Thứ Năm, 8 tháng 2, 2018

Khúc Cầu Hồn - Chương 11 & 12

Khúc Cầu Hồn

Tác giả: John Hart
Dịch giả: Phạm Thiện
Công ty phát hành Alphabooks & Nhà xuất bản Thời Đại
Ngày xuất bản: 04/2011

Mười một

Thám tử Hunt lái xe vào con đường dẫn vào nhà ông David Wilson như một cơn gió mạnh thổi những đám mây của cơn giông. Khi nhìn xuống, ông thấy phần nhỏ bé đó của thế giới đã chuyển sang màu trắng bạc: một vũng nước trên đường xi-măng dẫn vào nhà, nhiều giọt mưa đọng trên nắp capo xe ô tô. Con đường cụt dẫn vào phía sau những tòa cao ốc không có mặt tiền, đánh dấu chu vi vòng ngoài của viện đại học. Những căn nhà tươm tất là nơi cư ngụ của gia đình các giáo sư và một số sinh viên có bố mẹ khá giả không chịu nổi cảnh thuê mướn ở nhà tạm bợ. Những miếng đất hẹp, những hàng cây cao và to xù. Những mảng hẹp xanh rờn đánh dấu các khe rãnh trên đường xi-măng đi bộ. Cỏ dại. Rêu. Không khí đậm mùi những thứ đang sinh sôi phát triển.
Trời mưa khiến hàng xóm láng giềng ở riết trong nhà, cũng khiến cho sự có mặt của cảnh sát bớt ồn ào, nhưng Hunt biết điều này sẽ sớm chấm dứt. Một người đàn ông đứng ở lề đường cách đó bốn căn nhà, nhìn chằm chằm, một cái túi xách treo trên tay ông ta. Ngang bên đường, một điếu thuốc làm loé lên ánh sáng trong bóng tối. Hunt lầm bầm chửi thề và quay ra cửa. Căn nhà kiểu Tudor nhỏ với những cây kèo đánh dầu bóng cũ kỹ gác lên tường gạch sậm màu. Một dọc cỏ xanh phân cách nó với các nhà hàng xóm; một căn nhà đậu xe biệt lập ở góc sân sau. Thám tử Hunt thấy Yoakum trèo qua cái cửa sổ không che màn và đi ra ngoài cửa. Bên trong, sàn gỗ có nhiều vết trầy xước chứng tỏ nó đã được sử dụng nhiều năm nhưng rất ít khi được tu sửa. Cầu thang đi lên lầu ở phía tay phải, thành cầu thang đậm màu và trơn láng. Nhà bếp ở phía sau, ánh sáng của thép không rỉ phản chiếu dưới ánh đèn sáng gắt. Một viên cảnh sát mặc đồng phục gật đầu chào trong phòng khách và Hunt chào đáp lại. Thêm một lần rẽ, và lần thứ ba. Không ai nhìn thẳng vào mắt ông, nhưng ông hiểu.
Tất cả dường như rất quen thuộc.
David Wilson là giáo sư đại học, và căn nhà cho một cảm giác như vậy: gỗ sậm màu, gạch trơ, thoảng mùi thuốc lá tươi hay là chậu cũ. Yoakum bước vào từ phòng ăn với nụ cười chiếu lệ và vô nghĩa.
- Tôi không phải là kẻ mang đến tin vui, - ông nói.
Hunt nghiên cứu nội thất căn nhà.
- Bắt đầu đi.
- Căn nhà thuộc quyền sở hữu của viện đại học. Ông Wilson được cư trú ở đây như một đặc ân. Ông ta đã sống ở đây ba năm.
- Chơi quá đẹp.
Hunt suy nghĩ lại về căn nhà, chú ý đến sự dòm ngó nhanh chóng bởi các thuộc cấp khác. Yoakum cũng thấy điều đó, và hạ giọng.
- Họ lo lắng cho ông.
- Lo lắng?
- Ngày hôm qua là tròn một năm Alyssa mất tích. Chưa ai quên chuyện này.
Hunt nhìn xung quanh căn phòng, mắt nhắm chặt, không nói câu nào. Yoakum nhún vai, sự bất an và lo lắng cũng hiện rõ trong đôi mắt của ông.
- Chỉ nói với tôi về David Wilson, - Hunt nói.
- Ông ấy là trưởng khoa Sinh học. Được mọi người kính trọng, tôi có thể nói như vậy. Từng xuất bản nhiều công trình. Sinh viên khâm phục ông. Ban giám hiệu cũng khâm phục ông.
- Ông có nói thẳng với viện đại học ông Wilson không phải là nghi can chứ? Tôi không muốn làm hoen ố danh tiếng của ông ta một cách vô nguyên cớ.
- Nhân chứng thực thể, tôi đã nói với họ như vậy. Thấy một điều gì đó và vì vậy mà bị giết.
- Tốt. Cho tôi biết điều gì khác về David Wilson.
- Ông có thể bắt đầu với những thứ này.
Yoakum bước ngang qua tấm thảm Á Đông có lẽ cũ kỹ hơn tuổi thọ căn nhà. Ông dắt thám tử Hunt đến bức tường treo nhiều ảnh trong khung, mỗi cái đều có nội dung na ná như nhau: David Wilson đi với một người phụ nữ tuyệt đẹp.
- Chưa vợ sao? - Hunt hỏi.
- Đồ phụ tùng máy ô tô trên bàn ăn. Thịt bò bít-tết và bia trong tủ lạnh, và không gì nhiều khác. Mười bảy cái bao cao su trong ngăn kéo bàn cạnh giường ngủ.
- Ông đếm chúng?
Yoakum nhún vai:
- Nó cùng nhãn hiệu tôi dùng.
- À, vui nhỉ.
- Ai đùa cợt với ông?
- Có dấu hiệu nào cho thấy ông ta có thể gặp gỡ Tiffany Shore không?
- Nếu có một dấu hiệu nào rõ ràng ở đâu đó trong căn nhà này, thì tôi chưa khám phá ra. Nếu ông ta phát hiện được cô ấy, tôi nghĩ chỉ là do tình cờ.
- Được rồi, - Hunt nói. - Chia ra thành nhiều phần nhỏ. Chúng ta biết ông ta sống ở đây đã ba năm. Ông ta là người ưa thể thao, có thu nhập cao, và thông minh.
- Thể thao?
- Bác sĩ khám nghiệm tử thi nghĩ rằng ông ta có thể là dân leo núi.
- Một người thông minh, bác sĩ Trenton Moore.
- Vậy sao?
- Đi theo tôi, - Yoakum nói, và luồn lách đi qua nhà bếp đến cánh cửa hẹp đằng sau nhà.
Ông mở cánh cửa và gió ấm tràn vào:
- Qua sân sau là đến ga-ra.
Họ bước bộ ra sân cỏ ướt. Hàng rào kín đáo bao bọc phần lớn sân vườn, ga-ra to, vuông và thô, ở góc tít đằng xa. Xây bằng cùng loại gạch với căn nhà, đủ rộng để chứa ít nhất hai chiếc xe. Yoakum đi vào trước tiên và mở công-tắc đèn.
- Xem này.
Những kèo nhà giăng ngang phía dưới nóc nhà dựng đứng. Những vết dầu bẩn trên sàn nhà xi-măng xám xỉn mờ đục. Hai bức tường được dựng lên bằng ván có móc, và trên những cái móc treo đủ dụng cụ leo núi: những bó dây, móc dây, khoen thép móc vào đá, đèn treo đầu, và mũ sắt.
- Tôi có thể nói ông ta là dân leo núi.
- Với một vài đôi giầy trông ngớ ngẩn, - Yoakum nói, và Hunt quay đầu lại. Đó là những đôi giầy cao cổ, da bên trên với đế giầy bằng cao su đen láng, uốn cong lên ở phía trước và hai bên. Ba đôi treo lên các móc khác nhau.
Hunt nhấc một đôi lên.
- Giầy ma sát, - ông nói. “Chúng rất tốt cho việc leo trên đá.
Yoakum chỉ lên kèo nhà.
- Ông này cũng không hề sợ nước.
- Xuồng kayak.
Hunt chỉ vào chiếc xuồng kayak dài nhất.
- Chiếc này dùng đi biển.
Ông chỉ vào chiếc ngắn.
- Chiếc đó dùng để đi sông.
- Không có chiếc ô tô nào đăng ký dưới tên của ông ta, - Yoakum nói.
- Nhưng các vết dầu dơ dưới sàn nhà. - Thám tử Hunt dùng chiếc đinh dở một chùm chìa khoá có nhựa đen treo ở cửa. - Tôi đoán là chìa khóa sơ-cua. XeToyota.
Ông nhìn dấu vết bánh xe trên nền xi-măng.
- Vỏ cỡ lớn. Có thể xe tải hoặc Land Cruiser. Hãy xác minh với viện đại học. Rất có thể nó được đăng ký dưới tên của khoa Sinh học.
- Chúng tôi tìm được thông tin một chiếc rơ-móc đăng ký dưới tên David Wilson.
- Rất có thể nó dùng để kéo xe gắn máy chạy đường đất của ông ta. Chiếc xe gắn máy ông ta sử dụng khi bị thảm sát không hợp pháp để lưu thông trên đường lộ, có thể ông ta lấy nó xuống khỏi rơ-móc. Câu hỏi đặt ra là ông ta làm gì ở vùng bị nghiêm cấm nhất của quận hạt. Ông ta đã làm gì và ông ta làm điều đó ở đâu.
Họ rời ga-ra ô tô và kéo cánh cửa đóng lại, dõi mắt nhìn ra phía sau sân vườn.
- Trên đó là vùng đồng quê hoang dã. Nhiều cây rừng. Nhiều đường mòn.
- Một nơi tuyệt vời để chạy xe gắn máy.
- Ông có nghĩ xe ô tô của ông ta vẫn ở đâu đó ngoài kia? - Yoakum hỏi.
Cả hai bước đến cánh cửa sau nhà, đi vào bên trong, đi xuyên qua nhà bếp.
- Chắc chắn là như vậy.
Hunt mường tượng quận hạt trong đầu. Nó cách thủ phủ tiểu bang cả trăm dặm, sáu mươi dặm từ bờ biển. Có những nguồn lợi tức trong thị trấn: kỹ nghệ, du khách, sân gôn; khác hẳn với phía bắc quận hạt là nơi hoang dã, nhiều đầm lầy và rãnh núi hẹp, những cánh rừng già và gai ngạnh đá granite. Nếu David Wilson chạy xe gắn máy lên hướng đó thì xe ô tô của ông ta có thể ở bất cứ nơi nào: đường nhỏ, đường mòn, ruộng. Bất cứ nơi nào.
- Chúng ta cần gửi vài đơn vị khoanh vùng lên trên đó. - Hunt tính toán vài con số trên đầu. - Gửi lên trên đó bốn xe tuần tra. Cho họ lên ngay bây giờ.
- Trời rất tối.
- Hãy làm ngay bây giờ, - Hunt nói. - Và báo bảng số rơ-moóc cho lực lượng Tuần tra xa lộ.
Yoakum búng tay và một cảnh sát mặc đồng phục xuất hiện.
- Nhớ nhắc cho cảnh sát tiểu bang biển số ô tô của ông Wilson. Cho họ biết nó liên quan đến vụ án Shore. Họ đã có lệnh báo động.
Viên cảnh sát bỏ đi gọi điện. Yoakum quay lại nhìn Hunt.
- Giờ sao?
Hunt xoay một vòng chậm rãi, nghiên cứu những tấm ảnh của David Wilson với một lô các cô bạn gái xinh đẹp.
- Phòng ngủ. Tầng hầm. Trần nhà. Dắt tôi đến tất cả mọi nơi.
---------------

Mười hai

Levi di chuyển cẩn thận qua sình lầy và những tảng đá trơn trượt. Con sông phản chiếu ánh sáng làm gã nhớ lại một chút gì đó khi gã còn là đứa trẻ. Nó như một nhịp điệu, một khuôn mẫu, như cái ống nhòm phản chiếu bố hắn một năm trước khi ông ấy qua đời vì ung thư. Con đường mòn rẽ vào vùng dốc thoải và Levi dùng cánh tay còn lại kéo rễ cây và cây con để gã có thể leo lên đường đất sét trơn trượt. Gã chống mạnh những cạnh giày để bám vào mặt đường. Khi leo lên đến đỉnh, đường phẳng, gã dừng lại lấy hơi; và khi gã bắt đầu cất bước, ánh sáng phản chiếu từ con sông lấp lánh đằng sau những cành liễu và thông tro, sồi và thông dài ngón. Trời tối sầm lại, và đó là lúc gã nhìn thấy những khuôn mặt. Gã thấy vợ gã cười gã và sau đó bất thình lình ngưng cười, khuôn mặt trở nên tối mù, đỏ và ướt đẫm, tự nó như vậy. Gã thấy người đàn ông và vợ gã, và thế nào đó, mặt người đàn ông ấy cũng trở nên sai lạc, đỏ lựng lên.
Và những âm thanh.
Levi cố gắng ngừng suy nghĩ; gã muốn gột rửa đi những hình ảnh ra khỏi đầu mình, bơm nước vào một bên tai súc rửa những bẩn thỉu tràn ra phía bên kia. Gã muốn trống rỗng, muốn dọn mình đón nhận lời Chúa. Sau đó gã vui mừng, cho dù nó chỉ là một chữ lặp đi lặp lại nhiều lần. Một cái tên vang trong đầu hắn như chuông nhà thờ.
Sofia.
Levi nghe lại lần nữa.
Tên cô bé.
Gã tiếp tục bước đi và cảm thấy dòng nước ấm trên mặt. Phải mất cả dặm đường trước khi gã hiểu được mình đang khóc. Gã không quan tâm. Chẳng ai thấy gã ở ngoài này, vợ gã không, hàng xóm cũng không, không ai giễu cợt gã khi người ta nói những điều mà gã không hiểu, hay cười nhạo gã vì sự yên lặng khi gã tìm thấy những con thú vật bị chết dọc đường. Cho nên gã cứ để những giọt lệ tuôn trào. Gã lắng nghe lời Chúa, và để những dòng lệ nóng tuôn rơi trên khuôn mặt kinh dị của mình.
Gã cố nhớ đêm sau cùng mà gã được ngủ, nhưng không thể nhớ ra. Tuần lễ vừa qua là một chuỗi đủ chuyện chắp thành những hình ảnh mờ nhòe. Đào bới trong đất cát. Đi bộ.
Những gì gã làm...
Những gì.
Levi nhắm nghiền đôi mắt, quá mệt mỏi; và khi chân của gã quỵ xuống, gã ngã gục trên nền đất sét trơn trượt. Gã trơn trượt xuống trườn dốc qua những tảng đá xé rách da thịt gã. Gã đập đầu vào một cái gì đó cứng, thấy vùng ánh sáng chợt lóe lên, và cảm thấy nỗi đau điếng bùng nổ một bên người. Nó đâm xuyên người gã, kinh khủng, gai tua tủa và trơ sống. Gã cảm thấy một cái gì đó như văng bể ra, lộn nhào hung tợn, và phát hiện ra cái thùng đã bay mất tiêu. Hai tay gã đập níu, một lần chạm phải nhựa dẻo và cảm thấy nó tụt đi mất.
Nó ở dưới dòng sông.
Ôi Thượng đế, nó biến mất trong tăm tối.
Levi trố mắt nhìn vào dòng nước đen ngòm và ánh sáng yếu ớt long lanh. Đôi tay to lớn của gã ghì chặt. Levi không biết bơi.
Gã lo lắng trong khoảng một giây đồng hồ, nhưng rồi cũng lao xuống nước trước khi Chúa bảo gã nhảy. Gã rơi xuống, chân doãi ra, hai tay dang ra, và cảm thấy nước bẩn đang thốc vào mồm gã. Gã trồi người lên nhổ tóe ra, rồi lại ngụp lặn trong làn nước, hai tay ầm ầm dưới nước, nước chảy siết và lạnh cóng giữa các ngón tay. Gã vùng vẫy, sặc nước và sợ hãi rằng mình có thể toi mạng, rồi sau đó nhận ra nước chỉ cao ngang ngực gã. Gã đứng dậy và lội bì bõm xuôi dòng nước, xé qua những tia sáng mong manh cho đến khi tìm được kiện hàng xoay vòng hờ hững đằng sau một cái cây đổ.
Gã vất vả khổ sở mang nó vào bờ, bò ngược lên bờ sông trên cao, mặc kệ sự đau đớn có thể làm gã tàn phế. Một lần nữa gã lại nghĩ về vợ gã.
Lẽ ra cô ta không nên làm những gì đã làm.
Gã ôm cứng lấy kiện hàng. Đau đớn hành hạ thân xác. Một điều gì đó không bình thường đang diễn ra trong cơ thể của gã.
Cô ta lẽ ra không nên làm như vậy.
Cuối cùng, Levi nằm vật xuống, vẫn co quắp vòng quanh kiện hàng, rên la quằn quại.
-----------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét