Mật bánh cay đắng
Tác giả: O. Henry
Trong khi chúng tôi đang lo lùa đàn bò ở
Frio, một nhánh cỏ khô trên mặt đất làm vướng chân con ngựa tôi đang cưỡi khiến
tôi ngã nhào, và bị trặc cổ chân. Tôi phải nằm dưỡng một tuần trong lán.
Đến ngày thứ ba, vì buồn chán tôi bò ra gần
chiếc xe goòng dùng làm bếp nấu ăn, thúc thủ nằm đấy trong lửa khói đối thoại của
Judson Odom, anh bếp của lán trại. Jud có tính hay độc thoại, cái tật Định Mệnh
đã ban cho anh làm anh cứ mãi khát khao tìm thính giả. Thế là tôi phải cố nằm
chịu trận nghe anh cà kê.
Đến một lúc, tôi thèm ăn một thứ gì đấy mà
không phải là các món hàng ngày của lán.
Trong trí tôi hiện ra một chiếc bánh nướng
mẫu tử “dầy như mối tình đầu, và hoang sơ với mọi nuối tiếc”. Nên tôi hỏi:
- Jud, anh có thể làm bánh rán cho tôi ăn
được không?
Jud xông đến tôi, và tôi thấy anh có dáng vẻ
đe dọa pha bất bình, đôi mắt xanh của anh chằm chằm nhìn tôi trong hồ nghi và lạnh
lùng:
- Này, anh có ý thẳng thắn không, hay là chế
nhạo tôi? Có phải mấy đứa đã kể cho anh nghe về tôi và câu chuyện bánh rán
không?
Tôi thành thật nói:
- Không có đâu, Jud. Tôi nói thật mà. Tôi hầu
như có thể đổi con ngựa của tôi kể cả yên cương để lấy một chiếc bánh rán nâu
dòn phết bơ với nhựa* New Orleans đầu mùa. Có một câu chuyện về bánh rán à?
*[Nhựa được trích theo mùa từ một loài cây tích thụ (Anh
ngữ: “maple” - cây phong), trông giống và ngọt tựa mật ong, thường được phết
lên bánh rán]
Jud dịu lại ngay khi anh thấy là tôi không
có ý gì xỏ xiên. Anh mang ra vài cái bao và hộp thiếc kỳ bí từ chiếc xe goòng
nhà bếp. Tôi nhìn anh bắt đầu thong thả sắp xếp các món này và tháo ra các dây
buộc. Jud nói:
- Không, không phải là một câu chuyện. Chỉ
là mấy điều tiết lộ về trường hợp của tôi và cái tên nuôi cừu đau mắt đỏ Trại
Mired Mule Canada với cô Willella Learight. Tôi có thể kể cho anh nghe.
* * *
Thời ấy, tôi đang chăn bò cho ông già Bill
Toomey ở San Miguel. Một ngày nọ, tôi cảm thấy thèm ăn thừ gì đấy trừ món đã từng
kêu “mu-u” hoặc “ba-a” hoặc khụt khịt hoặc cục tác. Nên tôi phóng ngựa đến quán tạp
hóa của bác Emsley Telfair tại Pimienta Crossing vùng Nuecess.
Khoảng ba giờ chiều tôi bước vào cửa hàng
bác Emsley. Tôi leo lên ngồi tại cái quầy, bảo bác Emsley là mọi dấu hiệu đều
cho thấy sản lượng trái cây của thế giới bị tàn phá. Trong vòng một phút, tôi đã
có một bao bánh nướng dòn và một chiếc thìa cán dài, với mỗi thứ một hộp: mơ, dứa,
anh đào, vân vân. Tôi cảm thấy như mình là ông Adam trước khi nếm phải trái cấm.
Khi đang làm việc với chiếc thìa cán dài thì tôi bất chợt nhìn qua cửa sổ trông
ra khu vườn nhà bác Emsley gần cửa hàng.
Một cô gái đang đứng đấy - một người con
gái được nhập khẩu toàn bộ kể cả phụ tùng, nhìn tôi đang khuyến khích công nghệ
đóng hộp.
Tôi tuột khỏi cái quầy và hỏi chuyện bác
Emsley. Ông nói: “Cháu gái tôi đấy, Willella Learight, từ Palestine* tới chơi.
Anh muốn tôi giới thiệu với nó không?”
*[Palestine ở đây là một thị trấn nhỏ ở Mỹ]
Tâm tư chao đảo, tôi nghĩ: “Thánh thần ơi!
Tại sao lại không? Chắc chắn là có đầy cô tiên ở cái xứ Pales” - Nên tôi nói to
với bác Emsley: “Tôi muốn lắm, bác Emsley ạ. Tôi thiết tha muốn gặp cô
Learight”.
Thế là bác Emsley dẫn tôi đến khu vườn và
giới thiệu hai đứa tôi với nhau.
Tôi không bao giờ e thẹn với phụ nữ. Tôi
không thể hiểu tại sao lại có người có thể thuần hóa một con ngựa rừng xong
xuôi trước bữa sáng và cạo râu trong bóng tối, nhưng đứng trước phụ nữ tay chân
lại lóng ngóng, mồ hôi nhỏ giọt và cứ ríu rít xin lỗi! Chỉ trong vòng tám phút,
tôi và Willella đã trở nên thân thiết với nhau cứ như hai anh em cô cậu ấy! Cô
chế diễu tôi về số lượng trái cây đóng hộp tôi tiêu thụ, và tôi trả đũa lại về
chuyện có một phụ nữ tên Eva đã bắt đầu làm rối ren với cái quả trong cánh đồng
cỏ tự do đầu tiên của nhân loại.
Tôi nói, dễ dàng như thể trói con bò một tuổi:
“Chuyện này xảy ra ở Palestine phải không?”
Đấy là cách tôi tiếp cận thân mật với cô
Willella Learight, và tình thân nảy nở dần. Cô đang đến ở chơi tại Pimienta
Crossing để dưỡng sức khỏe, thế là rất hay, và khí hậu ở đây nóng hơn khoảng 40
phần trăm. Tôi phóng ngựa đến thăm cô mỗi tuần một lần, và rồi tôi tính ra nếu
tôi tăng gấp đôi số chuyến đi, tôi sẽ được gặp cô nhiều gấp hai lần.
Có một tuần, tôi lẻn đến đấy lần thứ ba, và
đấy là lúc chuyện bánh rán và cái tên nuôi cừu đau mắt đỏ bắt đầu.
Chiều ấy, trong khi tôi đang ngốn ngấu một
quả đào và hai quả mận trong miệng, tôi hỏi thăm bác Emsley về cô Willella. Ông
bảo: “Sao hở? Cô ấy đang cưỡi ngựa đi chơi với Jackson Bird, người nuôi cừu ở
trại Mired Mule Canada”.
Tôi nghẹn cổ họng, nuốt nhầm luôn hạt đào
và hai hạt mận. Hình như có ai đấy giúp nắm chặt cái quầy khi tôi tuột xuống,
và rồi tôi bước thẳng ra ngoài đến khi đầu tôi va phải bụi gai nơi tôi cột con
ngựa. Tôi thầm thì vào tai nó: “Cô ta cưỡi ngựa đi chơi với Jack, cái tên lừa
chở thuê của trại Man’s Canada. Mày có nghe không?”. Con ngựa của tôi khó rưng
rức theo cách của nó. Nó đã được nuôi nấng thành ngựa của dân chăn bò nên không
khoái mấy tên nuôi cừu.
Tôi trở vào trong, hỏi bác Emsley: “Ông nói
hắn là tên nuôi cừu à?”
Ông bảo: “Tôi nói anh ấy nuôi cừu. Anh chắc
đã nghe nói về Jackson Bird. Anh ấy có tám khu đồng cỏ và bốn nghìn con cừu thuộc
dòng Cotswolds tốt nhất, ở vùng Arctic Circle”.
Tôi đi ra ngoài, ngồi dưới mái hiên cửa
hàng, dựa vào một cây lê gai. Hai tay tôi thơ thẩn rót cát vào đôi giày ủng
trong khi ca cẩm với chính mình về cái con chim nọ với bộ lông vũ mà Jackson
khoác lên người.
Tôi không bao giờ muốn hại dân nuôi cừu. Một
ngày nọ tôi thấy một anh chăn cừu học ngữ pháp Latin trên lưng ngựa, thế mà tôi
vẫn không động đến anh ta. Họ không làm phiền đến tôi nhiều như dân chăn bò.
Tôi luôn tảng lờ họ như là bạn tảng lờ thỏ rừng, với ít câu lịch sự về mưa nắng,
nhưng chưa bao giờ ăn uống với nhau. Tôi không bao giờ nghĩ đáng công gây sự với
họ. Và vì tôi dễ dãi, để cho họ sống sót, nên giờ đây có một tên nuôi cừu rong ngựa
đi chơi với cô Willella Learight!
Khoảng một giờ sau họ phi trở về, dừng lại
trước cánh cổng của bác Emsley. Anh cừu đỡ cô xuống ngựa, và họ đứng trao đổi một
lúc với nhau vài câu liến thoắng và tâm đắc. Và rồi cái tên Jackson có lông vũ*
này bay lên yên trở về trại cừu của hắn. Đến lúc này tôi đã trút hết cát ra khỏi
đôi ủng và dứt người tôi ra khỏi mấy cây gai. Cách nửa dặm thì tôi bắt kịp hắn,
cho ngựa chạy sóng hàng bên hắn.
*[Judson xỏ xiên. Tên “Bird” nghĩa là chim chóc. Vài đoạn
sau Judson cũng có ý nói xỏ tương tự]
Tôi nói dân chăn cừu có mắt đỏ, nhưng hắn
thì không. Mắt hắn đủ xám, nhưng lông mi thì hồng và tóc màu cát. Như thế là bạn
hiểu như thế nào rồi. Anh ta chăn dắt cừu à? Hắn không hơn gì anh bồng bế cừu
non, nhỏ thó với khăn quàng lụa màu vàng khoac trên cổ, và đôi giày có cột nơ.
Tôi bảo hắn: “Chào. Anh đang đồng hành với
Judson đây, biệt hiệu Tử thần Đạo đức, theo cách tôi bắn. Khi tôi muốn một người
lạ biết đến tôi, tôi luôn luôn tự giới thiệu mình trước khi ra tay, vì tôi
không muốn bắt tay với hồn ma”.
Hắn đáp lại lời chào: “À”, chỉ có thế. “À,
hân hạnh được biết anh Judson. Tôi là Jackson Bird, ở Trại Mired Mule”.
Đúng lúc ấy tôi thấy một con chim chạy* ngậm
một con nhện lông trong mỏ, và một con diều hâu đang đậu trên một nhánh cây.
Tôi rút súng bắn lần lượt cả hai con, để cho anh ta thấy tài thiện xạ của tôi.
Tôi nói: “Hai trong số ba con chim. Chim chóc ở đâu cũng cứ làm tôi ngứa tay”.
*[Anh ngữ: “roadrunner” - loài chim nhỏ, bộ long màu sọc
nâu và trắng, thường chạy hơn là bay, và chạy rất nhanh]
Tên nuôi cừu không hề nháy mắt: “Bắn khá đấy.
Nhưng có khi nào hụt phát thứ ba không? Tuần rồi có cơn mưa làm cỏ non xanh tốt,
phải không ông Jackson?”
Tôi kề ngựa chạy sát vào hắn, nói: “Willie,
cha mẹ anh có thể từ anh với cái tên Jackson, nhưng anh thay lông trở thành con
chim Willie ríu rít. Nhưng anh nên bỏ qua việc phân tích mưa nắng để lo nói
chuyện bên ngoài ngữ vựng của mấy con vẹt. Anh có thói quen không hay khi cưỡi
ngựa đi chơi với các cô gái trẻ ở Pimienta. Tôi đã từng thấy chim chóc bị nướng
vì tội nhẹ hơn. Willella không hề muốn cái tổ nào kết bằng lông cừu của mấy con
chim chích họ Jackson đâu. Bây giờ anh muốn bỏ cuộc hay đấu tay đôi với tôi?”
Jackson cười: “Anh Judson, anh nghĩ lầm rồi.
Tôi có đến gặp cô Learight, nhưng không phải với mục đích mà anh tưởng tượng. Mục
đích của tôi là về ẩm thực”.
Tôi rút súng ra: “Tên chó sói nào dã man…”
Nhưng Jackson đã chặn lời: “Thong thả, để
cho tôi giải thích. Tôi muốn có cô vợ để làm gì chứ? Nếu anh đã từng thấy trang
trại của tôi! Tôi làm lấy mọi việc bếp núc may vá. Tôi chỉ khoái ăn - đấy là
thú vui duy nhất từ nghề nuôi cừu. Anh Judson, anh đã từng nếm qua bánh rán do
cô Learight làm chưa?”
Tôi bảo hắn: “Tôi à? Chưa. Tôi chưa từng
nghe nói cô có tài nấu nướng”.
Hắn bảo: “Bánh rán do cô làm cứ như là ánh
mặt trời vàng, nâu đậm màu mật ngọt. Tôi đã bỏ ra sáu năm để tìm công thức làm
bánh rán. Tôi tìm gặp cô Learight chỉ vì việc này. Đây là công thức gia truyền
trong dòng họ được bảy mươi lăm năm nay. Họ truyền nó từ đời này sang đời kia,
mà không hề truyền cho người ngoài. Nếu tôi có thể lấy công thức này để tôi có
thể tự làm trong trại của tôi, là tôi đủ mãn nguyện”.
Tôi hỏi lại hắn: “Có chắc là anh chỉ theo
đuổi bàn tay làm bánh rán không?”
Hắn trả lời: “Đúng thế. Cô Learight là người
rất dễ thương, nhưng xin anh tin là tôi không có ý định vượt quá môn ẩm…”. Hắn
thấy tôi đưa tay xuống bao súng, nên chữa lại: “vượt quá thiết tha muốn có một
bản công thức làm bánh rán”.
Tôi cố tỏ ra công bình nên bảo hắn: “Tôi
nghĩ anh không phải tệ. Tôi đã định làm đàn cừu của anh thành mồ côi, nhưng tôi
để cho anh bay lần này. Nhưng anh chỉ nên lo chuyện bánh rán thôi, chứ đừng ăn
nói chuyện đường mật lẫn lộn với mật làm bánh, nếu không sẽ có màn đồng ca ở trại
anh mà anh không thể nghe được”.
Anh ta bảo tôi: “Để anh tin là tôi thành thật,
tôi xin anh giúp tôi. Cô Learight và anh thân nhau, có thể cô ấy sẽ theo lời
anh yêu cầu mà không nghe tôi. Nếu anh tìm cho tôi công thức bánh rán ấy, tôi hứa
sẽ không đến gặp cô nữa”.
Tôi nói: “Thế là công bằng, tôi vui lòng
giúp anh nếu có thể được”.
Rồi tôi bắt tay Jackson Bird.
Năm ngày sau tôi mới có dịp ghé ngang
Pimienta. Willella và tôi có một buổi tối vui vẻ với nhau ở nhà bác Emsley. Cô
hát ít bài, chơi dương cầm với vô số trích đoạn từ nhạc giao hưởng. Tôi bắt chước
tiếng rắn chuông cố hò hát, tôi nói về kỹ thuật lột da bò mới của ông Snaky
McFee, và về chuyến đi của tôi đến Saint Louis. Hai đứa tôi tỏ ra khá thân ái với
nhau. Thử nghĩ xem, nếu con chim Jackson chịu di thê thì kể như tôi thắng chắc.
Tôi nhớ lại lời yêu cầu của hắn về công thức bánh rán, và tôi nghĩ nếu tôi thuyết
phục được Willella để đưa cho anh ta cái công thức này thì xem như anh ta chỉ
có thể nhảy nhót trên cây.
Thế nên, lúc khoảng mười giờ tối, tôi nở nụ
cười cầu tài với Willella: “Bây giờ nếu có thứ nào làm anh mê hơn là một con bò
thịt đỏ trên cỏ xanh, thì đấy là hương vị một chiếc bánh rán phết ngập mật đường”.
Willella bỗng giật nảy người trên chiếc ghế
cô đang ngồi để đàn dương cầm, nhìn tôi một cách tò mò. Cô bảo: “Thế à, kể cũng
hay. Con đường mà anh nói đã đến ở Saint Louis, tên là gì thế?”
Tôi nói: “Pancake Avenue - Đại lộ Bánh
Rán”, và nheo mắt với cô để cho cô thấy là tôi có đủ thân thiết được nhận công
thức gia truyền chứ không thể ở bên lề gia đình. Tôi bảo: “Này em Willella, nói
cho anh biết em làm bánh rán như thế nào. Bánh rán đang quay mòng mòng trong đầu
anh như là mấy bánh xe thồ. Bắt đầu xem nào: nửa cân bột, tám tá trứng, còn gì
nữa… Danh sách các nguyên liệu cần thiết là như thế nào?”
Willella bảo: “Xin lỗi anh một chút”.
Hình như cô thoáng liếc xéo tôi, rồi lướt
ra khỏi chiếc ghế đánh đàn. Cô quày quả bước đi phòng trong, rồi bác Emsley bước
vào, với một bình nước trong tay. Ông quay người đi lấy một chiếc cốc, và tôi
nhìn thấy khẩu .45 giắt trong túi.
Tôi nghĩ: “Ghê quá! Cái gia đình này xem
công thức nấu nướng gia truyền quá trọng đại nên sẵn sàng dùng vũ khí để bảo vệ,
trong khi mình đã từng thấy những tay lục lâm không đến nỗi dữ dằn đến thế này
trong mấy mối thù truyền kiếp”.
Bác Emsley đưa tôi cốc nước, nói: “Uống đi.
Hôm nay anh buông thả quá đáng, Jud, nên bị quá kích động. Cố nghĩ đến việc
khác đi”.
Tôi hỏi: “Bác có biết làm bánh rán không,
bác Emsley?”
Ông nói: “Tôi không tò mò muốn biết như người
khác, nhưng tôi nghĩ anh lấy thuốc bả chuột trộn với ít bột mỳ với ít bột nở và
bã bắp, rồi trộn với trứng và kem sữa như thường lệ. Có phải ông già Bill sắp
chở bò đến Kansas City mùa xuân này không, hở Jud?”
Đêm ấy tôi lấy được cái công thức bánh rán
như thế. Tôi không lạ gì mà Jackson Bird cứ như là lội dòng nước ngược để lấy
nó. Nên tôi bỏ qua việc này và trong một thời gian nói chuyện với bác Emsley về
loài bò có sừng rỗng và giông bão. Rồi Willella đi đến và tôi cảm thấy như nhận
được luồng gió mát.
Khoảng một tuần sau, tôi gặp Jackson Bird từ
Pimienta đang phi ra khi tôi đang phi vào. Chúng tôi dừng lại trên đường, trao
đổi vài chuyện vẩn vơ. Tôi hỏi hắn: “Lấy được cái công thức chưa?”
Jackson bảo: “Chưa. Xem ra không thành công
gì cả. Anh có thử hỏi không?”
Tôi đáp: “Có. Cứ như là cố dụ con chuột đồng
ra khỏi hang với một cái vỏ đậu lạc! Cái công thức bánh rán này chắc là món gia
bảo bí truyền, xem cách họ cứ khư khư bảo vệ thì biết!”
Jackson nói với giọng chán nản đến nỗi tôi
cảm thấy tội nghiệp cho hắn: “Tôi gần như muốn bỏ cuộc, nhưng tôi hết sức muốn
làm thế nào để có thể làm bánh rán mà ăn trong trang trại cô đơn của tôi. Tôi
thao thức nhiều đêm cứ tưởng tượng nó ngon như thế nào”.
Tôi bảo hắn: “Anh tiếp tục dò hỏi, tôi cũng
thế. Chẳng bao lâu một trong hai ta sẽ quăng được sợi dây lên sừng của nó”.
Anh biết không, đến lúc này thì hai đứa tôi
đã ở trong tình trạng hòa nhã nhất. Khi tôi thấy hắn ta không theo đuổi
Willella, tôi lại càng thấy khinh thường dai dẳng thêm cái tên chăn cừu này. Để
giúp cho cao vọng tham ăn của hắn, tôi tiếp tục cố gắng lấy cái công thức từ
Willella. Nhưng mỗi lần tôi vừa mở miệng “bánh rán” là cô tỏ ra xa cách với
tôi, đôi mắt trở nên bất an, cố lái câu chuyện sang hướng khác. Nếu tôi cố nằn
nì, cô sẽ chạy vọt ra rồi lùa bác Emsley vào với cái bình nước và khẩu súng giắt
túi.
Một ngày kia, tôi phi đến cửa hàng với một
bó hoa mã tiền xanh mà tôi cắt từ đồng cỏ. Bác Emsley nhìn bó hoa chỉ với một
con mắt và hỏi: “Anh có nghe tin gì không?”
Tôi hỏi: “Bò đã lên giá à?”
Bác bảo: “Willella và Jackson Bird đã cưới
nhau tại Palestine hôm qua. Tôi mới nhận thư sáng nay”.
Tôi ném bó hoa vào cái thùng rác nứt nẻ, từ
từ để cái tin thấm vào tai tôi cho đến khi nó xuống đến chân tôi. Tôi nói: “Bác
Emsley, xin bác vui lòng lặp lại cho tôi nghe được không? Có thể là tai tôi đã
điếc, hay bác chỉ muốn nói là bò tơ nằm giá 4,8 đô một con hoặc đại loại như thế?”
Bác bảo: “Cưới nhau hôm qua. Đã đi Waco và
Thác Niagara để hưởng tuần trăng mật. Anh không thấy dấu hiệu gì hết à? Jackson
Bird đã đeo đuổi Willella ngay từ ngày đầu tiên anh ta mời cô đi cưỡi ngựa
chơi”.
Tôi hỏi, gần như thét: “Thế thì cái chuyện
hắn nói về bánh rán là như thế nào? Cho tôi biết xem!”
Khi nghe đến “bánh rán”, bác Emsley né ra,
bước thối lui.
Tôi nói: “Có người chơi xỏ tôi về việc bánh
rán, và tôi nghĩ là bác biết. Nói ra, nếu không tôi sẽ quậy đầy một chảo mỡ ở
đây”.
Tôi nhảy đến cái quầy theo sau bác Emsley.
Ông định chụp lấy khẩu súng nhưng nó ở trong ngăn kéo, và ông bị chậm mấy phân.
Tôi thộp lấy áo ông, kéo ông đến một góc.
Tôi hỏi: “Nói về việc bánh rán đi. Willella
có làm bánh rán không?”
Bác Emsley nói: “Trong đời nó chưa từng làm
bánh rán, và tôi cũng chưa hề thấy một cái bánh rán nào. Bình tĩnh lại, Jud,
bình tĩnh lại đi. Anh bị kích động, và vết thương trong đầu anh gây rối loạn
trí óc của anh. Cố đừng nghĩ đến bánh rán nữa”.
Tôi nói: “Bác Emsley, tôi không có vết
thương nào trong đầu. Jackson Bird bảo tôi là hắn đến tìm Willella chỉ để tìm
công thức bánh rán gia truyền, và hắn nhờ tôi giúp. Tôi đã làm theo lời hắn, và
kết quả như bác đã thấy. Có phải cái tên nuôi cừu đau mắt đỏ đã chơi tôi rạt
gáo không, hay là sao?”
Bác Emsley nói: “Anh buông áo tôi ra để tôi
kể cho anh nghe. Đúng vậy, có vẻ như Jackson Bird đã lừa anh một cú. Cái ngày
sau khi anh ấy dẫn Willella cưỡi ngựa đi chơi, anh ta trở về bảo với tôi và con
nhỏ là phải đề phòng mỗi khi anh nói đến bánh rán. Jackson bảo ngày nọ anh đang
ở trong lán khi người ta đang làm bánh rán, và có một tên lấy cái chảo nện cho
anh một cú vào đầu. Jackson bảo mỗi khi anh bị kích động, vết thương gây nhức
nhối và làm anh trở nên gần như là điên dại, rồi anh sẽ nói lung tung về bánh
rán. Anh ta bảo chúng tôi chỉ cần đánh trống lảng và làm anh dịu xuống, và anh
không phải là nguy hiểm gì. Thế nên, tôi và Willella cố gắng tìm mọi cách né
anh như anh biết đấy. Hà hà! Cái tên Jackson Bird đúng là loại dân nuôi cừu hiếm
có!”
* * *
Trong khi kể chuyện, Jud đã chậm rãi nhưng
khéo léo pha trộn các phân lượng khác nhau từ mấy cái bao và hộp. Khi kể gần
xong, anh đã đặt trước mặt tôi sản phẩm cuối cùng - một cặp bánh rán trên chảo
thiếc. Từ một kẽ ngách nào đấy, anh lôi ra một thỏi bơ thơm ngậy và một chai mật
vàng óng.
Tôi hỏi anh:
- Chuyện đã xảy ra bao lâu rồi?
- Ba năm. Bây giờ họ đang sống ở Trại Mired
Mule. Nhưng tôi chưa từng gặp lại họ. Nghe nói Jackson Bird đã sửa sang trang
trại của hắn với mấy cái ghế xích đu và màn cửa suốt cả quãng thời gian hắn cho
tôi leo cây bánh rán. Dần dần tôi cũng nguôi ngoai. Nhưng bọn con trai cứ nhắc
đến mãi.
Tôi hỏi anh:
- Có phải anh làm mấy chiếc bánh này với
công thức nổi danh kia không?
- Có phải tôi đã nói cho anh biết là chả có
công thức nào không? Bọn con trai cứ mè nheo đòi ăn bánh rán nên tôi phải cắt một
công thức từ một tờ báo. Ăn được không?
- Ngon lắm. Sao anh không ăn một ít, Jud?
Tôi đoán chắc tôi đã nghe thấy một tiếng thở
dài.
Jud nói:
- Tôi à? Tôi không bao giờ ăn bánh rán.
Hết
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét