Khúc Cầu Hồn
Tác giả: John Hart
Dịch giả: Phạm Thiện
Công ty phát hành Alphabooks & Nhà xuất bản Thời Đại
Ngày xuất bản: 04/2011
Hai mươi lăm
Đầu Hunt lùng bùng khi bước ra khỏi căn phòng: suy nghĩ lộn
xộn và nghi ngờ về chuyện bà Katherine cả quyết những gì đọc trong tờ ghi chép
của Johnny; giận dữ và bực dọc vì cậu bé không chịu nói chuyện với ông; nhẹ cả
người khi cậu còn sống, và Tiffany cũng thoát hiểm. Hunt dựa hai vai vào bức tường
lạnh và làm ngơ những người đi qua đi lại, làm ngơ những ánh mắt của họ. Ông mệt
mỏi và lo lắng, nhưng hy vọng cái chết của Burton Jarvis là khởi đầu cho sự chấm
dứt, và cái chết bi thảm của gã già cũng sẽ là bước đầu tiên giúp ông lần mò ra
sự mất tích của Alyssa. Ông cố gắng tự thuyết phục mình là gã đốn mạt bệnh hoạn
hành động đơn thương độc mã; nhưng có một điều lo lắng nhớp nhúa cứ lẩn quất
trong đầu ông.
Một gã cớm?
Chuyện này có thể không?
Hunt cố gắng một lần nữa để giải mã những nét chữ lí nhí
trong ghi chép của Johnny. Một số trong đó viết bằng bút chì, lòe nhòe. Nhiều
phần bị nhòe nước, những chỗ khác lem luốc bởi bồ hóng và nhựa thông và nhiều
chỗ rách trên giấy. Hunt có thể biết còn nhiều điều bí mật trong đó. Ông chỉ muốn
đạp sập cánh cửa và vắt từng câu trả lời ra khỏi cậu nhóc.
Mẹ kiếp!
Cậu bé biết nhiều chuyện. Hunt chắc chắn điều này. Ông hình
dung một lần nữa, như nhiều lần đã làm thế, đôi mắt đen và sự cảnh giác, sự
thâm thúy trong chiều sâu tĩnh lặng và cách suy nghĩ cẩn thận. Johnny đã bị làm
hỏng người theo nhiều cách khác nhau, nhưng rõ ràng cậu bé đã nhận ra điều gì
đó...
Lòng trung thành. Sự dữ dội. Sự xác quyết.
Những đặc tính ấy khiến cho cậu trai gặp nhiều trở ngại.
Nhưng chúng khiến Hunt cảm thấy hãnh diện và ra sức bảo bọc. Lẽ ra Johnny nên
biết những điều ấy hiếm hoi như thế nào, quý giá đến mức nào trong thế giới
này. Hunt muốn vòng tay ôm chặt cậu, làm cho cậu hiểu, và, cùng lúc ấy, ông muốn
cậu phải dừng bước.
Hunt đi ra bãi đậu xe, ánh nắng chan hòa, không khí rất đỗi
trong lành. Cỏ xanh và nắng đẹp không có ý nghĩa gì cho một ngày như thế này.
Ông nhìn lên tầng sáu. Phòng bệnh của Johnny nằm ở cuối dãy, Tiffany nằm ở góc
đối diện. Tòa cao ốc tỏa sắc trắng, và những ô cửa kính hắt màu xanh tuyệt hảo.
Ông đi về nơi hướng xe của ông đậu và được nửa đoạn đường,
ông thấy một người đàn ông mặc veston. Cao như cây sậy, hai bả vai to gù, y di
chuyển từ một góc khuất của tòa cao ốc, ẩn mình giữa hai chiếc ô tô, và tiến đến
phía bên phải ông. Tự nhiên Hunt để ý đến người đàn ông đó. Nụ cười nhã nhặn, một
tay y cầm tệp giấy gấp. Nhân viên quản trị bệnh viện, ông đoán. Hoặc người nhà
bệnh nhân.
- Thám tử Hunt?
Khoảng ba mươi, tóc búi, da hơi sần sùi. Hàm răng trắng đều.
- Phải.
Nụ cười người đàn ông rạng rỡ và một ngón tay giơ lên. Y
nhìn như muốn thể hiện một bộ mặt quen thuộc.
- Thám tử Clyde Lafayette Hunt?
- Đúng rồi.
Y trao cho Hunt xấp giấy tờ và nụ cười biến mất khi Hunt cầm
xấp giấy.
- Ông đã nhận trát toà.
Hunt nhìn y bỏ đi, sau đó đọc đống giấy. Ông bị kiện, bởi gã
Ken Holloway.
Mẹ kiếp!
Viên sĩ quan cải huấn phụ trách hồ sơ của Levi Freemantle
làm việc trong một dãy lúc nhúc những văn phòng mất hút ở lầu ba tòa án quận hạt.
Hành lang sàn nhà dán keo bong tróc và trong tám mươi năm trời, nhựa nicotine
ám vào bức tường trát vữa. Những cánh cửa văn phòng làm từ gỗ sồi đậm màu phản
chiếu màu xanh tuyệt hảo. Đủ thứ âm thanh thoát ra đằng sau cánh cửa: tranh
cãi, giải thích, khóc than. Những lời lẽ ông đã từng nghe trước đây. Hàng trăm
lần. Hàng triệu lần. Sự dối trá ầm ập đến như nước lũ, làm sĩ quan cải huấn là
một cái nghề phải phán đoán tất cả những mánh khóe, gian ngoan nhất của con người
mà Hunt từng chứng kiến.
Ông tìm văn phòng sĩ quan cải huấn phụ trách hồ sơ
Freemantle ở phòng thứ chín. Bảng tên gắn trên cửa phòng ghi Calvin Tremont, và
cửa rộng mở. Những chồng hồ sơ chất trên ghế và dưới sàn nhà. Một cái quạt đặt
trên tủ hồ sơ bằng sắt đầy những vết xước thổi hơi nóng. Người đàn ông ngồi sau
bàn làm việc quen biết Hunt. Người tầm thước, bụng to, gần sáu mươi, tóc hoa
râm và cảm giác như có những nếp gấp trên làn da sậm màu của ông. Hunt gõ cửa.
Khi ông Tremont nhìn lên, ông ta cau mày, nhưng không lâu. Cả
ông và Hunt có mối thân tình mật thiết.
- Chào Thám tử, - ông nói. - Chuyện gì mang ông đến đây?
- Một gã người của ông.
- Mời ông ngồi, nhưng... - Ông ta xòe ngón tay ám chỉ những
chồng hồ sơ đầy trên hai chiếc ghế.
- Tôi không làm mất thời gian của ông đâu. - Hunt bước vào
phòng. - Tôi có để lại lời nhắn hôm qua. Đây cũng là cùng một việc.
- Ngày đầu tiên trở lại sau khi nghỉ ngơi. - Ông ta ra hiệu lần
nữa. - Tôi cũng chưa đọc hết các e-mail.
- Đi chơi vui chứ?
- Cả nhà ở bãi biển. - Ông ta nói cái kiểu nó có thể ngụ ý bất
cứ thứ gì. Hunt gật đầu và không hỏi thêm. Viên sĩ quan cải huấn cũng như cớm;
họ hiếm khi tiết lộ chuyện đời tư.
- Tôi cần nói về vụ Levi Freemantle.
Khuôn mặt ông Tremont nở nụ cười rạng rỡ mà trước nay Hunt
chưa từng bắt gặp.
- Levi? Thằng bạn thân tôi sao rồi?
- Bạn thân ông à?
- Hắn là đứa trẻ ngoan.
- Hắn bốn ba tuổi rồi.
- Tin tôi đi, hắn chỉ là đứa trẻ con.
- Chúng tôi nghĩ bạn thân ông giết hai người. Có thể ba.
Đầu ông Tremont di chuyển tưởng như cổ ông ta được bôi trơn
dầu mỡ.
- Tôi nghi ngờ ông nhầm lẫn.
- Ông nói cứ như chắc chắn lắm...
- Levi Freemantle nhìn thì giống như một gã đàn ông sừng sỏ
nhất ngoài giang hồ, như hắn có thể giết ông chỉ vì một đồng năm xu, mà thực sự
cũng không tệ lắm khi ông không có xu nào dính túi. Nhưng để tôi nói thẳng với
ông, thám tử, hắn sẽ không giết ai. Không thể nào. Ông nhầm người rồi đó.
- Ông có địa chỉ của gã không? - Hunt hỏi.
Ông Tremont gật đầu và lục lọi từ trong trí nhớ.
- Hắn cư ngụ ở đó khoảng ba năm.
- Chúng tôi phát hiện thấy hai tử thi ở địa chỉ đó, - Hunt
nói. - Một phụ nữ da trắng, chớm giữa ba mươi. Người đàn ông da đen, khoảng bốn
mươi lăm tuổi. Chúng tôi phát hiện ra họ ngày hôm qua. Họ đã bị giết khoảng một
tuần lễ.
Hunt để một khoảng thời gian lắng đọng.
- Ông có biết Clinton Rhodes không?
- Gã là người bị giết hả?
Hunt gật đầu.
- Tôi không phụ trách hồ sơ đó, - ông Tremont nói. - Nhưng
gã ta từng ra vào chốn này một thời gian khá dài. Thứ dữ. Hung hãn. Bây giờ tôi
có thể xem gã ta là kẻ giết người. Không phải Levi.
- Chúng ta đều tin như vậy.
Ông Tremont dịch chuyển trên chiếc ghế.
- Levi Freemantle đang thọ án tù ba tháng cho một lần vi phạm
án treo. Hắn sẽ không ra khỏi nhà tù trong chín tuần nữa.
- Hắn đã trốn cách đây tám ngày.
- Tôi không tin như vậy.
- Hắn trốn biệt và không ai biết hành tung của hắn, ngoại trừ
một gã nghiện ngập mà chính tên mình cũng không rõ, và một cậu trai trẻ gần hiện
trường một vụ án mạng. Chuyện đó xảy ra cách đây hai ngày. Cho nên ông thấy đó,
tôi có ba thi thể, mỗi người liên quan ít nhiều đến con trai ông.
Ông Tremont lấy hồ sơ Freementle và giở ra.
- Levi chưa từng bị kết án liên quan đến bạo hành. Hắn chưa
hề bị tố lấy một lần. Xâm nhập gia cư, ăn cắp cửa hiệu.
Ông ta đóng sấp hồ sơ.
- Ông xem, - ông nói. - Levi không phải con dao cái kéo bén
nhất trong thùng đồ nghề. Phần lớn những vụ án đó, nếu ai đó nói, Levi, đi vào
trong đó và lấy cho tao một chai rượu, hắn chỉ đơn giản bước vào tiệm và lấy. Hắn
hoàn toàn không biết gì về hậu quả.
- Thì những kẻ giết người cũng tương tự.
- Không phải như vậy. Levi... - Ông ta lắc đầu. - Hắn chỉ là
đứa con nít.
- Tôi có một xác chết phụ nữ da trắng. Mới chớm đến giữa ba
mươi. Ông có ý kiến gì về chuyện này không?
- Hắn có qua lại với Ronda Jeffries. Cô ta da trắng, thích
tiệc tùng. Được biết đôi khi hành nghề tay trái mãi dâm. Chỉ là vui chơi, cô ta
thích đàn ông to lớn, thứ dữ. Đặc biệt cô ta chuộng đàn ông da đen to lớn. Cô
ta qua lại với Levi vì tướng mạo hắn, một kẻ giang hồ anh chị trên đường phố.
Cô ta sử dụng hắn bởi vì hắn dễ sai bảo và làm những gì cô ta sai khiến. Hắn
làm được vài đồng là đưa cả cho cô ta. Hắn lo toan mọi việc trong nhà. Làm cho
cô ta nhìn có vẻ hợp pháp. Khi cô ả muốn chơi hoang, hay có một nhân tình mới,
cô ả thường tìm một cớ gì đó để Levi bị bắt nhốt trong một thời gian ngắn. Nó
cũng như tôi nói, hắn sẵn sàng làm bất cứ điều gì ả ta sai khiến. Lần đầu tiên
hắn bị bắt liên quan đến trộm cắp siêu thị. Cô ả lấy cắp một lọ nước hoa khỏi kệ
hàng và bảo hắn cầm lấy nó; sau đó cô ta dẫn gã đi qua nhân viên an ninh và ra
cổng trước.
- Họ có hôn thú với nhau không?
- Không, nhưng Levi nghĩ là họ có.
- Tại sao?
Ông ta cười.
- Bởi vì họ ngủ chung giường, và bởi vì... - chữ nghĩa bặt
âm. - Ồ, chết rồi.
- Chuyện gì?
- Ai chăm lo đứa con của họ?
Hunt cảm thấy lạnh người.
- Con của họ?
- Đứa bé gái. Hai tuổi.
Hunt với tay chộp điện thoại của ông.
- Nó có nụ cười có thể làm tan chảy trái tim ông.
------------------
Hai mươi sáu
Bệnh viện buộc bà Katherine phải rời phòng Johnny vào ban
đêm. Một đằng, thật khổ sở với bà, đằng khác, đây lại là điều may. Ken Holloway
gọi điện đến phòng bệnh bốn lần, không chịu gác máy cho đến khi bà đồng ý gặp mặt.
Ông ta khăng khăng cần gặp và bà cứng cỏi, từ chối mỗi lần, giải thích rằng bây
giờ, bà ta phải đặt ưu tiên của con lên trước tiên. Cuối cùng, bà buộc phải cúp
máy điện thoại. Sau đó, bà giật mình sợ hãi mỗi khi cửa mở hoặc tiếng ồn vang
lên quá lớn trong hành lang.
Và rồi sự thiếu vắng tràn vào tâm hồn bà. Bà cố gắng cứng cỏi,
nhưng cảm giác đó cứ lan vào từng tế bào trong cơ thể.
Nhu cầu.
Bà tần ngần bên cạnh giường bệnh giây phút. Con trai bà đang
ngủ, khuôn mặt nó, như thường lệ, cùng tạng như cô em gái. Cũng cái miệng đấy.
Cũng những đường nét đấy. Bà hôn mái tóc cậu, sau đó gặp taxi ở cổng vào phía
sau bệnh viện.
Trên chuyến xe về nhà, bà phải gồng mình chống trả. Xe đi
qua các cửa hiệu quảng cáo bia rượu, hai quầy rượu khác nhau. Bà nghiến chặt
hàm răng và bấu chặt móng tay vào lòng bàn tay. Khi đèn đường dưới phố mờ dần,
bà cho phép mình được hít thở. Con đường tối mù, tiếng ù ù liên tục của bánh xe
cao su lướt trên mặt đường. Không sao. Bà nhắc lại. Tôi không sao.
Chiếc taxi đổ dốc xuống ngọn đồi cuối cùng, bà trông thấy
căn nhà cả nửa dặm đường từ phía xa. Ánh đèn hắt ra từ mọi cửa sổ, làm cho sân
vườn có hình dạng loang lổ như loài ong thợ đen và vàng.
Lúc ra khỏi nhà, bà đã tắt hết đèn đóm.
Trèo ra khỏi xe, bà đi đến cánh cửa, sau đó ngần ngại. Tay
bà tìm thấy điện thoại trong túi xách. Bà vào đến hiên nhà, thay đổi ý định và
lùi bước. Mọi thứ vẫn nguyên trạng: sân nhà, cánh rừng, đường cái. Khi đó bà thấy
một chiếc ô tô. Nó đậu ở cuối con đường cách bà khoảng bảy mươi mét, đậu sát
vào mép đường. Trời quá tối để có thể biết được màu sơn chiếc ô tô. Đen, có thể.
Một chiếc xe bốn cửa lớn mà bà không nhận ra. Bà nhìn chằm chằm, bước một bước
đến gần và nhận ra tiếng động cơ đang nổ.
Bà đi thêm hai bước thì đèn xe bật sáng. Cát sỏi văng ra
phía sau, chiếc xe quẹo gắt, gào rú và phóng lên trên đường, ánh đèn sau xe nhỏ
dần, rồi biến mất nơi con đường cái hụp xuống.
Bà Katherine cố gắng thở chậm lại. Chỉ là một chiếc ô tô. Một
người hàng xóm. Bà quay gót trở vào nhà và thấy cửa trước hé mở, bóng ánh sáng
vàng lan rộng ra khi bà đẩy cửa.
Bên trong nhà, tiếng nhạc đang mở.
“Bạn hãy có một mùa Giáng sinh bé nhỏ hạnh phúc...”.
Bây giờ là cuối tháng Năm.
Bà tắt máy nhạc và đi xuống cuối hành lang. Căn nhà trống vắng,
lời nhạc làm bà ớn lạnh. Nó là bài nhạc để ở chế độ phát đi phát lại. Bà kiểm
tra phòng ngủ trước tiên, không tìm thấy gì khác lạ. Phòng tắm cũng bình thường.
Bà thấy chai thuốc trong nhà bếp.
Chai thuốc màu cam nằm ngay chính giữa cái bàn dán formica
có nhiều chỗ bong tróc. Nó sáng choang và bóng loáng, nhãn hiệu trên chai trắng
tinh. Bà Katherine nhìn vào nó, cảm thấy lưỡi mình dày lên. Những viên thuốc
khua lách cách khi bà cầm cái chai lên đọc nhãn hiệu. Trên đó ghi tên bà và
ngày hôm nay.
Bảy mươi lăm viên.
Oxycontin.
Trong cơn phẫn nộ, bà giật phăng cánh cửa và quẳng mạnh cái
chai ra ngoài sân. Chiếc khoá cửa xoay trong ngón tay khi bà gài chốt. Bà kiểm
tra mọi cửa sổ, mọi cửa ra vào, sau đó ngồi ở ghế sofa bên cạnh cửa sổ trước
nhà. Bà giữ thẳng lưng, và cảm nhận cái chai thuốc ở ngoài sân, một món quà
trong bóng tối. Bà nghiến răng và nguyền rủa gã Ken Holloway.
Sẽ chẳng dễ dàng như vậy. Trưa hôm sau, Johnny rời bệnh viện.
Họ dìu cậu đến lề đường và cậu đứng đó cẩn thận.
- Cháu không sao chứ? - Cô y tá hỏi.
- Cháu nghĩ vậy.
- Hãy thong thả vài phút.
Cách đó mười một mét, máy ảnh chớp nháy liên hồi. Các phóng
viên hò hét đặt câu hỏi, nhưng cảnh sát giữ họ ở một khoảng xa. Johnny dựa vào
thân xe, một tay đặt trên nóc xe tải của ông Steve. Cậu thấy những chiếc xe tải
mới của các hãng thông tấn từ Charlotte, những chiếc xe của Raleigh.
- Cháu sẵn sàng rồi, - cậu nói, và cô y tá giúp cậu ngồi vào
trong xe.
- Đừng làm việc gì quá sức nhé, - cô nói. - Hai vết chém ăn
khá sâu vào thịt cháu đấy.
Cô nở nụ cười rồi đóng cửa xe lại. Ngồi đằng sau vô-lăng tay
lái, Steve xem xét các máy ghi hình. Ngồi bên cạnh ông, mẹ Johnny dùng một tay
che mặt. Hunt bước đến cửa xe khi Johnny ngồi cẩn thận ở ghế đằng sau. Khi ông
lên tiếng, đã có sự dàn xếp giữa ông và Sở Xã hội.
- Chuyện này chỉ có thể tiếp tục nếu tất cả quý vị chấp hành
theo quy định. - Ông di chuyển ánh mắt từ mặt người này qua người kia, dừng trước
Steve. - Tôi muốn biết ông có khả năng đảm trách chuyện này không.
Steve liếc nhanh Johnny qua gương chiếu hậu.
- Tôi nghĩ là được. Cứ cho rằng cậu nhóc sẽ vâng lời tôi.
Thám tử Hunt nhìn Johnny.
- Đây là một món quà, Johnny. Với tất cả những gì đã xảy ra.
- Con tôi phải xa nhà bao lâu? - Bà Katherine hỏi.
- Tùy vào Sở Xã hội.
- Đúng là tào lao, - Johnny lẩm bẩm.
- Cậu nói gì đó?
Johnny đá tấm thảm trải sàn xe.
- Không có gì.
Hunt gật đầu.
- Tôi cũng nghĩ như vậy. - Ông lùi bước, nói với Steve. - Theo
sau đèn đuôi xe của tôi. Đi về tới nhà.
Chặng đường đi hết mười hai phút, và không ai nói một lời
nào. Về đến nhà, Hunt đậu xe ở bãi cỏ. Johnny và mẹ cậu leo xuống khỏi xe. Bà
chằm chằm nhìn ngọn đèn đường ở tít đằng xa, sờ cổ họng mình một lần, và đi vào
trong nhà. Johnny đi theo bà vào phòng cậu. Quần áo của cậu đặt trên giường, gấp
cẩn thận. Giọng bà đầy vẻ ăn năn.
- Mẹ xếp hết chúng ra giường tối hôm qua. Mẹ không biết những
món nào con muốn mang theo.
- Con sẽ gói chúng vào túi.
- Con chắc không? - Bà chỉ vào bộ ngực băng cứng bông băng.
- Con làm được.
- Johnny...
Cậu nhìn mẹ, thấy bà căng thẳng quá mức. Trước kia, bà luôn
cứng cỏi, và rồi, sau chuyện con gái bị bắt cóc, mọi chuyện đã hoàn toàn trái
ngược. Khuôn mặt bây giờ của bà rất khác biệt, như thể hai bên mặt của bà đang
trong một cuộc tranh chấp kinh hoàng.
- Lẽ ra mẹ không nên nói dối con, - bà nói. - Lẽ ra mẹ không
nên nói dối con về chuyện bố con viết thư.
- Con hiểu.
- Mẹ không muốn con biết con chỉ có một mình. Mẹ nghĩ...
- Con đã nói con hiểu rồi.
Bà luồn tay vào tóc của con trai.
- Thật cứng cỏi, - bà nói. - Rất độc lập.
Johnny cứng đờ người vì đã có lần bà nói những từ đó để diễn
tả bố cậu. Vô tình Johnny nghe được một trận cãi nhau hiếm có, lý do đi đến cãi
vã cậu cũng không được rõ. Nhưng đó là những lời lẽ của bà: Anh không cần lúc
nào cũng phải độc lập thế đâu! Ông chỉ mỉm cười và hôn bà, và cuộc cãi vã chấp
dứt. Bố Johnny là người tuyệt vời như vậy. Khi ông nở nụ cười trên môi, không
ai có thể bực dọc gì ở ông được nữa. Với Johnny, đến ngay cả bây giờ, sự tự lập
và cương nghị đều là một và giống nhau. Không than vãn. Cố làm cho xong việc. Cậu
có tất cả những yếu tố đó. Cái cậu thiếu là một nụ cười thỏa hiệp như bố. Hoặc
là cậu thực sự không bao giờ có nó, hoặc là cậu đã đánh mất cảm giác đó, cậu
không thể nói gì được. Đời sống, đối với Johnny, trở thành vấn đề của sự độc lập.
Cậu nhặt bộ quần jeans, nhét nó vào túi.
- Con phải làm việc này cái đã.
Bà rời phòng và cậu nghe thấy tiếng khóa cửa phòng bà, tiếng
lò xo nệm giường khua lạch cạch. Cậu không rõ cuối cùng phía bên nào của mẹ
mình thắng trận, sự mềm yếu hay cứng rắn, nhưng kinh nghiệm cho cậu biết mẹ cậu
đang đóng kịch, cậu nhắm nghiền mắt. Bất thình lình bà xuất hiện ở cửa, một lúc
sau, làm cậu vô cùng ngạc nhiên. Bà cầm một khung ảnh, ảnh màu chụp bà trong
ngày cưới. Lúc ấy bà mới hai mươi, cười rạng rỡ, ánh nắng tràn trên khuôn mặt tạo
thành gam màu tuyệt đẹp. Bố Johnny đứng cạnh bên bà, cũng với nụ cười không
chút ưu tư. Johnny nhớ tấm ảnh này. Cậu nghĩ bà đã đốt nó cùng tất cả những thứ
khác.
- Con cầm lấy bức ảnh đi, - bà nói.
- Con sẽ trở về mà.
- Cầm lấy đi.
Và Johnny cầm.
Sau đó bà ôm cậu với sự trìu mến vô tận; và khi bà trở về
phòng ngủ của mình, cửa phòng đóng kín.
Johnny dừng ở phía đằng sau cửa lưới, cái túi vải nặng trịch
một bên vai. Bên ngoài, cành cây oằn mình trong cơn gió mạnh. Hunt đứng cúi đầu,
hai tay thọc sâu vào túi quần. Ông nhìn chằm chằm căn nhà với cặp mắt sâu hoắm.
Ông không trông thấy Johnny; ông nhìn vào một cái cửa sổ, rồi cái kế tiếp, đầu
không nhúc nhích, những nếp nhăn hằn giữa trán. Ông di chuyển khi trông thấy
Johnny đá nhẹ cánh cửa bằng một chân.
- Cậu không nên mang vác cái túi nặng như vậy. - Ông đỡ cái
túi từ vai của Johnny. - Cậu sẽ làm bung chỉ khâu các vết thương đấy.
- Không sao mà. - Johnny bước xuống sân cỏ và Hunt dừng bước
ngay bên cạnh cậu.
- Trước khi chúng ta đi.
- Sao?
- Khi cậu gặp gã Levi Freemantle... - Hunt ngần ngại. - Cậu
có thấy ai khác đi với gã không?
Johnny cân nhắc câu hỏi, tìm kiếm dấu hiệu nguy hiểm. Cậu từ
chối tất cả những câu hỏi của thám tử Hunt, nhưng không thấy câu này có thể gây
trở ngại với Sở Xã hội. Cậu thấy tia hy vọng trên mặt ông thám tử, và rồi tiêu
tan khi cậu lắc đầu.
- Chỉ có cái rương.
Đôi mắt thám tử Hunt như bị tra tấn, giọng ông ta đanh lại.
- Không có ai sao?
Hunt không thể hỏi hết toàn bộ câu hỏi: Không có con nít?
Không có đứa trẻ nào có thể làm mềm con tim?
Johnny lắc đầu.
Hunt ngừng, sau đó đằng hắng để làm trơn cuống họng.
- Đây.
Ông chìa ra tấm danh thiếp, và Johnny cầm lấy nó.
- Cậu có thể gọi tôi bất cứ lúc nào. Không cần phải có lý
do.
Johnny nghiêng tấm danh thiếp, sau đó nhét nó vào túi quần
sau. Hunt nhìn căn nhà lần cuối, rồi gượng cười một tiếng. Tay ông đặt lên vai
Johnny.
- Ngoan nhé, - ông nói, và quẳng cái túi của Johnny vào phía
đằng sau xe ô tô.
Johnny nhìn xe thám tử Hunt quặt vào đường, rồi rẽ bánh.
Cánh cửa xe tải của Steve kêu rít khi cậu mở nó. Cậu leo lên xe, đôi môi Steve
vặn vẹo miễn cưỡng một cử chỉ thân thiện.
- Bây giờ thì chỉ có hai ta.
- Chuyện này vớ vẩn quá, - Johnny nói.
Nụ cười Steve rớt xuống. Ông ta đề máy, lùi xe ra khỏi đường
dẫn. Ông liếm môi, nháy mắt phải.
- Cháu có thể nói tôi nghe chuyện gì xảy ra được không?
Ý ông ta muốn nói về chuyện Tiffany Shore.
- Cháu đâu có cứu mạng được ai. - Johnny nói một cách máy
móc.
Johnny giữ mắt không nhìn vào căn nhà. Cậu sợ mình sẽ phản ứng
nếu nhìn vào cái vỏ bọc mà cậu bỏ lại mẹ trong đó, sự vô nghĩa được gói ghém
trong lớp sơn bong tróc và gỗ mục nát.
Steve tăng tốc.
- Dù vậy, bố cháu sẽ hãnh diện.
- Có thể.
Johnny đánh liều nhìn thoáng ngôi nhà lần chót khi ngôi nhà
càng lúc càng nhỏ bé phía đằng sau. Nóc nhà võng ngược dường như thẳng ra, những
chỗ hư hỏng mờ đi, và trong giây phút ngắn ngủi, căn nhà sáng choang như đồng
tiền mười xu.
- Chúng ta sẽ ổn với sự xếp đặt thế này chứ? - Johnny hỏi. -
Tôi ở với chú? Đây không phải ý kiến của tôi, chú biết đấy.
- Chỉ cần cháu đừng đụng đến đồ đạc của tôi.
Chiếc xe leo lên đỉnh đồi, và ông Steve vặn vẹo xương hàm
như thể nó bị nhảy ra khỏi khớp. Con đường đổ dốc xuống khu vực có bóng râm.
- Cháu có muốn mua kẹo bánh hay truyện tranh gì không?
- Kẹo á?
- Bọn trẻ vẫn thích mà, đúng không.
Johnny không nói gì.
- Cảm giác như cháu mắc nợ chú.
- À, không phải thế đâu.
Steve nghiêng đầu về phía ngăn đựng bao tay, bớt căng thẳng
hơn.
- Tôi cần lấy bao thuốc lá.
Giấy tờ nhà và nhiều thứ linh tinh được nhét trong hộc đựng
trên táp-lô. Thuốc lá gói. Biên nhận. Vé sổ xố. Johnny lôi ra nửa gói thuốc lá
Lucky Strikes nhàu nát dúm dó và đưa cho ông chú. Sau đó cậu thấy cây súng. Nó
được nhét vào góc bên trong, giấu kỹ dưới cuốn cẩm nang sử dụng xe và tấm bản đồ
Myrtle Beach lem lấm đầy cà phê. Báng súng bằng gỗ nâu, mạ kền, cò súng xanh
đen mạ bạc. Nhiều vết nứt làm đổi màu bao súng da. Cạnh bên cây súng, một hộp đạn
bằng giấy bạc màu ghi chữ.32 khoét rỗng đầu.
- Đừng đụng vào nó, - Steve nói.
Johnny đóng hộc đựng trên táp-lô. Cậu nhìn hàng cây hai bên
đường lao nhanh vun vút phía sau lưng họ, những khoảng không gian tối đen giữa
nó như hình bóng một người đàn ông khổng lồ màu khói.
- Chú sẽ dạy tôi bắn súng chứ?
- Khó gì đâu.
- Chú sẽ chỉ cho tôi chứ?
Steve nhìn hai bên đường, xác định, sau đó búng tàn thuốc lá
ra ngoài cửa sổ. Johnny giữ vẻ mặt trầm ngâm tư lự, và cậu hãnh diện điều này,
bởi vì thực ra cậu không hẳn là như vậy. Cậu đang suy nghĩ về cô em gái song
sinh và gã khổng lồ với khuôn mặt chảy xệ có cái tên gốc Mustee.
- Để làm gì? - Steve hỏi, và Johnny tròn xoe đôi mắt ngây
thơ nhất của cậu.
- Chỉ đề phòng hờ thôi.
------------
Còn tiếp.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét