờ khi ông bước ra ngoài văn phòng và đụng phải một
cơn giông nặng hạt. Ông bước bộ, không cảm giác gì, đến xe ô tô của ông. Bên
trong, không khí ẩm ướt, ngột ngạt, hai tay tìm vô-lăng, ổ khóa. Ông nhìn quanh
tìm các nhóm phóng viên săn tin tức nhưng không gặp ai. Có lẽ vì thời tiết.
Ai đó đã nghe được.
Mặc dầu ông đóng cửa, nhưng ai đó đã nghe những gì Yoakum
nói.
Hunt ôm chặt vô-lăng và nhớ lại cú bắn xuyên tim của Yoakum.
Cây rìu vung cao, Yoakum lăn xả vào căn phòng khi lưỡi rìu vung xuống. Nhìn thì
giống nhau, nhưng cảm giác thì khác biệt.
Hay cảm giác cũng giống nhau?
Sau một phút, Hunt gọi anh con trai ở nhà. Bảy tiếng chuông
reo, sau đó tiếng nhạc cất lên. Hunt cố gắng che giấu sự mệt mỏi cùng tính bồn
chồn tự nhiên của ông.
- Này, Allen.
- Chuyện gì đó?
- Con ăn cơm tối chưa?
- Con đang hút thuốc và xem phim trần truồng. Bố quan tâm gì
ba chuyện này?
Hunt cắn răng che giấu cảm xúc.
- Bố sẽ về nhà trong chốc lát. Muốn bố mua gì mang về không?
Bên ngoài, Yoakum xuất hiện sau cánh cửa trước nha cảnh sát.
Ông nhìn Hunt một lần, rồi giơ một tay và làm ám hiệu cây súng bằng hai ngón
tay. Hunt chớp đèn. Yoakum kéo cò súng, rồi bước về xe riêng của ông, không
thèm để ý đến trời đang mưa như Hunt.
- Đồ Tàu, - Allen nói, - nhưng một giờ nữa bố hãy về nhà.
Yoakum mở cửa xe, chui vào, đóng cửa. Cả hai ở hai đầu bãi đậu
xe. Đối nghịch nhau.
- Tại sao lại một giờ nữa?
- Bởi vì con đang bận làm việc.
Hunt mệt mỏi bởi bức tường giữa họ, sự vững chắc của nó, cái
kiểu nó mọc cao hơn mỗi ngày. Yoakum chui vào trong xe và Hunt cảm nhận được
lúc động cơ khởi động.
- Bố con mình xem phim sau khi ăn nhé? Như chúng ta vẫn thường
làm ấy.
- Con không nghĩ vậy.
- Vậy đó hả?
- Dạ. Thì như vậy đó.
Yoakum lái xe rời khỏi bãi đậu cùng lúc anh nhóc cúp máy.
Hunt cúp điện thoại và nhìn Yoakum lao đi. Họ cần nói chuyện, nhưng Hunt không
sẵn sàng. Chưa. Cũng chẳng cần gấp. Ông có một giờ. Katherine chỉ ở cách đây mười
phút lái xe. Ông nghĩ về chuyện này, rồi đề máy xe. Ông lái năm dặm dưới vận tốc
quy định, chiếc ô tô bám chắc mặt đường trơn bóng như kính, nhưng khi đến gần
vùng ven thị xã, ông phóng xe nhanh hơn. Ông muốn tìm gặp bà, ông nhận ra như vậy.
Trong giờ phút đó, mưa rơi xuống mặt đường và hắt lên như một dòng sông nước
đen ngòm, ông muốn gặp bà hơn bất kì điều gì khác.
Ô tô của ông leo lên ngọn đồi sau đó tụt dốc, đèn xe chiếu
xuống, những ngôi nhà nhỏ bé hiện ra ở phía dưới. Khoảng cách giữa chúng được
chia đều, ánh đèn đường hắt ra và sắc màu buồn tẻ cuộn vào trong những hàng
cây; nhưng căn nhà của Katherine lại khác hẳn. Hunt cho xe chậm lại và hụp đầu
xuống nhìn qua kính trước bị hơi nước phủ một lớp màng nhẹ. Đường dẫn vào nhà
bà trống rỗng, xe của bà vẫn còn đang bị tạm giam, nhưng những xe tải săn tin tức
đậu đầy hai bên đường. Chín chiếc. Chục chiếc.
Hunt quay đầu khi ông lái xe ngang họ. CNN. FOX. WRAL. Cả đống
khác. Ông rẽ xe vào đường dẫn, vượt qua sát một chiếc xe tải gần nhất, và cửa mở
tung khi một đám đông phóng viên túa ra đường trong cơn giông. Họ dầy dạn kinh
nghiệm không tràn vào trong sân nhà bà Katherine, nhưng hò hét đặt câu hỏi trên
đường phố ngay sau khi Hunt bước xuống giữa cơn mưa.
Ông tìm được Johnny chưa?
Sự thật có phải cậu ấy dẫn dắt ông tìm được kẻ sát nhân hàng
loạt những đứa trẻ?
Những máy thu hình đã chuẩn bị hoạt động trong thời tiết xấu.
Giới truyền thông thượng thặng mặc áo mưa nhưng nhanh chóng bị ẩm ướt và dơ bẩn.
Những câu hỏi tiếp tục. Không thứ tự. Không rườm rà nghi thức. Họ chờ đợi từ
lâu trong cơn mưa, và Hunt sẵn sàng đi vào căn nhà.
Thám tử, sự thật có phải con số tử thi bây giờ là bảy mạng
không?
Đó là Băng tần số chín. Hunt biết gã ấy.
Cô bé Alyssa Merrimon có mặt trong con số tử thi không?
Tiếng nói lớn hơn.
Thám tử? Thám tử?
Những câu hỏi đến nhanh hơn, hét vang xuyên qua trời mưa tầm
tã. Hunt quay lưng. Katherine mở cửa ở tiếng gõ cửa lần thứ hai, bé nhỏ, xanh
xao và xinh đẹp.
Bà Merrimon...
Náo động. Hunt đứng giữa bà và những máy camera ghi hình. Nụ
cười của bà không gượng ép như Hunt lo ngại nó sẽ thế.
- Tôi được phép vào chứ? - Ông hỏi.
Bà để ông vào nhà, đóng cửa.
- Johnny sao rồi?
- Chưa.
Bà bước qua một bên và Hunt trút bỏ chiếc áo khoác ướt đẫm.
Chỉ một ngọn đèn cháy sáng trong căn nhà. Bà hé tấm rèm cửa và nhìn ra ngoài. Một
tách cà phê nguội lạnh trên cái bàn cạnh ghế sofa.
- Điều đó có thật không? - Bà nhìn ông bằng một con mắt đen
thẫm, sau đó nhìn ra bên ngoài. - Họ nói những gì?
- Họ nói những gì?
- Rằng ông tìm được một hố chôn tập thể. Mà nó không thể nào
phát hiện được nếu không nhờ Johnny.
- Điều đó đúng.
- Tôi không thể nào hỏi câu ấy.
- Chúng tôi không có lý do nào tin rằng thi thể của Alyssa nằm
ở đấy. Nhưng...
- Nhưng sao? - Bà xoay người khỏi cửa sổ, đôi mắt mong manh,
cằm nghiêng.
- Chúng tôi chưa hoàn tất tìm kiếm tất cả các thi thể. Cơn
giông buộc chúng tôi phải ngưng tạm thời.
- Vậy thì ngày mai?
- Ngày mai, chúng tôi sẽ xem sao.
Bà khoanh tay ôm lấy cơ thể.
- Tôi lấy cho ông tách cà phê nhé? Hay trà? Tôi không có món
gì nặng hơn.
- Cà phê thì rất tuyệt vời.
Giọng bà thiểu não, Hunt nghĩ, nhưng bà cố gắng giữ vững mọi
chuyện tươm tất hơn ông hy vọng bà có thể.
- Tôi chỉ được phép có vài phút.
- Cà phê. - Bà xoay người.
- Cảm ơn, Katherine.
Bà rót cà phê vào tách và trao cho ông.
- Vậy thì không có gì cả? Không một lời nào cả? - Bà hỏi về
Johnny.
- Không, - ông nói. - Tôi xin lỗi.
Bà nhìn ra cửa sổ và cơn giông tít đằng xa, rồi sau đó ngồi
xuống ghế sofa và Hunt ngồi cạnh bên.
- Cậu bé là đứa trẻ cứng cỏi, - Hunt nói. - Chúng tôi đang
tìm kiếm.
- Ông có thể làm gì hơn được không? Bất cứ điều gì? Lệnh báo
động chẳng hạn?
- Những cái đó không bao giờ áp dụng ngoại trừ có chứng cớ
rõ ràng là một vụ bắt cóc, và chúng tôi không tin cậu bé bị bắt cóc. Tất cả những
chứng cớ cho thấy cậu bé tự ý bỏ đi. Ở một nơi nào đó. Căn cứ trên những gì đã
từng làm trong quá khứ...
Bà nhắm mắt, vỗ tay trên đùi.
- Johnny... - Bà lắc đầu. - Tổ cha, Johnny. Giờ này con ở
đâu?
- Cậu bé là đứa trẻ thông minh, Katherine. Cậu bé sẽ không
sao. Chúng tôi sẽ tìm được cậu bé.
Khi bà mở mắt, mặt bà bóng như gương soi, và Hunt thấy rằng
bà sẵn sàng chuyển hướng câu chuyện sang đề tài mới.
- Gã Ken đến đây ba lần trong hôm nay.
Hunt giấu sự lo lắng bất thình lình.
- Tôi lại nghĩ gã ta bỏ qua rồi. Gã nói như vậy mà.
- Đó không phải là chuyện Ken Holloway làm. Nếu gã nói với
ông như vậy, gã nói láo.
- Có đe dọa gì không? - Hunt hỏi.
- Gã đập cửa, thều thào nói những lời xấu xa.
- Gã có nói bất cứ lời đe dọa nào không? - Hunt gặng hỏi.
Ông có thể truy tố Holloway về chuyện buông lời hăm dọa. Nó sẽ rất hợp với việc
truy tố về cản trở công lý. Chúng chỉ là những truy tố quá tầm thường đối với
người như gã Holloway, nhưng sẽ khiến gã bị tống giam ngay dù chỉ là một thời
gian ngắn. Chúng sẽ giúp cách ly gã khỏi Katherine.
- Chúng ta có thể ngồi không? - Bà hỏi. - Chúng ta có thể chỉ
ngồi trong yên lặng được không?
Hunt bỏ qua sự bực tức và lo lắng.
- Được, - ông nói, và họ ngồi trong khi tách cà phê của ông
nguội dần, và nhóm phóng viên săn tin tức buông tay và trèo trở vào trong xe.
Sau một lúc, Hunt để ý bà ta ôm chặt cái gì ở giữa hai tay, ép hai bàn tay vào
với nhau và nhét vào giữa cặp đùi.
- Tôi ở trong phòng Johnny hồi sớm ngày hôm nay. Ông biết...
- Bà bỏ lửng và Hunt có thể thấy bà vào trong ấy, sờ mó đồ vật của con trai,
khó khăn vất vả dìm nén nỗi sợ hãi và nghi ngờ. - Tôi tìm thấy những cái này.
Bà mở lòng bàn tay và Hunt thấy một xấp danh thiếp. Chúng
nhăn nhúm và ẩm ướt. Bà nhìn lên, chạm ánh nhìn của ông.
- Cả thảy mười chín cái. - Một cú sốc rõ ràng hiện trên
khuôn mặt bà và Hunt cảm thấy một sự ngượng ngùng bất thình lình và lạ kỳ.
- Tôi muốn Johnny biết có ai đó để gọi điện thoại, - Hunt
nói. - Nếu chuyện trở nên tồi tệ.
Bà gật đầu, không ngạc nhiên.
- Sau khi tìm được chúng, tôi tìm quanh nhà và tìm tất cả
danh thiếp ông đã đưa cho tôi. Tôi đã vứt đi khá nhiều, tôi biết điều đó, nhưng
tôi vẫn tìm thấy cả chục cái.
- Đó là công việc của tôi, - Hunt nói. Sự rõ ràng không hề
do dự.
- Thật vậy sao?
Hunt nhìn đi chỗ khác.
- Ông lúc nào cũng có mặt bên cạnh chúng tôi.
- Bất cứ người cảnh sát tử tế nào cũng làm tương tự như vậy.
- Tôi không nghĩ như vậy.
Một lần, vai của bà chạm vào người Hunt, và ông cảm được một
luồng xung điện, một luồng lửa xanh thẫm phập mạnh và đau.
- Cảm ơn, - bà nói, và họ ngồi trong yên lặng, hai người, cạnh
bên nhau. Bà kéo chân mình lên, đặt hai tay vào trong đùi và tựa đầu bà vào bờ
vai của ông. Hunt cảm nhận được cánh tay nhỏ bé của bà ép mạnh vào ông, hơi ấm
làn da của bà khi mưa lạnh đang rơi vần vũ ngoài cửa sổ.
- Cảm ơn, - bà nói một lần nữa.
Và Hunt ngồi lặng lẽ như tượng đá.
Bốn mươi
Cơn giông gió tối sầm trời đất làm Johnny không còn nhìn thấy
ánh mặt trời khi nó lặn xuống đằng sau vòng cong của trái đất. Mưa rơi lạnh rát
da thịt, và nhiệt độ cũng giảm xuống phần nào. Không khí chuyển từ xám đến xanh
đến gần đen sẫm, nhưng Johnny không hề di chuyển, ngay cả khi sấm sét rạch đôi
bầu trời bằng một ánh chớp chói loà với tiếng nổ như chém vỡ đôi gạch đá. Cậu
co gập người. Cậu dựa lưng vào bức tường và nhìn Levi Freemantle xúc bới những
bệt đất cát sũng nước cuối cùng xuống mộ huyệt, rồi sau đó làm nhẵn bề mặt mộ
phần bằng chiếc xẻng và ngồi xuống. Nước xối xả tuôn xuống người gã, và gã hòa
cùng với đất ướt cứ như là bùn đất dâng lên cao xung quanh gã. Cảm giác không
có gì là thật. Johnny không hề động đậy khi Jack chồm người qua bức tường và gọi:
- Johnny.
Vài giây trôi qua.
- Cậu bỏ tớ, - Johnny nói.
Jack chồm người xa hơn qua bức tường, đầu hắn thật gần.
- Cậu sẽ bị giết ở ngoài này.
- Sấm chớp đánh.
- Điều đó có nghĩa là gì?
- Không có gì. Tớ không biết.
Bầu trời lóe sáng. Johnny trỏ vào cây sồi cũ.
- Đó là cái cây mà họ treo cổ người ta.
Jack nhìn cái cây xương xẩu, những cành khổng lồ của nó xoè
ra và ngả nghiêng, đen ngòm khi sấm chớp đánh.
- Làm sao cậu biết?
Johnny xoay vai:
- Cậu không cảm nhận được sao?
- Không.
- Nghĩa trang xây dựng xung quanh nó. Ba cái bia đặt ngay gốc
cây. - Cậu giơ ngón tay lên. - Thấy nó nhỏ bé như thế nào. Thấy nó được đục đẽo
nham nhở như thế nào không?
- Tớ chẳng thấy cóc nhái gì ráo.
- Nó nằm ngoài đó.
- Cậu quẫn trí mất rồi, Johnny.
Johnny không nói gì.
- Có cái bếp lò ở nhà kho nông trại. Tớ nhóm lửa rồi đó.
Johnny nhìn chằm chằm vào gã Freemantle.
- Tớ không thể rời chỗ này.
- Cậu đã ở ngoài này nhiều giờ lắm rồi. Gã ta chẳng đi đâu cả.
Nhìn gã đi.
- Tớ không thể liều mạng như vậy.
- Cậu suy nghĩ kỹ về chuyện này chưa? Suy nghĩ thật kỹ về nó
chưa? Gã ta chôn đứa con của gã, trời ơi, và nhìn dáng dấp cái quan tài, tớ dám
nói gã chôn con bé đó lần thứ hai. Có nghĩa gã đào bới con bé từ mộ phần ở nơi
nào đó. Cậu có biết con bé chết vì sao không? Hay tại sao gã lại mang con bé ra
tít tận ngoài này để chôn cất mà chẳng có ai xung quanh nhìn thấy gì?
- Chúng ta thấy.
- Chúng ta cũng không hề biết con bé có thực sự là con gã
hay không.
Ánh sáng chan hòa từ đám mây thật xa.
- Nhìn gã đi.
Cả hai cậu con trai nhìn gã Freemantle đổ ụp xuống, rã rời
tan hoang bởi sự đau khổ rất thật không thể nào nhầm lẫn được. Jack hạ giọng xuống.
- Cậu có tự hỏi tại sao gã lại máu me đầy mình và bị thương
tật đến như vậy không? Cái lý do chính mà gã nhấc bổng cậu lên hôm nọ là gì?
- Chúa sai khiến gã làm như vậy.
- Đừng có làm cái giọng tài lanh với tớ đi. Khi gã này trở
vào từ ngoài trời mưa, chúng ta phải nghĩ ra cách làm gì gã ta. Tớ không muốn
là người duy nhất suy nghĩ về chuyện này.
- Tớ chỉ có một câu hỏi, và khi gã vừa xong việc này. -
Johnny chỉ trời mưa, nghĩa địa và bùn lầy - Tớ sẽ hỏi gã.
- Và nếu gã không trả lời?
- Tớ đã giúp chôn cất con gái của gã.
Giọng Jack to hơn:
- Nếu gã không chịu trả lời?
- Đưa cây súng cho tớ, - Johnny nói.
- Cậu dọa gã, gã sẽ giết chúng ta.
Johnny chìa cánh tay ra. Jack nhìn gã khổng lồ ngồi trong
bãi sình, rồi thả cây súng vào lòng Johnny. Nó lạnh, ướt và nặng nề.
- Tớ sẽ làm, - Johnny nói.
Nhưng Jack đã biến mất.
Johnny quan sát người đàn ông, trời mưa, bùn đất và sự tĩnh
lặng, bùn dâng cao. Sau một phút, cậu thọc tay vào túi. Khi lôi tay ra khỏi,
tay cậu cầm một cọng lông, bé nhỏ, màu trắng và bị đè nát. Cậu cầm nó một lúc
thật lâu, nhìn nó tàn tạ ủ rũ trong trời mưa tầm tã. Cậu suy nghĩ thật kỹ về
chuyện vứt bỏ nó đi, nhưng vào giây phút cuối cậu đóng gập những ngón tay lại,
súng một tay, cọng lông cuối cùng ở tay bên kia.
Nhiều giờ sau đó, sấm chớp yếu dần về hướng bắc. Nước mưa nhỏ
xuống qua những tán cây. Gã Freemantle nhìn lên những đám mây đang bay, dấu hiệu
trăng ở ngay đằng sau. Đó là lần đầu tiên gã chuyển dịch kể từ khi làm trơn
láng phần mộ phía bên trên cho con gái của gã. Không có dấu hiệu nào về Jack,
không còn sự van nài xuất phát trong trời mưa. Một cuộc thao dượt chậm rãi hàng
giờ, ánh chớp và tiếng nổ, cơn giông trút nước lạnh xuống. Có tảng đá cứng sau
lưng Johnny, hai tảng như vậy, cách xa sáu mét và nằm bất động. Điều đó vẫn
không hề thay đổi.
Johnny nhét cọng lông trở vào túi quần sau, nhét cây súng dưới
áo.
Freemantle đẩy người lên và trố mắt nhìn sau trận giông bão.
- Tôi nghĩ trời đánh tôi rồi.
Trong bóng tối, mắt gã như bình mực bị đổ tràn, mồm của hắn
rách toang hoác giữa ngạc nhiên và thất vọng. Trời quá nửa đêm, đoạn đường khó
khăn vất vả đã ở đằng sau lưng họ. Freemantle nhặt cái xẻng và đôi giầy vứt bỏ
của gã. Dùng cái xẻng như nạng chống, gã bước bộ đi quá Johnny.
- Không có gì phải lưu tâm. Công việc đã xong.
- Tôi cần nói chuyện với ông.
- Tôi xong công việc rồi.
Cánh cửa trắng bung mở trên những bản lề yên lặng.
Freemantle di chuyển chậm chạp và Johnny theo sát đằng sau gã.
- Làm ơn.
- Tôi mệt mỏi lắm.
Mệt, Johnny nghĩ. Và ốm.
Cậu có thể ngửi được mùi nhiễm trùng trong không khí đến từ
gã khổng lồ.
Gã vấp một lần khi cái nhà kho mỗi lúc một gần. Da của gã
chai cứng và nóng. Gã tí xíu nữa là ngã lăn.
- Mệt, - Freemantle nói, và sau đó họ có mặt ở cái nhà kho.
Bên trong, Johnny thấy bụi bặm và rơm rạ và những dụng cụ kim loại, hai cái đèn
bão lớn treo trên sợi dây xích. Hơi nóng cuộn lấy họ khi cả hai bước qua cánh cổng.
Ở góc xa, một cái lò gang nung đứng trên nền gạch. Khung lò hình tròn, và than
đỏ hồng đằng sau những thanh sắt gá. Jack nằm dài trên một đống rơm, áo jacket
của hắn được cuộn tròn làm gối. Hắn nhảy dựng lên khi Freemantle đóng cửa.
- Không có gì, -” Johnny nói, bước đến gần hơn. Đôi mắt của
Jack phản chiếu ánh than hồng trong lò.
- Cậu khóc à? - Johnny hỏi.
- Không.
Nó là lời nói láo, nhưng Johnny làm ngơ bỏ qua. Trong không
gian hẹp của nhà kho, bóng người kéo dài ra. Freemantle nhìn to lớn và nguy hiểm.
Johnny cất giữ cây súng vào chỗ khuất.
- Tôi là Johnny. Đây là Jack.
Freemantle trố mắt nhìn. Hai mắt của gã màu vàng tối, đôi
môi nứt nẻ sâu đến nỗi lòi cả thịt.
- Levi. - Gã tuột cái áo ra và treo nó lên cây đinh gần cái
bếp. Ngực và cánh tay của gã to lớn với bắp thịt cuồn cuộn. Một cái sẹo mỏng
dài, nhìn như là vết thương dao chém, một nếp nhăn dúm dó có thể do đạn bắn.
Cành cây bên hông gã ta lởm chởm và đen ngòm.
- Vết thương đó nhìn nặng lắm, - Johnny nói.
- Nó chỉ đau nếu tôi cố gắng lôi nó ra.
Mùi bốc lên, ướt và sình đất. Nơi Levi đứng, nước nhỏ xuống
gạch, tan biến còn một vết tối mù, và biến thành hơi nóng. Mí mắt của gã rũ xuống.
- Gần đến rồi đấy, - gã nói.
- Cái gì?
Gã mở mắt ra:
- Quên mất tôi đang ở đâu.
Johnny mở mồm, nhưng Jack nói trước:
- Tại sao ông mang chiếc quan tài ra ngoài này?
Gã Freemantle buồn bã với cặp mắt màu vàng đang lên cơn sốt:
- Tại sao tôi mang nó?
- Tôi chỉ hỏi.
- Tôi không lái được ô tô. Mẹ tôi nói lái xe là chuyện của
người khác. - Mắt gã lơ mơ khép và cơ thể nghiêng về bên trái; gã lảo đảo loạng
choạng một lần để không ngã. - Mẹ nói...
- Ông không sao chứ hả, ông?
Mắt gã chớp mở:
- Ai muốn biết?
- Tên tôi là Johnny, nhớ chứ?
- Tôi không biết người nào tên Johnny.
- Ông cần đi nhà thương. Ông cần gặp bác sĩ.
Freemantle làm lơ cậu và cà nhắc bước vào chỗ cái kệ ở bức
tường đằng xa. Johnny thấy dầu máy, thuốc chuột, những đồ dùng kim loại treo
trên móc, và giẻ rách khô đét lại vì năm tháng. Freemantle lượm con dao lam cắt
hộp rỉ sét và một chai nhựa vương đầy tơ nhện. Gã ngồi bên đống lửa và cắt bỏ
đi hai ống quần, vứt mảnh vải xuống đất cạnh cái lò bếp. Nắp chai được bật mở
và gã đổ thứ nước lỏng màu nâu vào vết thương trên đầu gối. Jack xuất hiện sát
cạnh Johnny.
- Thứ đó cho súc vật mà, - hắn thì thào.
- Tào lao.
- Nó ghi là chỉ để bác sĩ thú y sử dụng.
Hắn chỉ và hai anh nhóc nhìn. Không biết nó là thứ gì, nó
gây đau đớn khi gã đổ lên đầu gối.
- Ông không sao chứ hả? - Cuối cùng Johnny cũng hỏi.
Freemantle gật đầu, sau đó nghiêng cái chai vào vết thương bên hông.
- Ông cần thuốc kháng sinh.
Freemantle bỏ lơ. Gã cố gắng kéo miếng vải buộc ở ngón tay,
nhưng thịt chỗ đó sưng tấy to tướng làm mảnh vải cắn chặt vào như dây kẽm. Gã cắt
bỏ miếng vải, và Johnny thấy vết thương nơi thịt do răng cậu cắn vào. Cậu quay
mặt đi chỗ khác khi Freemantle đổ thêm chất lỏng vào ngón tay. Hai lần. Ba lần.
Bắp thịt của gã cứng đờ, giãn ra, và sau đó gã nằm trên tảng đá.
- Mấy đứa nhóc tụi bay lẽ ra không nên ra ngoài này làm gì.
- Tôi chỉ muốn nói chuyện.
- Tôi xong công việc rồi, - Freemantle nói.
- Làm sao con gái ông bị thiệt mạng?
- Chúa ơi, Jack. Im mồm. - Johnny bực tức rít trong cuống họng.
Cậu đang có mặt ở đây, và bây giờ, và Jack sẽ làm hỏng hết mọi chuyện.
- Họ nói ông giết những người đó. - Giọng Jack như đóng
đinh. - Nếu ông có một lý do chính đáng, thì tôi không phải lo lắng nhiều về
chuyện ông sẽ giết chúng tôi.
Jack đã chuẩn bị tẩu thoát. Hắn đã chuẩn bị tư thế ở góc độ
lao ra cửa. Levi Freemantle ngồi dậy chậm rãi. Hai mắt gã càng vàng đậm hơn, da
gã như tro bụi.
- Giết những người nào?
Gã biết người nào. Johnny thấy nó rõ ràng như ban ngày. Một
sự cảnh giác hiện lên trong ánh mắt gã ta. Một sự căng thẳng mới trên đôi vai của
gã. Những ngón tay của Johnny nằm trên cây súng lận dưới áo. Freemantle thấy sự
chuyển động, và mắt họ nhìn nhau. Gã nhớ có cây súng. Johnny cũng thấy điều đó.
Bất thình lình tất cả mọi chuyện đổ ập. Freemantle quỵ người
xuống.
- Họ có thể bắt tôi bây giờ. Bắn tôi đi. Tôi cóc cần.
Tay của Johnny buông cây súng ra.
- Bởi vì ông đã chôn cô bé.
- Bởi vì con bé không còn nữa.
- Vì sao cô bé thiệt mạng?
Freemantle lôi một chiếc phong bì ướt đẫm từ túi quần trước.
Nó nhàu nát, quá ẩm ướt gần như hóa bột. Phần lớn mực đã nhòe, nhưng Johnny nhận
ra được tên của Freemantle. Địa chỉ là Nha Cải Huấn. Freemantle vứt cái phong
bì và Johnny nhặt nó lên. Bên trong là bài báo được cắt từ tờ nhật báo. Những mảnh
vụn giấy báo tơi ra trên ngón tay của Johnny.
- Ai đó đọc hộ những chữ đó cho tôi, - Freemantle nói.
- Cái gì vậy? - Jack hỏi.
Nhưng Johnny đang cố gắng đọc. Tít lớn tờ nhật báo rõ ràng.
- “Đứa trẻ thiệt mạng trong xe nóng”.
- Trẻ con là một món quà. - Gã Freemantle nghiêng đầu và con
mắt hỏng bốc cháy. - Sự thật cuối cùng.
- Họ đã bỏ rơi con gái của gã trong xe ô tô. - Johnny liếc. -
Họ bỏ đi uống rượu ở một quán rượu trên bờ biển, và họ bỏ con bé trong xe.
- Vợ tôi, - Freemantle nói. - Và nhân tình của bà ta.
- Có một cuộc điều tra. Cớm đưa ra phán quyết là tai nạn.
- Họ mai táng con bé không có mục sư, chỉ bỏ nó xuống lòng đất
với những người không có tên hoặc gia đình. Vợ tôi chưa bao giờ nói với tôi
chuyện này. Tôi không có mặt ở đó để nói lời từ biệt. - Gã dừng lần nữa, rồi giọng
của gã nức nở. - Sofia đi vào lòng đất không có bố con bé ở đấy nói lời giã biệt…
- Ai gửi cái này đến cho ông? - Johnny đưa tờ báo cắt lên.
Nó là một tờ nhật báo của phố biển.
Nhưng Freemantle lại đi lạc đề lần nữa, hai mắt thất thần,
hai tay đặt trên đầu gối.
- Tôi để lại cho con bé nhà tôi một bức ảnh để nó không thiếu
vắng tôi. Tôi vẽ nó trong tủ quần áo của nó để nó có thể thấy mỗi ngày và không
đau buồn khi cha nó không có nhà. Nó thích chơi đùa trong tủ áo. Nó có một con
búp bê với đôi giầy bé tí xíu màu trắng. - Gã giơ lên hai ngón tay, cách khoảng
ba phân. - Con bé có một ít bút chì sáp để tô màu, một ít giấy tôi mang về nhà
từ cửa hiệu. Đó là lý do tại sao tôi vẽ trong tủ áo, bởi vì con bé cảm thấy
thích hợp, bởi vì đó là chỗ chơi đùa của nó. - Gã nghiêng cái đầu to lớn. - Nhưng
một bức ảnh không thể giúp được ai điều gì. Bức ảnh không thể giữ an toàn cho một
đứa bé gái.
- Tôi rất tiếc. - Johnny thành thực.
- Ai gửi cho ông tờ giấy cắt từ nhật báo? - Jack hỏi.
Freemantle chùi những ngón tay của gã ngang khuôn mặt.
- Một bà hàng xóm có hai đứa con. Bà ta không bao giờ ưa vợ
tôi. Bà ta biết được chuyện và gửi phần cắt tờ nhật báo đến nhà tù cho tôi. Đó
là lý do tại sao tôi trốn tù, để tôi có thể đứng ngay trên huyệt mộ con gái tôi
và chắc chắn mọi nghi thức được làm đúng và tươm tất, nhưng nó chỉ là đất trơ rồi
đụn lên cái mô ở giữa. Không có hoa, không có bia đá. Tôi ngồi xuống và thọc
tay vào đất. Đó là khi Chúa nói với tôi.
- Nói với ông điều gì?
- Ngài nói với tôi giết chúng đi.
Hai anh nhóc nhìn nhau và cả hai có cùng ý nghĩ.
Mất trí.
Điên cuồng mất trí hết cỡ.
- Chúa nói với tôi mang con gái tôi đến đây. - Freemantle
nhìn lên, và một đời sống mới khuấy động trên sa mạc của khuôn mặt gã. - Trẻ
con là quà tặng. - Gã bụm hai bàn tay khổng lồ dập nát. - Điều đúng đắn cuối
cùng. Đó là lý do tại sao Chúa nói với tôi nhấc bổng cậu lên.
- Cái gì?
- Đời sống là một vòng tròn. Đó là điều Ngài dặn tôi nói với
cậu.
- Johnny...
Đó là Jack, tiếng kêu thật nhỏ nhẹ. Johnny đưa một bàn tay
lên.
- Chúa nói ông nói với tôi điều đó?
- Giờ thì tôi nhớ rồi.
- Cái đó có ý nghĩa gì?
- Johnny...
Giọng của Jack thúc bách hoảng sợ. Johnny rời mắt khỏi Levi
Freemantle. Thằng bạn của cậu xanh nhợt và cứng đờ. Johnny dõi theo ánh mắt của
Jack đến cái đống vải vóc bẩn thỉu bên cạnh cái lò. Vải quần bị xé rách. Mảnh
băng vặn vẹo từ ngón tay bị nhiễm trùng. Jack trỏ và Johnny thấy nó. Một bảng
tên may vào trong miếng vải gã Freemantle dùng làm băng gạc. Một bảng tên. Một
cái tên.
Alyssa Merrimon.
Đầy máu và loang lổ.
Johnny nhìn Freemantle, gã vẽ một hình dạng trên không trung
bằng một ngón tay.
- Vòng tròn, - gã nói.
Và Johnny móc cây súng ra.
------------
Còn tiếp.
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét