Chủ Nhật, 11 tháng 2, 2018

Khúc Cầu Hồn - Chương 33 & 34

Khúc Cầu Hồn

Tác giả: John Hart
Dịch giả: Phạm Thiện
Công ty phát hành Alphabooks & Nhà xuất bản Thời Đại
Ngày xuất bản: 04/2011

Ba mươi ba

Hunt chở bà Katherine Merrimon trở về căn nhà nhỏ ở ngoài rìa thị xã. Ông cố gắng một lần khơi mào câu chuyện, nhưng bà ta không hề phản ứng. Dừng xe trên đường dẫn vào nhà, ông nhìn xuyên qua lớp cửa kính và cau mày.
- Khi bà thấy chiếc xe lạ trên đường phố đêm khuya hôm nọ, nó đậu ở chỗ nào?
Bà Katherine chỉ và Hunt nhìn lên hướng con đường, qua ngọn đèn ở phía xa.
- Nó đậu lù lù ở đằng kia. Máy nổ. Tôi chưa từng bao giờ thấy nó trước đây.
- Nó thuộc loại xe gì?
- Tôi nghĩ nó là một xe tuần tiễu của cảnh sát.
- Tại sao lại là xe cảnh sát? Điều gì khiến bà cả quyết như vậy?
- Trông nó như thế. Một chiếc xe to bốn cửa. Nó có cái hình dáng đó. Nhìn như là xe tuần tiễu của cảnh sát.
- Trên nóc xe có dàn đèn không?
- Không. Chỉ là hình dạng như vậy. - Bà trỏ vào chiếc ô tô mà cả hai đang ngồi. - Như chiếc này đây.
- Chiếc xe đời Crown Victoria?
- Nó nhìn y chang chiếc xe này. Xe Mỹ. To lớn. Tôi không biết. Trời tối mù. Tôi không quan tâm về ô tô. Tôi không biết về chúng.
- Và nó chạy khi nào?
- Khi tôi đi gần về hướng của nó.
- Nó chạy đi hướng nào?
Bà chỉ, và Hunt một lần nữa cau mày.
- Tôi nghĩ bà không nên cư trú ở đây, không nên khi những chuyện như thế này xảy ra.
- Vậy tôi ở nơi nào khác bây giờ? - Bà ta chờ đợi một câu trả lời. - Nhà ông ư?
- Tôi không phải hạng người như vậy, bà Katherine.
- Tất cả đàn ông đều như vậy.
Bà không thể giấu giếm sự cay đắng. Bà nhìn thẳng vào ông và Hunt bị choáng bởi cường độ của nó. Đôi mắt màu xanh ngọc bích. Quá mệt mỏi, rã rời. Tổ cha gã Ken Holloway, Hunt nghĩ. Tổ cha hắn đã làm cho Katherine như ngày hôm nay.
- Tôi đang nghĩ đến một khách sạn. Một nơi chốn ẩn danh.
Bà ta chắc phải nghe được nỗi ai oán trong giọng nói của Hunt.
- Tôi xin lỗi, - bà nói. - Điều đó không công bằng. Ông là người không có gì ngoài sự toàn hảo tuyệt đối.
- Như vậy có nghĩa bà sẽ làm chứ?
- Johnny có thể trở về nhà. Tôi cần phải có mặt ở đây vì chuyện đó.
- Bà Katherine...
- Không.
- Như vậy tôi sẽ chỉ thị một xe tuần tiễu đậu trên đường phố.
- Điều đó cũng không.
- Ở đây không an toàn, - Hunt nói. - Nhiều chuyện xảy ra mà chúng tôi không làm sao hiểu nổi.
- Một chiếc xe tuần tiễu sẽ làm Johnny kinh sợ. Nếu nó bỏ nhà đi hoang, tôi muốn nó biết nó có thể trở về nhà không. Làm sao nó có thể biết được điều đó nếu cớm đậu xe ngay trước nhà?
Bà Katherine mở cánh cửa xe phía bên bà.
- Cảm ơn ông đã đưa tôi về, ông Thám tử. Tôi sẽ ổn thôi.
Thám tử Hunt bước ra ngoài xe và đặt hai tay của ông trên nóc xe.
- Tôi muốn kiểm tra ngôi nhà.
- Tôi muốn được ở yên một mình.
Hunt dò xét con đường bởi sự đau khổ của bà đang giết ông chết dần chết mòn. Ông từng thấy sự can đảm của bà trước đây, và ông cũng thấy sự can đảm ấy suy sụp. Nó cũng giống như ngồi nhìn một cây gỗ đổ sụp hay một dòng sông cạn nước. Ông nhìn căn nhà tối đen, rồi nhìn bà.
- Làm ơn, - ông nói.
- Nếu ông yêu cầu.
Hunt phát hiện cửa sổ bị đập vỡ chỉ ba giây sau.
- Bà hãy trở vào xe, - ông nói, và rút súng ra. - Vào ngay trong xe và khóa cửa lại.
Bà chạy ùa về hướng cánh cửa nhà.
- Bà Katherine!
- Tôi đã đổi ổ khóa. Ông không thấy sao? Đó là Johnny.
Hunt nắm được tay bà trên các bậc thềm và kéo ngược bà trở lại.
- Chờ một chút, - ông nói. - Chờ ngay tại đây.
Sau đó ông gọi lớn tiếng.
- Johnny.
Ông thử cửa trước. Nó mở dễ dàng.
- Johnny. Đây là Thám tử Hunt và mẹ của cậu.
Không lời đáp. Hunt giơ một tay lên.
- Đứng ở đây.
Bên trong, Hunt bật công tắc các bóng đèn. Những mảnh kính vỡ lóng lánh trên nền thảm. Ông kiểm tra các phòng phía sau nhà, mở hết đèn đuốc lên. Khi ông trở xuống hành lang, ông thấy bà Katherine trong phòng khách. Ông tra súng trở về bao.
- Không có ai. Nhà trống không.
Bà ngồi trên ghế sofa và giữ thân mình yên lặng.
- Có thứ gì mất không?
Bà nói không, và Hunt bước lại gần hơn.
- Có thứ gì bị mất cắp không?
Bà nhìn lên, hai mắt ướt đẫm và trống rỗng.
- Tôi sẽ kiểm tra sân vườn, - Hunt nói. - Tôi muốn bà nhìn xung quanh và nói cho tôi biết bà thấy mất những gì.
- Không giải quyết được việc gì đâu. Tôi đã không thấy bất cứ thứ gì cả năm trời nay rồi. Tôi sẽ không biết được nếu thứ gì đó biến mất.
Hunt hiểu, nhưng bỏ qua.
- Kiểm tra phòng ngủ của Johnny. Bắt đầu từ chỗ đó.
- Được rồi.
Bà đi về hướng hành lang. Đèn phòng Johnny sáng. Bà nghe thấy tiếng chân Hunt rời khỏi căn nhà, sau đó đứng ở cửa ra vào phòng Johnny. Bà nhận ra, đứng từ ngoài nhìn vào, căn phòng này quá xa lạ với bà. Bao nhiêu lần bà đã từng vào căn phòng này, bà tự hỏi. Ba lần? Năm lần? Và bao nhiêu lần tỉnh táo? Không lần nào, bà nghĩ. Cả năm vừa qua là những ngày mù mờ trôi qua. Bà ăn. Bà ngủ. Gã Ken Holloway đến rồi đi. Phòng con trai bà là chỗ xa lạ với bà.
Con trai bà, bà nhận ra, là một kẻ xa lạ với bà.
Bà kiểm tra tủ quần áo, nhưng không thể biết những gì lẽ ra phải có ở trong đó. Tương tự với ngăn kéo và ngăn kệ. Bà không nhớ có bao giờ bà mua quần áo cho con, hay giặt giũ chúng. Johnny đã làm những chuyện này, bà nhận ra. Cậu nấu nướng. Cậu giặt giũ. Bà lấy tay che miệng, thổn thức, tràn ngập nỗi xúc động.
Con trai bà đâu rồi?
Bà tìm thấy một cái vali hành lý dưới gầm giường. Nó là cái túi cũ kỹ và tơi tả, không có dấu hiệu nào quen thuộc. Bà lôi nó ra và khiêng vất nó lên trên giường. Bà mở vali ra và chết lặng. Khuôn mặt của Alyssa.
Johnny và ông chồng của bà.
Những tấm ảnh nằm ngay trong nắp vali. Nó là tập hợp của ánh sáng ban mai và con cái bà; đời sống, như là lời hứa hẹn. Hai mắt bà cháy bừng lên, cổ họng bà thít chặt, và bà sờ vào một trong những tấm ảnh đó.
Alyssa.
Con bé một tay ôm choàng lấy cổ của thằng anh. Hai đứa nhe hai hàm răng nham nhở như quỷ quái ranh con.
Johnny.
Trong vali, bà tìm thấy một tấm ảnh khổ 8x10 của chồng bà. Ông mặc chiếc áo thun màu xanh và quanh bụng là cái thắt lưng da có túi da đựng đồ sửa chữa. Ông đứng nghiêng người về hướng ống kính, khỏe mạnh và nụ cười rạng rỡ, mái tóc đen tuyền tỏa sáng... Mắt kính râm che giấu đôi mắt ông, nhưng bà biết chúng như thế nào, xanh đậm, sáng quắc và không hề biết chùn bước. Trong giờ phút này, bà ngập tràn niềm ân hận vì những trách mắng mà bà bủa xuống đầu ông, vì những điều cay độc bà quát mắng ông. Sau đó sự bực tức phóng vút lên đỉnh điểm: Nó là lỗi ở ông ta! Lẽ ra ông ta không bao giờ nên để cho con bé đi bộ một mình về nhà.
Nhưng giận dữ chỉ phí thời gian. “Bây giờ anh ở đâu, Spencer?”
Không có câu trả lời cho câu hỏi đó. Ông ta đã bỏ đi.
Những ngón tay của bà chạm vào từng món trong cái vali đó, đồ của Alyssa. Những con thú nhồi bông, cuốn nhật ký của con bé.
Làm thế nào?
Bà đã đốt hết những thứ này, tất cả chúng. Đốt tất cả trong ba tuần lễ điên loạn vì thuốc sái.
Bà nhấc con cừu bông ở dưới đáy vali lên và ép mặt bà vào nó, cố gắng tìm kiếm đâu đó một ít hương xưa còn vương vấn.
- Katherine.
Giọng Hunt chỉ còn là thứ gì đó ở nơi thật xa xôi. Con thú nhồi bông ướt đẫm nước mắt.
- Hãy đi đi, - bà nói.
- Đất đai nhà cửa tảo thanh sạch sẽ. - Ông ta ở trong hành lang. Những bước chân của ông làm rung động sàn gỗ và sự rung động ấy chạm vào hai đầu gối của bà.
- Đừng có vào đây.
Ông dừng ngay ở cửa.
- Đừng vào phòng. - Bà cảm thấy một sự sụp đổ, ở đâu đó sâu thẳm, dòng chảy của tiềm thức quá cuồng nhiệt và kịch liệt làm sụp đổ bất cứ thành quách nào mà bà dựng lên. Không có thuốc sái, bà như trần truồng giữa dòng sông.
- Bà Katherine...
- Hãy để cho tôi yên. - Con cừu mềm mại trong bàn tay bà. - Tôi van lạy ông.
Hunt lùi ra xa, và bà nghe tiếng cánh cửa đằng trước đóng lại. Bà nhìn con cừu: hai mắt đen, sáng, lông trắng quá đỗi như một đám mây trong một ngày nắng tuyệt vời. Bà ôm mặt và hít một hơi, nhưng không còn sót lại chút hương xưa của đứa con gái. Chỉ có cái mùi ngai ngái của chiếc vali cũ kỹ và không gian không sạch sẽ dưới một cái giường trống vắng.
Bà chờ cho đến khi xe Hunt rời khỏi nhà, sau đó đứng dậy trên đôi chân tê cứng và mở cửa. Sương mù dần xâm lấn toàn bộ không trung. Bà bước ngang qua đường dẫn xi-măng đến tận ngoài bờ rìa của sân nhà, đến cái nơi cỏ dại mọc cao ngất ngưởng, cuối cùng thấy một thứ nhấp nhánh màu trắng và cam. Mất vài phút để bà tìm ra chai thuốc oxycotin và mang nó vào trong nhà. Bà khóa cửa. Bà lắc cái hộp và những viên thuốc rơi ra ngoài. Bà chọn lấy bốn viên, cho vào mồm và nuốt khô chúng. Sau đó bà đi vào giường ngủ của Johnny, cắp con cừu dưới một cánh tay và nằm lên trên tấm chăn trải giường. Bà nhìn chằm chằm những bức ảnh, và trong suốt mười phút dài bà chịu đựng nỗi đau; đoạn, tuồng như có một bàn tay mềm mại dẫn bà đến nơi trú ẩn, nơi bà có thể chịu đựng cái cảm giác chạm tay vào những bức ảnh mà cậu con trai đã giấu quá kỹ và quá lâu. Bà có thể nói tên từng người mà không đau khổ, và trong tâm trí bà, bà có thể thấy họ đang dần đi về một nơi rất xa.
* * *
Hunt lái thật chậm xung quanh khu vực. Ông kiểm tra những con đường nhỏ và các đường dẫn vào nhà, nhưng không phát giác được điều gì bất thường. Những căn nhà yên lặng và tĩnh mịch, những con đường dẫn vào nhà đậu kín xe bán tải, xe tải chở hàng, và những chiếc xe mệt mỏi. Không có chiếc xe to lớn nào với động cơ đang nổ máy. Không hình bóng nào thập thò đứng sau cửa sổ.
Khi vòng trở lại con đường đến nhà bà Katherine, ông chọn một nơi thật cẩn thận: đủ xa với những căn nhà để không quấy rầy ai, nhưng đủ gần để thấy nếu ai đó lai vãng. Bà ta không muốn có chiếc xe tuần tiễu nào trên đường phố. Không sao. Nhưng ông từ chối để bà lại một mình, ở ngay cái nơi bờ rìa tối thẫm của đủ thứ này. Ông cho xe rẽ ra khỏi đường lộ, hạ cửa kính xuống và tắt máy. Ông xem giờ. Muộn rồi.
Đè nén sự cắn rứt của tội lỗi, ông gọi điện cho cậu con trai và nói với hắn khóa cửa nhà, khởi động hệ thống báo động.
- Bố sẽ không về nhà đêm hôm nay?
- Bố xin lỗi, Allen. Đêm nay thì không thể. Con ăn tối chưa?
- Con không đói.
Hunt nhìn đồng hồ lần nữa. Ông chửi thề bà vợ đã bỏ ông đi, sau đó nhớ lại những gì anh con trai nói. Có thể là do lỗi ở ông. Ngay tại đây, lại một lần nữa, lại thêm một đêm ông xa gia đình vì nghiệp dĩ. Ông ngừng xe ở đây là do ông tự nguyện.
Không liên quan gì đến công việc.
Hoàn toàn không như vậy.
Ông nhìn xuống con đường dẫn vào nhà bà Katherine. Đá dăm văng vãi trên mặt đường đen ấm. Ông thấy đèn đuốc xuyên qua cây cối, và tự hỏi nếu ông có mặt tại đây, trông chừng liệu nạn nhân có thể là bất kỳ ai khác hay không. Nạn nhân có thể là bất cứ ai hay chỉ bà ta.
- Nghe này Allen...
Nhưng điện thoại đã cúp. Không có ai ở đầu dây bên kia.
Hunt cúp máy và nằm thấp người xuống ghế. Ông trông chừng những chiếc xe lạ, và gã Ken Holloway. Ông nghĩ về bà giờ đang cô độc trong căn nhà lọt thỏm ngoài kia, và khi, nhiều giờ sau đó, ông chợp mắt, ông mơ màng mang bà ra khỏi nơi chốn ấy. Cả hai ngồi trong một chiếc ô tô, cửa sổ hạ xuống, và ông thấy bà phong thái như xưa. Gió thốc lồng lộng vào mái tóc của bà. Bà đặt một tay lên mặt ông, gọi tên ông, và ánh sáng ban ngày hiện rõ, những dòng nước mắt ngọt ngào chảy từ đôi mắt bà. Nó là một giấc mơ thần tiên, nhưng khi tỉnh giấc, ông bị vọp bẻ và không vui vẻ gì. Mặt trời mới chớm mọc, nắng chiếu vào mặt ông, và giấc mơ cũng chỉ phản trắc như sự đùa cợt của ánh sáng. Điện thoại của ông reo vang.
- Ừ. - Hunt dụi giấc ngủ khỏi hai mắt và ngồi cao hơn.
- Tôi Yoakum đây.
Ánh mặt trời cắt vào mặt không thương tiếc. Ông hạ tấm chắn nắng mặt trời xuống.
- Chuyện gì đó John? - Hunt liếc nhìn đồng hồ. 7:21 sáng.
- Tôi vừa mới ra khỏi hiện trường chỗ nhà Burton Jarvis.
Yoakum ngừng một lát và Hunt nghe một giọng nói ở đằng sau. Một con chó sủa inh ỏi hai lần.
- Ông cần phải ra ngoài này.
Tay Hunt tìm mớ chìa khoá trên cổ tay lái.
- Nói tôi nghe.
- Chúng tôi tìm được một tử thi.
- Có phải là Alyssa Merrimon?
Yoakum đằng hắng lấy giọng.
- Tôi nghĩ chúng ta tìm được khá nhiều tử thi.
Căn nhà của Jarvis tối sầm và yên lặng như tờ khi Hunt cho xe chạy vào đường dẫn.
Không có xe tuần tiễu. Không có thám tử nào khác. Chỉ có Yoakum, xanh xao và chưa cạo râu, nhai lép nhép kẹo bạc hà đựng trong hộp sắt. Đôi giầy ông ta dính đầy bùn đất, quần ông ướt đẫm từ đầu gối trở xuống. Đứng kế bên ông là Mike Caulfield, một trong số rất ít sĩ quan của sở cảnh sát được biệt phái về đơn vị quân khuyển. Một sĩ quan thâm niên ba mươi năm phục vụ, ông ta cao và gù lưng, với đôi bàn tay to lớn, chai sạn và một chỏm tóc đen tuyền chắc chắn phải được nhuộm. Ông ta mặc bộ quần áo vải gai, cũng ướt đẫm và dính đầy bùn đất. Kế bên ông ta là con chó lai đang bị buộc dây xích mà ông ta đã từng dùng nó để tảo thanh khu nhà đất của gã Levi Freemantle. Cả hai gặp Hunt khi ông bước ra khỏi xe.
- Yoak. - Hunt gật, nhìn ông sĩ quan quân khuyển. - Mike.
Trông họ mệt mỏi căng thẳng, cả hai. Con chó không hề nhúc nhích hoặc chớp mắt. Nó nhìn ông chủ nó.
- Ông chưa gọi điện về xin yểm trợ sao?
Yoakum đóng cái nắp đậy trên hộp sắt đựng kẹo bạc hà.
- Tôi muốn ông nhìn cái này trước đã. - Họ bước về hướng cánh rừng phía đằng sau nhà. - Nói cho ông ta nghe đi, Mike.
Ông Mike gật gù.
- Tôi thức giấc sớm sáng hôm nay. Thông thường, khi tôi dậy sớm như vậy, tôi thích đi săn; nhưng tôi quyết định thử tảo thanh nơi này một lần chót. - Ông ta chỉ về hướng đằng trước. - Tôi vẫn làm việc theo ô bàn cờ, thấy không, trong lộ trình từ căn chòi. Nhưng tôi quyết định dẹp trò đó, chỉ một lần này thôi, chỉ để giãn bắp thịt hai chân. Tôi đến đây lúc năm giờ sáng và đi một đường thẳng tuột ra bờ sông. Xa khoảng chừng hai dặm.
Ba người đi bộ quá căn chòi vẫn còn quấn chặt trong băng nhựa màu vàng. Mike bước đi không ngần ngại, hụp tránh những cây cành, vừa đi vừa nói chuyện.
- Tôi đi xa khoảng hơn một dặm khi con Tom bắt đầu vểnh tai lên. Đi thêm một trăm mét nữa thì nó điên khùng như đười ươi. - Mike lại hụp đầu né cành cây một lần nữa, xấu hổ. - Đại khái là như vậy.
- Tôi đến đồn hồi sớm tinh mơ, - Yoakum nói. - Và tôi nhận cú điện gọi.
Họ phá đường xuyên qua một bụi cây, bước qua một dòng suối hẹp nước chảy gắt và đáy suối trơ đá granite. Mặt trời chếch giữa các gốc cây da xám. Nhiệt độ gia tăng. Yoakum trượt chân một lần và ngã chúi đầu gối xuống.
- Mùi gì vậy? - Hunt hỏi. Nó ngọt ngào một cách bệnh hoạn và ngấm ngầm. Một chút thoang thoảng trong giây phút, và tiếp sau là mùi tanh hôi nồng nặc.
- Bãi rác nằm ở hướng đó. - Ông Mike chỉ. - Khoảng một hoặc hai dặm. Ông có thể ngửi mùi của nó khi gió giật mạnh.
Họ đi bộ xa hơn, và Hunt thấy đôi tai con chó dựng đứng lên. Đầu nó ngẩng cao, mũi đưa lên và hít hà; sau đó nó dìm mũi xuống sát dưới đất và bắt đầu kéo căng dây xích. Chủ chó bắt gặp ánh mắt Hunt.
- Ông hiểu ý tôi như thế nào rồi chứ?
Họ đi qua bụi rậm sau cùng rồi bước vào một lòng chảo to rộng và nông. Những cây họ gỗ cứng cao ngất ngưởng như bia mộ. Lá cây chết, ẩm thấp và mục rữa, làm thành tấm thảm cho sàn nhà rừng rậm. Ba lá cờ màu cam trổ lên từ lòng đất. Chúng bé nhỏ, gắn chặt trên một cây căm sắt cứng. Ngoài ra, mặt đất không hề có dấu hiệu đào bới.
- Ông chắc những chỗ đó là thi thể? - Hunt hỏi.
Mike đưa tay ra hiệu cho con chó và nó ngồi xuống, hai mắt chăm chú, mũi nở rộng, nhưng ngoài ra tuyệt đối yên lặng.
- Ba mươi năm, Thám tử Hunt, và đây là con chó thông minh nhất mà tôi chăm sóc. Ông sẽ tìm thấy thi thể người dưới những lá cờ màu cam ấy.
Hunt gật đầu và nhìn dõi theo những lá cờ, sáng rực và bé nhỏ trong cái lòng chảo to rộng, đã từng được vỡ đất khai hoang. Chúng cách nhau một khoảng cách khá xa, có thể khoảng hai mươi mét.
- Thêm ba cái xác nữa. Tổ cha.
Mike và Yoakum trao đổi cái nhìn với nhau. Hunt bắt gặp.
- Chuyện gì đấy?
- Tôi chỉ có ba lá cờ, - Mike nói.
- Có nghĩa là?
Mike vỗ về con chó.
- Có nghĩa, tôi cần thêm cờ.
Hunt nhìn chằm chằm vào khuôn mặt của ông chủ chó. Hai tai ông ta ông rũ xuống với những khúc gân xụn, mũi ông ta khoằm dài và ửng đỏ. Đôi môi ông ta trễ ra trơ trơ không tự nhiên, và Hunt biết ông ta đang chờ đợi một câu hỏi.
- Ý ông muốn nói rằng ngoài kia còn nhiều thi thể nữa?
Mike hỉ một hơi vào trong khăn tay. Ông gật đầu một lần, và lớp da trên cổ của ông ta gấp nếp.
- Tôi nghĩ như vậy.
Hunt nhìn Yoakum.
- Gã Jarvis làm chủ mảnh đất này bao lâu rồi?
Khuôn mặt Yoakum lạnh lẽo.
- Hai mươi tư năm.
- Chúa Jesus.
- Ông muốn tôi làm gì? - Yoakum hỏi.
Hunt nhìn lên, thấy lá cây chuyển động và lộ ra những mảng trời xanh nham nhở đủ mọi hình thù.
- Gọi về đồn. Huy động tất cả nhân sự ra ngoài này.
Yoakum bước ra chỗ khác và mở điện thoại. Ông Mike hỉ mũi của mình một lần chót, sau đó nhét khăn vào túi quần sau.
- Còn tôi thì sao? - Ông hỏi.
- Cho chó làm việc, - Hunt nói. - Chúng ta sẽ tự tạo một ít cờ đánh dấu.
- Vâng, thưa ông.
Ông Mike ra hiệu bằng tay và con chó phóng nhanh không chần chừ. Mũi chúi xuống, đuôi vươn cao, nó bắt đầu một con đường thẳng, định sẵn. Hunt cảm thấy một làn gió nhẹ thổi ở cổ.
Mùi nồng nặc của bãi rác dâng lên.

Ba mươi tư

Mặt trời lên cao gần đọt cây khi Johnny lay nhẹ Jack bằng chân. Đống lửa đã tàn và xám xịt, cái mền nặng trịch với sương đêm.
- Đến giờ rồi, - Johnny nói.
Jack chớp mắt nhìn Johnny, cậu ta đã chỉnh tề áo quần và sẵn sàng. Hắn gãi cổ.
- Tớ bị chúng nó ăn sống.
- Tớ cũng vậy. - Johnny chìa ra một cánh tay và lôi Jack đứng dậy. - Muốn ăn cái gì lót dạ không?
- Tụi mình có gì?
- Xúc xích hộp hoặc bơ đậu phộng. Mình hết bánh mì rồi.
- Còn nước nho lon không?
- Không.
Jack lắc đầu.
- Tớ không ăn đâu.
Johnny giũ bụi khỏi tấm mền, sau đó đứng tè bên trong căn nhà kho. Hai tay của cậu lem lấm đầy bồ hóng từ đống lửa. Cậu nghĩ về những chuyện linh thiêng mà không hề linh thiêng chút nào, và cây súng nhét dưới áo jacket. Cậu đã ngồi rất khuya, xoay khẩu súng theo vòng trái khế, nghiêng nòng súng ngược lại với ánh sáng. Cậu xoa ngón tay cái ướt bên hông cây súng, nhắm nòng vào đống lửa và cố gắng giữ vững đôi tay mình dưới sức nặng của súng. Cậu nghĩ về Levi Freemantle và tự nhủ rằng cậu biết mình đang làm trò gì, rồi quyết định chuyện đó cũng không là vấn đề. Cuối cùng, chỉ có Jack là có sự lựa chọn.
- Cậu không phải đi với tớ.
Jack nhún vai dưới cái áo jacket.
- Cậu là bạn thân nhất của tớ.
- Tớ nói thật đấy, - Johnny nói.
- Và tớ cũng vậy.
Johnny nhét tấm mền vào trong cái túi, sau đó ghì chặt những cái đai.
- Cám ơn, bạn J.
- Đừng có trở thành gà mái là được.
- Tớ không. Tớ chỉ nói vậy...
- Tớ biết cậu nói gì.
Johnny mở cánh cửa xe tải.
- Sẵn sàng chưa?
- Lên đường.
Johnny lái xuyên qua cánh đồng trơ gốc rạ và dưới những tàng cây lớn. Ra khỏi cánh rừng, họ đi qua cánh cổng, sau đó theo con đường hai làn xe đi về hướng bắc đến vùng ven quận hạt. Johnny giữ tay lái trên những con đường cậu biết rõ, sau đó rẽ hướng đông, đi xuyên qua khu vực nhà tiền chế, đến một con đường lạ dốc thoai thoải, xa dần thị xã và những nhóm gia cư bao quanh nó. Họ lái xe qua những ruộng nho và những bức tường đá, đi thật sâu vào vùng đồng quê bát ngát đây đó vẫn còn những căn nhà to lớn của thời kỳ nội chiến vươn cao trên những cánh đồng dập dờn. Một lần cậu dừng xe. Cậu so sánh bản đồ trong sách và bản đồ đường phố của Quận hạt Raven.
- Cậu có biết bọn mình đang ở đâu không? - Jack hỏi.
Nhưng Johnny không trả lời. Cậu trố mắt nhìn xuống con đường, sau đó lùi xe vào một đoạn đường cũ, nứt nát trông càng ngày càng hẹp đi. Cậu kiểm tra bảng chỉ đường hai lần, sau đó rẽ trái vào con đường một làn xe đen thẫm đổ dốc xuống khoảng vài dặm cho đến khi nó quặt hướng phải và kết thúc bằng một con đường trải sỏi. Johnny dừng xe. Ngoại trừ những con quạ đen đậu trên dây kẽm gai, không có thứ gì xung quanh chuyển dịch.
- Cậu ngửi thấy gì không? - Johnny hỏi.
- Không.
- Con sông. Nó chảy uốn khúc về hướng đông ngay ngoài vùng ven đô, sau đó cắt trở lại. Tớ nghĩ bọn mình đang ở khoảng mười hai dặm về hướng bắc của thị xã. Có thể chếch về hướng đông một chút. - Cậu chỉ xuống con đường đá dăm. - Tớ nghĩ nó đây rồi.
Jack nhìn xung quanh những cành cây, cánh đồng và tiếng gió thổi trong không gian yên lặng.
- Cậu nghĩ đây là cái gì?
- Để xem. - Johnny rẽ xe qua hướng phải và bánh xe bắn rào rào đá dăm.
Đi xa hơn khoảng nửa dặm, xe cậu vượt qua tấm bảng màu vàng ghi hàng chữ: CHẤM DỨT ĐỊA PHẬN TIỂU BANG. Ngay lập tức sau đó, rừng già phủ chụp tứ bề. Mùi vị dòng sông gia tăng. Con đường lại rẽ lên hướng bắc một lần nữa. Johnny chỉ về hướng phải.
- Con sông phía bên kia. Tụi mình đang đi song song.
Cậu lái xe khoảng một dặm nữa và qua cánh cổng đầu tiên. Cổng mở, nhưng bảng báo không thể nhầm lẫn. ĐẤT TƯ NHÂN. CẤM XÂM PHẠM.
Johnny phớt lờ.
Cánh cổng thứ hai đóng, nhưng không khóa. Nó là cánh cổng nhôm đã gỉ sét theo thời gian, thõng ở giữa như thể bị một chiếc xe tải nào de lại và va vào. Nó treo trên cây cột trụ làm bằng tuyết tùng, và một phần thấp hơn của cánh cổng nằm tựa lên trên con đường nơi nó oằn xuống.
- Mở cổng ra!
Jack phóng ra khỏi xe và kéo cánh cổng mở. Cỏ ở mép đường cong rạp dưới nó, và Johnny lái chiếc xe đi qua cổng. Jack đóng cổng sau khi xe đi qua.
Họ lọt thỏm vào trong vùng nước mênh mông, thấy con sông đen ngòm và chậm rì như dầu chảy, Johnny chỉ vào khoảnh đất cỏ bị san phẳng nơi con sông tràn ngập bờ kè trong trận bão vừa qua.
- Chỗ này sẽ là đầm lầy.
Con đường uốn cong xa dần với dòng sông, và đầm lầy bắt đầu ép vào từ hai phía. Con đường nâng cao lên gần một mét, cho đến khi nó là một dải đất cao trên nền đất mềm và nước đen ngòm sóng sánh ánh lên qua những thân cây. Johnny cua xe và tí xíu cán phải con rùa nằm phơi nắng ở ngay giữa đường. Mai của nó rộng khoảng sáu mươi phân chiều ngang, đen đúa, đầy rong tảo khô bám vào. Cậu bẻ lái tránh con rùa và nó ngoác rộng cái mồm khi cả hai đã đi qua.
Con đường dốc xuống một lần chót, sau đó vươn lên cao trở thành đoạn cầu dài bắc ngang đầm lầy. Họ lái vào một nơi trống hoác, sau đó ngóc lên trên một mô đất. Hai bên đường, nước hum húp kéo dài xa thăm thẳm, bề mặt phẳng lỳ của nước bị làm hỏng bởi những cây đổ, một nửa chìm dưới nước, và những bụi cỏ vươn lên khỏi mặt nước khi lòng đất vươn lên cao thành cồn. Phía bên kia cây cầu, đất khô bám chặt vào đầm lầy. Johnny dừng xe tải. Trước cồn đất, sỏi đá ít đi, rồi sau đó không còn nữa khi con đường chỉ còn lại vết xe cũ chằng chịt, đất đen cán ngang bãi lầy và biến mất trong rừng thẳm. Những cành cây khổng lồ la đà trên mặt đất và những rễ cái kéo dài như chiều cao một con người trước khi chìm vào lòng đất.
Johnny cho xe chạy vượt qua cây cầu bắc ngang đầm lầy, dừng lại ở cái thõm cuối cùng có ánh nắng mặt trời và tắt máy xe. Không gian yên tĩnh, rồi sau đó âm thanh của đầm lầy trở lại. Ban đầu là những tiếng nho nhỏ, rồi gia tăng như những nốt nhạc phát ra từ cây sáo. Ở ngay rìa nước, một con cò đâm mỏ xuống vũng bùn rồi kéo lên trống trơn. Nó rình mò một quãng, sau đó đứng chết trân, một con mắt ngó nghiêng nhìn xuống nước. Hai anh con trai trèo ra khỏi xe tải. Johnny thấy tấm bảng từ đằng xa ba mét. Một nửa đã bị che phủ bởi cây kim ngân và những thứ dây leo kinh hãi khác, dường như nó cũ kỹ như tất cả mọi thứ xung quanh, một tấm bảng qua năm tháng mưa gió cũ kỹ đóng đinh vào cái cây. Johnny giật bung những đám dây leo. Chữ được khắc sâu vào trong gỗ, những vết cắt sâu, đen ngòm như thể bị đốt cháy.

RỪNG VĨNH HẰNG, 1853.

- Nó là chỗ này. - Johnny lùi bước.
- Chỗ mà người ta xử giảo những người đó.
- Chuyện đó đã lâu lắm rồi.
- Chỗ này là chỗ chết, Johnny. Tụi mình không nên đến đây.
- Đừng để sự tưởng tượng của cậu chạy trốn mất khỏi cậu.
- Nó bay lên cao và biến mất rồi.
Johnny lờ đi lời nói của cậu bạn. Dây leo kim ngân tiết ra mùi đường trong không khí, và cậu đặt hai ngón tay vào hàng chữ khắc đẽo thô nhám.
- Chỉ là một địa danh, - Johnny nói dối. Con cò mổ trúng con ếch, xé xác nó ra trong bùn đất. - Chỉ là một địa danh.
Johnny lia một hòn đá và tạo những vòng sóng loang trên mặt nước đen thẫm. Con cò đập cánh bay lên, con ếch vẫn ngọ nguậy tuyệt vọng trong mỏ con cò.
- Cậu có thực sự nghĩ ai đó sống ở ngoài này không?
Johnny nhìn lên trên cao, xoay đầu.
- Không có đường dây điện. Không dây điện thoại. Có thể là không.
- Đó là tin tốt nhất mà tớ nghe được trong suốt ngày hôm nay.
Johnny nhìn quanh dưới những tàng cây. Cậu di chuyển dưới các nhánh cây và cảm nhận được nhiệt độ đang hạ xuống. Tàng cây vươn lên cao như vương cung thánh đường tĩnh lặng.
- Còn chiếc xe bán tải thì sao?
Johnny quay nhìn trở lại. Thằng bạn cậu đang níu lấy ánh sáng mặt trời, một bàn tay đặt trên vỏ kim loại nóng bỏng.
- Quá ồn ào. Mình bỏ nó.
- Thật sao?
- Chứ sao nữa.
Jack bước vào trong bóng râm.
- Bây giờ thì yên lặng, - Johnny nói.
Và cánh rừng nuốt chửng bọn họ.
* * *
Cớm đổ bộ xuống hiện trường nhà Jarvis: cớm thành phố, cớm quận hạt. Ai đó nhắc nhở cục cảnh sát tiểu bang, nhưng Hunt bác bỏ đề nghị. Trong suốt mười bảy năm, ông từng thấy toàn những tranh chấp và xâu xé khi quá nhiều ngón tay thò vào cùng một cái bánh. Giữ nó là chuyện của địa phương. Giữ chặt nó. Nhưng đến giờ phút này họ đã cắm bảy cây cờ, quá tải với một văn phòng khám nghiệm y khoa địa phương. Bác sĩ Moore tiến đến gần Hunt với ánh mắt buồn rầu, sự hồ hởi thường ngày tiêu tan. Ông đeo găng tay bám dính đầy những thứ đen đúa. Đã gần hai giờ đồng hồ ông đào bới qua nhiều tầng lớp đất chỉ ở một khu vực duy nhất, rồi đánh dấu bằng cờ. Ông tìm thấy mẫu xương và răng, một ít mảnh vụn áo quần bị phân hủy. Hunt giữ tất cả mọi người ngoại trừ Yoakum ở một khoảng cách xa. Họ đi quanh khu vực ngoài rìa, nói chuyện thì thào khi mặt trời leo cao.
- Bác sĩ. - Thám tử Hunt nhìn đầy nghi vấn.
Bác sĩ Moore lắc đầu, sau đó lau mặt bằng khăn tay dính đầy bùn đất.
- Nó là một đứa trẻ, - ông nói. - Gái. Chín đến mười hai tuổi, tôi phỏng đoán như vậy.
Hunt bắt được ánh mắt của Yoakum.
- Bao lâu rồi? Cô bé ấy chết bao lâu rồi?
- Nhiều năm. Tôi chưa thể nói chắc chắn. Lúc này thì chưa.
- Nguyên do tử vong?
Vị bác sĩ co rụt người lại. Hai vai ông rũ xuống. Đôi môi trề xuống.
- Có một cái lỗ trên xương sọ. - Ông chỉ vào phần xương cong ngay đằng sau lỗ tai. - Hiện giờ quá sớm để có thể nói nhiều hơn như vậy.
- Súng bắn? - Yoakum hỏi. - Vật tày đập vào?
- Cả hai. Hoặc có thể không phải cái nào. Hiện giờ quá sớm.
- Còn những khu vực hiện trường khác thì sao?
Bác sĩ Moore dõi ánh mắt buồn rầu nhìn những lá cờ đánh dấu.
- Tôi cần thêm trợ giúp. Tôi đã gọi giám đốc khám nghiệm tử thi ở Chapel Hill. Ông ta đang biệt phái người đến.
- Chúng tôi có thể làm gì khác cho ông? - Hunt hỏi.
Bác sĩ Moore hất đầu, chỉ về hướng những nhân viên công lực quy tụ ngoài vùng ven hiện trường.
- Hãy mang họ đi hết chỗ khác.
- Họ làm ông vướng chân bận tay?
- Chẳng giúp ích được gì.
Hunt gật đầu. Bác sĩ Moore nói đúng.
- Tôi sẽ thi hành lời yêu cầu.
- Cảm ơn. - Bác sĩ Moore giơ một tay lên, sau đó mệt nhọc lê bước trở về khu mộ.
- Muốn tôi làm chuyện đó không? - Yoakum hỏi, nhìn chằm chằm vào Cảnh sát trưởng.
Hunt nhỉnh mép cười ruồi.
- Bộ ông nghĩ tôi không dám sổ cựa với ông ta sao?
- Tôi nghĩ ông ta đang tìm một cái cớ để bãi nhiệm ông và mang lực lượng cớm tiểu bang vào. Điều đó sẽ giữ mọi chuyện êm đẹp, giải tỏa áp lực đè nặng lên ông ta, nha cảnh sát.
Yoakum quay về hướng cả cánh đồng đầy cờ đánh dấu.
- Không ai có thể khiển trách ông ta. Chuyện này lớn, quá lớn để có thể giữ trong nội bộ địa phương. Ông là thám tử chỉ huy của ông ta. Bãi nhiệm ông sẽ cho ông ta một cái cớ rất hợp lý để phủi tay và mang vào Cục Điều Tra Tiểu bang SBI. Chính trị, Clyde. Một ngành doanh nghiệp bỉ ổi. Ông nên để tôi ra nói chuyện với ông ta.
- Không, - Hunt trỏ tay về hướng bác sĩ khám nghiệm y khoa. - Ở yên tại đây. Hãy chắc chắn ông bác sĩ nhận được bất cứ sự hỗ trợ cần thiết nào.
- Đó là việc của ông.
Hunt để Yoakum ở lại với những thi thể của các nạn nhân chưa biết danh tánh và bước đến chỗ ông Cảnh sát trưởng. Da dẻ ông ta nhăn nheo và đỏ ửng. Ngay tại cánh rừng, ngay tại hiện trường và ra ngoài những nơi chốn bình thường, ông ta nhìn càng giống một chính trị gia hơn là một ông cò. Khi Hunt bước lại gần, những sĩ quan cảnh sát mặc quân phục bước dạt ra tạo thành một lối đi. Ông Cảnh sát trưởng mở lời trước khi Hunt nói.
- Bên khám nghiệm y khoa nói những gì?
Hunt nhìn từ ông Cảnh sát trưởng đến ông Trưởng ty cảnh sát quận hạt. Cả hai người đàn ông nhìn o ép khổ sở, và Hunt đoán chừng khuôn mặt của ông cũng mang tâm trạng tương tự. Ký ức về cuộc gặp gỡ sau cùng giữa họ vẫn còn làm cho bầu không khí ngột ngạt khó thở.
- Ông bác sĩ muốn tất cả những người này rời khỏi khu vực.
- Tôi muốn nói về thi thể. Ông ta nói gì về chuyện đó?
- Con gái. Chín đến mười hai tuổi. Thời gian và nguyên nhân tử vong chưa được xác định.
- Có phải là Alyssa Merrimon?
Hunt nhìn ông Trưởng ty cảnh sát và lắc đầu.
- Thi thể này đã nằm dưới lòng đất nhiều năm.
Ông Cảnh sát trưởng dõi mắt nhìn ngang vùng đầm lầy. Vùng da nhăn nheo dưới mắt bị kéo giật ngược trở lại tạo thành những vũng sâu hoắm.
- Ngoài ấy còn sáu tử thi nữa. Có thể chúng ta sẽ gặp may.
- Tôi không gọi chuyện đó là may mắn, - Hunt nói.
Ông Trưởng ty cảnh sát khẽ nhếch mép.
- Ông vẫn nghĩ sẽ tìm được cô bé còn sống.
Hunt đáp trả bằng cái trừng mắt.
- Có thể.
Ông Trưởng ty cảnh sát nói:
- Ông đúng là một Hướng đạo sinh, Hunt. Tôi thề trước Chúa.
- Tôi đã chán ngấy với những...
- Đủ rồi, - Cảnh sát trưởng nói. - Cả hai ông.
Hunt buộc phải tạo một bộ dạng căng thẳng.
- Ông sẽ cho phép tôi giải tán những người đó ra khỏi khu vực này chứ?
Cảnh sát trưởng gật gù.
- Giữ những ai ông cần giữ, yêu cầu tất cả về đồn.
- Tôi không cần bất cứ ai từ văn phòng Ty cảnh sát quận hạt.
Hunt chờ phản ứng từ ông Trưởng ty cảnh sát. Căn nhà của Jarvis nằm bên trong địa phận thành phố, nhưng ngoài này, tít tận trong rừng thẳm, họ thực sự đang đứng trên ranh giới địa phận. Nếu ông ta muốn khoanh vùng trách nhiệm, ông ta có thể. Ông Trưởng ty cảnh sát đi trước.
- Perkins. - Ông ta búng tay và một sĩ quan phụ tá lạ lẫm bước đến bên cạnh ông. - Triệt thoái người chúng ta. Yêu cầu họ ra khỏi đây.
Ông ta mỉm cười với Hunt, đẩy chiếc mũ ngược trở lại trên đầu, và nói giọng trầm tĩnh.
- Khi mà ông làm hỏng cuộc điều tra này và đã bị tống đi thật xa, tôi vẫn nắm quyền điều hành quận hạt này.
- Khoan vội đếm gà trong chuồng.
Thêm nụ cười lạnh lùng.
- Một ngày vui vẻ, Thám tử.
Hunt nhìn gã đi. Ông Cảnh sát trưởng đang chờ khi ông xoay lại, nhưng khuôn mặt ông ta không có dấu hiệu oán hận như Hunt trông đợi. Thay vào đó, ông ta nhìn ủ rũ, bực dọc. Ông ta bỏ mũ khỏi đầu và lau tay áo ngang vầng trán. Đầu ông ta chúi về hướng những lá cờ đánh dấu và nói nhẹ nhàng.
- Nếu những thi thể nọ đều là trẻ con... - Ông đứt quãng. - Chúa cứu rỗi chúng ta.
- Có thể Ngài đã làm vậy. Gã Jarvis đã chết.
- Ông nghĩ Jarvis chủ mưu chuyện này?
Ông ta chỉ một lần nữa vào những lá cờ đánh dấu.
- Tất cả những cái này?
Hunt nhìn bác sĩ Trenton Moore bắt đầu khai quật địa điểm thứ hai.
- Có thể.
Dừng một lúc.
- Có thể ai đó giúp hắn ta.
- Ông vẫn tin có một gã cớm liên quan đến vụ này?
- Ông có biết chuyện con mèo chết không? Lời khuyến cáo đe dọa Johnny Merrimon không được nói?
- Tôi biết.
- Mẹ cậu ta nói là trước khi chuyện ấy xảy ra, bà ta trở về nhà từ bệnh viện và gặp một chiếc xe đậu gần nhà. Vào đêm khuya. Máy vẫn nổ. Gã ta chỉ ngồi đó.
- Không hề làm gì vi phạm pháp luật.
- Ngoài đó không có gì. Vài căn nhà, một dãy đường dài trống rỗng. Không có lý do chính đáng gì để ai đó có mặt ngoài đó. Khi bà đến gần chiếc xe, nó phóng vọt đi. Chuyện này xảy ra ngay sau khi Johnny được xác nhận trong vụ án Burton Jarvis. Tên cậu ấy xuất hiện trên mọi tờ nhật báo, trên mọi băng tần truyền hình. Hình ảnh cậu ta, như ông biết. Cũng không khó khăn gì lắm để tìm cậu ta.
Ông Cảnh sát trưởng xoay lòng bàn tay, dáng bộ mất kiên nhẫn.
- Vậy thì sao?
- Bà ta nói nó giống như xe tuần tra cảnh sát.
Khuôn mặt ông Cảnh sát trưởng chuyển màu, nhưng Hunt làm ngơ.
- Ai đó mà Johnny thấy cùng với Jarvis...
- Nếu cậu ta thấy bất cứ ai.
Hunt lên cao giọng.
- Ai đó mà Johnny thấy ngoài kia đủ đầu óc tỉnh táo gắn biển số giả trên ô tô của hắn ta. Nếu tên cớm giấu giếm chuyện gì, đó là chuyện gã ta sẽ phải làm.
- Đó là chuyện bất cứ ai cũng làm.
- Tôi muốn được phép sưu tra hồ sơ nhân viên.
- Tôi không thể cho phép ông làm việc đó.
- Tôi muốn ông suy xét lại.
Ông Cảnh sát trưởng ngần ngại.
- Tôi sẽ suy nghĩ về chuyện này.
- Khi nào tôi sẽ biết?
- Cho tôi một ngày. Được không? Cho tôi một ngày và một ít bình tâm trong đầu.
- Tôi cần một vài thứ khác. Nếu đó là những thi thể dưới các cây cờ đánh dấu, và tất cả chúng đều là trẻ con...
- Nói đi.
- Không thể nào toàn bộ nạn nhân là người của quận hạt Raven. Không thể kéo dài một quãng thời gian hai thập kỷ. - Ông lắc đầu. - Chúng ta phải biết.
- Đồng ý.
- Tôi cần vài người liên lạc với những quận hạt xung quanh, những khu vực đô thị gần đây.
Ông Cảnh sát trưởng đã gật gù.
- Chúng ta cần tìm những đứa trẻ khác bị mất tích.
Cả hai yên lặng, mỗi người mỗi suy nghĩ riêng tư. Hunt mường tượng hình ảnh các bậc cha mẹ đau khổ bên trong những “bảo tàng” phòng ngủ, xung quanh là những con thú màu hồng, quần áo đẹp, và những tấm ảnh lồng trong khung bị phủ bụi. Ông hy vọng mang đến cho họ sự kết thúc chung cuộc, một chút gì gọi là bình yên. Ông muốn mang những mảnh xương tàn cốt nhục đó trở về nhà với cha mẹ của chúng, nói với họ con quỷ tác giả của những chuyện động trời này đã đền mạng, bị tống cổ ra khỏi thế giới đời sống này không phải bởi thời gian, bệnh tật, hay cảnh sát, mà bởi một nạn nhân của hắn ta, một cô gái yếu đuối với đủ sức mạnh bóp cò cây súng. Hunt tìm thấy chút thi vị trong đó. Có thể họ cũng tìm thấy. Suy nghĩ của ông Cảnh sát trưởng đơn giản hơn.
- Giới truyền thông sẽ tiêu hóa những thứ này. Tôi mong ông sẽ đủ sức đương đầu với chuyện này. Không xì tin ra ngoài. Không có nguồn trích dẫn vô danh. Giữ mồm miệng mọi người. Khóa thật kỹ cái đống xà bần này.
- Để Yoakum và hai cảnh sát ở đây. Tung vài đơn vị tuần tra trên đường làm nản lòng báo giới truyền thông hoặc ai đó tò mò.
Ông Cảnh sát trưởng cau mày và dùng tay vuốt mồ hôi đổ trên trán.
- Nó sẽ như một gánh xiếc.
- Một lý do để yêu cầu mọi người ra khỏi nơi này.
Hunt nghe tiếng chân người lại gần và xoay đầu đúng lúc nhìn thấy Cross di chuyển nhanh chóng xuống triền đồi. Ông ta liếc sơ vùng đất cô lập, sau đó đi thẳng đến chỗ Hunt và ông Cảnh sát trưởng. Khuôn mặt ông ửng đỏ, cổ áo đen ướt đẫm mồ hôi.
- Hunt, - ông nói. - Cảnh sát trưởng. - Ông ta hăm hở, kích động.
- Ông đang làm gì ở đây vậy? - Hunt hỏi.
- Đi tìm ông.
- Thì, ông tìm được tôi rồi. Chuyện gì đó?
- Chúng tôi có tin về vị trí chiếc xe tải của David Wilson, - ông ta nói.
- Ở đâu?
- Hướng bắc. Vứt bỏ trong một khe vực.
- Chỉ cho tôi thấy.
Hunt bỏ ông Cảnh sát trưởng lại một mình trong khoảng không gian hình ống với ánh nắng vàng rọi xuống, đầu cúi xuống, những ngón tay đang chỉnh trang viền ngoài của chiếc mũ. Hunt ngoái đầu nhìn lại hai lần, dáng hình ông Cảnh sát trưởng nhỏ và không thay đổi cho đến khi từng hàng cây san sát tưởng không bao giờ dứt ở hai bên đường hiện ra. Họ trèo ra khỏi cánh rừng và đi quá cái chòi cùng căn nhà trống rỗng. Hunt không buồn nhìn vào cả hai.
- Làm thế nào chúng ta tìm được nó?
- Ai đó gọi điện báo.
- Ai?
- Không cho biết danh tánh. Gã tìm thấy nó sáng sớm hôm nay, một giờ trước khi mặt trời mọc, có thể. Giọng gã nghe như say rượu. Khi tôi hỏi, gã công nhận rằng gã đi đêm rọi đèn nai. Gã nói rọi đèn vào và nó hiện lên rất rõ.
- Ta có người có mặt ở hiện trường chưa?
- Tôi đến thẳng đây tìm ông. Tôi biết ông muốn nghe nó.
- Chúng ta có chắc đó là chiếc xe tải của ông ấy? - Hunt hỏi.
- Người gọi điện có biển số xe. Đăng ký trong trường đại học. Phải là nó.
- Ta có số điện thoại của người gọi không?
- Điện thoại công cộng ở một cửa hàng tạp hóa.
- Vậy thì quá tiếc. Có ý kiến gì về chuyện gã sờ mó chiếc xe tải không? Một gã say rượu đi rọi nai lúc năm giờ sáng... Tôi ngờ rằng hắn ta do dự cuỗm cái gì đó.
- Không biết. Gã ta cho biết vị trí, sau đó cúp máy khi tôi đang nghe.
Cả hai ra khỏi cánh rừng và bước vào vùng ánh sáng chan hòa của mặt trời buổi sáng. Hunt dừng lại ở ngay mép đường.
- Anh có thể gọi điện cho tôi.
- Tôi hy vọng ông sẽ cho phép tôi đi cùng.
Hunt quan sát chàng trai trẻ. Khuôn mặt anh ta cương nghị, quyết chí.
- Anh bạn đáo hạn thăng cấp. Điều đó đúng không?
- Một lời nói châm chước từ ông sẽ giúp đỡ rất nhiều.
Hunt trầm ngâm.
- Tôi không được ngủ nhiều lắm, - ông nói. - Anh bạn lái xe đi.
------------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét