Thứ Tư, 7 tháng 2, 2018

Khúc Cầu Hồn - Chương 3 & 4

Khúc Cầu Hồn

Tác giả: John Hart
Dịch giả: Phạm Thiện
Công ty phát hành Alphabooks & Nhà xuất bản Thời Đại
Ngày xuất bản: 04/2011

Ba

Thám tử Hunt ngồi ở dãy bàn làm việc trong văn phòng. Những chồng hồ sơ rơi xuống từ nóc tủ và mấy cái ghế không sử dụng. Những cốc đựng ca phê cáu bẩn, những thông báo mà ông cũng chưa hề đọc. Bây giờ là 9:45. Văn phòng bừa bộn, nhưng ông cũng không còn hứng khởi để đương đầu với chúng. Ông xoa hai tay lên mặt, dụi hốc mắt cho đến khi ông thấy những vệt trắng và đốm sáng loé lên. Mặt ông sần sùi, không cạo râu, và ông cũng thừa biết diện mạo của ông đúng nghĩa của một gã bốn mươi mốt tuổi đời. Ông sụt mất khá nhiều cân, ốm bớt nên bộ quần áo vest mặc trên người như thể treo trên cái giá xương thịt. Trong suốt sáu tháng ông cũng không hề lai vãng tới phòng tập thể thao hoặc sân tập bắn. Ông rất hiếm khi ăn hơn một bữa trong ngày, và chuyện này cũng không có gì quan trọng với ông.
Trước mặt, ông trải đều tập hồ sơ của Alyssa Merrimon. Còn một bộ photo ông cất trong ngăn kéo bàn làm việc ở nhà. Ông lật cẩn thận từng trang, đọc tất cả những từ ngữ trong đấy: tường thuật, phỏng vấn, báo cáo tóm lược. Khuôn mặt của Alyssa phóng lớn từ bức ảnh chụp trong trường học nhìn ông đăm đăm. Cũng một màu tóc đen như cậu anh ruột. Cũng cùng một tạng mặt, cùng màu mắt đen đậm. Kiểu cười đầy bí ẩn. Thánh thiện, như bà mẹ cô, một cái gì thanh tao, cao thượng mà chính ông cũng không tài nào nhìn ra được. Có thể do kiểu mắt nghiêng của cô bé ấy? Tai cuốn gọn về phía sau và nước da nâu vàng? Sự ngây thơ hồn nhiên? Và cũng là điều thám tử Hunt thường trở đi trở lại. Cô bé có cái nhìn như cô chưa từng có những ý nghĩ kém lành mạnh hoặc làm điều gì không tử tế suốt cuộc đời. Rồi đến hình ảnh mẹ cô, anh trai cô. Họ có những điểm tương tự, ít nhiều gì đó, nhưng không ai như cô bé.
Thám tử Hunt xoa mặt một lần nữa.
Ông đã dấn quá sâu, ông biết điều này; nhưng vụ án này có một ma lực bám chặt lấy ông. Đảo quanh một vòng trong văn phòng thì hiểu vì sao. Nhiều vụ án cần thời gian điều tra. Nhiều người khác. Người bằng da bằng thịt và cũng đau khổ như trường hợp của gia đình Merrimon; nhưng những vụ án này bị phớt lờ, coi nhẹ, và ông cũng không hiểu tại sao. Cô bé ấy không biết bằng cách nào đã theo ông đi vào giấc mơ khi ngủ. Cô vẫn mặc bộ quần áo như ngày cô mất tích: quần vàng nhạt, áo trắng. Cô chập chờn trong giấc mơ của ông. Tóc ngắn. Nặng gần bốn mươi kilogram. Một ngày xuân ấm áp. Không một dấu hiệu nào báo trước cho đến khi xảy ra vụ án; giấc mơ bắt đầu như một phát súng đại bác, nổ tung trời, đầy đủ màu sắc và âm thanh. Một cái gì đó lôi cô bé vào một nơi âm u ám chướng dưới những cây to, lôi kéo cô bé xuyên qua những đám lá cây ấm nóng và mục rữa. Cánh tay dang rộng, hàm răng trắng đều. Ông lao chụp theo bàn tay, hụt, và cô bé gào thét khi những ngón tay dài kéo cô mất hút vào một nơi chốn nào đó tối thẳm, mênh mông.
Mỗi lần giấc mơ đó xảy ra, ông lại choàng dậy, người đẫm mồ hôi, hai tay chới với vô vọng cứ như ông đang cào bới qua đống lá cây. Giấc mơ theo ông vào giấc ngủ hai hoặc ba đêm hàng tuần, và lần nào cũng mơ y như lần trước. Ông bật tung ra khỏi giường đôi khi đến ba lần trong đêm, run lật bật, sau đó hắt nước lạnh lên mặt và đờ người nhìn vào đôi mắt đỏ ngầu của mình trong gương trước khi đi xuống nhà dưới để lục lọi mò tìm trong chồng hồ sơ không biết bao nhiêu canh giờ trước khi con trai của ông thức giấc và một ngày mới phủ chụp những ngón tay của nó lên da thịt của ông.
Giấc mơ trở thành cõi địa ngục riêng tư của cá nhân ông, chồng hồ sơ như một tập tục, một tôn giáo; và nó dường như đang ăn tươi nuốt sống ông.
- Chào sếp.
Thám tử Hunt giật mình, ngước nhìn lên. Đứng trong cửa là thám tử John Yoakum, cộng sự và cũng là bạn thân của ông.
- Ô kìa, John, chào ông.
Yoakum sáu mươi ba tuổi, mái tóc nâu thưa thớt và hàm râu quai nón mỏng điểm những cọng bạc. Ông ấy gầy nhưng rắn chắc, thông minh một cách nguy hiểm và đa nghi đến đáng sợ. Cả hai cộng tác với nhau được bốn năm, làm việc chung khoảng một chục vụ án, và thám tử Hunt hài lòng với Yoakum. Ông ta là kẻ kín đáo và rất thông minh, nhưng ông ta có những đức tính thích hợp với công việc đòi hỏi không thể bớt đi lạng nào. Ông làm việc cần mẫn ngày đêm khi công việc đòi hỏi, sống chết bên cạnh người cộng sự của mình; và nếu ông ta có một chút xíu gì mờ ám, một chút xíu riêng tư không muốn ai can dự việc của riêng mình, thì thám tử Hunt cũng thông cảm được với ông ở điểm này.
Yoakum lắc đầu.
- Tôi cũng muốn sống thử một đêm xem vì sao mà ông trông lại thảm thế này.
- Không nên, đừng mơ ước điều đấy.
Yoakum ngừng đùa cợt và lời nói chắc nịch.
- Tôi hiểu điều đó, Clyde ạ. Tôi đùa ông một tí thôi. - Ông nói, lắc đầu qua sau vai. - Tôi có nhận một cú điện thoại. Có lẽ ông muốn nghe.
- Thế à. Tại sao lại thế?
- Vì nó liên quan đến cậu nhỏ Johnny Merrimon.
- Thật vậy hả?
- Một bà nào đó muốn nói chuyện với cảnh sát. Tôi nói với bà ấy tôi là viên cảnh sát duy nhất trực ngày hôm nay. Bà ta bảo bà ta đang rất hoang mang. Tôi nói, vậy sao, tôi nghe rõ. Ép buộc tra hỏi quá đáng đúng kiểu cách một gã cớm.
- Đường dây số mấy, gã kiêu ngạo kia?
Yoakum nhe hàm răng giả trắng đều.
- Số ba, - ông ta nói và quay lưng bỏ đi với điệu bộ ngạo mạn.
Hunt nhấc ống nghe và bấm nút nhấp nháy đường dây số ba.
- Đây là thám tử Hunt.
Trước tiên là sự yên lặng, tiếp sau là giọng người phụ nữ. Giọng người lớn tuổi.
- Thám tử sao? Tôi cũng không chắc tôi có cần một vị thám tử không nữa. Không có gì quan trọng lắm. Tôi nghĩ ai đó nên biết điều này.
- Không sao, thưa bà. Làm ơn cho tôi biết danh tính của bà?
- Louisa Sparrow, như một loài chim.
Giọng nói nghiêm nghị:
- Có chuyện gì vậy, thưa bà Sparrow?
- Nó liên quan đến chú bé tội nghiệp. Ông có biết không, chú bé có cô em gái bị mất tích ấy.
- Johnny Merrimon.
- Đúng rồi đó. Cậu bé tội nghiệp đó...- Bà ta xởi lởi trong giây lát, sau đó nghiêm giọng: - Cậu ta mới có mặt ở nhà tôi... mới đây thôi.
- Với bức ảnh cô em gái cậu ấy, - Hunt ngắt lời.
- Đúng vậy. Làm sao ông biết điều đó
Thám tử Hunt làm ngơ câu hỏi.
- Làm ơn cho tôi xin địa chỉ nhà bà, thưa bà?
- Cậu ấy không bị rắc rối chứ hả, đúng không? Cậu ấy đã khổ sở lắm rồi, tôi biết điều này. Hôm nay là ngày học sinh đến trường, nhìn thấy bức ảnh cô bé gái như vậy, và nhìn cậu ấy giống y như cô bé, dường như cậu ấy cũng không lớn lên được chút nào khiến tôi rất buồn; và những câu cậu ấy hỏi tôi cứ như thể tôi ít nhiều liên can đến chuyện cô em cậu ấy mất tích vậy.
Thám tử Hunt liên tưởng đến lúc ông gặp Johnny ở siêu thị. Đôi mắt sâu thẳm. Sự bạc nhược.
- Thưa bà Sparrow...
- Dạ tôi đây.
- Tôi rất cần địa chỉ nhà bà.
Thám tử Hunt tìm được Johnny Merrimon chỉ cách nhà bà Louisa Sparrow một dãy nhà. Cậu ngồi trên vỉa hè, hai chân vắt chéo trên rãnh nước. Áo ướt đẫm mồ hôi và tóc tai dính bết trên vầng trán. Chiếc xe đạp cũ kỹ nằm lăn lóc trên sân cỏ của nhà nào đó. Cậu đang nhai đuôi bút và cúi gằm người xuống tấm bản đồ phủ lên đùi cậu như một tấm chăn. Cậu hoàn toàn tập trung, chỉ giật mình ngẩng lên khi thám tử Hunt đóng sầm cửa xe ô tô. Trong khoảnh khắc đó trông cậu như một con thú bị làm kinh động, nhưng sau đó đã định thần trở lại. Hunt thấy được trong đôi mắt của cậu sự quyết chí và một điều gì đó sâu thẳm hơn.
Chấp nhận.
Sau đó ranh mãnh.
Mắt cậu định lượng khoảng cách, như thể cậu có thể phóng lên xe đạp và trốn chạy ngay. Cậu liếc nhìn nhanh về cánh rừng sát cạnh bên, nhưng thám tử Hunt bước đến gần hơn, và cậu rũ người ra.
- Chào ông Thám tử.
Hunt tháo bỏ mắt kính râm. Bóng của ông phủ chụp lên đôi chân cậu.
- Chào cậu Johnny.
Johnny bắt đầu gấp tấm bản đồ.
- Tôi biết những gì ông sắp nói, nên ông không cần thiết phải nói.
Hunt chìa bàn tay ra.
- Tôi có được phép xem tấm bản đồ ấy không?
Johnny cứng lạnh, cái dáng dấp của con thú bị săn đuổi một lần nữa hiện lên trên khuôn mặt cậu. Cậu nhìn xuống con đường dài, sau đó nhìn vào tấm bản đồ. Hunt tiếp tục:
- Tôi có nghe nói về tấm bản đồ ấy, cậu biết đó. Ban đầu tôi cũng không tin chuyện đó, nhưng nhiều người nói với tôi về điều này. - Đôi mắt Hunt nghiêm khắc nhìn thẳng vào cậu bé. - Lần này là lần thứ bao nhiêu rồi, Johnny? Tôi đã nói với cậu chuyện này bao nhiêu lần rồi? Bốn? Hay năm lần?
- Bảy lần. - Giọng cậu lí nhí. Những ngón tay trắng bệch trên bản đồ.
- Tôi sẽ trả nó lại.
Cậu nhìn lên, đôi mắt đen long lanh, ý tưởng ranh mãnh tiêu tan. Cậu chỉ là một đứa trẻ. Cậu sợ hãi.
- Ông hứa như vậy nhé?
Cậu thật bé nhỏ.
- Tôi hứa với cậu, Johnny.
Johnny đưa tay lên và những ngón tay của Hunt đón lấy tờ bản đồ. Tờ giấy mềm nhũn, những nếp gấp gẫy tưa ra thớ giấy trắng. Ông ngồi xuống lề đường sát bên cậu, giở tung bản đồ ra, hai tay dang rộng. Nó to rộng, mực in màu tím trên nền giấy trắng. Ông nhận ra nó là bản đồ thuế thổ trạch, với nhiều tên và địa chỉ của gia chủ. Nó chỉ vẽ một phần của thành phố, khoảng chừng một nghìn bất động sản. Gần một nửa đã được gạch chéo bằng mực đỏ.
- Cậu lấy bản đồ này ở đâu vậy? - Ông hỏi.
- Phòng thuế vụ. Nó cũng không đắt đỏ lắm.
- Cậu có tất cả không? Toàn quận hạt?
Johnny gật đầu, và thám tử Hunt hỏi:
- Còn những dấu đỏ này?
- Những nhà tôi đã gõ cửa, những người tôi đã nói chuyện với họ.
Hunt hớ to. Ông không thể nào tưởng tượng nổi con số những căn nhà đã được gõ cửa, những dặm đường mà chiếc xe đạp cũ kỹ kia đã đi qua.
- Còn những căn nhà đánh dấu hoa thị?
- Đàn ông sống độc thân. Những nơi khiến tôi cảm thấy ớn lạnh xương sống.
Hunt gấp tờ bản đồ, trả lại.
- Những tấm bản đồ kia có đánh dấu không?
- Một số thì có.
- Chuyện này phải được chấm dứt.
- Nhưng mà...
- Không, Johnny. Chuyện này phải được chấm dứt. Những người đó là cư dân thành phố. Họ gọi điện thoại than phiền với chúng tôi.
Johnny đứng dậy.
- Nhưng tôi đâu làm điều gì vi phạm pháp luật!
- Cậu là kẻ trốn học, cậu còn nhỏ tuổi. Hôm nay cậu lại trốn học. Hơn nữa, chuyện này rất nguy hiểm. Cậu không hề biết ai là người sống trong những căn nhà kia. - Ông ta búng một ngón tay trên bản đồ; ngón tay bật xuống tờ giấy và Johnny kéo nó đi. - Tôi không thể để mất thêm một đứa trẻ nữa.
- Tôi tự lo cho bản thân mình được.
- Đúng, cậu nói với tôi điều này sáng hôm nay.
Johnny quay mặt nhìn đi hướng khác, thám tử Hunt dò xét khuôn mặt gầy gò của cậu. Ông bắt gặp một cái lông chim được buộc vào sợi dây đeo trên cổ. Nó màu xám trắng trên nền áo màu bạc phếch. Hunt chỉ tay, nhằm thay đổi bầu không khí.
- Cậu có cái gì đó?
Johnny giơ tay cao lên cổ. Cậu nhét cái lông xuống bên dưới lớp áo.
- Nó chỉ là cái lông chim.
- Một cái dây có đính lông chim?
- Để cầu may mắn.
Hunt thấy những ngón tay cậu bé chuyển sang màu trắng, và thấy một cái lông khác buộc vào chiếc xe đạp. Cái lông này lớn hơn, toàn màu nâu.
- Còn cái lông này thì sao? - Ông chỉ vào nó. - Lông chim ưng? Hay cú?
Khuôn mặt cậu bé không phản ứng, cậu yên lặng.
- Cái lông này cũng để cầu may?
- Không. - Johnny dừng lại, nhìn về hướng khác. - Cái đó khác.
- Johnny... Cậu có theo dõi tin tức tuần qua không? Người ta tìm thấy một cô gái bị bắt cóc ở Colorado. Cậu có biết cô ấy không?
- Tôi biết cô ấy. Cô ta biến mất gần một năm và người ta tìm thấy cô chỉ cách nhà cô ấy ba dãy nhà. Suốt năm ấy cô ta chỉ ở cách nhà chưa đầy một dặm đường. Chỉ khoảng dặm đường, họ nhốt cô ấy dưới hầm đất được đào dưới hầm rượu. Bịt kín mít và trong ấy chỉ có cái thùng và miếng nệm.
- Johnny...
- Họ đăng những hình ảnh đó trong mục tin tức. Một cái thùng. Cây nến. Tấm nệm bẩn thỉu. Trần nhà chỉ cao một mét hai. Nhưng họ đã tìm thấy cô ấy.
- Đó mới chỉ là một vụ án thôi đấy, Johnny.
- Tất cả đều giống như nhau. - Johnny quay đầu trở lại, đôi mắt cậu vẫn tối đen trong hố thẳm. - Kẻ đó là một người hàng xóm hoặc người bạn, một kẻ nào đó mà cô ấy biết mặt hoặc có thể là căn nhà mà cô ấy đi qua hằng ngày. Và khi chúng ta tìm đến họ, họ luôn cửa đóng then cài. Ngay cả khi họ qua đời rồi, họ vẫn đóng kín.
- Chuyện không phải lúc nào cũng là như vậy.
- Nhưng đôi khi. Đôi khi nó là như vậy.
Thám tử Hunt cũng đứng dậy, giọng của ông nhỏ nhẹ.
- Đôi khi như vậy.
- Chỉ vì ông bỏ cuộc không có nghĩa tôi cũng phải làm điều đó.
Nhìn cậu trai trẻ và niềm tin mãnh liệt của cậu ta, Hunt cảm thấy buồn bã. Ông là vị thám tử của sở cảnh sát chuyên giải quyết những vụ án nghiêm trọng, và cũng vì lẽ này ông phụ trách điều tra trường hợp mất tích của cô bé Alyssa. Hunt làm việc cật lực ngày đêm hơn bất cứ nhân viên công lực nào ngõ hầu đoàn tụ cô bé bất hạnh đó trở về với gia đình. Ông đã vất vả nhiều tháng trời, bỏ bê luôn cả gia đình mình cho đến khi người vợ của ông, tuyệt vọng và ngấm ngầm thịnh nộ, rời bỏ ông. Để được gì? Cô bé Alyssa biến mất, mất luôn hy vọng mong manh nếu họ may mắn tìm được thi thể của cô. Chuyện xảy ra ở Colorado không ảnh hưởng gì. Hunt hiểu một điều rằng: Phần lớn bị thiệt mạng ngay trong ngày khi màn đêm buông phủ. Nhưng điều này cũng không giúp công việc dễ dàng tí nào. Ông vẫn muốn mang cô bé ấy về đoàn tụ với gia đình. Bằng cách này hay cách khác.
- Hồ sơ vụ án vẫn mở, Johnny. Chưa người nào bỏ cuộc.
Johnny dựng chiếc xe đạp lên. Cậu cuốn tờ bản đồ và nhét vào sau túi quần.
- Tôi phải đi đây.
Thám tử Hunt nắm chặt lấy gi-đông xe. Tay ông cảm nhận những vết rỉ sét và hơi nóng bức xạ từ ánh mặt trời.
- Tôi đã nhân nhượng nhiều với cậu. Tôi không thể làm như vậy mãi được. Chuyện này phải chấm dứt.
Johnny lôi chiếc xe đạp lại từ tay Hunt nhưng cũng không làm sao dịch chuyển được nó. Cậu hét to. Chưa bao giờ Hunt nghe thấy tiếng hét to như vậy.
- Tôi có thể tự lo liệu mọi chuyện.
- Nhưng chuyện đâu chỉ có đơn giản như vậy, Johnny. Tự lo cho mình không phải công việc của cậu. Đó là bổn phận của mẹ cậu, và sự thật thì, tôi không chắc bà ấy có lo được cho bản thân bà ta không nữa, nói chi đến đứa trẻ mười ba tuổi.
- Có thể điều ông nói là đúng, nhưng có nhiều chuyện ông không biết gì cả.
Viên thám tử đứng yên định thần. Ông ta quan sát sự việc đi từ phẫn nộ đến sợ hãi, ông hiểu cậu bé này cần niềm hy vọng ở ông hơn bao giờ hết. Nhưng thế giới này không phải một nơi chốn tử tế đối với con trẻ, và sự kiên nhẫn chịu đựng của Hunt đã đến điểm giới hạn với Johnny Merrimon.
- Nếu cậu vén áo cậu lên ngay bay giờ, thử hỏi trên thân thể cậu có bao nhiêu vết bầm?
- Tôi có thể tự lo cho chính tôi. - Giọng nói như một phản xạ và yếu ớt.
Hunt hạ giọng.
- Tôi đâu thể giúp cậu được điều gì nếu cậu không chịu nói chuyện với tôi.
Johnny đứng thẳng, buông chiếc xe đạp ra.
- Tôi đi bộ, - cậu nói, và quay bước.
- Johnny.
Cậu bé vẫn rảo bước.
- Johnny!
Khi cậu dừng bước, Hunt dắt chiếc xe đạp trao cho cậu. Những cái nan hoa kêu tíc tắc khi bánh xe xoay tròn. Johnny cầm lấy ghi-đông khi Hunt giao trả chiếc xe đạp lại cho cậu.
- Cậu vẫn giữ danh thiếp của tôi chứ?
Johnny gật đầu, thám tử Hunt thở hắt ra. Ông không thể nào giải thích sự cảm thông của ông dành cho người bạn trẻ này, ngay chính cả cho ông. Có thể ông thấy được một điều gì đó ở cậu bé. Có thể ông cảm nhận nỗi đau dữ dội hơn cậu bé.
- Giữ nó nhé, được không. Gọi tôi bất cứ lúc nào.
- Được rồi.
- Tôi không muốn nghe về chuyện cậu làm như thế này nữa.
Johnny không nói câu nào.
- Cậu đi thẳng đến trường học chứ hả?
Yên lặng.
Thám tử Hunt nhìn lên bầu trời trong xanh, rồi nhìn cậu bé. Tóc cậu đen và ướt đẫm, hàm răng nghiến chặt.
- Cẩn thận nhé, Johnny.

Bốn

Người đời nói không đúng. Cảnh sát tiên liệu đúng phần này. Johnny đã thám sát quá nhiều hàng rào và cửa sổ mà cậu không thể nào đếm hết được. Cậu gõ quá nhiều cửa ở bất cứ giờ khắc nào và qua đó chứng kiến nhiều chuyện khó có thể chấp nhận. Những chuyện người đời làm ở nơi người ta tưởng chỉ có họ và không ai nhòm ngó. Cậu từng thấy nhiều nhóc tì hít xì-ke và người lớn ăn thức ăn rớt xuống nền nhà. Có lần cậu thấy một ông mục sư trong bộ quần áo lót, mặt mũi đỏ phừng phừng hét mắng bà vợ trong lúc bà đang khóc. Một bức tranh xã hội đảo lộn. Nhưng Johnny không phải kẻ ngớ ngẩn. Cậu biết những kẻ khùng điên khoác ra ngoài bộ mặt giống như bất kỳ ai. Do vậy cậu âm thầm hoạt động. Cậu luôn buộc chặt dây giầy và thủ một con dao gấp trong túi. Cậu luôn cẩn thận.
Cậu là đứa trẻ thông minh.
Bốn Người đời nói không đúng. Cảnh sát tiên liệu đúng phần này. Johnny đã thám sát quá nhiều hàng rào và cửa sổ mà cậu không thể nào đếm hết được. Cậu gõ quá nhiều cửa ở bất cứ giờ khắc nào và qua đó chứng kiến nhiều chuyện khó có thể chấp nhận. Những chuyện người đời làm ở nơi người ta tưởng chỉ có họ và không ai nhòm ngó. Cậu từng thấy nhiều nhóc tì hít xì-ke và người lớn ăn thức ăn rớt xuống nền nhà. Có lần cậu thấy một ông mục sư trong bộ quần áo lót, mặt mũi đỏ phừng phừng hét mắng bà vợ trong lúc bà đang khóc. Một bức tranh xã hội đảo lộn. Nhưng Johnny không phải kẻ ngớ ngẩn. Cậu biết những kẻ khùng điên khoác ra ngoài bộ mặt giống như bất kỳ ai. Do vậy cậu âm thầm hoạt động. Cậu luôn buộc chặt dây giầy và thủ một con dao gấp trong túi. Cậu luôn cẩn thận.
Cậu là đứa trẻ thông minh.
Johnny không quay đầu ngó lại cho đến khi cậu đi được hai dãy phố. Khi quay đầu nhìn, cậu thấy thám tử Hunt vẫn đứng trên đường, một đốm màu sắc ở xa tít giữa các xe ô tô sậm màu và đám cỏ xanh. Trong một khoảnh khắc, ông cớm đứng yên như pho tượng, sau đó đưa tay lên vẫy chậm rãi, nhưng Johnny đạp xe nhanh mất dạng, cẩn thận không dám quay đầu nhìn lại phía sau. Ông ta làm cậu sợ hãi, và Johnny ngạc nhiên không hiểu làm sao ông ấy biết những chuyện như vậy. Năm.
Con số bỗng dưng nảy lên trong đầu cậu.
Năm vết bầm.
Cậu đạp nhanh hơn, dồn hết sức lực lên đôi chân cho đến khi lưng ướt đẫm và cái áo bám chặt da thịt như lớp da thứ hai. Cậu lao nhanh về hướng bắc, tít tận cùng ngoài rìa thị xã, đến cái nơi mà con sông luồn chảy dưới cây cầu và lan rộng ra cho đến khi dòng chảy không còn siết nữa. Cậu phóng xe lao xuống bờ sông và vứt chiếc xe lăn lóc. Máu bơm mạnh trong hai lỗ tai và lưỡi cậu mặn chát. Hai mắt cay xè, cậu đưa cổ tay áo bẩn thỉu lên chùi quẹt. Nơi đây cậu từng ngồi câu cá với bố. Cậu biết rất rõ cá vược nương náu ở đâu và những con cá phi lau to lớn chui lủi dưới đáy bùn một mét rưỡi nước, nhưng những chuyện này bây giờ không thành vấn đề. Cậu sẽ không bao giờ câu cá ở chốn này, nhưng cậu vẫn đến đây.
Nơi đây vẫn là nơi của cậu.
Johnny ngồi trong bóng râm tháo dây giày. Những ngón tay run lẩy bẩy và cậu cũng không hiểu tại sao. Đôi giầy được tháo ra, cậu sờ soạng tìm cái lông, quét nó trên gò má của mình và sau đó nhét nó vào trong lớp áo. Ánh nắng mặt trời hắt những tia nóng gay gắt trên da thịt, cậu nhìn những vết bầm trên da thịt, vết lớn nhất to và có hình dạng như đầu gối người lớn. Nó ôm trọn những cái xương sườn bên trái và cậu nhớ rất rõ lão Ken từng ghì người cậu xuống bằng đầu gối ông ta, dồn hết sức nặng cơ thể của gã lên người cậu bất cứ khi nào Johnny cố vùng vằng thoát ra.
Johnny xoay vai, cố quên chúng đi, đầu gối ghì trên ngực, ngón tay tì trên mặt.
Mày sẽ phải làm những cái chết tiệt mà tao nói...
Những cái tát tai nẩy lửa trên khuôn mặt Johnny, trước tiên bên này, rồi đến bên kia, mẹ của cậu bất tỉnh ở phòng sau nhà.
Mày... cái thứ nhóc tì chết bầm...
Thêm một cái tát, mạnh hơn.
Thằng bố mày hiện giờ ở đâu?
Vết bầm giờ đã chuyển màu vàng ở ngoài viền, ở giữa ngả qua màu xanh lục; và đau nhói mỗi khi cậu dùng ngón tay ấn vào nó. Da thịt ở vùng vết bầm chuyển sang màu trắng một vài giây - tạo thành một vòng ô-van - và tiếp đó màu sắc biến đổi trở lại. Johnny lau nước mắt mặn chát trên mắt của cậu, và khi đi xuống dòng sông, cậu lại vấp ngã. Cậu bước xuống sông, đất lèn vào giữa các ngón chân. Khi cậu lặn chúi xuống, một dòng nước ấm bao phủ lấy cơ thể. Nó phủ chụp, cuộn tròn lấy cậu, tách rời thế giới và bảo bọc cậu vô điều kiện.
Cậu lang thang hai giờ ở con sông, quá lo lắng về thám tử Hunt nên không thể mạo hiểm tiếp tục công cuộc tìm kiếm, nhưng cũng do quá ngờ vực về trường học nên việc đi học không còn đáng với thì giờ. Cậu bơi ngang dòng sông và bơi ngược trở lại, nhảy lặn xuống dòng nước từ những phiến đá phẳng nung nóng bởi ánh nắng mặt trời. Gỗ trôi xếp hàng hàng lớp lớp và gió lộng lướt trên mặt nước. Đến gần trưa, người mệt lả, cậu duỗi thẳng người, nằm trên phiến đá phẳng cách cây cầu mười hai mét về hướng hạ lưu, khuất đằng sau cây liễu phủ quét những chiếc lá dài trong dòng nước đen. Xe ô tô qua lại làm cho cây cầu rung lên. Bỗng một hòn sỏi được ném chạm vào mõm đá ngay bên cạnh đầu. Cậu ngồi bật dậy thì thêm một viên nữa bay trúng bả vai. Cậu nhìn xung quanh không thấy ai. Một viên đá thứ ba chọi trúng chân và văng ra. Cục sỏi khá lớn gây đau điếng. “Liệng thêm một cục nữa là mày sẽ chết”.
Im lặng.
- Tớ biết đó là cậu mà, Jack.
Johnny nghe tiếng cười, Jack từ bìa rừng bước ra. Cậu mặc cái quần jeans cắt cụt ngang và đôi giày bẩn thỉu. Áo sơ mi màu trắng ngà, với hình ảnh ca sĩ Elvis trắng đen lộn ngược in trên đó. Cậu đeo balô trên vai, tay cầm một nắm sỏi. Một bên mồm nhếch lên, tóc bôi kem chải ngược ra sau. Johnny quên bẵng đi hôm nay là thứ Sáu.
- Cậu đi bụi mà không rủ tớ đi cùng.
Jack bước đến. Cậu ta nhỏ người, tóc hung vàng, mắt nâu, một tay bị thương tật khá nặng. Tay phải bình thường, nhưng khó mà không nhận ra cánh tay bên trái. Nó ngắn lại và nhỏ, chừng như ai đó đóng đinh cánh tay của đứa trẻ lên sáu vào cơ thể đứa trẻ tuổi gấp đôi vậy.
Johnny hỏi:
- Cậu giận lắm phải không?
- Đúng vậy.
- Tớ đứng yên để cậu đấm một cú là mình huề.
Jack cười gượng gạo.
- Phải ba đấm, - hắn nói.
- Ba đấm bằng cánh tay con gái.
- Hai đấm bằng cái búa. - Jack nắm bàn tay lành lặn, và cười nhạt. - Đừng có thách.
Hắn bước lại gần hơn và Johnny co tay lên, kéo về thủ chặt vai. Jack đứng xoạc chân, co cánh tay với nắm đấm.
- Đấm thế này sẽ đau đớn lắm đấy.
- Đấm đi, đồ gà mái.
Jack đấm vào cánh tay của Johnny hai lần. Cậu ta đấm thật mạnh, và khi rút chân về, mặt mũi cậu hân hoan.
- Sức tàn của cậu chỉ còn bao nhiêu thế thôi sao! - Johnny cong cánh tay lên, quăng một hòn sỏi và Jack né người tránh.  - Làm sao cậu biết tớ có mặt ở đây?
- Chuyện đó đâu khó khăn gì.
- Vậy tại sao đến giờ này cậu mới thò mặt đến?
Jack ngồi xuống phiến đá cạnh Johnny. Bỏ ba lô ra và cậu cũng cởi phăng chiếc áo sơ mi. Da thịt cậu đỏ ửng, bung tróc từng mảng trên cả hai vai. Sợi dây chuyền bé tí đeo trên cổ, mặt dây là cây thánh giá bạc. Nó lúc lắc vung mạnh khi cậu mở cái balô, ánh sáng bạc lấp lánh trong nắng.
- Tớ phải về nhà lấy thêm tiếp tế. Bố tớ vẫn ở đó.
- Ông ta không thấy cậu chứ, đúng không?
Ông bố của Jack là người nghiêm khắc, một ông cớm khó tính, và Johnny tránh né ông ta như tránh hủi.
- Cậu thấy tớ có giống thằng ngáo không? - Cánh tay lành lặn của Jack biến mất vào trong ba lô.  -Vẫn còn lạnh,” cậu nói, và lôi ra một lon bia. Cậu đưa cho Johnny, sau đó lấy ra lon khác.
- Bia lấy trộm à. - Johnny lắc đầu quầy quậy. - Cậu sẽ bị đốt cháy dưới hỏa ngục cho xem.
Jack nhanh chóng cười ruồi:
- Thượng đế sẽ thông cảm cho những tội lỗi nhỏ bé.
- Đó không phải những điều mẹ cậu nói.
Jack cười vang:
- Mẹ tớ là con chiên ngoan đạo và sợ trời hơn sợ rắn mà, Johnny. Cậu cũng biết mà. Bà ấy cầu nguyện cho linh hồn của tớ cứ như thể tớ sẽ bốc lên cháy bùng như ngọn đuốc bất cứ lúc nào. Bà cầu nguyện ở nhà. Bà còn cầu nguyện giữa nơi công cộng nữa.
- Thôi đi.
- Cái lần mà tớ bị bắt quả tang gian lận? Nhớ không?
Chuyện đó đã trôi qua ba tháng. Johnny hồi tưởng.
- Nhớ chứ. Giờ học môn lịch sử.
- Tụi mình có một buổi họp với thầy hiệu trưởng, đúng không? Trước khi buổi họp chấm dứt, mẹ tớ buộc tớ quỳ gối, nguyện cầu Thượng đế chỉ cho đường ngay lẽ thẳng.
- Nhảm nhí quá.
- Không nhảm tí nào. Ông ta quá sợ hãi bà ấy. Lẽ ra cậu nên nhìn khuôn mặt ông ấy, thảm não tím tái, một mắt liếc trộm xem chừng bà ấy có đang nhìn ông ta khi ông ta nhìn bà hay không.
Jack khui lon bia, nhún vai.
- Dẫu sao cũng không trách ông ta được. Bà ấy đã chìm đắm quá sâu và bà ấy cũng cố gắng lôi kéo ông ta đi theo. Tuần rồi bà ấy thỉnh mục sư đến nhà cầu nguyện cho tớ.
- Tại sao?
- Đề phòng trường hợp tớ tự thủ dâm.
- Tớ chẳng tin một tí nào.
- Đời sống nó cứ như một vở hài kịch, - Jack nói, nhưng không thể nào còn sức để cười. Mẹ cậu là người sợ hãi đến cuồng tín, hãnh diện tái sinh và không chấp nhận bất cứ thỏa hiệp nào. Bà luôn canh cánh bên mình Jack với những đe dọa bị thiêu cháy trong hỏa ngục và trừng phạt. Cậu giả mù sa mưa, nhưng những rạn nứt bắt đầu hiển hiện.
Johnny khui lon bia.
- Bà ấy có biết bố cậu vẫn uống không?
- Bà ấy nói Thượng đế không chấp nhận như vậy, sau đó bố phải mang tủ lạnh chứa bia ra ngoài nhà để xe, cả rượu của ông luôn. Điều này dường như giải quyết được vấn đề.
Jack tu chai bia. Johnny uống một ngụm.
- Bia gì mà tệ quá Jack.
- Ăn mày mà còn đòi xôi gấc. Đừng làm tớ nổi giận mà thụi cậu vài quả đấm nữa. - Jack tu ừng ực một hơi hết lon bia, sau đó nhét lon không vào túi và lôi lon khác ra.
- Cậu làm xong bài luận môn Lịch sử chưa?
- Tớ đã nói sao với cậu về những tội lỗi nhỏ bé?
Mắt Johnny đảo một vòng đằng sau lưng Jack.
- Chiếc xe đạp của cậu đâu rồi?
- Tớ cũng không biết.
- Không biết tức là sao?
- Tớ cũng không cảm thấy hứng thú đi xe đạp.
- Nó là chiếc xe hiệu T-rex trị giá sáu trăm bạc đấy.
Jack nhìn ra xa, nhún vai.
- Tớ chỉ nhớ chiếc xe cũ. Vậy thôi.
- Vẫn chưa có dấu hiệu gì sao?
- Bị mất cắp rồi, tớ nghĩ vậy. Mất luôn không bao giờ tìm lại được.
Ma thuật của cảm tính, Johnny nghĩ. Chiếc xe đạp cũ của Jack là loại ba số, yên ghế ngu xuẩn, màu vàng khè. Bố cậu mua cũ lại từ ai đó và ít nhất nó cũng phải mười lăm năm tuổi đời rồi. Nó đã được sử dụng khá lâu.
- Bộ cậu nhảy tàu hỏa đấy à?
Mắt Johnny nheo lại nhìn cánh tay teo nhỏ của Jack. Jack đã té văng ra khỏi xe tải khi hắn mới lên bốn và bị chấn động gãy cánh tay, xương tay khi ấy chỉ là xương rỗng. Bác sĩ phải mổ để ghép xương bò vào phần xương rỗng. Ông bác sĩ chắc tài nghệ phải rất kém nên sau đó cánh tay gần như ngừng phát triển. Những ngón tay cũng không cử động đúng nghĩa của nó. Cơ bắp hoạt động rất yếu ớt. Johnny chẳng màng quan tâm chuyện này vì nó không quan trọng gì đến tình bạn hai đứa. Nhưng đó chỉ là chuyện khỏa lấp. Khi đề cập đến nó, Jack dễ bị kích động. Johnny nhìn thấy ánh mắt bạn liếc nhìn.
- Cậu nghĩ tớ không có khả năng nhảy tàu hỏa? - Jack giận dữ.
- Tớ mới chỉ nghĩ đến một anh chàng, cậu biết anh ta mà.
Cả hai biết rõ câu chuyện, một cậu bé mười bốn tuổi cũng học ở một trường học trong quận đã nhảy tàu hỏa và tay chân không biết lúng túng thế nào. Cậu ấy rơi xuống dưới bánh xe và bị nghiến đứt hai chân: một bên ở đùi, bên kia dưới đầu gối. Cậu ấy trở thành tấm gương mà người như Jack cần phải cẩn thận.
- Thằng nhóc đó là đồ chết nhát. - Jack lục lọi bên trong một cái túi phía ngoài của ba lô và mò được gói thuốc lá hương bạc hà. Cậu ta rút ra một điếu bằng cánh tay tật nguyền và kẹp nó giữa hai ngón tay bé xíu và mồi lửa. Hắn rít vào một hơi và nhả khói tròn chữ O.
- Bố cậu cũng mua thuốc lá loại thường sao?
Jack nhìn lên bầu trời xanh thẳm và rít thêm một hơi thuốc. Điếu thuốc lá trên bàn tay nhỏ bé của hắn bỗng dưng to lớn lạ thường.
- Cậu làm một điếu không? - hắn hỏi.
- Tại sao không?
Jack đưa cho Johnny một điếu và để cậu mồi lửa từ đầu điếu thuốc cậu ta đang hút dở. Johnny rít vào một hơi và ho sặc sụa. Jack cười vang.
- Cậu chưa phải dân hút thuốc.
Johnny búng đầu thuốc xuống dòng sông. Nhổ nước miếng xuống đất.
- Thuốc tệ quá, - cậu nhắc lại.
Khi ngước mắt nhìn lên, cậu bắt gặp đôi mắt của Jack trố nhìn những vết bầm mới trên ngực và xương sườn cậu.
- Mấy vết đó mới. - Jack nói.
- Cũng không hẳn là mới.
Johnny quan sát dòng chảy đang kéo một khúc gỗ trôi qua tảng đá.
- Cậu kể lại tớ nghe lần nữa đi. - Johnny nói.
- Kể chuyện gì?
- Về chiếc xe bán tải.
- Trời ơi, Johnny. Cậu thật biết cách làm mất hết hứng thú của một ngày vui vẻ. Tụi mình sẽ còn phải mất bao nhiêu thời gian nói đi nói lại chuyện này. Chẳng có gì thay đổi kể từ lần sau cùng. Hay thời gian trước đó.
- Hãy nói cho tớ nghe đi.
Jack rít một hơi thuốc và quay mặt nhìn đi hướng khác.
- Nó chỉ là chiếc xe bán tải.
- Màu gì?
- Cậu cũng biết màu gì mà. - Jack thở dài, - Màu trắng.
- Còn chuyện những chỗ móp? Trầy xước? Cậu còn nhớ gì khác nữa?
- Chuyện đã một năm rồi Johnny.
- Còn gì khác nữa?
- Quỷ thần ơi, anh bạn. Nó là chiếc xe màu trắng. Màu trắng. Như tớ đã nói với cậu. Như tớ đã khai với cảnh sát.
Johnny chờ đợi và một lúc sau Jack lấy lại bình tĩnh.
- Nó là một chiếc xe bán tải màu trắng trơn, - cậu nói. - Như là loại mà dân thợ sơn hay dùng.
- Cậu chưa bao giờ nói về chi tiết này.
- Tớ có nói mà.
- Không. Cậu diễn tả nó: màu trắng, không cửa sổ đằng sau. Cậu chưa bao giờ nói nó trông giống như xe của dân thợ sơn. Tại sao giờ này cậu mới nói ra? Hai bên hông xe có sơn tràn, văng ra ngoài không?
- Không.
- Thang trên mui xe? Có giá để thang trên mui không?
Jack hút xong điếu thuốc và búng đầu thuốc xuống dòng sông.
- Nó chỉ là chiếc xe bán tải thôi, Johnny. Cô bé ấy đứng cách xa hai trăm mét khi chuyện này xảy ra. Tớ cũng không biết chắc đó là cô ấy cho đến khi tớ biết đích xác cô ấy bị mất tích. Tớ đang trên đường từ thư viện về nhà, cũng như cô ấy. Một đám chúng tớ ở thư viện ngày hôm đó. Tớ thấy một chiếc xe tải trườn tới từ trên đỉnh đồi và dừng lại. Một bàn tay thò ra ngoài cửa xe và Alyssa bước đến cạnh bên. Cô ấy không có dấu hiệu sợ hãi hay gì cả. Cô ấy đơn giản bước đến gần. - Hắn dừng lại. - Sau đó thì cánh cửa mở ra và ai đó vồ lấy cô bé. Một người đàn ông da trắng. Áo thun đen. Như tớ đã nói hàng trăm lần rồi. Cánh cửa đóng sầm lại và chiếc xe lao vút đi. Toàn bộ sự việc chỉ diễn ra khoảng mười giây... Tớ không nhớ được chi tiết nào khác nữa.
Johnny nhìn xuống đất, đá vào tảng đá.
- Tớ xin lỗi. Tớ ước gì tớ đã làm một cái gì đó, nhưng tớ đã không làm điều gì cả. Cứ như thể đó không phải chuyện thật xảy ra.
Johnny đứng im lặng, mắt nhìn xuống dòng sông. Sau một phút, cậu gật đầu.
- Cho tớ lon bia khác.
Hai người uống bia và sau đó bơi dưới sông. Jack hút thuốc lá. Sau một giờ, Jack hỏi:
- Cậu có muốn đi xem một vài căn nhà không?
Johnny ném lướt viên đá và lắc đầu. Jack hứng thú với trò chơi này, một cuộc mạo hiểm. Hắn ưa thích cái trò lọ mọ rình rập và khám phá nhìn ngắm những thứ mà lẽ ra con nít chưa được phép nhìn thấy. Đối với Jack, nó là trò chơi tìm cảm giác mạnh.
- Hôm nay thì không, - Johnny nói.
Jack bước bộ đến chiếc xe đạp của Johnny, tờ bản đồ được kẹp vào giữa những căm xe. Cậu lôi tờ bản đồ ra, cầm nó lên.
- Cái này là gì đây?
Johnny nhìn cậu bạn, sau đó nói cho hắn biết cậu chạm trán với thám tử Hunt.
- Ông ta đánh phủ đầu tớ mọi chuyện.
Jack nghĩ cậu bạn mình nói dóc.
- Ông ta chỉ là ông cớm chứ có gì.
- Bố cậu cũng là cớm mà.
- Ừ, và tớ lấy trộm bia từ tủ lạnh của ông ấy. Điều này nói lên điều gì? - Jack nhổ toẹt nước bọt xuống đất, một dấu hiệu chung khinh tởm giữa hai cậu con trai. - Thôi nhanh lên. Phải làm một cái gì chứ. Nó sẽ giúp cậu cảm thấy thoải mái hơn. Cả hai chúng ta đều biết chuyện này. Và tớ cũng không thể suốt ngày ngồi chôn chân ở đây.
- Không được.
- Sao cũng được, - Jack nói, và nhét tấm bản đồ trở lại giữa các cây căm xe. Hắn thấy cái lông gắn chặt trên xe đạp của Johnny. Nó được treo tòng teng trên một cọng dây thắt nút vào cây cốt yên xe. Hắn cầm lên.
- Ê, đây là cái gì vậy?
Johnny trừng mắt nhìn bạn mình.
- Chả là cái gì hết, - cậu nói.
Jack vân vê cái lông giữa các ngón tay. Ánh sáng khiến cái lông lấp lánh. Hắn nghiêng nó về hướng ánh sáng.
- Quá đã, - hắn nói.
- Tớ đã nói rồi, đừng có động đến nó.
Jack thấy bạn nghiêng vai, buông cái lông xuống. Cái lông đu đưa trên sợi dây.
- Trời ơi. Tớ chỉ hỏi một câu thôi mà.
Johnny buông thõng ngón tay, thả nắm đấm. Jack là Jack. Hắn cũng không có ý định xấu gì.
- Tớ nghe nói anh cậu chọn chơi bóng cho Clemson.
- Cậu nghe được tin ấy à?
- Tin tức loan tải khắp nơi.
Jack lượm hòn đá lên, lăn hòn đá từ bàn tay lành lặn qua bàn tay bị tai nạn.
- Anh ấy đã được đội bóng nhà nghề săn đón. Anh ta phá kỷ lục hồi tuần qua.
- Kỷ lục gì?
- Chạy bóng về đích.
- Cho đội bóng của trường?
Jack lắc đầu.
- Cho tiểu bang.
- Tớ nghĩ bố cậu hãnh diện lắm, - Johnny nói. - Con trai ông ấy sẽ nổi tiếng.
Nụ cười của Jack nhìn rất thật, nhưng Johnny thấy Jack lại giấu đi cánh tay bị tai nạn của hắn thật chặt sau lưng.
- Dĩ nhiên ông ấy hãnh diện.
Cả hai tiếp tục uống. Mặt trời lên cao hơn, nhưng ánh sáng dường như tối đi. Không khí trở nên lạnh hơn, như là nước sông tự nó đông đá. Johnny tu nửa lon thứ ba, cậu đặt lon bia xuống.
Jack xỉn.
Cả hai không bàn tán gì thêm về người anh trai của Jack.
Đến giữa trưa, cả hai cùng nghe tiếng động cơ ô tô hãm máy trên đường quốc lộ. Chiếc xe ngừng ở giữa cầu, sau đó rẽ vào con đường mòn dẫn đến bờ sông ngay bên trên nơi hai đứa đang có mặt. “Chết rồi”.
Jack giấu biến những lon bia. Johnny choàng vội áo vào để che giấu những vết bầm tím, và Jack giả vờ như mọi chuyện bình thường. Từ lâu, cả hai đã thống nhất với nhau xem nên nói hoặc không điều gì.
Một cái vỉ sắt to cao lù lù đẩy dạt những cây cỏ dại mọc um tùm giữa con đường mòn, và Johnny thấy một chiếc xe tải đánh bóng. Kền mạ bóng loáng phản chiếu ánh sáng và kính trước xe bóng như gương soi. Khi xe dừng, động cơ rú ầm ĩ, rồi im bặt. Ba trong bốn cánh cửa mở rộng. Jack đứng thẳng người lên.
Quần jeans xanh. Giầy ủng. Những bắp thịt tay cuồn cuộn. Johnny thấy hết khi những gã tráng niên lớn tuổi hơn bu quanh phía đằng trước của chiếc xe tải. Cậu biết và từng gặp những người này. Họ là học trò trung học. Mười bảy, mười tám tuổi. Những gã đàn ông, hoặc cũng gần như đàn ông. Một người cầm một xị bourbon trên tay. Cả ba đều phì phèo thuốc lá. Họ đứng ngay sát mép đường nơi mà bờ đất rơi thẳng xuống dòng nước. Họ nhìn xuống, thấy Johnny. Một người cao, tóc vàng có cái bớt màu tím than ở cổ, thúc cùi chỏ vào gã tài xế. “Nhìn dưới kia kìa”, hắn nói. “Hai thằng nhóc cấp II”.
Khuôn mặt gã tài xế không hề biểu lộ cảm xúc... Gã tay cầm chai bourbon nhấp một ngụm.
Jack ở dưới hét lên:
- Cút đi Wayne.
Gã có bớt trên cổ ngưng ngay tiếng cười.
- Đúng vậy đó, - Jack nói. - Tao biết chúng mày mà.
Gã tài xế dùng lưng tay thúc vào ngực gã có bớt trên cổ. Gã người cao ráo, tướng tá khỏe mạnh, đẹp trai như hình ảnh in trong postcard. Gã xem Wayne là kẻ biết xử sự, sau đó chỉ tay xuống Jack.
- Hắn là em của Gerald Cross, cậu nên tôn trọng hắn một tí.
Wayne trêu ghẹo.
- Thằng nhóc ranh kia à? Tớ không thể tin nổi. - Gã bước lên một bước, nghiêng người qua bờ kè và to giọng:
- Anh của cậu lẽ ra phải ký hợp đồng chơi cho Carolina, - gã nói. - Cậu về nói với hắn là chỉ có đám gà mái mới chơi cho Clemson.
Johnny hỏi:
- Có phải anh cũng sẽ chơi cho bọn ấy không?
Gã tài xế cười. Anh chàng ôm chai bourbon cũng cười. Khuôn mặt của Wanye tối sầm, nhưng gã tài xế bước đến phía trước can ngăn.
- Tôi cũng biết cậu, - gã nói với Johnny, ngưng một lúc gã rít một hơi thuốc lá. - Tôi xin chia buồn về cô em gái của cậu.
- Chờ một chút, - Wayne nói và chỉ tay. - Cái thằng đấy đó hả?
- Đúng, nó đấy.
Lời nói phát ra không một cảm xúc, cơn nóng giận tràn lên đến đỉnh điểm.
- Tôi không biết anh là ai, - Johnny nói.
Jack khều cánh tay của Johnny.
- Hắn là con Hunt. Con ông thám tử. Tên hắn là Allen, học lớp mười hai.
Johnny nhìn lên thì thấy một sự trùng hợp giữa ông thám tử Hunt với cậu con trai. Mái tóc khác nhau nhưng tạng người như nhau. Cùng một ánh mắt mềm dịu.
- Đây là chỗ của chúng tôi, - Johnny nói. - Chúng tôi đến đây trước.
Con trai thám tử Hunt nghiêng người ra phía ngoài mép sông, nhưng gã không màng gì đến lời đuổi khéo của Johnny. Gã nói với Jack.
- Đã lâu tôi không gặp cậu.
- Sao lại gặp tôi? - Jack nói. - Chúng ta chẳng có gì để nói với nhau. Đến cả Gerald cũng vậy.
Johnny nhìn về hướng Jack.
- Hắn biết anh trai của cậu sao?
- Một thời xa xưa.
Allen đứng thẳng.
- Một thời xa xưa, - hắn nói, không một cảm xúc trong lời nói. - Chúng mình đi tìm một nơi khác thôi.
Hắn xoay người, dừng lại, nói với Jack.
- Nhắn với ông anh của cậu, tôi gửi lời chào.
- Tự tìm gặp anh ta mà nói.
Allen khựng lại, sau đó cười nhạt. Hắn ra hiệu với đám bạn, sau đó cùng leo trở lại xe tải, rồ máy. Họ lùi xe ngược trở lên con đường đất và biến mất dạng; chỉ còn lại duy nhất dòng sông, ngọn gió.
- Tay đó là con ông Hunt sao? - Johnny hỏi.
- Đúng rồi. - Jack nhổ bãi nước bọt xuống đất.
- Có chuyện gì giữa hắn và ông anh của cậu vậy?
- Gái, - Jack nói, phóng mắt nhìn ra phía bờ sông. - Nước chảy dưới gầm cầu.
Không khí trở nên chua chát sau đó. Chúng bắt được con rắn nước và thả nó đi, dùng dao khoét gỗ thả trôi sông, nhưng không giải quyết được chuyện gì. Johnny muốn nói ra hết những gì trong bụng và Jack cảm nhận được điều này, cho nên khi tiếng còi tàu xe hỏa xuôi nam vang vọng, Jack buộc dây giầy và nhét mọi thứ vào balô.
- Tớ phải chia tay với cậu.
- Cậu có chắc không?
- Ngoại trừ cậu muốn đèo tớ ngồi trên ghi-đông về phố.
Johnny theo Jack lên trên bờ sông.
- Cậu có muốn gặp lại tớ không? - Jack hỏi. - Xem một bộ phim? Chơi trò chơi điện tử?
Tiếng còi tàu vang lên lần nữa, gần hơn.
- Cậu thôi đi là vừa, - Johnny nói.
- Gọi tớ sau nhé.
Johnny chờ cho đến khi Jack khuất bóng, cậu tháo cái lông chim cất vào trong áo và đeo sợi dây qua cổ. Thọc hai tay xuống dưới dòng nước, hất nước lên mặt, sau đó vuốt cái lông trên yên xe đạp. Nước làm cho nó lấp lánh, trơn tuột giữa các ngón tay, mới toanh, đẹp mắt và hoàn hảo.
Johnny ném thêm vài viên đá xuống dòng nước, sau đó leo lên nằm trên phiến đá. Mặt trời ấm áp, không khí là tấm chăn phủ, và ở một thời khắc nào đó, cậu thiếp đi. Khi bừng tỉnh, cậu chồm dậy. Trời đã xế bóng: đã năm giờ chiều, có thể là năm giờ rưỡi. Những đám mây đen kéo xuống cuối chân trời. Một cơn gió lạnh mang theo mùi vị của trận mưa từ khoảng cách xa.
Johnny phóng vội vã khỏi tảng đá và đi lùng kiếm đôi giầy. Khi cầm giầy trên tay, cậu nghe thấy từ xa văng vẳng tiếng gào rú của động cơ nổ máy 2-thì. Chiếc xe từ hướng Bắc tiến lại gần, nhanh chóng. Tiếng rít to dần thành tiếng gào rú, một chiếc xe gắn máy đang phi hết tốc lực. Khi cái xe gần đến cây cầu, Johnny nghe thấy tiếng gầm rú của một động cơ khác. Chiếc này to hơn, chạy băng băng trên đường. Johnny rướn cổ lên, thấy cột bê tông chạy dọc theo cầu và tít đằng xa là khoảng lá xanh và bầu trời trên nền màu xám. Chiếc cầu bắt đầu rung lên bần bật, và Johnny biết cậu chưa từng nghe bất cứ thứ gì đụng phải cây cầu với vận tốc nhanh như vậy.
Cả hai vượt qua khoảng giữa cầu, sắt thép bỗng nhiên va chạm vào sắt thép. Johnny thấy kim loại nóng đỏ văng tứ tung, nóc mui xe, và một chiếc xe gắn máy xoay tròn tung bổng trên trời trước khi hất văng nạn nhân qua khỏi lan can cầu. Một cái chân cong gập tưởng chừng như không thể nào cong hơn được, hai cánh tay hất tung lên, và Johnny biết đây là một lỗi lầm nghiêm trọng, một người đàn ông hét vang.
Nạn nhân bị phóng văng rơi xuống chân của Johnny kêu vang một tiếng, có tiếng kêu răng rắc của xương cốt gẫy lìa. Người đàn ông mặc chiếc áo dính đầy bùn đất và chiếc quần màu nâu. Một cánh tay bị bẻ quặt nằm sau lưng, những góc độ giết người, ngực của gã bị lõm sâu vào trong. Hai mắt gã mở trừng trừng với màu xanh biếc lạ lùng.
Tiếng thắng rít trên đường nhựa. Johnny bước đến gần người đàn ông bị nạn, da mặt người ấy bị bong hết một bên, mắt bên phải đầy máu. Mắt còn lại nhìn Johnny như thể cậu có thể cứu được mạng ông ta.
Ở trên đường nhựa, động cơ máy gầm rú. Vỏ bánh xe rít lên khi bị gài số de. Johnny cảm nhận sự rung chuyển khi chiếc xe lùi lại lên trên cầu.
Quai hàm người đàn ông bị thương khó nhọc cử động.
- Hắn sẽ trở lại.
- Không sao đâu, - Johnny nói. - Chúng tôi sẽ giúp ông.
Cậu quỳ dưới đất. Người đàn ông chìa tay và Johnny với tới.
- Mọi chuyện sẽ ổn thôi.
Nhưng gã đàn ông làm ngơ lời nói của Johnny. Với sức mạnh rất kinh ngạc, gã kéo cậu lại gần hơn.
- Tôi đã tìm thấy cô bé.
Johnny tập trung nhìn vào đôi môi người đàn ông.
- Ông đã tìm thấy ai?
- Cô bé bị bắt cóc.
Johnny run bắn người. Thân thể người đàn ông co cứng, máu tuôn trào ra từ mồm bắn vào áo của Johnny. Johnny cũng không để ý chuyện này.
- Ai? - Cậu hỏi lần nữa, và lớn tiếng hơn. - Ai?
- Tôi đã tìm thấy cô ấy...
Bên trên, động cơ ô tô đứng máy ù ù. Người đàn ông bị nạn nhướng mày mở mắt, sự sợ hãi của gã hiển hiện rất rõ. Gã kéo Johnny đến gần hơn và cậu ngửi thấy mùi máu và nhìn rõ nội tạng người đàn ông bị vỡ nát. Hai mắt gã gấp nếp ở nhiều góc, và Johnny nghe thấy tiếng thì thào.
- Chạy đi...
- Cái gì?
Người đàn ông nắm chặt tay hơn. Johnny nghe thấy tiếng máy nổ động cơ ầm ầm phành phạch, sau đó một thứ gì như sắt thép va chạm trên nền xi măng. Tay người đàn ông bám quá chặt, móng tay ông ta cắt vào da thịt Johnny.
- Vì Chúa...
Cơ thể ông ta lại co giật một lần nữa, xương sống co chặt, cánh tay gãy vặn vẹo.
- Chạy đi.
Johnny nhìn xuống, thấy một chiếc đế ủng đạp trên nền đất, và điều gì đó nhanh chóng đến trong đầu.
Đây không phải một tai nạn.
Johnny nhìn về hướng cây cầu và thấy một cái bóng to lớn đang di chuyển: cái đầu, cái vai, một người đàn ông di chuyển ở phía đằng trước chiếc ô tô. Cái bóng người đàn ông như một mảnh giấy cắt ngược. Johnny cảm nhận được máu trên hai bàn tay mình, ướt dính và mỗi lúc một lạnh ngắt.
Không phải một tai nạn.
Thi thể người đàn ông co cứng, đầu va vào đất, gót chân dẫm thình thịch. Johnny cố gắng kéo tay gã ra, cậu phải giật nó ra với tất cả sức lực. Tiếng ồn trên cây cầu. Sự chuyển động. Sự sợ hãi như một lưỡi dao nhọn đâm vào phần dưới và cắm sâu vào bên trong. Cả đời Johnny chưa bao giờ sợ hãi như lúc này, ngay cả cái ngày khi cậu thức dậy và biết bố mình đã bỏ đi xa, những lúc mẹ thiếp đi và ông Ken với ánh mắt nhìn lập lòe kinh sợ. Lúc này Johnny thật sự khiếp sợ.
Run cứng.
Sau đó cậu xoay người và chạy dọc theo con sông, lao xuống con đường mòn. Cậu chạy cho đến khi cổ họng khô cháy, cho đến khi quả tim trong lồng ngực cào cấu muốn sổ cũi phóng ra ngoài. Cậu chạy thục mạng và chạy trong nỗi sợ hãi. Cậu chạy cho đến khi con ác quỷ khổng lồ từ trong bóng tối thình lình bước ra và tóm lấy cậu. Johnny gào thét.
-----------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét