Thứ Sáu, 7 tháng 2, 2020

Không Chiến Zero Rực Lửa - P 8

Không Chiến Zero Rực Lửa

Tác giả: Naoki Hyakuta
Người dịch: Võ Vương Ngọc Chân
NXB Văn Học & Alpha Books Co - 2016
*

Điên cuồng

Sau khi gặp ông Nagai, tôi đã lùng sục tìm đọc những cuốn sách nói về trận chiến Thái Bình Dương. Tôi muốn biết các trận chiến đã diễn ra như thế nào tại nhiều chiến trường khác nhau.
Càng đọc càng cảm thấy căm phẫn. Các binh lính và hạ sĩ quan ở hầu hết các chiến trường đều bị sử dụng như những viên đạn pháo. Chắc các tham mưu cấp cao của Bộ Tổng tư lệnh và Tổng hành dinh Đế quốc chẳng hề quan tâm đến sinh mạng của binh sĩ. Chắc họ cũng chẳng quan tâm đến việc các binh lính còn có gia đình hay người thương. Chính vì thế họ mới nghiêm cấm việc đầu hàng, nghiêm cấm việc trở thành tù binh, kêu gọi việc xả thân vì danh dự. Họ đã ra lệnh “Chết!” cho những người đã tận lực chiến đấu nhưng cuối cùng vẫn chỉ nhận được thất bại.
Trung đoàn Ichiki tận diệt tại Guadalcanal cũng vậy. Sau khi trận chiến kết thúc, bờ biển lúc rạng đông đầy rặt những thương binh. Thấy quân Mỹ đến gần, dù không thể di chuyển nhưng họ vẫn cố dùng hết sức lực cuối cùng nã súng, những người không còn đạn thì tự sát bằng lựu đạn. Chuyện này lặp đi lặp lại ở bất cứ đâu.
Không quân cũng vậy. Họ được huấn luyện rằng nếu bị trúng đạn, không còn hy vọng trở về thì phải tự phát nổ.
Thế hệ ông ngoại đã sống một thời kỳ vĩ đại làm sao. Trong cuộc chiến chiến đấu anh dũng hết mình, sau chiến tranh lại dựng xây đất nước từ tro bụi.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều điều tôi chưa hiểu về Kamikaze. Có sách viết tất cả đều do tự nguyện nhưng cũng có cuốn lại cho rằng đó là do ép buộc. Rốt cuộc ông ngoại tôi thuộc nhóm nào đây? Dù thế nào thì những người như ông ngoại đã không được tự do tận hưởng tuổi thanh xuân của mình.
Cựu Trung úy Hải quân Tanikawa Masao đang sống ở viện dưỡng lão Okayama.
Keiko nói muốn đi cùng tôi. Không biết từ bao giờ tôi đã dẫn dắt chính trong vụ này, bởi việc liên lạc với các hội cựu chiến binh đều do tôi thực hiện.
Chúng tôi đi tàu điện đến Okayama.
- Em nói với chị trước... - Vừa ngồi xuống ghế, tôi đã nói ngay với Keiko. - Chuyện anh Takayama nói sẽ viết báo về cuộc tìm hiểu ông ngoại, em chính thức từ chối.
Chị Keiko chỉ gật đầu.
- Có thể anh Takayama sẽ thấy khó chịu nhưng em không thích đem chuyện của ông lên báo.
- Anh Takayama sẽ hiểu mà.
Tôi thoáng để ý biểu hiện của chị.
- Chị có gì với anh Takayama phải không?
- Có gì đâu. - Keiko nhìn ra ngoài cửa sổ, tôi biết chị đang nói dối. Xưa nay chị tôi không giỏi che giấu cảm xúc, thế nên tôi thường băn khoăn liệu chị có hợp với nghề phóng viên.
- Anh ta nói gì với chị à?
- Anh ấy cầu hôn chị. - Chị nhún vai.
Tôi ngạc nhiên dò xét gương mặt chị nhưng không biết được chị vui hay buồn.
- Chị nói cho chị thời gian suy nghĩ.
- Chị đùa giỡn anh ta đấy à?
- Chị đâu phải con nít. Chuyện một đời người, không thể trả lời đơn giản thế được.
- Thực lòng thì chị nghĩ sao?
- Chị nghĩ anh Takayama là người tốt, điều kiện cũng khá. Vì thế chị định sẽ đồng ý.
Tôi vừa định mở miệng nói thì chị chặn ngay.
- Chuyện này đến đây thôi!
Tôi nhắm mắt muốn ngủ nhưng cuối cùng cứ miên man trong dòng suy nghĩ. Tôi không chắc anh Takayama có hợp với chị hay không. Dù thế nào, đó cũng không phải việc tôi quản được.
Nhiều lần hé mắt, tôi vẫn thấy chị thẫn thờ nhìn ra ngoài cửa sổ. Gương mặt nghiêng nghiêng của một phụ nữ 30 tuổi, chị Keiko của tôi thật xinh đẹp mặn mà.
Bỗng nhiên lúc đó, trong đầu tôi chợt hiện lên khung cảnh tám năm về trước, lúc anh Fujiki an ủi cô chị mít ướt của tôi ngày anh trở về quê. Đó là tuần sau khi chúng tôi lái xe đến Hakone. Hôm đó, tôi đến văn phòng của ông chơi, lâu lắm rồi mới lại mò lên sân thượng. Trên sân thượng có trồng nhiều cây cảnh nên tôi rất thích lên đó ngồi yên tĩnh một mình.
Nghe thấy tiếng con gái khóc đâu đó gần cửa sân thượng, tôi rón rén lén nhìn qua cửa kính. Chị đang ngồi sụp xuống đất khóc. Anh Fujiki đứng bên cạnh với vẻ mặt đầy khổ sở. Anh Fujiki nói gì đó, nhưng tôi không nghe được. Mỗi lần anh nói gì chị lại lắc đầu bật khóc. Ban đầu tôi nghĩ anh Fujiki đã làm gì chị nhưng hình như không phải. Chị khóc như một đứa trẻ vòi vĩnh vậy. Đó là lần đầu tiên tôi thấy người chị mạnh mẽ của mình khóc, cũng chưa từng thấy gương mặt đau khổ của anh Fujiki khi nhìn chị như vậy. Tôi lẳng lặng bước xuống cầu thang.
Tôi không biết lúc đó giữa hai người đã xảy ra chuyện gì. Nhưng khi ấy, cô sinh viên Đại học mới lớn là chị, đang một lòng yêu anh Fujiki.
Viện dưỡng lão nằm ở ngoại ô Okayama, là một tòa nhà màu trắng mang kiến trúc cận đại, thoạt nhìn giống một căn hộ chung cư. Ngay sau viện là núi, thiên nhiên rất hài hòa. Keiko đã tìm hiểu trên internet và nói rằng chỉ cần nộp vài chục triệu yên là có thể sống ở đây đến cuối đời.
Chúng tôi đến văn phòng hỏi gặp ông Tanikawa và được mời vào phòng khách. Gọi là phòng khách nhưng nó giống như một phòng họp nhỏ. Giữa phòng đặt một cái bàn.
Không lâu sau, một ông lão ngồi xe lăn được hộ lý đưa đến.
- Ta là Tanikawa. Xin thứ lỗi vì không thể đứng dậy chào được.
Chúng tôi chào đáp lại.
- Rất lâu rồi mới lại có người đến thăm ta.
Cô hộ lý pha trà mời chúng tôi. Ông Tanikawa cẩn trọng cầm chén, chậm rãi nhấp trà.
- Ta chưa từng nhắc lại chuyện thời chiến khi ấy. Ta ghét bị nghĩ rằng mình khoe khoang chiến công, cũng không muốn bị thương hại. Chưa nói đến chuyện ta không thể chịu nổi thói tọc mạch. Chắc đó là tâm trạng chung của nhiều người từng trong cuộc chiến đó.
Chị định nói gì đó, nhưng ông Tanikawa quạt tay chặn lại.
- Ta biết cháu muốn nói gì. Có lẽ đây thực sự là chuyện phải kể cho thế hệ sau, là nhiệm vụ của những người từng ra chiến trường. Ta nghĩ nhiều người kể về những trải nghiệm chiến tranh như sứ mệnh của mình. - Ông Tanikawa đặt chén trà lên bàn. - Ta không còn sống lâu nữa. Vợ ta đã đi trước rồi, sau khi chỉ còn một mình trên đời, ta đã suy nghĩ về việc này nhiều năm, nhưng vẫn chưa có đáp án. Không chừng một ngày không xa nữa ta sẽ ra đi.
Ông Tanikawa nhìn vào mắt tôi nói.
- Nhưng, hôm nay ta sẽ kể. Ta và Miyabe cùng chiến đấu với nhau trong Phi đội 12 tại Thượng Hải, Trung Quốc. Miyabe là một phi công dũng cảm, không biết sợ hãi. Hơn nữa, lại là thiên tài về kỹ thuật điều khiển trong các cuộc không chiến. Một khi đã bám theo địch thì tuyệt đối không buông tha. Ta còn nhớ có ai đó đã nói, “Miyabe giống như con ba ba trơn vậy”.
Thời gian đó ở Thượng Hải đầy rẫy những tay có tiếng như Akamatsu Sadaaki, Kuroiwa Toshio, Kashimura Kanichi. Cả Iwamoto Tetsuzo nữa, nhưng thời ấy vẫn còn là phi công dự bị.
Akamatsu thường hay gây gổ. Cứ rượu vào là mất kiểm soát. Các hành vi sai trái của anh ta không sao đếm xuể, đến mức không được đề xuất huân chương. Sau chiến tranh, anh ta bị đánh giá không tốt, nhưng về tài điều khiển thì không ai có thể chối cãi được. Anh ta khoác lác rằng đã bắn rơi 350 máy bay nhưng kỹ thuật không chiến thì thực sự không hề khoác lác.
Kuroiwa là người kỳ cựu trong các cuộc không chiến tay đôi. Chuyện anh ấy quay cậu Sakai Saburo như chong chóng trong trận diễn tập không chiến khá nổi tiếng.
Trước chiến tranh Thái Bình Dương, anh ấy làm việc tại hãng hàng không dân dụng. Trong cuộc chiến lại nhận nhiệm vụ vận chuyển. Đến năm 1944, anh đã hy sinh ngoài khơi biển Mã Lai. Ta nghĩ nếu anh ấy là người cầm cần điều khiển máy bay chiến đấu thì tuyệt đối đã không bị bắn.
Còn Kashimura nổi tiếng trong vụ bay một cánh. Trong trận không chiến Nam Xương, chiếc chiến cơ trên mẫu hạm kiểu 96 của anh ấy bị mất một cánh. Với khả năng điều khiển tài tình của mình, anh đã bay về được. Chuyện khi đó còn được đăng báo, anh là phi công hải quân nổi tiếng nhất cả nước thời tiền chiến. Hiển nhiên kỹ thuật không chiến cũng siêu việt. Ta cũng được diễn tập không chiến cùng anh ấy vài lần nhưng hoàn toàn không thể địch nổi. Dù vậy, năm 1943, Kashimura đã tử trận tại Guadalcanal.
Tài điều khiển của Miyabe cũng không hề thua kém các đàn anh. Akamatsu từng nói, “Thằng nhóc ấy có vẻ là một thiên tài đấy”.
Thế nhưng, Kuroiwa lại bảo, “Cứ liều lĩnh như thế thì có mấy cái mạng cũng chẳng đủ đâu”.
Ta với Miyabe không mấy thân thiết. Bọn ta cùng tuổi, vào hải quân cùng lúc nhưng Miyabe trở thành thực tập sinh khóa huấn luyện bay sớm hơn, tay nghề cũng cao hơn hẳn nên ta không mang lòng ganh đua. Duy có một điều khiến ta kiêu hãnh, đó là trước khi chiến tranh Thái Bình Dương bắt đầu, chương trình huấn luyện vô cùng cao. Thời của ta, trong 8.000 người dự thi thì chỉ có 50 người đỗ, cuối cùng chỉ còn 20 người có thể trở thành phi công lái máy bay chiến đấu trên mẫu hạm. Tỷ lệ chọi vào khoảng 400.
Mùa xuân năm 1941, cả hai bọn ta đều được gọi về nội địa, lên chiến đấu trên mẫu hạm. Tuy nhiên, Miyabe chiến đấu trên tàu Akagi, còn ta thuộc Soryu đến cuối trận chiến. Vì vậy, từ sau trận Trân Châu Cảng, dù cùng hoạt động trong một hạm đội suốt nửa năm nhưng chúng ta không có dịp gặp gỡ. Đó là khoảng thời gian quân ta bành trướng. Nơi chúng ta tiến đánh không hề có đối thủ. Nhưng liệu đó có phải là điều tệ hại nhất không? Các đô đốc vì thế đều không tin rằng họ lại thua trận.
Thế nhưng, vì chúng ta luôn luôn chiến đấu ở tuyến đầu, dù có trăm trận trăm thắng cũng không thể tránh được thiệt hại của các thành viên phi đội. Trong cuộc chiến dù áp đảo đến mức nào vẫn luôn có những chiế máy bay không trở về. Ngay cả trận Trân Châu Cảng cũng thiệt hại đến 29 chiếc. Bởi thế, bọn ta luôn phải nỗ lực hết mình, bởi nếu xảy ra sơ suất, chính bọn ta là người thiệt mạng.
Ngay cả trong trận Midway, đội Reisen chúng ta đã bắn hạ hơn cả trăm máy bay tại căn cứ và trên mẫu hạm địch. Kẻ gây ra thất bại của trận hải chiến đó và cả trận Harada nữa, có lẽ là Nagumo*.

*[Nagumo Chuichi là đại tướng Hải quân Đế quốc Nhật trong Thế chiến II, tướng tiên phong hàng đầu trong Hạm đội Liên hợp của Nhật Bản và từng tham gia các trận đánh lớn của chiến trường Thái Bình Dương như trận Trân Châu Cảng và trận Midway. Ông đã quyết định tự sát trước thất bại của quân đội Nhật trong trận Saipan]

Sau khi trở về từ Midway, phi công bọn ta bị giam giữ gần một tháng trong đất liền. Việc 4 mẫu hạm bị đánh chìm được ban lệnh tuyệt đối giấu kín. Nếu để lộ ra ngoài, sẽ phải chịu hình phạt nặng nề trước tòa án quân sự. Thật ngớ ngẩn! Tại sao lại không để cho quốc dân biết sự thật chứ? Hơn thế nữa, còn giấu nhẹm sự thật đó với cả Lục quân. Vì thế đến khi đánh trận Guadalcanal, Lục quân ngạc nhiên trước việc vì sao Hải quân có ưu thế hơn quân Mỹ lại không thể chiếm được quyền kiểm soát biển và không phận.
Sau đó, ta được phân về hạm đội không quân mới được hình thành. Các đồng đội không được phân lên mẫu hạm đã bị đưa đến Rabaul. Ta lên chiến đấu trên con tàu được cải tiến thành mẫu hạm Hiyo, tham gia chiến dịch cướp lại Guadalcanal. Chiến đấu trong cả trận hải chiến Nam Thái Bình Dương* vô cùng cam go. Qua nhiều đợt tấn công, chúng ta đã đánh chìm chiếc Hornet, thế nhưng quân ta lại mất quá nhiều phi công kỳ cựu, đặc biệt là các chàng trai ưu tú của Kanbaku và Kanko.
*[Trận chiến Santa Cruz]
Kết cục vẫn không thể chiếm lại Guadalcanal. Cuộc chiến cứ thế kéo dài nửa năm, phần lớn các phi công sống sót từ trận Midway đã hy sinh trên bầu trời Solomon. Ta nghĩ chúng ta đã mất tám mươi phần trăm phi công giàu kinh nghiệm quý giá tại đó. Hải quân Đế quốc đã để xảy ra một lỗi lầm không thể nào khắc phục.
Sau đó ta quay về nội địa làm giảng viên nửa năm, rồi được phân đến chiến đấu tại căn cứ Kupang trên đảo Timor thuộc Indonesia. Tại đây chúng ta ngày ngày tấn công cảng Darwin của Úc.
Khoảng thời gian đó, Mỹ hoàn toàn nắm thế chủ động Đông Nam Thái Bình Dương. Rabaul đã phải hứng chịu các chiến dịch phản công của Mỹ. Trong tình thế đó, việc tấn công Úc hoàn toàn không thích hợp.
Người ta bảo Rabaul là mồ chôn các phi công. Từ nửa cuối năm 1943, số đồng đội gạo cội ít ỏi bằng kỹ thuật lão luyện của mình đã chống đỡ lại các đợt phản công của địch để sống sót. Đó là giai đoạn đánh chặn những đợt tấn công của đối phương, nên cũng là cuộc chiến trên sân nhà của chúng ta.
Iwamoto Tetsuzo khi ấy hình như cũng chiến đấu tại Rabaul. Anh là phi công át chủ bài tuyệt vời trong cuộc chiến Thái Bình Dương. Cuối cùng số máy bay anh bắn hạ có lẽ đã vượt quá con số 200 chiếc.
Có cả Nishizawa Hiroyoshi nữa. Có một khoảng thời gian anh trở về đất liền nhưng đến năm 1943, anh đã trở lại Rabaul. Có lẽ tài nghệ của Nishizawa còn hơn cả Iwamoto, được quân Mỹ đánh giá rất cao, đến độ Bộ Quốc phòng Mỹ vẫn còn trưng ảnh của anh.
Ngoài ra, còn có Iwai Tsutomu và Komachi Sadamu. Komachi là một người trẻ có tài. Dù không nhiều nhưng họ thật sự là những người xuất sắc, không dễ dàng bị bắn rơi. Miyabe cũng trong số đó.
Nhờ sự cố gắng của những người như Nishikawa, Rabaul đã được giữ vững trong một khoảng thời gian nhưng thật tiếc, đó vẫn là thiểu số chống đa số. Hơn nữa, chúng ta đã bị tước mất quyền kiểm soát biển nên không thể nhận được sự viện trợ. Vì lý do đó, Rabaul rơi vào bế tắc. Địch cũng nhận thấy không cần thiết phải cố gắng xâm chiếm Rabaul khi nó đã rơi vào tình cảnh như vậy. Sau khi cô lập Rabaul, Mỹ quyết định một bước tấn công thẳng Saipan.
Đầu năm 1944, ta trở thành phi công mẫu hạm Zuikaku, chiến đấu trên Đảo Bắc, tức Philippines. Zuikaku đã chiến đấu từ trận Trân Châu Cảng, đánh chìm Lexington trong trận Biển San Hô và Hornet tại Nam Thái Bình Dương. Nó là mẫu hạm may mắn, chưa một lần bị thiệt hại. Khi gia nhập thủy thủ đoàn Zuikaku, ta cảm thấy thật may mắn. Ta nghĩ nếu chiến đấu trên mẫu hạm này không chừng có thể kéo dài được mạng sống của mình. Binh lính lại là những kẻ quá tin vào vận mệnh.
Nhiều phi công từ các nơi được gom lại đưa lên mẫu hạm.
Tại đó, ta đã bất ngờ gặp lại một người. Miyabe. Cả hai chúng ta đều vô cùng ngạc nhiên. Bởi khi ấy, hầu như những người còn sống từ thời chiến tranh Nhật-Trung đều đã tử trận, nên khi gặp lại chiến hữu xưa, chúng ta vui mừng khôn xiết.
Ta và Miyabe không có mối quan hệ thân thiết đặc biệt nhưng lần gặp lại ấy, vui mừng khôn xiết. Dường như Miyabe cũng vậy.
“Cậu vẫn còn sống à?”
“Tanikawa, anh cũng vẫn bình an”, Miyabe nói.
“Thôi ngay! Chúng ta cùng tuổi, cậu cứ xưng kiểu đó tôi khó nói chuyện lắm. Cứ xưng hô “tôi” với “cậu” là được rồi!”.
Miyabe mỉm cười. Sống trong quân đội mười năm, cấp bậc của cả hai đều là Chuẩn úy.
“Được rồi, Tanikawa”.
Không ai kể về những trận chiến của mình nhưng cả hai đều hiểu rõ việc còn sống được đến tận bây giờ là điều hết sức khó khăn.
“Đợt này là tấn công tổng lực”, ta nói.
“Sẽ là một cuộc chiến gay go đây”.
“Không chừng đợt này chúng ta lại mất mạng”.
Nghe ta nói vậy, Miyabe chỉ giữ im lặng.
Hạm đội cơ động Nhật đánh chặn đội cơ động Mỹ phản công gồm Shokaku và Zuikaku, hai mẫu hạm kỳ cựu từ trận Midway, và mẫu hạm cỡ lớn mới chế tạo Taiho. Ngoài ra còn có 8 mẫu hạm khác, nhưng chỉ có mỗi 3 mẫu hạm này chính quy, những chiếc còn lại là mẫu hạm cỡ nhỏ được chế tạo từ các tàu buôn. Mặt khác, quân Mỹ liên tục đầu tư mẫu hạm cỡ lớn như Essex. Theo thông tin từ máy bay trinh sát, mẫu hạm địch có 10 chiếc. Binh lực giữa ta và địch quá mức chênh lệch. Các mẫu hạm Essex này vô cùng kiên cố. Đến cuối cuộc chiến, Hải quân Nhật vẫn không thể đánh chìm một chiếc nào.
Tuy nhiên, dù địch có hùng mạnh đến cỡ nào, ta vẫn phải chiến đấu. Đó là chiến tranh.
Có một niềm khích lệ rằng các phi cơ thuộc Hạm đội Không quân Một gồm Shokaku, Zuikaku, Taiho đều là những chiếc tối tân. Máy bay chiến đấu là Reisen đời 52 kiểu mới, Kanbaku là Suisei*, Kanko là Tenzan**. Phe ta đã không thể chiến đấu với Kanbaku 99 và Kanko 97 đời cũ nữa. Sự xuất hiện của các máy bay đời mới đó giúp chúng ta vững tâm hơn. Đặc biệt, chiếc Kanbaku Suisei có tốc độ nhanh hơn cả chiến cơ địch nên khá được kỳ vọng.

*[Yokosuka D4Y Suisei là kiểu máy bay ném bom bổ nhào hoạt động trên các mẫu hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên mã của Đồng Minh là Judy]

**[Nakajima B6N Tenzan là máy bay ném bom - ngư lôi. Tên mã của Đồng Minh là Jill]

Hơn nữa, mẫu hạm mới Taiho lại là loại chiến hạm cỡ lớn 40.000 tấn, sàn đáp được bọc thép và có thể chịu được các cuộc ném bom bổ nhào với 500kg bom.
“Nếu có chiếc Taiho trong trận Midway thì có lẽ chúng ta đã thắng rồi nhỉ?”
Đứng trên boong tàu Zuikaku ngắm chiếc Taiho, ta nói với Miyabe. Bốn mẫu hạm trong trận Midway đều bị đánh chìm bằng bom 500kg.
“Nói vậy là ngược rồi. Chẳng phải chính vì chúng ta thảm bại trong trận Midway nên mới chế tạo chiếc hàng không mẫu hạm thế này sao?”, Miyabe cười nói.
“Đúng vậy thật!”
“Hơn thế, tôi còn muốn được trang bị máy bay có khả năng phòng vệ”.
Ta cũng nghĩ như thế. Đã có bao nhiêu phi công lão luyện đã hy sinh vì không có tấm chắn đạn. Chỉ vì một viên đạn lạc mà mất mạng thật hết sức vô lý.
Những chiếc như Grumman F6F dù bị cả trăm phát bằng súng máy 7.7 li cũng chẳng hề hấn gì. Khi ở căn cứ Kupang, có lần ta đã nhìn thấy xác chiếc F6F bị phe ta bắn rơi. Lúc đó, ta đã sửng sốt trước độ dày của tấm chắn đồng. Đặc biệt, tấm chống đạn dày được đặt sau lưng phi công là thứ mà súng máy 7.7 li không thể đâm thủng.
Ta khâm phục việc quân Mỹ thực sự coi trọng sinh mạng phi công của họ. Ngoài ra, mỗi khi đến không kích, quân Mỹ luôn bố trí tàu ngầm dọc đường đi. Việc đó nhằm cứu những phi công buộc phải hạ cánh khẩn cấp trên biển.
Khi ta nói chuyện đó với Miyabe, cậu ta bảo.
“Việc máy bay bị bắn hạ nhưng phi công vẫn có thể trở lại chiến trường sẽ giúp họ tận dụng những kinh nghiệm từ thất bại của mình”.
“Còn chúng ta dù chỉ một lần thất bại, cũng xem như chấm hết phải không?”
“Đúng vậy. Còn bọn họ làm vậy sẽ tích lũy kinh nghiệm và dần được đào tạo thành những phi công thuần thục.”
“Có phải đó là nguyên nhân các phi công lão luyện của chúng ta bị hao hụt đi không?”
Vào khoảng thời gian đó, kỹ thuật của quân Mỹ đã được nâng cao, khác xa so với thời khai chiến. Ngoài ra, hai chiến cơ tinh nhuệ mới Grumman F6F và Sikorsky đã hơn hẳn Reisen. Bọn họ điều khiển các chiến cơ ưu việt đó, liên lạc bằng điện đàm, thực hiện các cuộc không chiến với đội hình khéo léo. Hơn nữa, còn áp đảo về mặt số lượng. Dù thế nào, cuộc chiến này sớm đã không thể thắng được.
Ngược lại, phi công phe ta hầu hết đều là những người trẻ chưa tròn hai năm kinh nghiệm bay. Sự sụt giảm kỹ thuật đó không gì có thể phủ lấp được. Điều đó hiện rõ như ban ngày khi ta xem buổi tập cất cánh, hạ cánh trên tàu tại bến Tawi Tawi ở Bắc Đảo. Họ liên tục đáp hỏng, hết đâm vào đuôi tàu, lại lật ngược trên boong, dùng dư lực từ đầu tàu khiến máy bay rơi xuống. Mỗi buổi tập huấn đáp tàu lại tổn thất một số lượng tương đối lớn máy bay và phi công, chính xác là hơn 50 vụ như thế. Chỉ tập huấn đáp tàu mà mất binh lực tương đương một chiếc mẫu hạm.
“Trời ơi, chuyện gì đang diễn ra thế?”, ta nói khi trong phòng chờ chỉ còn lại Miyabe. “Phi công không thể hoàn thành nổi việc đáp tàu thì làm sao chiến đấu được đây?”
Miyabe ngồi xuống ghế, vắt chân.
“E rằng họ đã rút ngắn thời gian tập huấn, cho tham gia thực chiến ngay. Trước đây, tôi có hỏi những phi công trẻ về số giờ bay, chỉ 100 giờ. Với 100 giờ bay mà đáp được xuống mẫu hạm là việc quá sức”.
“100 giờ thì chỉ bay thôi cũng đã khó khăn rồi”. Miyabe gật đầu, ta nói tiếp: “Chúng ta khi tấn công Trân Châu Cảng, tất cả đều vượt quá 1.000 giờ”.
Miyabe nhìn xuống.
“Thẳng thắn mà nói, hoàn toàn khác Hạm đội Không quân Một khi xưa”.
Chẳng bao lâu sau, chương trình tập huấn đáp tàu bị ngưng lại. Bởi nếu cứ tiếp tục tập huấn như vậy, chỉ hao tổn vô số phi công và máy bay. Còn một lý do khác, tàu ngầm địch thường di chuyển ngoài cảng Tawi Tawi. Vì vậy, tập đáp tàu tại nơi như thế rất nguy hiểm. Tàu thuyền khi tránh tàu ngầm sẽ di chuyển theo hình chữ chi, hay còn gọi là zigzag, nhưng khi các máy bay cất và hạ cánh, mẫu hạm phải di chuyển thẳng theo hướng gió. Đó là mục tiêu tấn công tuyệt hảo cho tàu ngầm.
Khu trục hạm của ta lại thiếu trầm trọng khả năng chống tàu ngầm, không thể tiêu diệt các tàu ngầm địch đang hoành hành. Đó cũng là bởi các thiết bị định vị và đo lường dưới nước ưu việt của địch. Hay nói cách khác, đó là do sự chênh lệch về kỹ thuật công nghệ. Bộ Tổng tư lệnh chắc hẳn cũng không thể để các mẫu hạm quý giá rơi vào tình trạng nguy hiểm bằng việc tập huấn đáp máy bay.
Tối hôm nghe tin ngưng tập huấn đáp máy bay, ta rủ Miyabe lên sàn đáp chính.
“Họ định làm gì mà cho ngưng tập huấn vậy chứ?”
Một làn gió ấm áp thổi qua, hai chúng ta ngồi xuống sàn boong.
“Phải chăng Bộ tham mưu nghĩ chỉ cần cất cánh khỏi tàu là được. Bởi vì cất cánh là việc có thể xoay sở được”, Miyabe nói.
“Nếu vậy nghĩa là chỉ có thể tiến hành tấn công một lần?”
Miyabe gật đầu.
“E rằng Bộ Tổng tư lệnh định tấn công cảm tử.”
“Chuyện đó là sao?”
“Chắc hẳn họ định đánh cược vào một đợt công kích.”
Nghe vậy, tâm trạng ta trở nên u ám. Việc ngưng tập huấn là một tổn hại to lớn đối với các phi công. Sự thành thạo của một phi công được duy trì bởi việc tập luyện, giống như trong thể thao vậy.
Gần một tháng trước trận chiến lớn nhất nổ ra, chúng ta không được bay.
Và rồi tháng Sáu năm 1944, sau cùng quân Mỹ cũng tấn công mạnh vào Saipan.
Đây dường như là điều các tham mưu không dự đoán được. Khu vực Saipan và Guam có rất nhiều căn cứ địa của quân ta, nên chắc họ không nghĩ rằng quân Mỹ sẽ đến tấn công. Đây cũng là một sự sơ suất nữa.
Hạm đội cơ động Mỹ đưa một số lượng lớn máy bay đến những căn cứ đó. Đội phòng không tại căn cứ Nhật từng chiếc một gần như bị phá hủy hoàn toàn.
Tuy nhiên, Saipan là nơi mà quân đội Nhật phải cố giữ. Guadalcanal và Rabaul là những hòn đảo quân ta chiếm giữ từ khi chiến tranh Thái Bình Dương bắt đầu, nhưng Saipan thì khác. Đây là lãnh thổ thống trị của Nhật từ thời tiền chiến, có khu phố Nhật, có nhiều cư dân đang sinh sống. Hơn nữa, nếu để mất Saipan, lãnh thổ Nhật Bản có thể sẽ gặp nguy hiểm bởi các cuộc tấn công của máy bay ném bom đời mới B29. Chính vì thế, quân đội Nhật Bản xem nơi đây là khu vực quốc phòng tuyệt đối phải bảo vệ.
Đô đốc Hạm đội Liên hợp khi biết việc quân Mỹ đổ bộ vào Saipan đã phát lệnh tác chiến chiến dịch A. Chiến dịch A là chiến dịch hủy diệt Hạm đội cơ động Mỹ.
Đô đốc Jisaburo Ozawa chỉ huy Hạm đội cơ động số 1 từ Tawi Tawi tiến đến Saipan, ngày ngày đưa máy bay đi thám thính địch. Đây là bài học rút ra từ thất bại của trận Midway.
Sau cùng, vào ngày 18, máy bay thám thính đã phát hiện Hạm đội cơ động Mỹ. Thế nhưng vừa lúc mặt trời lặn, cự li lại quá xa nên cuộc tấn công được dời sang ngày hôm sau.
Ngày hôm sau, khoảng cách giữa ta và địch đã gần 400 hải lý. Thời điểm đó, Hạm đội cơ động của ta vẫn chưa bị Mỹ phát hiện. Đối với ta, đây là một cơ hội lớn. Dù vậy, giả sử có bị phát hiện thì cũng chẳng sao, bởi máy bay Nhật có tầm hoạt động xa hơn máy bay Mỹ, chúng ta có thể tấn công từ khoảng cách mà đối thủ không với tay tới được. Nó cũng giống như độ dài tay của võ sĩ quyền anh vậy.
Đây là chiến thuật Outrage* của Đô đốc Ozawa trứ danh khắp thế giới. Bởi tấn công từ cự li Hạm đội cơ động Mỹ không thể tấn công nên nó được cho là chiến thuật không có rủi ro.
*[Outrange: Chiến thuật tầm xa]
Nghe thì đúng là chiến dịch lý tưởng, nhưng thực tế chuyện lại không thuận lợi như thế.
Đúng là đối với Hạm đội cơ động thì không có rủi ro nhưng đối với đội không quân thì lại khác. Các phi đội bay 400 hải lý tấn công địch không hề dễ dàng. 400 hải lý tương đương 700km. Cần phải bay trên biển hơn hai giờ đồng hồ để đến không phận địch. Nếu là căn cứ địa cố định như Hawaii thì tốt rồi, nhưng mục tiêu tấn công lần này là Hạm đội cơ động di chuyển với tốc độ cao. Lúc đến được không phận địch thì địch cũng đã di chuyển cả trăm cây số rồi. Thực sự có thể chạm trán được Hạm đội cơ động địch hay không cũng không biết. Nhiệm vụ dẫn đường do các phi công kỳ cựu thực hiện, nhưng giữa đường gặp máy bay đánh chặn của địch, đội hình tan rã, quân ta gần như không còn khả năng đến được Hạm đội cơ động địch.
Vả lại, hầu hết phi công của ta bấy giờ đều là người mới, ý chí vô cùng mạnh mẽ, hơn hẳn những phi công lão niên đã mệt nhoài vì cuộc chiến. Thế nhưng, trên bầu trời chỉ có tinh thần thôi thì không đủ. Nó thuần túy là cuộc chiến của tính năng máy bay và kỹ thuật điều khiển.
Sau khi kết thúc thành công đợt tấn công, những phi công không đủ tự tin để quay lại mẫu hạm thì nhận lệnh bay đến căn cứ địa đảo Guam, trang bị nhiên liệu, vũ khí, lặp lại các cuộc tấn công.
Cột buồm chính trên chiếc soái hạm Taiho ngày hôm trước đã treo cờ Z*. Đó là tín hiệu cờ danh tiếng mà khi xưa Đô đốc Togo Heihachiro đã treo ngay trước trận Hải chiến biển Nhật Bản**. Trong cuộc chiến lần này, lá cờ Z chưa được treo lại lần nào từ sau trận Trân Châu Cảng. Đúng là “Sự hưng vong của Đế quốc phụ thuộc vào trận đánh này”.***
Tâm trạng bọn ta lại ngày thêm căng thẳng.

*[Tín hiệu cờ zulu tập trung các tàu chiến chuẩn bị cho trận đánh lớn]

**[Trận hải chiến Tsushima giữa Nga-Nhật]

***[Lời hiệu triệu của Đô đốc Togo]

Và rồi, vào một sáng tháng Sáu năm 1944, Phi đội Ba cất cánh khỏi mẫu hạm tiến hành đợt không kích thứ nhất. Tiếp theo Phi đội Một sẽ thực hiện đợt không kích thứ hai. Ta đảm nhiệm vai trò máy bay yểm trợ cho Suisei của đội không kích thứ hai.
Ngày hôm đó, Hạm đội cơ động phe ta đã cho xuất kích sáu đợt tấn công, con số khổng lồ tổng cộng vượt quá 400 máy bay. Đội tấn công như vậy trước nay chưa từng có. Quy mô vượt xa trận Trân Châu Cảng. Hơn nữa, tham chiến đều là các máy bay tinh nhuệ mới như Reisen đời 52, Kanbaku Suisei, Kanko Tenzan.
Chỉ có điều đáng buồn là những phi công điều khiển chúng lại khác thời Trân Châu Cảng. Điều đó hiện rõ ngay sau khi máy bay cất cánh khỏi tàu. Họ không thể tạo nên một đội hình đẹp tập trung mật độ cao. Không còn là đội Không lực Hải quân năm xưa nữa.
Kết quả à? Như các cháu tưởng tượng đấy.
Địch với thiết bị dò tìm định vị nâng cao đã bắt sóng được đội không kích phe ta cách cả trăm hải lý, ngạc nhiên hơn là họ còn đọc được cả cao độ. Nhưng tất cả đều là việc sau chiến tranh ta mới biết. Ta không biết rằng các tham mưu từ Đô đốc Ozawa trở xuống có biết được khả năng của thiết bị định vị Mỹ hay không. Có lẽ không, nhưng bọn ta buộc phải biết bằng chính trải nghiệm của bản thân.
Quân Mỹ sử dụng toàn bộ các máy bay chiến đấu cho nhiệm vụ đánh chặn, chờ mai phục đội không kích của ta. Với chiến thuật Outrange, chúng ta sẽ bắt đầu tấn công trước nhưng ngược lại, ngờ đâu kẻ bị tấn công lại chính là chúng ta.
Máy bay chiến đấu địch tấn công với số lượng lớn hơn gấp bội từ vị trí cao. Ta loay hoay thoát khỏi cuộc tấn công nhưng thành viên đội bay của ta nhanh chóng biến thành một ngọn lửa và rơi xuống. Ta tìm cách tiêu diệt chiếc Grumman nhưng lại rơi vào tình trạng cứ bám đuôi một chiếc, lại bị một chiếc khác bắn từ phía sau, không thể nào bắn trả được.
Máy bay quân ta lần lượt bị bắn rơi. Các phi công non kinh nghiệm ngay cả bay tránh cũng không thể, cứ thế liên tục làm mồi cho địch.
Các cháu có biết cuộc chiến khi đó được binh lính Mỹ gọi là gì không? “Trận bắn gà tây tại quần đảo Mariana”.
Gà tây thế nào ta không biết nhưng nghe nói nó di chuyển rất chậm chạp, ngay cả một đứa con nít cũng có thể bắn hạ. Đối với phi công Mỹ, máy bay Nhật khi đó giống như đám gà tây vậy.
Dù lọt qua trận thứ nhất thì còn có trận thứ hai. Địch bố trí mấy tầng máy bay chiến đấu. Kết cuộc chẳng có mấy chiếc đột phá qua hàng phục kích đó, rất nhiều đã bị bắn rơi.
Dù vậy ta cũng hộ tống được vài chiếc Kanbaku Sao chổi, đưa đến không phận địch. Suisei có tốc độ cao nên có thể xoay sở được nhưng các Kanko Tenzan tốc độ chậm đều bị tiêu diệt hết.
Ta vẫn nhớ mình đã run rẩy thế nào khi đến được không phận địch. Có khoảng 10 mẫu hạm cỡ lớn đang tập trung. Số mẫu hạm chính quy Hải quân Nhật đầu tư cho trận chiến này chỉ có 3 chiếc, như là một võ sĩ hạng nhẹ khiêu chiến với một võ sĩ hạng nặng vậy.
Trên không phận địch vẫn còn vô số các máy bay bảo vệ đang đợi sẵn. Ta đã chấp nhận rằng vận mệnh của mình đến đây là kết thúc. Nếu phải chết, ta cũng muốn để cho Kanbaku ném trúng địch một phát.
Ta tiến tới xáp lá cà với các chiến cơ địch đến tấn công Kabanku Suisei. Không biết có phải nhờ ta chăm sóc kỹ lưỡng không mà đạn địch không thể đến được Suisei. Ta bám sát Suisei, xua đuổi chiến cơ địch, chờ đến lúc cần thiết sẽ làm vật thế thân.
Ta đã nhìn thấy Suisei bổ nhào xuống. Tàu địch bắn pháo đối không lên dữ dội, màn đạn khủng khiếp nhất mà ta từng thấy. Cả bầu trời tối đen. Suisei vẫn dũng mãnh xông vào màn đạn ấy. Ta thầm cầu mong “Cố lên nhé! Bất kể là châu chấu đá xe, cho chúng một cú. Dù không thắng nổi cũng chém nó một nhát đi”.
Nhưng giây tiếp theo, thật không thể tin vào mắt mình. Kanbaku Suisei lần lượt bốc cháy, rơi xuống, lửa pháo đối không của quân Mỹ đã bắn rơi Kanbaku Suisei như bắn tỉa bằng súng có ống ngắm. Ta ngẩn ngơ nhìn những chiếc Suisei rơi.
Cuối cùng, Kanbaku Suisei hầu như không thể mang về chiến tích nào. Ta cũng bị Grumman tấn công, chỉ có thể chạy trốn bằng bản năng, không thể đánh trả lại. Địch liên tục đến tấn công kiểu mèo bắt chuột, né chiếc này thì lại bị chiếc khác tấn công. Trốn được khỏi làn đạn của địch đã là một sự cố gắng lắm rồi.
Mãi rồi mới thoát ra khỏi không phận địch, đám Grumman đã thôi đuổi theo. Có lẽ chúng nhận nhiệm vụ bảo vệ hạm đội, nếu kiên trì truy đuổi, chắc ta đã tiêu thật rồi.
Ta quyết định trở về hạm đội. Xung quanh không hề có một chiếc máy bay nào phe mình. Ta cũng nghĩ sẽ bay đến căn cứ đảo Guam, nhưng cuối cùng lại mạnh dạn chọn quay về mẫu hạm. Quyết định này đã cứu sống đời ta. Đội tấn công đợt thứ ba xuất kích sau ta đã không thể tìm ra mẫu hạm địch, không trở về tàu mà hướng đến Guam nhưng tất cả đều bị chiến cơ địch mai phục trên không phận Guam bắn diệt.
Khi ta trở về tàu, mẫu hạm phe ta chỉ còn mỗi một chiếc. Không thấy bóng dáng Taiho và Shokaku đâu, dù có vẻ như máy bay địch chưa đến tấn công.
Ta hạ cánh xuống Zuikaku, báo cáo tình hình chiến đấu với Phi đội trưởng, rằng cuộc đánh chặn của địch đã khiến chúng ta mất nhiều máy bay tấn công, và địch gần như không chút hề hấn nào.
Phi đội trưởng nghe xong, chỉ nói “Vậy à?”. Rồi lặng im.
Sau khi báo cáo xong, ta dò hỏi các thủy thủ đoàn về Taiho và Shokaku thì được biết chúng đã bị tàu ngầm địch dùng ngư lôi đánh chìm. Toàn thân ta rã rời. Trong khi trận công kích tổng lực của bọn ta kết thúc trong thảm bại thì 2 chiếc mẫu hạm cũng bị đánh chìm... Thua đậm rồi!
Không lâu sau, một chiếc Reisen khác cũng trở về. Là Miyabe. Cậu ta đã mất đồng đội. Trong trận không chiến ấy, hầu như không ai dẫn được thành viên đội bay về. Máy bay Miyabe cũng bị trúng nhiều phát đạn. Miyabe từ máy bay bước xuống, trông hoàn toàn kiệt sức.
Sau khi báo cáo tình hình chiến đấu, Miyabe nhìn thấy ta, có vẻ ngạc nhiên. Ta biết rằng ánh mắt đó như muốn nói “Cậu cũng giỏi sống sót đấy!
Hai chúng ta vào phòng chờ phi hành đoàn, căn phòng trống trải. Thành viên các phi đội xuất kích hôm nay hầu như đều không trở về.
“Chúng ta bị thiệt hại thê thảm quá!”
“Có lẽ do thiết bị định vị của địch”, Miyabe đáp.
“Cậu đã đến được không phận địch phải không?”
Miyabe gật đầu.
“Vậy cậu thấy nó rồi chứ?”
Miyabe lặng yên một lát rồi đáp.
“Thấy”.
“Cậu có báo cáo không?”
“Nói qua rồi nhưng dường như Phi đội trưởng lẫn các cán bộ đều thờ ơ”.
“Tôi cũng vậy. Tôi cố hết sức báo cáo mà họ chẳng thèm chú tâm”.
“Có lẽ không tận mắt chứng kiến thì không thể hiểu được”.
“Nó là cái quái quỷ gì vậy?”
Miyabe lắc đầu.
“Tôi không biết nó là gì nhưng tôi biết nó khủng khiếp không thể tin được. Có lẽ chúng ta sẽ không thể đánh chìm mẫu hạm địch được nữa”.
Thứ mà bọn ta đang nói đến là pháo đối không của địch, có thể bắn trúng các máy bay ném bom với xác suất khủng khiếp.
Và bọn ta đều đã đoán đúng.
Thứ vũ khí bí mật đó được gọi là ngòi nổ gần, có biệt danh Magic fuze hay VT fuze*, một thứ vũ khí đáng sợ. Đầu đạn pháo có một radar cỡ nhỏ, nếu có máy bay tiến đến trong phạm vi đạn vài chục mét sẽ lập tức tự phát nổ.
*[Variable time fuze: ngòi nổ cảm biến định giờ]
Những chuyện này nhiều năm sau chiến tranh ta mới biết. Để phát triển VT fuze, quân Mỹ đã bỏ số tiền tương đương với dự án phát triển bom nguyên tử Manhattan. Khi biết chuyện đó, ta đã hiểu tư tưởng của Mỹ và Nhật hoàn toàn khác nhau. VT fuze là vũ khí phòng vệ khỏi các đợt tấn công, ý tưởng đó quân Nhật hoàn toàn không có. Quân Nhật chỉ suy nghĩ chế tạo các loại vũ khí tấn công địch. Chủ yếu là các chiến cơ, với đầy đủ các ưu điểm: tầm hoạt động xa, tính năng không chiến tuyệt vời, lại có pháo 20 li hùng hậu nhưng lại không có gì phòng vệ.
Về căn bản tư tưởng đã khác nhau. Quân Nhật ngay từ đầu đã thấm sâu tư tưởng xem thường sinh mệnh con người. Và đó chính là nguyên do dẫn đến những cuộc tấn công cảm tử sau này.
Nhật Bản khi đó hoàn toàn không biết về VT fuze. Vậy nhưng theo bản năng của mình, các đồng đội Kanbaku Suisei may mắn sống sót vẫn nhận biết được.
Nó đột nhiên phát nổ trước mắt tôi, như thể có cơ chế nào đó”. Đó là lời một phi công Kanbaku Suisei kể lại với ta khi trở về. Cậu ta là phi công máy bay ném bom sống sót từ sau trận Trân Châu Cảng nên những lời của cậu ấy rất có trọng lượng. Tuy nhiên, dù có cố gắng truyền đạt thế nào, các tham mưu đều không muốn tin về sự xuất hiện của một thứ vũ khí bí ẩn mới. Họ chỉ nghĩ có lẽ kẻ thù đã gia tăng số lượng pháo đối không. Dù vậy, giả sử có biết về VT fuze, ta nghĩ họ cũng không thể vạch ra được một đối sách hiệu quả.
Trong cuộc chiến tổng lực của Hải quân Đế quốc Nhật Bản - Hải chiến quần đảo Mariana, trong ngày đầu tiên, phe ta đã mất hơn 300 máy bay và 2 mẫu hạm quý báu. Chỉ trong vài giờ binh lực đều bị tàn phá. Ngược lại, tổn thất của quân Mỹ gần như là con số không.
Ngày thứ hai, đến lượt Hạm đội cơ động Mỹ tấn công hạm đội đang tẩu thoát của phe ta. Vô số máy bay chiến đấu trên mẫu hạm tiến đến không kích hạm đội ta. Ta lên đánh chặn nhưng cũng bất lực trong cảnh thiểu số chống đa số ấy. Vừa bắn máy bay ném bom, vừa phải cố hết sức không để bị chiến cơ địch bắn hạ. Mười mấy chiếc chiến cơ sao có thể bảo vệ được mấy trăm chiếc máy bay ném bom cơ chứ?
Trong trận này, chiếc Zuikaku bị trúng bom, hư hỏng nhẹ. Đây là lần đầu tiên từ sau khi khai chiến, chiếc Zuikaku bị bắn trúng. Cuối cùng, phe ta đã thoát được sau khi mất mẫu hạm cải biến Hiyo và hai tàu chở dầu.
Ta hạ cánh khẩn cấp xuống biển, rồi được khu trục hạm cứu. Chắc Miyabe cũng được cứu ở đâu đó.
Vậy là trận đánh cược Hải chiến quần đảo Mariana đã hoàn toàn đại bại, Hạm đội Liên hợp đã mất khối lượng lớn binh lực, hoàn toàn không thể động được gì đến bộ binh của địch tại Saipan.
Lục quân Nhật Bản tại Saipan hầu như đều bị tiêu diệt, người dân cũng hy sinh rất nhiều. Nhiều người Nhật đã nhảy xuống vách núi Vạn Tuế* tự sát. Sau chiến tranh, khi xem bộ phim do Mỹ dựng, quay cảnh từng người từng người dân Nhật Bản từ trên vách đá nhảy xuống, ta đã không thể cầm được nước mắt. Trong lòng ta vang lên câu “Xin thứ lỗi cho chúng tôi!” không biết bao nhiêu lần.
*[Tức Banzai Cliff, thuộc Quần đảo Bắc Mariana]
Sau khi từ Mariana trở về đất liền, Zuikaku được đưa vào bến tàu sửa chữa. Phi công chúng ta được phân về các nơi. Khi ấy, chúng ta được mấy ngày phép. Ta không nhớ Miyabe được phân đến phi đội nào, nhưng vẫn còn nhớ cuộc nói chuyện của ta và cậu ấy trước khi chia tay.
“Đã lâu rồi tôi chưa gặp lại gia đình”, Miyabe nói. “Tanigawa, cậu định làm gì?”
“Tôi chỉ có ba ngày phép, thời gian di chuyển Okayama đã ngốn hết thời gian. Tôi sẽ về khi có nhiều ngày phép hơn”.
Miyake suy nghĩ một chút rồi hỏi.
“Cậu không có người thương hả?”
“Phụ nữ ấy à?”
Miyabe gật đầu.
“Làm gì có ai. Đám phụ nữ tôi gặp chỉ có ở nhà tiêu khiển thôi”.
“Ở quê không có sao?”
“Không có”, ta cười nói nhưng bất giác lúc đó lại nhớ đến khuôn mặt của một cô gái.
“Thực ra có một người”, ta nói. “Đó là cô bạn thời thơ ấu. Thời con nít ngây ngô ấy mà. Chắc đã lấy chồng lâu rồi”.
Nói đến đó, lòng ta chợt man mác buồn. Ta đã sống trong Hải quân từ hồi 15 tuổi. Giờ đã 25, nhưng ngoài Hải quân ta chẳng biết gì khác. Không có thời thanh xuân nào khác.
Câu chuyện chỉ có vậy nhưng nó đã tạo nên một bước ngoặt thay đổi cuộc đời ta.
Ta làm giáo quan* tại Kisarazu một thời gian ngắn, rồi mùa thu lại quay ra chiến trường. Nơi ta đến là Bắc Đảo.
*[Giáo quan: những sĩ quan giảng dạy trong quân đội không quân thực hành]
Sau khi có quyết định trở lại chiến trường, trong lúc chờ sắp xếp tàu vận tải, ta lấy được một tuần phép.
Trở về quê hương sau một khoảng thời gian dài, dân làng làm một buổi tiệc đón tiếp ta. Vì là phi công từng tham gia Trận Châu Cảng nên từ hai năm trước ta đã trở thành người hùng của làng. Nhưng thật khó xử khi bị dân làng hỏi về tình hình chiến trận. Bởi những phát ngôn của Tổng hành dinh Đế quốc đều hoàn toàn là bịa đặt. Thế nhưng, dân làng lại tin vào những điều ấy nên buộc lòng ta phải nói những lời hoa mỹ. Cuộc sống thường nhật thiếu thốn vật chất nhưng khi đó lãnh thổ vẫn chưa bị không kích, nên người dân hậu phương vẫn chưa cảm nhận thật sự nỗi sợ hãi chiến tranh.
Ta cũng chẳng thể mở miệng kể chuyện xảy ra ở Mariana cho họ. Hơn nữa ta được lệnh rằng trong lúc nghỉ phép, tuyệt đối không được bàn tán tình hình chiến sự.
Khi ấy, đến phụ giúp có một cô gái khá xinh đẹp tên là Shimada Kae. Thời tiểu học, cô bạn ấy chính là tình yêu đầu của ta, người mà ta đã nói với Miyabe.
“Masao giờ đã ra dáng rồi nhỉ”. Cô ấy nói.
“Cám ơn”.
Cố gắng lắm ta cũng chỉ nói được vậy. Khi ấy, ta vẫn chưa biết gì về phụ nữ. Rất nhiều lần được rủ đến nhà tiêu khiển nhưng sự thật là ta chưa đi lần nào.
“Masao bây giờ lại là anh hùng dân tộc, thật không thể tin được”, Cô ấy nói, bật cười khanh khách.
“Tôi cũng nghĩ vậy”, ta trả lời nghiêm túc nên cô ấy càng cười dữ dội hơn.
“Ngày xưa có lần tôi còn làm Masao khóc nữa”.
“Tôi nhớ chứ”.
Chính xác là vào khoảng năm một tiểu học. Kae là một cô bé mạnh mẽ. Khi đó, bọn ta cãi nhau chỉ vì một chuyện nhỏ nhặt. Ta bị Kae đánh liên tục vào đầu nên òa khóc. Kỷ niệm đó thật bẽ mặt nên trong suốt một thời gian dài ta vẫn nhớ rất rõ.
“Nhưng giờ cậu đã là phi công bắn máy bay Anh Mỹ”.
“Ừ”.
“Cậu đã vất vả vì quốc gia rồi”.
Kae gập người chào rồi rời khỏi ghế, không quay lại lần thứ hai.
Trong suốt buổi tiệc, ta nghĩ mãi về cô ấy. Có lẽ do ta uống nhiều rượu chăng? Cuối buổi, ta hỏi bác trưởng thôn.
“Cô Shimada Kae bây giờ đang sống một mình ạ?”
“Cậu để ý Kae rồi à? Có hơi trễ đấy, nó là hoa khôi của làng mà”.
“Cô ấy đã chọn được ai rồi ạ?”
“Chuyện đó thì chưa. Cậu muốn cưới Kae không?”
Ta trả lời không cần suy nghĩ.
Thế là trưởng thôn bảo “Ta biết rồi”. Chuyện ở đó chỉ vậy thôi. Ngày hôm sau, khi ta đang nghỉ ngơi ở nhà thì trưởng thôn và cha của Kae đến. Hai người nói chuyện với cha và anh trai ta, đồng ý cho ta và Kae thành hôn với nhau.
Sau đó, quyết định tổ chức hôn lễ vào hai ngày sau. Ba ngày sau ta phải trở về quân đội.
Đây không phải lúc có thể chờ đợi được nữa, ta đã sẵn sàng. Hai ngày sau, hôn lễ diễn ra tại nhà ta. Từ sau ngày hôm đó, chúng ta chưa từng nói chuyện lại. Sau buổi tiệc, khi chỉ còn hai người, đêm cũng đã khuya.
Kae cúi đầu nói.
“Từ nay trông cậy vào anh đấy”.
Ta cũng nhẹ nhàng đáp lại.
“Chính anh mới là người phải nói câu đó”.
Bấy giờ ta đã rất căng thẳng, ở chiến trường cũng chưa từng căng thẳng đến thế.
Dù vậy, ta bấm bụng nói.
“Anh có chuyện không thể không nói với Kae”.
“Dạ”.
“Tổng hành dinh thông báo với quốc dân rằng Nhật Bản đang giành thắng lợi nhưng sự thật là chúng ta đang dần thua trận”.
Kae lẳng lặng gật đầu. Ta hiểu ra sự thật rằng dân làng không tin vào những phát ngôn của Tổng hành dinh. Mặc dù chưa bị không kích nhưng họ cảm nhận được tình hình chiến sự đang diễn biến xấu đi.
“Ngày mai, anh phải trở về quân đội. Lần này không biết sẽ đi đâu. Nếu lại phải ra chiến trường, không chừng khó có thể sống sót trở về”.
“Dạ”.
“Hôn lễ vừa xong lại nói những lời này... Nếu có nói gì không phải, anh xin lỗi. Nhưng nếu anh hy sinh, em sẽ trở thành góa phụ. Khi đó, em đừng quan tâm gì đến chuyện nhà anh, hãy tìm cho mình một người đàn ông khác”.
“Xin anh hãy cố sống trở về”.
“Anh không thể hứa. Anh muốn giữ Kae vẫn là một cô gái còn trong trắng. Bởi nếu anh không trở về, em đến với người khác sẽ tốt hơn”.
Kae chăm chú nghe những lời ta nói. Im lặng một lúc lâu sau, cô ấy nói.
“Tại sao anh lại muốn em trở thành cô dâu của anh?”
“Vì anh yêu em”.
“Anh có biết vì sao em lại đồng ý lấy anh không?”
“Vì sao?”
“Vì em cũng yêu anh”.
Cả đêm hôm ấy, ta ôm chặt lấy Kae không rời.
Bắt các cháu nghe chuyện tào lao rồi. Bỏ qua cho ta nhé. Ngày hôm sau, ta từ biệt Kae.
Ba ngày sau, ta rời Nhật Bản. Địa điểm phản công kế tiếp của quân Mỹ là đảo Leyte ở Bắc Đảo.
Hạm đội Liên hợp đã triển khai kế hoạch tác chiến nhằm tiêu diệt quân Mỹ đổ bộ xuống Leyte. Gọi là chiến dịch Ichi-go*.
Mabalacat**... âm thanh nghe mới chướng tai làm sao. Không, đó không phải là lỗi của tên vùng đất ấy. Nhưng với ta, chỉ cần nghe tên thành phố đó thôi tâm trạng đã phủ một màn u ám rồi.

*[Chiến dịch Ichi-go (Nhất hiệu tác chiến) là một chiến dịch quy mô lớn của Lục quân Đế quốc Nhật Bản nhằm bình định tuyến đường nối từ Hoa Bắc xuống Đông Dương và tiêu diệt căn cứ không quân Mỹ ở miền Đông Nam Trung Quốc]

**[Mabalacat là thành phố thuộc tỉnh Pampanga]

Một đêm không lâu sau khi ta đến, toàn bộ thành viên phi hành đoàn từ hạ sĩ quan trở xuống được gọi tập trung tại sở chỉ huy. Trước đông đủ các thành viên, phó chỉ huy nói.
“Tôi tập trung các cậu đến đây, không gì khác hơn là muốn nói: Hiện nay, Nhật Bản đang rơi vào tình cảnh nguy hiểm chưa từng có. Tình hình chiến sự vô cùng cam go. Vì thế, từ bây giờ, chúng ta sẽ tổ chức các đợt tấn công cảm tử với quân đội Mỹ”.
Ta lập tức hiểu ra điều đó có nghĩa gì. Họ bảo chúng ta dùng thân mình đi công kích.
“Tuy nhiên, vì tấn công cảm tử là chiến thuật chỉ có chết chứ không thể sống, nên chỉ những người tự nguyện mới được tham gia”.
Không khí trở nên căng thẳng, một sự im lặng nặng nề bao trùm khắp căn phòng chỉ huy.
“Những người tự nguyện bước lên một bước!”
Sĩ quan đứng bên cạnh Phó chỉ huy lớn tiếng ra lệnh.
Thế nhưng chẳng ai động đậy. Đây không phải là việc có thể dễ dàng bước lên và bảo “Có tôi”.
Làm sao có thể lập tức trả lời khi được bảo “Bây giờ, ở đây, những cảm tử quân hãy tự ứng cử đi”. Chuẩn bị sẵn sàng cho cái chết và chuyện này là hoàn toàn khác nhau.
“Có đi hay không?”
Một sĩ quan gằn giọng. Vào giây phút đó, có vài người tiến lên trước một bước. Như bị lôi kéo, toàn đội đều bước lên một bước. Bất giác nhìn lại ta cũng đã tiến lên cùng mọi người.
Sau chiến tranh, ta đã đọc một quyển sách viết về chuyện lúc ấy. Nó viết rằng thành viên các phi đội chen chúc nhau tiến ra “Hãy để tôi đi!” đáp lại lời kêu gọi của sĩ quan.
Dối trá!
Như vậy đấy, đó là một mệnh lệnh bất thành văn. Bọn ta đã không được cho thời gian để suy nghĩ. Chúng ta chỉ làm theo mệnh lệnh như một phản xạ quen thuộc của một quân nhân và chợt nhận ra, điều đó đồng nghĩa với việc ký tên vào bản án tử hình của chính mình vậy.
Khi trở về doanh trại, không khí nặng nề lan truyền. Người đầu tiên ta nghĩ tới chính là Kae. Ta không thể giữ lời hứa với cô ấy được nữa rồi. Thứ hiện lên trong đầu ta không phải gương mặt giàn giụa nước mắt của Kae mà là gương mặt giận dữ của cô ấy. Là gương mặt của Kae khi còn nhỏ đã đánh ta. Trong lòng ta cảm thấy thật có lỗi.
Đến lúc ấy, ta chưa từng viết qua thứ gọi là di thư, nhưng đó là lần đầu tiên ta viết. Ta không nhớ khi ấy mình đã viết gì, chỉ nhớ câu mở đầu rằng: “Gửi Kae yêu dấu!
Thực lòng mà nói, ta không sợ chết, không phải vì cố làm ra vẻ như vậy đâu. Từ sau trận Trân Châu Cảng, ta đã không còn nghĩ nhiều về mạng sống nữa. Nhiều phi công ưu tú hơn ta đã hy sinh. Bản thân ta đến lúc ấy đã trải qua gần trăm trận không chiến, nhiều lần máy bay bị trúng đạn của địch. Chúng đều không phải những đòn chí mạng nhưng nhiều lần chỉ cần xê dịch vài chục centimet là bị tiêu diệt rồi. Ta còn sống đến bây giờ chẳng qua nhờ may mắn thôi. Sau cùng rồi ta cũng phải đi theo đồng đội.
Tuy nhiên, việc sẵn sàng cho cái chết khi đi tấn công và việc xuất kích xác định trước cái chết là hai chuyện hoàn toàn khác nhau. Cho đến tận lúc đó, dù khả năng rất nhỏ nhoi nhưng chúng ta vẫn còn một tia hy vọng trong chiến đấu. Thế nhưng, cuộc tấn công đặc biệt này khó lòng may mắn. Tất cả mọi nỗ lực để sống sót đều vô ích. Nếu xuất kích nhất định sẽ chết.
Dù vậy, một khi đã tình nguyện tham gia thì phải chết như một đấng nam nhi. Ta chỉ cảm thấy hối tiếc về chuyện của Kae. Tận sâu trong đáy lòng, ta hối hận vì đã kết hôn, nhưng một mặt, ta lại nghĩ vì Kae ta có thể hy sinh.
Ta còn nhớ việc Đô đốc Hạm đội Không quân Một Onishi Takijiro đến Mabalacat sau khi chúng ta đã tự nguyện tham gia.
Theo lịch sử thì Đô đốc Onishi đến Mabalacat để đưa ra phương án tấn công cảm tử và giao nhiệm vụ đội trưởng cho Đại úy Seki Yukio nhưng chuyện đó thật kỳ lạ. Bởi vì, các hạ sĩ quan trước đó đều đã bị bắt tình nguyện tham gia tấn công cảm tử. Chắc chắn trước khi Đô đốc Onishi đến, cuộc tấn công cảm tử đã được định.
Sau đó chẳng bao lâu, thành viên đội tấn công cảm tử được công bố. Gồm 24 người với đội trưởng là Đại úy Seki.
Ta thở phào khi trong danh sách không có tên mình. Ta cũng biết rằng một khi đã đăng ký tự nguyện thì sớm hay muộn cũng phải tham gia tấn công nhưng lúc ấy ta vẫn thấy nhẹ nhõm. Ta cũng ghê tởm chính bản thân mình.
Tâm trạng các phi công được chọn rất khó diễn tả. Không thể nhìn họ bằng con mắt đáng thương hay xui rủi. Các cháu có hiểu không? Sắc mặt của họ không đổi. Đúng như sự chờ đợi của họ. Ta tự hỏi nếu là mình, liệu ta có cư xử được như thế không. Có lẽ nhiều phi công không bị chọn cũng nghĩ vậy.
Đô đốc Onishi nói trước các phi công được chọn.
“Nước Nhật đang đứng trước hiểm nguy. Người có thể cứu quốc gia khỏi cơn nguy này không phải là Bộ trưởng, Đại tướng, cũng không phải là các chỉ huy quân sự. Dĩ nhiên càng không phải Đô đốc ta. Đó chỉ có thể là những chàng trai trẻ tràn đầy sinh lực như các cậu đây. Thay mặt cho trăm triệu quốc dân, tôi xin nhờ các cậu. Cầu mong thành công. Mọi người từ lâu đã quyết hy sinh tính mạng mình nên chắc cũng không mong muốn gì phải không? Chỉ là, nếu không thể cho quốc dân biết thành quả chiến đấu của mình thì thật đáng tiếc. Tôi sẽ là chứng nhân cho việc này và nhất định sẽ trình báo lên Thiên hoàng”.
Sau khi kết thúc lời huấn thị, ông bước xuống bục và nắm lấy tay từng người, từng người trong đội tấn công cảm tử.
Đội tấn công cảm tử được đặt tên là Đội tấn công đặc biệt Thần Phong. Lúc ấy đọc là Shinpu, nhưng về sau được gọi là Kamikaze. Sau đó, các phi đội được đặt tên là “Shikishima*”, “Yamato**”, “Asahi***”, “Yamazakura****”. Những tên gọi trên được rút ra từ bài thơ của Motoori Norinaga. “Nếu có ai hỏi bạn về linh hồn của nước Nhật, hãy trả lời đó là đóa anh đào trên núi đang tỏa hương dưới ánh ban mai”.
Cùng lúc, Hạm đội Liên hợp phát lệnh tiến hành chiến dịch Ichi-go. Đó là chiến dịch Hạm đội Liên hợp đưa tổng lực ngăn chặn việc quân Mỹ đổ bộ xuống Bắc Đảo.

*[Tên nước Nhật trong thơ ca]
**[Tên nước Nhật xưa]
***[Ánh ban mai]
****[Hoa anh đào trên núi]

Nhật Bản đã sắp bị dồn đến đường cùng.
Quân Mỹ đã vây hãm Saipan và mục tiêu tiếp theo là Bắc Đảo. Nếu Bắc Đảo bị Mỹ chiếm thì chúng ta sẽ bị cắt liên lạc hoàn toàn với phía Nam. Như vậy thì nguồn nhiên liệu như dầu mỏ cũng sẽ bị cắt đứt. Vì vậy, Lục quân và Hải quân đều quyết sống chết cố thủ Bắc Đảo.
Hạm đội Liên hợp đã xuất quân tấn công quân Mỹ đổ bộ lên Bắc Đảo.
Tiêu diệt đoàn tàu vận tải địch. Đó là sứ mệnh được giao, chính vì thế, Hạm đội Liên hợp đã nghĩ ra một chuyên vô cùng khủng khiếp. Sử dụng Hạm đội cơ động làm mồi nhử, dẫn dụ Hạm đội cơ động Mỹ. Trong lúc đó, sẽ cho lực lượng tàu nổi dẫn đầu bởi hai chiếc Yamato và Musashi đột kích vào vịnh Leyte, chôn vùi một loạt đoàn tàu vận tải địch. Đó chính xác là chiến lược chịu đấm ăn xôi.
Dù vậy, toàn bộ những chuyện ấy sau chiến tranh ta mới biết. Lúc bấy giờ, các phi công tại căn cứ quân sự hoàn toàn không biết toàn bộ tình hình chiến sự đang diễn ra thế nào, chỉ chiến đấu như đã được lệnh.
Đội tấn công đặc biệt được giao nhiệm vụ yểm trợ lực lượng tàu nổi đột kích Leyte từ mạn sườn. Nếu tấn công cảm tử vào sàn đáp của mẫu hạm Mỹ thì các máy bay chiến đấu trên đó không thể cất cánh được. Như vậy sẽ giảm thiểu việc lực lượng tàu nổi bị tấn công từ trên không, đột kích vào vịnh Leyte sẽ dễ dàng hơn.
Nếu phe ta có đầy đủ máy bay chiến đấu thì phi đội ở căn cứ có thể yểm trợ lực lượng tàu nổi, hoặc trực tiếp tiêu diệt Hạm đội cơ động Mỹ. Thế nhưng, không quân Nhật không còn khả năng thực hiện tấn công quy mô lớn như thế nữa.
Trong tình hình đó, cuộc tấn công cảm tử đã ra đời.
Phi toán Shikishima dưới sự chỉ huy của Đại úy Seki Yukio, xuất kích vào ngày 21 tháng Mười. Thế nhưng hai ngày liên tiếp không gặp được địch, đành phải quay về căn cứ. Ta nghĩ đây là một việc vô cùng tàn nhẫn.
Đại úy Seki mới cưới vợ. Bỏ lại cô ấy mà chết thì thật quá đắng cay. Anh ấy trước khi xuất kích đã nói với đồng đội thân thiết rằng: “Tôi không hy sinh vì Tổ quốc, tôi hy sinh vì người vợ yêu quý của mình”. Tâm trạng đó ta hiểu. Ta nghĩ ngoài Đại úy Seki, các đồng đội khác trước khi chết đều suy nghĩ về sự hy sinh của mình, sau nhiều lần đấu tranh tinh thần mới tấn công bình thản.
Không phát hiện ra địch, tâm trạng mỗi khi trở về sẽ ra sao? Thêm chút thời gian hưởng thụ cuộc sống, đối với họ đau khổ đến nhường nào. Cứ nghĩ đêm nay là đêm cuối cùng của cuộc đời nhưng tối hôm sau lại phải trải qua một đêm nữa. Đau đớn tột cùng!
Thế nhưng các thành viên trong phi đội, gồm cả Đại úy Seki đều không để lộ sự đau khổ ấy. Thật xứng là những người đàn ông vĩ đại!
Đến lần xuất kích thứ tư thì họ đã không còn quay trở về.
Ngày hôm đó, yểm trợ phi đội Shikishima là 4 chiếc Reisen được dẫn dắt bởi Chuẩn úy Nishizawa hôm trước được gọi đến từ căn cứ không quân Clark. Đúng, chính là Nishizawa huyền thoại của Rabaul. Chắc hẳn ngoài việc hộ tống máy bay cảm tử anh ấy còn được gọi đến với nhiệm vụ dẫn đường đến tàu địch.
Toàn bộ 5 chiếc máy bay thuộc phi đội Shikishima của Đại úy Seki đã công kích thành công, đạt chiến tích lớn, làm hư hỏng nặng 3 mẫu hạm hộ tống. Chuyện này ta nghe qua điện báo từ căn cứ đảo Cebu. Cuộc tấn công cảm tử đầu tiên trong lịch sử đã kết thúc thành công. Người báo cáo thành quả chiến đấu là Chuẩn úy Nishizawa. Báo cáo khi ấy của Nishizawa rất chính xác. Sau này, quân đội Mỹ phát ngôn rằng họ đã bị đánh chìm một chiếc và hư hỏng nặng 2 chiếc.
Chuẩn úy Nishizawa đã bảo vệ phi đội Shikishima khỏi các chiến cơ của địch. Sau khi chứng kiến cuộc đột kích trong làn đạn pháo đối không hung tợn, anh đã truy đuổi và bắn hạ hai chiếc Grumman F6F rồi bay đến căn cứ đảo Cebu.
Ta nghe các thành viên phi hành đoàn chiến đấu tại căn cứ đảo Cebu nói, Chuẩn úy Nishizawa từ Reisen bước xuống, sát khí kỳ quái, không ai dám bắt chuyện.
Ngoài ra, trận tấn công khi ấy có chiến tích lớn nhất trong các chiến dịch tấn công cảm tử cho đến cuối cuộc chiến. Gây cho quân Mỹ một đòn bất ngờ là yếu tố thành công lớn nhất, nhưng có phi công giỏi nhất Hải quân Nhật Bản hộ tống cũng là một lý do quan trọng phải không? Thật mỉa mai, không chừng chính thành công rực rỡ khi ấy lại làm cho Bộ quân lệnh tin tưởng rằng chính cuộc tấn công cảm tử là con bài quyết định.
Tối hôm ấy, Nishizawa đã thì thầm với đồng đội rằng, “Chẳng bao lâu sau tôi cũng sẽ nối gót theo họ”.
Trong trận công kích ngày hôm ấy, Nishizawa đã mất chiếc máy bay đồng đội thứ hai bởi pháo đối không. Nghe nói đó là lần đầu tiên anh ấy để mất thành viên đội bay. Huy chương thực sự đáng tự hào nhất của chàng trai đã tham gia mấy trăm trận xuất kích, bắn rơi hơn trăm máy bay địch ấy chính là chưa một lần để cấp dưới của mình mất mạng. Ngoài chàng trai này ra chỉ có anh Sakai Saburo. Cũng không hẳn. Có thể nói chiến đấu tại địa ngục Rabaul đó hơn một năm mà chưa từng để mất một thành viên đội bay nào, Nishizawa còn tài năng hơn cả anh Sakai.
Nishizawa cho rằng mình “sẽ nối gót” bởi nghĩ về phi đội Shikishima của Đại úy Seki hay về thành viên đội bay bị mất? Nhưng những lời đó của Nishizawa đã thành sự thật.
Hôm sau, Nishizawa định quay về cứ địa Mabalacat nhưng chỉ huy ra lệnh anh ấy phải để Reisen ở lại, chỉ có phi công quay về căn cứ thôi. Nishizawa cùng hai phi công khác lên máy bay vận tải Douglas, hướng về Mabalacat. Chiếc máy bay vận tải ấy đã bị máy bay chiến đấu địch bắn rơi. Đó là giây phút thương tâm cuối cùng của chàng trai được quân Mỹ khiếp sợ gọi là Ma vương Rabaul.
Nishizawa chắc hẳn đã uất ức biết chừng nào. Nếu anh ấy cầm cần điều khiển Reisen, tuyệt đối đã không bị bắn rơi. Giây phút cuối cùng của cuộc đời lại ngồi trên chiếc máy bay vận tải chậm chạp không có vũ khí ấy.
Ngày sau đó, phi công át chủ bài huyền thoại của Hải quân Nhật Bản đã hy sinh trong trận tấn công cảm tử ở tuổi đời 24.
Đại úy Seki là vị thần chiến tranh được ca tụng khắp Nhật Bản, lớn lên trong cảnh một mẹ một con. Mẹ anh mất đứa con duy nhất, cũng được ca ngợi là người mẹ anh hùng. Vậy mà sau chiến tranh, xoay một vòng lại thành mẹ của tội nhân chiến tranh, phải chịu sự tẩy chay của người đời, bán hàng rong kiếm sống. Cuối cùng, bà được thuê vào làm tạp vụ trong một trường tiểu học. Đến năm 1953 thì một mình lạnh lẽo mất trong phòng tạp vụ. “Ít ra cũng cố xây mộ cho Yukio”. Đó là lời cuối của bà. Trong xã hội chủ nghĩa dân tộc sau chiến tranh, những chiến sĩ cảm tử hy sinh anh dũng vì Tổ quốc bị đối xử như tội phạm chiến tranh, ngay cả việc xây mộ cũng không được phép. Nghe nói vợ của Đại úy Seki sau chiến tranh đã tái hôn.
Ta sẽ kể cho bọn cháu cả chuyện chiến dịch Ichi-go. Dù không được mắt thấy tai nghe, nhưng sau này ta biết được qua vô số tài liệu.
Cùng lúc phi đội Shikishima liên tục lặp lại các cuộc tấn công cảm tử, Hạm đội Kurita nhắm vào vịnh Leyte lại bị máy bay trên mẫu hạm địch không kích dữ dội tại biển Sibuyan. Dưới các đợt tấn công như sóng vỗ, nhiều tàu phe ta đã bị thiệt hại, các cuộc tấn công đó đều nhắm vào chiếc Musashi. Musashi là chiếc tàu chị em với Yamato, là chiến hạm lớn nhất Thế giới, được mệnh danh là chiến hạm không bao giờ chìm. Thế nhưng, trước các đợt không kích của hàng trăm máy bay địch thì Musashi vĩ đại cũng mình đầy thương tích.
Mặt khác, Hạm đội mẫu hạm dưới sự chỉ huy của Đô đốc Ozawa Jisaburo tiến vào phía nam vịnh Leyte lôi kéo các đợt tấn công của địch vào Hạm đội Kurita về phía mình, và nhằm thu hút sự chú ý của Hạm đội cơ động địch, đã cố tình phát điện tín và cho xuất phát nhiều máy bay thám thính.
Sau đó, cuối cùng đã phát hiện ra Hạm đội cơ động địch và cho đội tấn công xuất phát. Trận tấn công này không phải là tấn công cảm tử nhưng cũng gần như vậy, bởi chúng ta không thể quay về. Mẫu hạm được dùng làm mồi nhử nên phải chịu số phận bị đánh chìm. Hay nói khác đi, khi đội tấn công quay trở về, mẫu hạm vốn đã không còn nữa. Các phi công được ra lệnh rằng sau khi tấn công Hạm đội cơ động địch, trong trường hợp khó trở về thì hãy bay đến các căn cứ địa rải rác ở Philippines. Tuy nhiên, đối với các phi công trẻ, chưa quen thực hiện phi hành trên Thái Bình Dương rộng lớn, đó là chuyện không thể. Hơn nữa, sống sót trước các đợt đánh chặn của máy bay chiến đấu cất cánh từ mẫu hạm hùng hậu của địch là chuyện quá sức.
Sự thật thì đội tấn công khi ấy hầu như đều bị tiêu diệt. Dù vậy, kế hoạch quyết tử của Đô đốc Ozawa đã thành công. Hạm đội cơ động Mỹ được dẫn dắt bởi tướng Halsey đã phát hiện ra hạm đội của Ozawa và lầm tưởng rằng đây là hạm đội chủ lực.
Vào lúc ấy, hạm đội của Kurita chuyển hướng, nên Halsey nghĩ rằng hạm đội ta rút lui vì bị thiệt hại nặng nề. Halsey đã không đuổi theo hạm đội Kurita mà dùng toàn lực nhắm vào hạm đội Ozawa. Hạm đội Ozawa dự đoán Hạm đội cơ động Mỹ sẽ tiến đến vị trí của mình, vì thế đã đi về phía Bắc, buộc Halsey phải đuổi theo.
Suy tính này của Halsey hẳn là điều đương nhiên. Bởi từ sau trận Trân Châu Cảng, các trận chiến trên Thái Bình Dương đều dựa vào mẫu hạm làm chủ lực. Hơn nữa, hạm đội Ozawa còn có mẫu hạm Zuikaku mạnh nhất Hạm đội Liên hợp, đã từng lập chiến công lớn trong trận Trân Châu Cảng, sau đó còn đánh chìm 2 mẫu hạm Mỹ. Nó là chiếc hàng không mẫu hạm đáng sợ mà địch phải chịu đựng trong suốt ba năm.
Ta nghe kể đợt tấn công của Hạm đội cơ động Mỹ rất khủng khiếp. Hạm đội Ozawa bị đánh chìm vô phương cứu giúp. Zuikaku, chiến hạm kỳ cựu từ trận Trân Châu Cảng, được trang bị rất nhiều vũ khí chiến đấu của Hạm đội Liên hợp phe ta, cuối cùng đã chìm ngoài khơi mũi Engano.
Tuy nhiên, Halsey đã bị dụ đi khá xa, hải vực xung quanh đảo Leyte hoàn toàn trống rỗng.
Thực sự lúc ấy, hạm đội Kurita không còn bị địch không kích, đã tiến vào vịnh Leyte lần nữa. Mặc dù bị máy bay và tàu ngầm của địch tấn công, nhiều tàu và cả chiếc Musashi đã bị đánh chìm nhưng hạm đội Kurita với chiếc Yamato hùng hậu nhất thế giới, vẫn còn lực lượng của nhiều tàu khác.
Hạm đội Mỹ chỉ gồm 6 mẫu hạm hộ tống cỡ nhỏ và 7 khu trục hạm đột nhiên nhìn thấy hạm đội Nhật ngoài khơi biển Samar, cực kỳ sửng sốt. Giăng màn khói, cho khu trục hạm phóng ngư lôi, định ra sức đào tẩu. Hạm đội cơ động tốc độ cao đã bị Ozawa dẫn dụ. Hạm đội Mỹ biết mình sắp bị tiêu diệt toàn bộ.
Cuối cùng chiến thuật chịu đấm ăn xôi của Hải quân Nhật đã đạt được mục đích. Thế nhưng, kỳ tích đã xảy ra với quân đội Mỹ. Hạm đội Kurita đột ngột chuyển hướng. Đây là “Sự chuyển hướng bí ẩn của Kurita” nổi tiếng trong lịch sử.
Tại sao hạm đội Kurita lại quay đầu? Có vô số những giả thuyết nhưng Đô đốc Kurita mất sau chiến tranh và chưa một lời biện minh về chuyện đó.
Đô đốc Kurita hoàn toàn không biết việc Hạm đội cơ động của Halsey bị hạm đội Ozawa nhử ra khoảng xa phía Bắc Philippines. Chịu nhiều đợt tấn công máy bay, nên có lẽ ông phán đoán rằng Hạm đội cơ động địch vẫn còn ở gần. Và nếu cứ thế tiến vào vịnh Leyte thì hạm đội của ông sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn.
Lịch sử không có mệnh đề “nếu”, nhưng nếu khi ấy hạm đội Kurita tiến sâu vào vịnh Leyte thì ắt hẳn các tàu vận tải đạn dược của Mỹ đã bị tiêu diệt rồi. Và chắc chắn chiến dịch xâm chiếm Philippines của Mỹ sẽ gặp trở ngại vô cùng lớn. Quân Mỹ bị mất khối lượng lớn vũ khí và binh lính, sẽ phải mất hơn một năm xây dựng lại chiến dịch ấy. Ít nhất có thể hạn chế mấy trăm ngàn binh lính Lục quân Nhật Bản chết trong trận đánh bộ trên đảo Leyte diễn ra sau này.
Tuy nhiên, vì hạm đội Kurita chuyển hướng, chúng ta đã mất cơ hội cuối cùng phản công quân đội Mỹ. Số lượng binh lính hạm đội Ozawa đã hy sinh vô ích. Hơn nữa, mọi cố gắng chiến đấu của chiếc Musashi một mình chịu tấn công của máy bay trên mẫu hạm địch rồi bị đánh chìm tại eo biển Surigao cũng hoài phí.
Cuộc tấn công cảm tử của phi đội Shikishima diễn ra vào ngày hôm sau hạm đội Kurita chuyển hướng. Dù thế, cơ hội giành chiến thắng đã trôi qua rồi.
Người ta nói rằng tấn công cảm tử là ý tưởng của Trung tướng Onishi Takijiro. Ban đầu nó là chiến thuật phục vụ cho chiến dịch Ichi-go, nhằm hỗ trợ hạm đội Kurita đột kích Leyte, liều thân đâm mình vào sàn đáp mẫu hạm địch. Nếu khiến sàn đáp chính không sử dụng được, chúng ta sẽ không bị máy bay trên mẫu hạm địch tấn công. Tấn công cảm tử chỉ giới hạn trong chiến dịch đảo Leyte.
Tuy nhiên, hạm đội Kurita đã bỏ lỡ cơ hội và dù kể hoạch Ichi-go đã thất bại nhưng cuộc tấn công cảm tử không ngừng lại, mà bắt đầu phát triển theo một hướng riêng. Có phải các Đô đốc đã bị nó ám ảnh chăng?
Hằng ngày, các máy bay cảm tử vẫn xuất kích từ Mabalacat. Vì lý do nào đó, ta chưa vướng vào cuộc tấn công cảm tử mà được giao nhiệm vụ bảo vệ. Có thể vì số lượng phi công thiện chiến ít ỏi mà nhiệm vụ bảo vệ lại không hề dễ dàng gì. Quân Mỹ sau khi chịu các cuộc tấn công quyết liệt của quân đội Nhật, đang ngày càng tăng cường lực lượng đánh chặn. Khó có thể bảo vệ máy bay cảm tử trước hàng chục chiến cơ mai phục tính năng cao của Mỹ. Nhiều máy bay yểm trợ đã hy sinh trong lúc làm nhiệm vụ bảo vệ máy bay tấn công cảm tử. Thiếu úy Minami Yoshimi, một phi công lão luyện, chiến đấu từ chiến tranh Trung-Nhật cũng đã không thể trở về.
Thiếu úy Minami là một phi công thiện chiến, anh đã chiến đấu vô số trận hải chiến từ sau đợt không kích Trân Châu Cảng, là phi công lái máy bay chiến đấu quý giá của Không lực Hải quân. Là người nỗ lực đi lên từ hạ sĩ quan, về nhân cách cũng là một người tuyệt vời. Anh là một người trầm tính, hiền lành đã chỉ dạy ta rất nhiều điều ở Thượng Hải. Anh từng là phi công thuộc mẫu hạm trong trận hải chiến ngoài khơi vịnh Leyte. Khi bay về thì mẫu hạm đã mất, rơi vào tình thế thập tử nhất sinh, anh đáp xuống Bắc Đảo. Sau đó không may hy sinh trong khi làm nhiệm vụ hộ tống máy bay tấn công đặc biệt.
Ta cũng từng cảm nhận cái chết tại nơi ấy.
Vài ngày sau, trên đường trở về từ đợt tấn công, động cơ xảy ra sự cố nên ta tiếp đất tại căn cứ Nichols. Tại đây, ta đã tái ngộ Miyabe. Hỏi ra thì Miyabe chiến đấu trên mẫu hạm Zuikaku, sau khi bị địch tấn công cậu ấy đã đáp xuống phi trường này.
Miyabe đã biết chuyện tấn công cảm tử. Chuyện của phi đội Shikishima dưới sự chỉ huy của Đại úy Seki Yukio được bố cáo toàn quân. Tại căn cứ Nichols vẫn chưa có chiếc máy bay nào tấn công đặc biệt nhưng chí khí của các phi công đã tụt giảm mạnh.
Sau chiến tranh, có không ít cuốn sách viết rằng khi đợt tấn công đặc biệt của phi đội Shikishima được công bố toàn quân, sĩ khí của toàn thể phi công dâng trào nhưng tuyệt nhiên không hề có chuyện đó! Sĩ khí của phi đội giảm sút rõ rệt. Đương nhiên là vậy rồi!
Hôm sau khi ta đến căn cứ Nichols, toàn thể phi công được tập trung. Nhìn dáng vẻ căng thẳng của Đô đốc và Phi đội trưởng, ta đã đoán được ngay cả nơi này chuyện phải đến cũng đã đến. Ắt hẳn các phi công khác đều nghĩ như vậy.
Đô đốc sau khi lặp lại những lời đao to búa lớn về việc hiện nay nước Nhật đang gặp nguy hiểm sống còn, đã nói, “Tình nguyện viên tham gia tấn công đặc biệt tiến lên phía trước!”
Toàn đội tiến một bước về phía trước. Có lẽ các phi công sau khi nghe chuyện phi đội Shikishima đã chấp nhận việc này. Cũng như lần trước ở Mabalacat, ta tiến lên một bước. Giờ không còn là lúc có thể nói ngừng lại được nữa rồi.
Khi ấy, ta thấy một chuyên không thể nào tin được. Duy nhất một người không hề động đậy. Đó là Miyabe. Mặt Phi đội trưởng tím tái, hét lớn.
“Tình nguyện viên tham gia bước lên một bước!”
Thế nhưng Miyabe vẫn đứng yên như phỗng. Phi đội trưởng giận run người.
“Chuẩn úy Miyabe!”, Phi đội trưởng hét lên. “Mày yêu mạng sống lắm à?”
Miyabe không trả lời.
“Sao? Trả lời!”
Miyabe nói như kêu lên:
“Mạng sống rất đáng quý ạ!”
Phi đội trưởng sửng sốt như vừa nghe thấy chuyện không thể tin được.
“Mày... còn là quân nhân của Hải quân Đế quốc không?”
“Tôi là quân nhân ạ”.
Miyabe nói rõ ràng rành mạch. Phi đội trưởng nhìn về phía Đô đốc. Đô đốc nhỏ giọng:
“Giải tán!”
Sĩ quan quát: “Giải tán!” Các phi công theo hàng trở về phòng nghỉ, chẳng ai bắt chuyện với Miyabe.
Sáng hôm sau, không có đợt xuất kích nhưng một bầu không khí kỳ lạ bao trùm toàn đội.
Việc tình nguyện tham gia tự sát hôm qua đè nặng tâm trạng các phi công.
Ta rủ Miyabe leo lên ngọn đồi cách xa phi trường một khoảng. Cả hai không nói một lời nào. Leo đến phía trên ngọn đồi nhỏ, ta và Miyabe ngồi xuống bãi cỏ.
Sau đó, Miyabe nói:
“Tôi tuyệt đối không tham gia tấn công tự sát. Tôi đã hứa với vợ rằng sẽ sống sót trở về”.
Ta lẳng lặng gật đầu.
“Tôi chiến đấu đến tận bây giờ không phải để đi chết”.
Ta vẫn không thể nói gì.
“Dù trong trận chiến tàn khốc đến thế nào, dù cơ hội sống sót có mong manh đến đâu, tôi cũng có thể cố hết sức chiến đấu. Nhưng tôi không thể nào chấp nhận được cuộc chiến định sẵn sẽ chết”.
Ta cũng có suy nghĩ ấy. Tuy nhiên bây giờ nhìn lại. Hàng ngàn phi công thời ấy, mấy ai có thể mở miệng nói ra những lời này. Thế nhưng, những gì Miyabe nói chính là những suy nghĩ tự đáy lòng của hầu hết các phi công.
Dù vậy, khi nghe thế, ta cảm thấy sợ hãi. Một cảm giác kinh sợ lạ lùng không hiểu vì sao. Đó là nỗi sợ nhìn thấy hình ảnh của chính bản thân mình.
Bỗng Miyabe hỏi:
“Tanikawa lần đầu đăng ký tình nguyện à?”
“Lần thứ hai. Lần đầu là ở Mabalacat”.
“Tôi đã có vợ rồi”, Miyabe nói.
“Tôi cũng vậy!”
Nghe ta nói thế, Miyabe tỏ ra ngạc nhiên. Ta kể cậu ấy về việc ta đã cưới vợ trước khi rời Nhật Bản ba ngày.
“Cậu yêu vợ cậu chứ?”
Ta gật đầu không suy nghĩ trước câu hỏi của Miyabe. Vậy sao, ta yêu vợ mình sao?
“Nếu vậy, tại sao cậu lại tham gia tấn công cảm tử?”. Câu hỏi của Miyabe mang ý trách móc.
“Tôi là phi công của Hải quân Đế quốc!”
Ta hét lên rồi bật khóc. Lần đầu tiên ta rơi nước mắt từ sau khi trở thành phi công lái máy bay chiến đấu. Miyabe nhìn chăm chăm không nói gì.
Khi ta dợm đứng lên, Miyabe nói.
“Nghe này Tanikawa. Nếu cậu được lệnh tấn công cảm tử thì hãy hạ cánh khẩn cấp lên bất cứ hòn đảo nào”.
Ta sửng sốt đến độ sợ hãi, câu nói ấy nếu bị đem ra Tòa án binh chắc chắn sẽ bị xử tử.
“Nếu cậu chết vì tấn công cảm tử thì chiến cục cũng không thay đổi nhưng nếu cậu chết thì cuộc đời vợ cậu sẽ thay đổi rất lớn đấy”.
Trong tâm thức ta bỗng hiện lên hình ảnh của Kae.
“Đừng nói nữa. Nếu được lệnh tấn công cảm tử thì tôi chỉ biết làm theo thôi”.
Miyabe không nói gì thêm. Khi đó, còi cảnh báo vang lên, xa phía sau nghe thấy cả tiếng bom. Địch đến tấn công. Chúng ta chạy vào hào phòng không. Dưới phi trường các máy bay đã sớm được lính bảo trì đưa vào boong-ke. Khoảng thời gian ấy, chúng ta không xuất quân đánh chặn, chọn đối sách bảo tồn máy bay hơn việc đánh chặn ít ỏi rồi bị đội hình khổng lồ của địch bắn giết. Số máy bay có thể hoạt động ở Nichols chỉ còn vài chiếc.
Dù vậy, ngày hôm đó thật không may. Phe ta phát hiện ra địch quá muộn nên nhiều máy bay đã bị bắn phá trên mặt đất. Kết quả, không còn chiếc máy bay nào tại Nichols có thể hoạt động.
Không lâu sau có lệnh đưa các phi công ở căn cứ Nichols về nội địa. Từ căn cứ không quân Clark ngồi máy bay vận tải qua Đài Loan đến Omura, Kyushu. Tại đó, các phi công trở về phi đội của mình.
Ta từ biệt Miyabe ở Omura. Ta không còn nhớ cuối cùng bọn ta đã nói những gì. Sau đó ta không còn gặp lại Miyabe nữa. Sau khi trở về Iwakuni, ta làm giáo quan, rồi nhận nhiệm vụ ở Phi đội Yokosuka, chiến đấu bảo vệ lãnh thổ. Tháng Ba năm 1945, nhiều máy bay tấn công cảm tử từ Nam Kyushu đã bay đến Okinawa. Giai đoạn cuối cuộc chiến được gọi là “Toàn quân tấn công cảm tử”. Ta nghe nói rằng khoảng thời gian ấy, dù không tình nguyện cũng có lệnh bắt buộc phải tham gia.
Ta cũng nghĩ rằng một lúc nào đó mình sẽ được lệnh tấn công cảm tử nhưng may thật, ngày ấy đã không đến. Ta đã ở Iwakuni đến khi chiến tranh kết thúc. Nhiều năm sau ta mới biết chuyện Miyabe hy sinh vì tham gia tấn công cảm tử.
Sau chiến tranh ta trở về quê, cách nhìn của mọi người đã thay đổi. Họ nhìn ta như thứ gì đó dơ bẩn, không ai đến gần. Những người trong làng nói sau lưng ta rằng, “Thằng đó chẳng phải là tội phạm chiến tranh sao?”. Một hôm khi đi bộ trên bờ kè, những đứa trẻ trong làng vừa ném đá về phía ta vừa hét: “Tội phạm chiến tranh đến kìa!”
Lòng ta đau khôn xiết. Những người mới hôm qua còn gọi quân Đồng Minh là “quái vật Anh-Mỹ” nay đã quay sang tung hô Mỹ. Ta từng là người hùng của làng, giờ lại như trở thành kẻ gieo rắc bệnh dịch hạch. Sau khi cha ta mất, anh trai hưởng thừa kế. Ta và Kae ở tách biệt với nhà anh trai nhưng anh ấy lại đối xử ra mặt với ta như một kẻ phiền toái.
Không biết từ đâu có tin đồn lan truyền rằng những người không kích Trân Châu Cảng sẽ bị xem là tội phạm chiến tranh, rồi bị bắt và treo cổ. Ai che giấu tội phạm cũng sẽ bị buộc tội. Ta lo âu chuẩn bị cho số phận mình. Một ngày, anh trai đưa cho ta chín cân gạo xem như tiễn biệt, bảo ta trốn lên Tokyo. Ta dẫn Kae rời khỏi miền quê.
Chúng ta đến Tokyo vào cuối tháng Mười. Tất cả là một bình nguyên cháy rụi. Ta và Kae ngủ trong một túp lều bằng thép mạ kẽm. Mỗi ngày đều đi tìm việc, nhưng chẳng tìm được việc gì. Chín cân gạo cũng mau chóng cạn hết. Ta đi làm công ngày, xoay sở mãi cũng không đủ ăn.
Thời gian đó thật sự rất khổ. Trên đường phố đầy quân chiếm đóng. Binh lính Mỹ dẫn theo phụ nữ Nhật Bản. Chuyện đánh nhau mới ba tháng trước nghe như chuyện đùa.
Lúc ấy bọn ta xoay sở được cái ăn là nhờ Kae nhìn thấy một tấm áp phích “Tuyển thợ may” và được thuê vào một tiệm trang phục nhỏ. Ta cũng có thể ở cùng. Bọn ta sống trong một căn phòng chỉ khoảng hai chiếu Tatami nhưng nó là cả thiên đường so với việc ngủ trong túp lều trước đây.
Năm sau, được sự giúp đỡ của thượng cấp cũ trong Hải quân, ta được nhận vào làm nhân viên thời vụ của Cục cấp thoát nước. Nhưng một năm sau lại có đợt thanh lọc công chức nên ta bị sa thải. Trải qua mười một năm sống trong Hải quân, cấp bậc cuối cùng của ta là Trung úy, vì thế bị xem là quân nhân chuyên nghiệp. Khi biết ta bị mất việc, Kae an ủi.
“Quân nhân chuyên nghiệp nghe thật ghê tởm! Em thật không thể chấp nhận việc nói những người chiến đấu hết mình vì Tổ quốc như kẻ chiến đấu để kiếm ăn”.
Vô cùng vui sướng vì câu nói ấy của Kae, ta đã quyết tâm sống vì người phụ nữ này.
Ta quyết định tự mình làm ăn, đầu cơ vào nhiều ngành kinh doanh. Nhiều lần ta đã bị lừa, bị bội phản. Sau chiến tranh, con người hoàn toàn khác với thời tiền chiến. Những đêm sau khi bị lừa, ta thường nhớ về những đồng đội của mình, ta nghĩ chắc rằng họ hạnh phúc hơn ta, ganh tỵ rằng họ thật may mắn đã chết trước khi thấy Nhật Bản thành ra thế này.
Tuy nhiên, sự hỗn loạn và bần cùng sau chiến tranh chỉ là tạm thời. Phần đông người Nhật có lòng thương người và trái tim ấm áp. Có những người nghĩ mình còn có thể sống nên gắng giúp đỡ những người gặp khó khăn. Ta nghĩ chính vì thế mà bọn ta mới có thể sống sót trong thời đại bi thảm đó. Hai vợ chồng ta có được căn hộ nhỏ ở Tokyo cũng là nhờ sự giúp đỡ của nhiều người.
Người Nhật bị biến chất là chuyện về sau này.
Nhật Bản trở thành nước Chủ nghĩa dân tộc, xã hội hòa bình, phát triển kinh tế tốc độ cao, người người hưởng thụ cuộc sống tự do, giàu có. Thế nhưng sau cái bóng ấy, đất nước đã mất đi một thứ rất quan trọng. Sự phồn thịnh và chủ nghĩa dân tộc sau chiến tranh đã cướp mất đạo đức của con người Nhật Bản.
Trên đường phố đầy rẫy những người chỉ cần bản thân mình tốt là được. Sáu mươi năm trước không phải như vậy. Ta đã sống quá lâu rồi chăng?
* * *
Ánh chiều đã chiếu vào căn phòng khách.
Chỉ vừa qua vài giờ đồng hồ nhưng tôi có cảm giác như đã lâu lắm rồi. Ông Tanikawa khi kể chuyện giống như một chàng thanh niên, có thể thấy được bóng dáng một chàng trai trẻ dũng cảm, tràn đầy sinh khí.
Giờ ông Tanikawa trước mặt tôi đây lại là một ông lão gầy nhom ngồi trên chiếc xe lăn.
Cánh tay mảnh khảnh của ông như thể sắp gẫy ra ngay tức thì vậy. Cánh tay ấy khi xưa đã từng cầm cần điều khiển Reisen, tung hoành chiến đấu trên bầu trời. Nghĩ về ngày tháng sáu mươi năm trước, trong lòng tôi dâng trào cảm xúc.
Ông Tanikawa nói nhỏ nhẹ.
- Đến bây giờ, đôi lúc ta vẫn mơ hồ không biết chuyện khi ấy ở căn cứ Nichols là thật hay mơ.
- Chuyện ông ngoại cháu từ chối tham gia tấn công cảm tử phải không ạ?
- Đó không phải là mệnh lệnh nhưng vậy vẫn là kháng lệnh phải không?
- Kháng lệnh là sao ạ?
- Là chống lại mệnh lệnh. Trong quân đội tương đương với án tử.
Ông ngoại là người như thế nào đây?
- Tuy thế, chuyện ta không hiểu được là khi được lệnh tấn công cảm tử vào năm cuối thế chiến, sao anh ấy lại không hạ cánh khẩn cấp. Người khi đó đã bảo ta hãy hạ cánh khẩn cấp ở đâu cũng được nhưng đừng tự sát, tại sao lại tự sát chứ?
Ông Tanikawa khoanh tay nói tiếp.
- Nhiều phi công giàu kinh nghiệm đã hy sinh tại Leyte, có lẽ là do hỗn loạn. Tuy không phải tấn công cảm tử nhưng Thiếu úy Minami xuất kích từ hạm đội Ozawa, sau khi tấn công Hạm đội cơ động địch, đáp đến Echague. Tại đây anh được giao nhiệm vụ yểm trợ máy bay tấn công cảm tử và hy sinh.
- Thực chất vẫn giống tấn công cảm tử phải không ông?
Ông Tanikawa gật đầu.
- Thời đó, những người như Thiếu úy Iwai từ hạm đội Ozawa bay đến Bắc Đảo đều bị bắt tham gia tấn công cảm tử. Tuy nhiên, các phi công lão luyện không tham gia trong trận tấn công cảm tử Okinawa bắt đầu từ tháng Ba năm 1945. Bởi vì chúng ta cần các phi công giàu kinh nghiệm cho việc huấn luyện và bảo vệ lãnh thổ.
- Như vậy tấn công cảm tử phần nhiều là các phi công trẻ tuổi phải không ạ?
- Các đợt tấn công cảm tử đa phần diễn ra vào trận Okinawa năm cuối thế chiến. Khi đó, những người chết vì tấn công cảm tử hầu như là các học viên dự bị và những phi công trẻ. Theo ta, việc đưa các phi công giàu kinh nghiệm vào cuộc tấn công đặc biệt là một sai lầm. Đương nhiên dù là phi công lão luyện hay những tân binh thì sinh mệnh đều đáng quý như nhau. Tuy nhiên, ta vẫn không chấp nhận cấp trên lệnh cho Minami tấn công cảm tử. - Ông Tanikawa lớn tiếng. - Hèn hạ nhất là những kẻ oang oang rằng “Tao sẽ tiếp bước theo sau” rồi ra lệnh cho cấp dưới phải hy sinh. Đến khi chiến tranh kết thúc thì lại sống an nhàn!
Ông Tanikawa đập bàn làm chiếc gạt tàn bật lên khiến tôi giật cả mình.
- Xin lỗi! Ta có hơi kích động.
- Không sao ạ.
Ông Tanikawa lấy thuốc từ trong túi áo ra, bỏ vào miệng. Chị tôi đứng dậy, lấy cốc rót nước đưa cho ông.
- Cám ơn. - Ông Tanikawa nhận lấy cốc nước và uống thuốc. Một lát sau, ông nói. - Ta vẫn không hiểu vì sao Miyabe không hạ cánh khẩn cấp. Với khả năng của Miyabe nếu cậu ấy đã quyết định thì chắc chắn sẽ làm được.
- Có phi công đã từng làm thế sao ạ?
Ông Tanikawa cau mày.
- Có những thành viên đội tấn công cảm tử với lý do thất bại trong việc tiếp cận địch hoặc động cơ xảy ra sự cố nên đã quay trở về.
- Có nghĩa là...
Ông Tanikawa lắc đầu mạnh trước câu nói của chị.
- Ta không biết có ý đồ khác không nhưng đúng là có những phi công như thế.
Cả căn phòng im bặt.
- Ông ngoại cháu chết trận trên vùng biển Okinawa. Nếu động cơ gặp sự cố thì có thể hạ cánh khẩn cấp ở đâu đó phải không ạ? - Tôi mở lời.
- Đảo Kikaijima. - Ông Tanikawa lập tức đáp lời. - Những máy bay cảm tử cất cánh từ phía nam Kyushu, trong trường hợp động cơ gặp trục trặc, không thể tiến hành tác chiến thì sẽ hạ cánh ở đảo ấy.
- Vậy ạ?
- Tuy nhiên, ngay trước khi chiến tranh kết thúc, vùng trời đảo Kikaijima cũng nằm dưới quyền kiểm soát không phận của địch nên có thể ngay cả Miyabe khi phải ôm một lượng bom nặng nề cũng đành chấp nhận số phận.
Tôi gật đầu.
- Dù thế nào đỏ cũng là chuyện của sáu mươi năm trước. Ta không rõ chân tướng thế nào.
Ông Tanikawa buông tiếng thở dài. Sau đó, ông với tay nhấn công tắc trên tường, mở đèn trong phòng rồi chậm rãi rút từ trong túi ra một tấm ảnh.
- Đây là hình bà xã ta. Bà ấy mất năm năm trước. Khi Kae thấy dáng vẻ của ta lúc xuất ngũ trở về quê, bà ấy đã khóc lớn. Người phụ nữ mạnh mẽ ấy, trước sau chỉ khóc mỗi lần ấy.
Nhìn tấm ảnh vợ ông Tanikawa, bất giác mắt tôi ướt đẫm.
- Nếu không vì những lời khi xưa của Miyabe, chắc ta và bà ấy đã không thể thành vợ chồng.
- Hai ông bà yêu nhau lắm ạ?
Ông Tanikawa gật đầu đáp lại câu nói của chị.
- Tuy không thể có con nhưng chúng ta đã sống một cuộc đời hạnh phúc.
Sau khi ra khỏi viện dưỡng lão, tôi thấy chị lấy khăn lau nước mắt.
- Chị đau lòng quá. - Chị ấy nói. - Ông ngoại đem lại hạnh phúc cho mọi người, bản thân ông lại hy sinh. Chuyện đó sao có thể, thật không công bằng.
- Đâu phải chỉ có mỗi ông ngoại hy sinh. Trong trận chiến đó có 3.000 người chết, chỉ binh lính thôi cũng đã 2.300 người chết trận. Ông ngoại chỉ là một trong số họ.
Chị không nói gì thêm. Ngồi trong taxi chị cũng không nói câu nào. Khi xuống xe đi vào nhà ga, chị đột nhiên phản bác.
- Lúc nãy em bảo ông chỉ là một trong 2.300 người tử trận, nhưng đối với bà thì ông là người chồng duy nhất. Hơn nữa với mẹ, ông cũng là người cha duy nhất.
- Cũng như ông là người chồng duy nhất đối với bà, 2.300 người hy sinh kia, từng người từng người đều là những người không thể thay thế được đối với ai đó.
Chị ngạc nhiên nhìn tôi.
- Nói ra thì chắc chị cười em nhưng bây giờ, em cảm nhận được nỗi đau của nhiều người đã chết trong cuộc chiến tranh đó.
- Chị không cười đâu. - Chị Keiko gật đầu.
Trên tàu điện cả hai chị em cùng im lặng.
Chị mải suy nghĩ về chuyện gì đó. Tôi thì trầm tư về câu chuyện của ông Tanikawa. Nếu nhắm mắt lại, dường như tôi sẽ nhìn thấy hình ảnh của ông hiện lên trong đầu. Thế nhưng đó chỉ lờ mờ như làn khói, không thể bắt được hình ảnh rõ ràng. Tàu vừa qua Shin Osaka một lúc, bất ngờ chị bắt chuyện.
- Nghe câu chuyện của những người từng tham gia chiến tranh, chị cảm giác các binh sĩ đúng là bị sử dụng một lần rồi vứt.
Tôi gật đầu.
- Chỉ cần một tờ Giấy đỏ thì có thể bổ sung bao nhiêu cũng được. Các binh sĩ ngày xưa còn bị thượng cấp khinh miệt: “Chiến mã quan trọng hơn mày, mày chỉ đáng một đồng năm cắc, bao nhiêu cũng có thể thay thế được”.
- Một đồng năm cắc là sao?
- Là giá tiền của tờ lệnh chiêu quân. Hay nói cách khác, đối với sĩ quan cấp cao của quân đội, binh lính Lục quân, binh sĩ Hải quân và cả phi công là thứ chỉ cần tốn một đồng năm cắc là có thể triệu tập bao nhiêu cũng có.
- Vậy mà mọi người vẫn dũng cảm chiến đấu vì đất nước.
Chị gật đầu, gương mặt thương xót. Sau một lúc im lặng chị lại mở lời:
- Nghe này! Chị đã tìm hiểu nhiều về chiến tranh Thái Bình Dương và nhận ra một điều. Đó là sự yếu kém của hàng ngũ Đô đốc Hải quân.
- Chẳng phải quân đội Nhật Bản toàn lập những kế hoạch tác chiến kiên trì táo bạo sao?
- Là thiếu suy nghĩ thì đúng hơn. Họ lập ra nhiều chiến dịch liều lĩnh. Guadalcanal, New Guinea, trận hải chiến ngoài khơi Mariana và cả trận hải chiến vịnh Leyte đều như vậy. Cả trận Imphal* nổi tiếng nữa. Nhưng đừng quên Bộ Tổng tư lệnh và Tổng hành dinh Đế quốc, những người nghĩ ra các chiến dịch đó đều hoàn toàn không phải lo lắng về việc mình có thể chết.

*[Trận Imphal là một trong những trận đánh thảm họa tồi tệ nhất của quân đội Đế quốc Nhật Bản tại mặt trận Miến Điện]

- Vì người chết trong các chiến dịch là binh lính nên họ có thể lập các chiến dịch bất hợp lý đến thế nào cũng được phải không?
- Đúng, nhưng khi chỉ huy trên tiền tuyến, khả năng thiệt mạng cao, thì họ lại hành xử vô cùng yếu đuối. Dù trong thế thắng trận, họ cũng sợ bị phản công, lập tức tháo lui.
- Ra thế.
- Là yếu đuối hay thận trọng? Như trong trận Trân Châu Cảng, mặc dù chỉ huy tại mặt trận đã đề trình đợt không kích thứ ba nhưng Đô đốc Nagumo đã nhanh chân trốn thoát quay về. Trong trận hải chiến Biển San Hô cũng thế. Sau khi đánh chìm mẫu hạm Lexington của địch, Đô đốc Inoue đã cho rút lực lượng đổ bộ hải cảng Moresby. Trong khi chiến dịch lại vốn nhằm chi viện cho lực lượng tiến chiếm. Còn tại trận hải chiến đảo Solomon lần thứ nhất, trong các cuộc chiến quanh Guadalcanal, Đô dốc Mikawa sau khi đánh bại hạm đội địch, toại nguyện rút lui, không đuổi theo đoàn tàu vận tải địch. Trong khi mục đích ban đầu là phá hủy tàu vận tải địch. Khi ấy nếu tàu vận tải bị tiêu diệt thì không chừng chuyện bi thương ở Guadalcanal sau đó đã không xảy ra. Có lẽ đúng như những gì Halsey nói, nếu bị quân Nhật giáng thêm một đòn thì phe ông đã bị tiêu diệt. Đỉnh điểm là việc quay đầu của Đô đốc Kurita trong trận hải chiến Leyte lúc nãy chúng ta vừa nghe.
Tôi giật mình khi nghe những chuyện của Keiko, đúng là chị ấy đã đọc kha khá sách.
- Có lẽ, chỉ là nhận định cá nhân nhưng chị nhận thấy số Đô đốc như thế nhiều quá, có lẽ đó là do cơ cấu tổ chức. Các Đô đốc đều là tầng lớp tinh hoa của trường Đại học Hải quân, được chọn từ các sĩ quan ưu tú tốt nghiệp trường Quân sự Hải quân. Có thể nói là lớp tinh túy nhất nong những người được chọn. Đây là ý kiến cá nhân của chị thôi, nhưng có phải chính vì là tầng lớp tinh hoa nên họ mới yếu kém đến thế, hoặc giả trong đầu họ lúc nào cũng nghĩ đến sự thăng tiến.
- Thăng tiến? Trong thời chiến sao?
- Có thể do chị đọc nhiều sinh đa nghi, nhưng có quá nhiều tình tiết khiến chị nghĩ như vậy. Dường như họ chỉ cố làm sao để không gây lỗi lầm hơn là nghĩ phải làm sao để bắn phá được nhiều quân địch. Giống như ông Izaki đã nói, trong việc thẩm định huân chương cho Đô đốc Hải quân thì việc đánh chìm chiến hạm được ghi điểm cao nhất. Vì thế dù có bắn phá cảng đóng tàu, phá hủy kho chứa dầu, bắn chìm tàu vận tải thì cũng không được cộng điểm trong việc đánh giá. Vì thế...
- Nhưng không thể vì vậy mà nói họ lo nghĩ nhiều về việc thăng tiến được.
- Có lẽ chị đã nghĩ nhiều, nhưng tầng lớp tinh hoa Đại học Hải quân đó, khoảng mười mấy tuổi vào trường Quân sự Hải quân, giành thắng lợi trong các cuộc tranh giành khủng khiếp, sống còn của thế giới Hải quân nhỏ hẹp, việc thăng tiến đã ăn sâu vào tiềm thức của họ. Đặc biệt là tầng lớp quan chức từng là học viên ưu tú nổi bật thì tâm lý đó càng mạnh mẽ. Các Đô đốc thời chiến tranh Thái Bình Dương tất cả đều trên 50 tuổi đúng không? Sự thật là từ sau trận Hải chiến biển Nhật Bản gần bốn mươi năm trước, Hải quân chưa thực hiện trận hải chiến nào khác. Nói cách khác, các Đô đốc suốt từ khi gia nhập Hải quân, cho đến chiến tranh Thái Bình Dương chưa từng có kinh nghiệm thực chiến, họ chỉ sống trong thế giới tranh đấu thăng tiến trong nội bộ Hải quân.
Sự phong phú về kiến thức không ngờ của Keiko làm tôi kinh ngạc và hơn thế nữa tôi khâm phục cái nhìn sắc bén của chị.
- Khi tìm hiểu về Hải quân thời đó, chị khá quan tâm đến một chuyện. Đó là nhân sự Hải quân Nhật Bản căn bản dựa vào thứ tự ưu tiên của Đại học Hải quân. Hình như được gọi là Hammock Number*. Đó mới là chuyện đáng nói.

*[Mỗi học viên Hải quân đều được phát một chiếc võng (hammock) có gắn số thứ tự của từng người, được gọi là Hammock Number. Họ sẽ mắc võng lên khi tới giờ ngủ. Số thứ tự sẽ được đặt theo xếp hạng của từng người, và sẽ được thay đổi nếu được chuyển sang bộ phận khác]

- Thành tích tốt nghiệp quyết định một đời đây.
- Đúng thế. Giống công chức bây giờ ấy. Những học viên ưu tú sẽ cứ thế mà thăng tiến. Và chỉ cần không gây ra lỗi lớn sẽ cứ thế mà tiến thân. Có thể chị suy nghĩ cực đoan nhưng các học viên ưu tú được xác định qua các bài kiểm tra viết thì lý thuyết vô cùng giỏi, nhưng thực hành thì có phần yếu kém hơn. Điều đó khiến chị nghĩ mình không sai.
- Nghĩa là, các chỉ huy thường dự đoán trước các tình huống trong chiến tranh chỉ nhờ lý thuyết thôi sao?
- Chị không biết sự yếu kém của Hải quân có phải do điểm này không nữa.
Tôi gật đầu đồng tình.
- Còn Mỹ thì sao?
- Chị chưa tìm hiểu kỹ đến đó, nhưng về sự thăng tiến thì Mỹ dường như cũng thế. Tuy nhiên thứ tự ưu tiên tốt nghiệp Đại học Hải quân chỉ có trong thời bình. Khi chiến tranh trở nên khốc liệt, các nhân vật ưu tú trong chỉ huy chiến đấu được chỉ định. Tổng Tư lệnh Thái Bình Dương Đề đốc Nimitz đã được chọn ra như vậy. Hiển nhiên họ cũng phải nghiêm túc chịu trách nhiệm trước các thất bại. Việc hạm đội tại Trân Châu Cảng bị quân đội Nhật bắn phá, đã khiến Tư lệnh hạm đội Thái Bình Dương Đô đốc Kimmel bị bãi nhiệm, ngoài ra ông còn bị giáng từ Đại tướng xuống Thiếu tướng. Thảm bại Trân Châu Cảng có phải trách nhiệm của Kimmel hay không cũng thật khó nói, nhưng trong quân đội Mỹ, thất bại thì phải chịu trách nhiệm. Thêm một điểm nữa, trong quân đội Mỹ hầu như không có chỉ huy nào nhu nhược, tất cả đều vô cùng quyết đoán.
Chị Keiko đã tìm hiểu nhiều đến vậy ư? Từ xưa chị ấy đã có năng lực tập trung đáng nể.
Trong lần điều tra này, dường như chị ấy thật sự rất nghiêm túc.
- Ra thế, không chừng đây là điểm mạnh của Mỹ.
- Chúng ta đang nói về Hải quân nhưng dường như Lục quân Đế quốc cũng thế. Đại học Hải quân và Đại học Lục quân thời tiền chiến còn gắt gao, khó qua hơn cả Đại học Tokyo thời bây giờ. Càng tìm hiểu về quân đội Nhật Bản xưa chị càng nhận ra nhiều điểm chung với cơ cấu quan chức của nước Nhật ngày nay.
Tôi lặng lẽ nhìn Keiko, không lẽ bấy lâu tôi chưa hiểu hết về con người của chị.
- Thật ra khi tìm hiểu về quân đội em cũng nhận ra vài điều.
- Là gì?
- Như chị nói đấy, đó là cách nhận trách nhiệm của các sĩ quan cao cấp Hải quân Nhật Bản. Bọn họ dù có gây ra thất bại trong chiến dịch cũng không ai nhận trách nhiệm. Tại Midway, Đô đốc Nagumo đã phạm một sai lầm lớn, làm mất 4 mẫu hạm. Ngay trước trận hải chiến ngoài khơi Mariana, Tham mưu trưởng Trung tướng Fukudome bị du kích kháng Nhật bắt, để quân Mỹ cướp mất hồ sơ tác chiến quan trọng. Mặc dù bị địch bắt giữ nhưng Trung tướng Fukudome* lại không bị cấp trên chất vấn. Nếu là binh lính thông thường chắc chắn đã không được bỏ qua dễ dàng như vậy.

*[Shigeru Fukudome (1891-1971): là Đô đốc và Tham mưu trưởng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Thế chiến II]

- Ra lệnh cho binh sĩ phải chết để không bị bắt làm tù binh, trong khi bản thân tướng lĩnh rơi vào hoàn cảnh ấy thì lại được lờ đi.
- Trong Lục quân, việc không truy cứu trách nhiệm của lớp tinh hoa cao cấp cũng giống vậy. Trung tướng Mataguchi lập ra kế hoạch tái chiếm làm 30 vạn binh lính chết đói đã không chính thức nhận trách nhiệm. Tsuji Masanobu cho tái diễn kế hoạch tác chiến ngu ngốc tại Guadalcanal cũng không bị tra vấn trách nhiệm, thậm chí chiến dịch ấu trĩ Nomonhan* của ông ta đã khiến không biết bao nhiêu người hy sinh, vậy mà sau này ông ta vẫn tiếp tục được thăng tiến. Thay vào đó, trách nhiệm lại bị đổ cho các tướng sĩ hạ cấp tại mặt trận. Nghe nói có nhiều phân đội trưởng đã bị ép tự sát.

*[Hay còn gọi là chiến dịch Khalkhyn Gol, là trận giao tranh nhưng không tuyên bố trong Chiến tranh biên giới Xô-Nhật năm 1939]

- Khủng khiếp quá!
- Nếu thời Nomonhan, các tham mưu cao cấp nghiêm túc nhận lãnh trách nhiệm thì đã không có bi kịch Guadalcanal sau này.
- Nhưng tại sao họ lại không nhận trách nhiệm? - Mặt chị lộ rõ vẻ bất bình.
- Chuyện này em không rõ... nhưng em nghĩ có thể là vì tổ chức quan liêu. - Tôi nói.
- Có lẽ vậy. Giới tinh hoa ấy muốn bao che lẫn nhau, nếu truy cứu thất bại của người này thì người kia cũng sẽ không tránh khỏi bị truy xét.
- Em nghĩ điều đó đúng. Trong trận Imphal, Sư đoàn trưởng Sato Kotoku trái lệnh Mataguchi cho rút quân lại không bị đưa ra Tòa án quân sự. Ông được cho là tâm trí bất ổn nên không bị tra hỏi. Nếu mở phiên tòa quân sự, sẽ liên quan đến vấn đề trách nhiệm của Tổng tư lệnh Mataguchi. Vì thế để bảo vệ ông ta, cũng không truy xét lỗi lầm của Sư đoàn trưởng Sato nữa. Nói xa hơn, bởi vì nó còn liên quan đến trách nhiệm của các tham mưu Tổng hành dinh Đế quốc, những người đã chấp thuận kế hoạch Imphal, tức là chính bản thân bọn họ. Nhắc đến chuyện này, Trung tướng Kawabe, cấp trên của Mataguchi, người đã thông qua chiến dịch Imphal còn được thăng cấp Đại tướng.
- Tệ hại thật! - Chị nói thầm. - Các binh lính đã nỗ lực chiến đấu vì những con người như thế ư?
- Cũng liên quan đến vấn đề trách nhiệm, trong trận Trân Châu Cảng, Đô đốc Yamamoto Isoroku đã căn dặn nhiều lần rằng “Đừng để mang danh đánh lén”. Vậy mà việc trao thư tuyên chiến vẫn trễ. Kết cục, việc chúng ta đột kích một cách hèn hạ là do sự lơ là nhiệm vụ của nhân viên Đại sứ quán tại Washington Mỹ. Thế nhưng sau chiến tranh, chẳng một ai nhận lãnh trách nhiệm.
- Lơ là nhiệm vụ sao?
- Ngày hôm ấy, họ mải mê nhậu nhẹt trong buổi tiệc chia tay, dù đã nhận được điện báo 13 bản vô cùng quan trọng về Đối sách chống Mỹ. Sáng hôm sau, khi điện báo bản tuyên chiến được gửi đến, lúc ấy họ mới hốt hoảng dịch từ bản đối sách. Trễ càng thêm trễ, khi lời tuyên chiến đến tay Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hull* thì đợt không kích Trân Châu Cảng đã kết thúc rồi. Điện báo tuyên chiến vỏn vẹn chỉ có tám dòng, vậy mà...

*[Cordell Hull (1871-1955): được biết đến như một chính trị gia người Mỹ giữ vị trí Ngoại trưởng lâu nhất (11 năm, từ 1933-1944) dưới quyền Tổng thống Franklin Delano Roosevelt trong suốt Thế chiến II]

- Tội này đáng phải xử lý kỷ luật!
- Phải hơn thế chứ. Vì sai phạm ấy mà nước Nhật ta phải chịu mang tiếng nhơ là “hèn hạ”. Khiến Mỹ khăng khăng việc đáp trả bằng bom nguyên tử là điều hiển nhiên dành cho quân đê tiện Nhật Bản. Các phương tiện truyền thông Mỹ đã so sánh vụ khủng bố ngày 11 tháng Chín với trận Trân Châu Cảng. Mặc dù gây ra sự ô nhục đến vậy cho nước Nhật, nhưng các quan chức cấp cao Đại sứ quán tại Mỹ đương thời không ai bị truy cứu trách nhiệm. Một quan chức có lý lịch đổ lỗi cho nhân viên điện tín.
Keiko thở dài.
- Kết cục, các quan chức cao cấp đương thời không bị truy cứu trách nhiệm đã đành, mà vài người còn leo lên cả chức thư ký thường trực của Bộ Ngoại vụ. Nếu lúc đó, chúng ta truy cứu gắt gao trách nhiệm của bọn họ thì người Nhật đã không bị mang tiếng Dân tộc hèn hạ, không chừng đã có thể phục hồi danh dự. Mỹ cũng có thể hiểu rằng chúng ta không phải quân đánh lén. Thế nhưng đến tận bây giờ, Bộ Ngoại vụ vẫn không chính thức thừa nhận lỗi này. Đối với thế giới, không kích Trân Châu Cảng là đòn đánh lén của người Nhật.
- Nhật Bản là đất nước như vậy sao? - Chị vò đầu bứt tai.
Không có câu trả lời nào cho câu hỏi ấy. Chắc hẳn chị cũng chỉ nói vậy chứ không chờ đợi gì.
- Đất nước này được chống đỡ bởi những con người vô danh như vậy. Trong cuộc chiến ấy, các binh lính và hạ sĩ quan đã chiến đấu kiên cường. Dù việc liều mình hy sinh trong trận chiến là tốt hay xấu, thì họ cũng đã hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
- Họ đã chiến đấu hết mình vì quốc gia này. - Chị Keiko đưa mắt ngắm bầu trời đêm ngoài cửa sổ. Tấm kính phản chiếu gương mặt chị đang đanh lại. Rồi chị lẩm bẩm. - Chị nghĩ ngay cả ông Hasegawa mất một cánh tay kia, sâu thẳm trong lòng ông hẳn cũng có một nỗi đau vì không được đáp đền.
- Vì thế ông ấy đã đem cơn phẫn nộ trút vào ông Miyabe chăng?
- Chị nghĩ đó còn là vì cách đối xử lạnh nhạt của những người xung quanh nữa. Họ nhìn ông bằng con mắt binh lính chuyên nghiệp tự làm tự chịu hơn là biết ơn vì công sức ông bỏ ra.
Tôi gật đầu.
- Chính vì thế, hãy tha thứ cho ông ấy vì đã nói những điều không hay về ông ngoại.
- Em biết mà.
Nãy giờ chị mới cười được một chút. Thế mà ngay lập tức nụ cười đã tắt ngúm.
- Nhưng, chị vẫn nghĩ các nhân vật lớn của quân đội Nhật Bản thật sự đã sử dụng sinh mệnh của các chiến sĩ như một thứ công cụ.
- Điển hình là cuộc tấn công cảm tử Kamikaze.
Tôi nhắm mắt lại, nghĩ đến nỗi bất bình của ông ngoại.
------------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét