Thứ Bảy, 8 tháng 2, 2020

Không Chiến Zero Rực Lửa - P 10

Không Chiến Zero Rực Lửa

Tác giả: Naoki Hyakuta
Người dịch: Võ Vương Ngọc Chân
NXB Văn Học & Alpha Books Co - 2016
*

Kamikaze

Tôi gặp cựu Trung úy Hải quân Takeda Takanori tại khách sạn Shirogane. Vì cuộc nói chuyện này, ông ấy đã cất công đến ở tại khách sạn.
Điều ngạc nhiên rằng ông Takeda đã từng là giám đốc một công ty hàng đầu mà tôi biết, ngay cả chị Keiko cũng từng nghe danh. Ông trở thành học viên phi công dự bị khi đang là sinh viên Đại học Tokyo. Sau chiến tranh, ông quay lại học tiếp. Khi ra trường, ông xây dựng xí nghiệp và là người đi đầu trong việc khôi phục nền kinh tế thời hậu chiến.
Tôi thấy ngạc nhiên vì một nhân vật quan trọng của giới doanh nghiệp lại từng là cựu cảm tử quân, nhưng theo tiểu sử thì thời gian hơn một năm làm lính Hải quân của ông Takeda vô cùng phi thường.
Tôi hẹn Keiko tại sảnh nhưng chị nhắn đến trễ một lát nên tôi gọi điện lên phòng ông Takeda.
- Ta là Takeda. - Một lúc sau ông và vợ đi xuống, chào tôi bằng giọng sang sảng.
Ông Takeda người to lớn, tóc bạc trắng, còn để cả ria trắng, rất lịch lãm. Thật không thể nhận thấy ông đã qua tuổi 80.
- Cháu là Saeki Kentaro, cháu ngoại ông Miyabe Kyuzo ạ.
Tôi xin lỗi việc chị sẽ đến trễ, sau đó cám ơn ông vì đã cất công đến ở tại khách sạn. Ông Takeda quay nhìn người vợ mỉm cười nói.
- Không có gì. Vợ chồng ta cũng nhân tiện đi nghỉ thôi mà, lâu rồi không ra khỏi nhà. Vậy chúng ta uống chén trà chờ người đi cùng cậu đến nhé.
Ba người chúng tôi ngồi vào bàn gọi thức uống xong thì chị đến. Tuy nhiên, không ngờ đi bên cạnh chị là anh Takayama.
- Anh Takayama nhất định muốn nghe chuyện của ông Takeda nên cháu dẫn theo. Anh ấy cùng nghe có được không ạ?
Ông Takeda không trả lời, quay sang nhìn tôi.
- Khó xử quá chị à. Đây là chuyên riêng, anh Takayama không liên quan.
Chị Keiko tỏ vẻ khó xử, Nhưng ông Takeda nói.
- Xin thứ lỗi ạ.
Anh Takayama lịch sự cúi đầu và ngồi vào bàn, sau đó trao danh thiếp cho ông Takeda và tự giới thiệu.
- Nhà báo à? - Ông Takeda cầm danh thiếp, nói như cằn nhằn. Gương mặt thoáng u ám.
- Hôm nay không phải cháu đến lấy tư liệu, chỉ mong ông cho cháu ngồi cùng, tham dự vào câu chuyện riêng tư này. - Anh Takayama cúi thấp đầu.
Ông Takeda im lặng gật đầu.
- Chúng ta sẽ nói chuyện thong thả trên phòng sau.
Nghe ông Takeda nói thế, chị và anh Takayama bèn gọi người phục vụ, chọn thức uống.
- Tuy nhiên, như đã nói trong điện thoại, ta sẽ không nói chuyện về bản thân ta, về cuộc tấn công cảm tử, chỉ đơn thuần là những ký ức về ông Miyabe Kyuzo thôi.
Ông Takeda vừa cho sữa vào hồng trà vừa nói.
- Tại sao ông lại không nói về chuyện tấn công cảm tử ạ? - Đột nhiên, anh Takayama lên tiếng. - Cháu có mối quan tâm rất lớn về việc ông Takeda từng là cảm tử quân.
- Ta không phải là cảm tử quân, chỉ là quân nhân dự bị. Cảm tử quân là những người được chọn vào đội tấn công cảm tử.
- Xin thứ lỗi nếu có quá lời, nhưng cháu nghĩ câu chuyện của những người từng trải nghiệm cuộc tấn công cảm tử như ông Takeda hết sức đáng quý.
- Ta không muốn nói về chuyên tấn công cảm tử. Đặc biệt là với cậu.
- Tại sao vậy ạ?
Ông Takeda thở hắt, nhìn thẳng vào mặt anh Takayama nói.
- Bởi vì ta không tin tờ báo của cậu.
Mặt anh Takayama đờ ra.
- Tờ báo của cậu sau chiến tranh đã quay phắt lại chối bỏ tất cả những việc trước chiến tranh, đáp ứng thị hiếu đại chúng. Rồi cướp mất lòng yêu nước của người dân.
- Chúng cháu xác nhận sai lầm trước chiến tranh, phản đối chiến tranh và quân đội. Sau đó, uốn nắn lại lòng yêu nước sai lệch của người dân, vì hòa bình.
- Ta mong cậu đừng nói ra từ hòa bình nhẹ tênh như thế.
Mặt anh Takayama biến sắc trước lời nói của ông Takeda. Sau một quãng im lặng nặng nề, anh nói.
- Xin cho cháu hỏi một câu. Cảm tử quân được chọn ra từ những quân nhân dự bị cho đội cảm tử, phải không ạ?
- Đúng vậy.
- Quân nhân dự bị ấy đều tự nguyện phải không?
- Về hình thức thì đúng vậy.
- Vậy ông Takeda cũng tự nguyên chứ ạ?
Ông Takeda không trả lời câu ấy, đưa tách hồng trà lên miệng.
- Thế có nghĩa là cả ông cũng có thời là kẻ yêu nước mù quáng phải không?
Bàn tay cầm tách trà của ông Takeda khựng lại. Anh Takayama không bận tâm, tiếp tục nói.
- Sau khi chiến tranh kết thúc, ông đã trở thành một nhân viên xuất sắc trong công ty, nhưng ngay cả người như ông, cũng có thời từng yêu nước mù quáng. Thời kỳ ấy, tất cả người dân, ngay cả những người như ông, đều bị tẩy não ư?
Ông Takeda đặt mạnh tách trà lên đĩa, vang thành tiếng.
- Ta là một người yêu nước nhưng không bị tẩy não. Cả những đồng đội đã chết của ta cũng vậy.
- Cháu nghĩ các cảm tử quân nhất thời bị tẩy não. Đó không phải lỗi của họ, mà là lỗi của thời đại, lỗi của quân đội. Tuy nhiên, sau chiến tranh việc tẩy não đó đã được xóa bỏ. Chính vì thế sau chiến tranh, Nhật Bản đã trở thành nước chủ nghĩa dân tộc, đạt được sự phục hồi như thế đó.
- Ôi trời! - Ông Takeda lẩm bẩm.
- Nói thẳng ra, cháu nghĩ tấn công cảm tử là một dạng khủng bố. Điều đó có thể thấy được qua các di thư họ để lại. Họ nghĩ về lòng tự hào nhiều hơn ca thán về sự hy sinh cho đất nước, tận lực vì quốc gia. Cháu còn đọc thấy trong đó có cả chủ nghĩa anh hùng nữa.
- Câm ngay! - Bất thình lình ông Takeda quát lớn. Người phục vụ cũng giật mình quay phắt lại. - Đừng có nói như mày biết tất cả. Bọn ta không hề bị tẩy não!
- Nhưng nếu đọc di thư của các cảm tử quân, tinh thần tử vì đạo rất rõ rệt.
- Đồ ngu! Mày nghĩ những bức di thư đó là lời thật lòng của các cảm tử quân sao?
Mặt ông Takeda đỏ rần vì tức giận. Mọi người xung quanh đều nhìn về phía chúng tôi, nhưng ông chẳng quan tâm.
- Nhiều loại giấy viết tay thời đó đều có sự kiểm duyệt của cấp trên, trong số đó đương nhiên có nhật ký và di thư. Những câu chữ phê phán quân đội hay chiến tranh là tuyệt đối cấm. Hơn nữa, cũng không được phép viết những điều nhu nhược không xứng với một quân nhân. Họ đã phải đặt suy nghĩ của mình vào từng dòng từng chữ trong sự quản chế khắt khe đó. Đừng bị lừa bởi những từ yêu nước hay trung thành với quốc gia. Chỉ bởi họ viết vui mừng vì được chết là mày nghĩ thật sự họ vui mừng hay sao? Vậy mà cũng là nhà báo sao? Mày có đầu óc không, có trái tim của một con người không vậy?
Ông Takeda run lên vì giận. Vợ ông đưa tay đỡ cánh tay chồng. Anh Takayama vươn người tới trước như khiêu chiến, nói tiếp.
- Những người không có ý vui mừng khi chấp nhận cái chết ắt hẳn không cần cất công viết làm gì.
- Vậy họ phải viết “Không muốn chết! Đau khổ quá!” trong lá thư gửi gia đình à? Mày có biết đọc những dòng đó, cha mẹ họ sẽ đau lòng đến nhường nào không? Biết đứa con trai mình cực khổ nuôi lớn chết trong những suy nghĩ đau đớn đó, họ sẽ bi thương đến mức nào. Khi đối mặt với cái chết, ít nhất họ cũng muốn cho cha mẹ thấy hình ảnh của đứa con trai chết trong bình thản, mày không hiểu sao? - Ông Takeda vẫn tiếp tục lớn giọng. - Dù không viết những lời thật lòng nhưng gia đình thương yêu vẫn hiểu được tâm trạng của họ, bởi di thư chứa đựng vô vàn suy nghĩ được gói ghém dành cho những người thân. Những người vui mừng vì được chết liệu có thể viết những lá thư ẩn giấu sự yêu thương như vậy sao?
Ông Takeda rơi nước mắt. Từ nãy đến giờ người phục vụ vẫn trân trân đứng nhìn.
- Là nhà báo... mày lại không đọc ra được tấm lòng ẩn chứa sau những dòng chữ của người sắp chết, kìm nén tâm trạng rối bời để viết về cho gia đình hay sao?
Trong khi ông Takeda rơi nước mắt thì trên miệng Takayama nở nụ cười lãnh đạm.
- Tôi hiểu các dòng chữ được viết như nó vốn thế. Văn chương thường vậy mà. Có những cảm tử quân viết về ngày xuất kích rằng “Hôm nay là một ngày vui lớn”. Lại có người viết rằng họ vui mừng vì được hiến dâng thân mình cho Thiên hoàng. Các cảm tử quân viết những điều tương tự nhiều vô kể. Về mặt tâm lý, họ giống như những tên khủng bố đánh bom cảm tử vì đạo.
- Đồ ngu!
Ông Takeda đập tay xuống bàn, làm chiếc tách va vào thìa kêu lanh canh. Người phục vụ bất giác tiến lên một bước. Từ nãy đến giờ, những người xung quanh nhìn về phía chúng tôi suốt.
- Khủng bố? Mày ăn nói cho cẩn thận! Đối tượng tàn sát của chúng là những người dân vô tội. Máy bay khủng bố tại New York chẳng phải thế sao? Mày trả lời xem!
- Đúng vậy. Chính vì thế nên chúng là những tên khủng bố.
- Mục tiêu của đội cảm tử chúng tao không phải những tòa nhà của người dân vô tội, mà là đám mẫu hạm chất đầy máy bay ném bom và chiến cơ. Mẫu hạm Mỹ đang không kích Tổ quốc chúng ta, nổ súng, ném bom vào dân chúng. Bọn chúng là những người vô tội sao?
Takayama bỗng cứng họng.
- Mẫu hạm là thứ vũ khí hủy diệt đáng sợ. Cảm tử quân lái máy bay công suất thấp, mang bom nặng nề, lại được ít máy bay yểm trợ, phải vượt qua số lượng gấp bội máy bay chiến đấu của địch. Sau khi thoát qua cảnh ấy lại tắm trong màn pháo đối không khủng khiếp. Tuyệt đối không giống những tên đâm vào tòa trung tâm thương mại không có sự phòng bị kia.
- Tuy nhiên, riêng điểm vứt bỏ mạng sống vì đức tin, có thể xem là điểm chung...
- Câm ngay! - Ông Takeda chặn miệng. - Là nhà báo... Mày định về phe chính nghĩa à? Tao luôn nghĩ những kẻ thổi phồng cuộc chiến tranh này chính là đám báo chí. Chiến tranh Nga-Nhật kết thúc, Hòa ước Portsmouth được ký kết nhưng xung quanh các điều kiện hòa giải, nhiều tòa soạn đã bày tỏ sự tức giận, dùng giấy mực tranh luận liệu có thể chấp nhận điều kiện như thế không. Người dân bị báo chí kích động, gây bạo loạn chống chính phủ khắp nơi trên cả nước. Hội trường Hibiya bị đốt phá, dinh thự của Komura Jutaro - người ký hòa ước cũng bị thiêu hủy. Chủ trương phản đối chiến tranh là tờ báo quốc gia của Tokutomi Soho. Cả tờ báo quốc gia ấy cũng bị đốt phá.
- Đó là... - Anh Takayama toan nói nhưng ông Takeda phớt lờ.
- Ta nghĩ những chuỗi sự kiện đó chính là bước ngoặt của Nhật Bản. Sau đó, xảy ra sự kiện ngày 15 tháng Năm*. Các binh sĩ trẻ của quân đội đã ám sát người đứng đầu chính phủ khi chiến tuyến xâm lược được thu hẹp, dần hướng đến việc giải trừ vũ khí. Đó chẳng phải cuộc đảo chính quân sự sao? Vậy mà nhiều tòa soạn xưng tụng chúng như những anh hùng, chủ trương giảm nhẹ hình phạt cho chúng. Bị báo chí kích động, phong trào yêu cầu giảm án lan ra toàn quốc, hơn một triệu thư thỉnh cầu được gửi về tòa án. Rốt cuộc những thành phần chủ mưu được giảm án vô cùng nhẹ. Người ta nói chính sự giảm hình bất thường đó đã dẫn đến biến cố ngày 26 tháng Hai**. Ngay cả bây giờ, những kẻ chủ mưu biến cố đó vẫn được coi là chiến sĩ yêu nước chân chính. Từ đó về sau, không còn ai có thể chống lại các quyết định của quân đội, Nhật Bản mang một màu chủ nghĩa quân phiệt, đến lúc nhận ra điều đó là không nên thì đã quá muộn rồi. Những kẻ biến quân đội thành con quái thú chính là đảm bảo chí và cả những người dân bị kích động.

*[Sự kiện 15/5/1932, Thủ tướng Nhật Bản Tsuyoshi Inukai bị 11 sĩ quan hải quân trẻ ám sát trong một cuộc đảo chính]

**[Sáng sớm ngày 26/2/1936, bốn trung đoàn mở một chiến dịch ám sát các nhân vật trong chính phủ và quân đội Nhật. Nhiều tướng lĩnh, đô đốc và các nhà lãnh đạo chính trị bị sát hại]

- Đúng là trước chiến tranh các phóng viên đã sai lầm nhưng sau chiến tranh thì không. - Takayama ưỡn ngực nói.
Vợ ông Takeda lại ấn nhẹ tay chồng một lần nữa. Ông Takeda nhìn về phía vợ khẽ gật đầu, sau đó nói tiếp giọng bất mãn.
- Sau chiến tranh, nhiều tờ báo tranh luận, hướng quốc dân vứt bỏ lòng yêu nước. Như thể yêu nước là một cái tội vậy. Không một quốc gia nào sản sinh ra những nhà văn hóa, chính trị gia bán nước, khinh miệt nước nhà, xu nịnh các quốc gia láng giềng như đất nước này.
Sau đó, ông nhìn thẳng vào anh Takayama nói rõ ràng từng tiếng.
- Ta không quan tâm tư tưởng chính trị của cậu. Tuy nhiên, hãy ngừng việc bàn luận về đội cảm tử từ quan điểm của hệ tư tưởng ngu xuẩn ấy đi. Người không thể đọc ra nỗi lòng của những cảm tử quân khi quyết chọn cái chết thì không xứng được gọi là phóng viên.
Trước câu nói của ông Takeda, Takayama ngạo nghễ xoay người. Sau đó, khoanh tay nói.
- Dù có tô điểm ra sao thì đa phần các cảm tử quân là những tên khủng bố.
Ông Takeda nhìn chằm chằm Takayama. Sau đó, lặng lẽ nói.
- Những thằng như mày chỉ giỏi khua môi múa mép. Làm ơn về cho!
- Tôi biết rồi. Xin chào!
Anh Takayama vẻ mặt thất vọng, đứng lên. Trong phút chốc, chị Keiko tỏ ra bối rối rồi vội đuổi theo.
- Không về sao? - Ông Takeda hỏi khi thấy tôi vẫn ngồi lại.
- Ông ngoại cháu chết vì tấn công cảm tử.
- Đúng rồi. Cháu của thầy Miyabe đây mà.
- Cháu không biết về phút cuối của ông ngoại. Trong nhà cháu cũng không có di thư của ông. Nhưng bây giờ, nghe ông Takeda nói, cháu nghĩ mình đã hiểu đôi phần về nỗi đau của ông ngoại.
Ông Takeda chậm rãi lắc đầu.
- Nếu không phải là cảm tử quân thì không hiểu nỗi đau của họ đâu. Ta nghĩ rằng giữa quân nhân dự bị như ta và họ lớn như một bờ vực vậy.
Khi ấy, chị Keiko quay trở lại.
- Anh Takayama đã về rồi, cho cháu ngồi lại nghe chuyện có được không ạ?
- Nếu có lòng muốn nghe thì chẳng hề gì.
- Có ạ.
Ông Takeda gật đầu nói:
- Chúng ta lên phòng thôi.
Đây là lần đầu tiên tôi vào phòng Suite một khách sạn cao cấp. Vợ ông Takeda lấy trà trong phòng pha mời chúng tôi.
Ông Takeda lặng lẽ uống trà, dường như cơn kích động trong lòng đã dần lắng xuống. Một lát sau, ông khẽ mở lời.
- Trước khi nói chuyện thầy Miyabe, ta muốn kể chuyện này:
Sau chiến tranh, cảm tử quân bị khen chê đủ điều. Có lúc được xưng tụng như những bậc anh hùng xả thân vì Tổ quốc nhưng cũng có khi bị bôi nhọ là những kẻ yêu nước mù quáng.
Tuy nhiên, cảm tử quân không phải người hùng, cũng chẳng phải kẻ điên. Họ chỉ là những người chấp nhận cái chết không thể tránh được, muốn để lại cuộc sống ngắn ngủi đó chút ý nghĩa. Ta đã chứng kiến họ suy tư về gia đình, nghĩ về đất nước. Họ không hề ngốc nghếch, bởi họ cũng biết không thể thay đổi cục diện lúc bấy giờ bằng việc tấn công cảm tử.
Họ không phải những binh lính trẻ cuồng tín trong sự kiện ngày 26 tháng Hai. Không chàng trai nào mơ tưởng về một cái chết vinh quang của chủ nghĩa anh hùng. Chắc hẳn cũng có những người tự ép mình vào trạng thái tinh thần đó để chấp nhận cái chết, nhưng giả sử có thế thật, thì ai có thể trách cứ họ chứ.
Các cảm tử quân không vì bị chọn mà trở nên mất kiểm soát. Đương nhiên, cũng không ai kêu khóc khi xuất kích. Phần nhiều trước khi xuất kích đều mang nụ cười trên gương mặt, họ vốn đã giác ngộ từ trước rồi.
Nhiều tử tù vào ngày hành quyết gào khóc vì sợ hãi, có những người không thể đứng mà đi nổi. Dù phải trả giá cho những việc làm sai trái của mình, họ cũng bi đát không thể chấp nhận chuyện đó.
Trong số những người phản đối việc tử hình, có người nói nỗi sợ hãi tâm lý ấy là quá tàn nhẫn. Có lẽ đúng là như vậy. Sau khi bị tuyên án, họ sống trong nỗi sợ hãi ngày hành quyết khi nào sẽ đến. Sự tra tấn kéo dài cho đến ngày đó đúng là nỗi đau đớn cho việc chuộc tội.
Thế nhưng, giây phút quân nhân dự bị được chọn làm cảm tử quân cũng mang tâm trạng giống như vậy. Khi nào có tên trên bảng đen phân chia nhiệm vụ trong phòng chỉ huy thì đó là ngày chết, không có tên thì kéo dài mạng sống thêm một ngày. Không biết khi nào ngày ấy sẽ đến, không thể gặp người thân yêu, việc muốn làm cũng không còn cơ hội. Tương lai chỉ còn vài giờ sẽ chấm hết - điều đó đáng sợ đến thế nào?
Vậy mà họ lại có thể bình thản chấp nhận điều đó. Nhiều người bạn mỉm cười cất cánh trước mắt ta, họ đã phải đấu tranh như thế nào cho đến khi đó. Những người không thể hiểu ngay cả việc đó thì không có tư cách kể chuyện của họ. Ta nói cảm tử quân và quân nhân dự bị hoàn toàn khác nhau là vì vậy.
Hiển nhiên quân nhân dự bị chúng ta cũng nhận thức rằng nếu bị chỉ định làm cảm tử quân, sẽ hy sinh như một người đàn ông. Tuy nhiên, vẫn chênh lệch rất lớn với những cảm tử quân thực thụ.
Nhiều nhà văn hóa và trí thức đã viết phần đông người Nhật trước chiến tranh tin Thiên hoàng là thần linh. Lập luận đó thật ngớ ngẩn, chẳng có ai tin vậy cả. Chẳng phải giới quân phiệt cực hữu cũng không tin vào chuyện đó hay sao?
Ta đã nói rồi, kẻ biến nước Nhật thành một quốc gia thế này chính là bọn nhà báo!
Trước chiến tranh, báo giới lan truyền phát ngôn của Đại bản doanh, mỗi ngày đều hăm hở viết bài nâng cao tinh thần chiến đấu. Sau chiến tranh, Nhật Bản bị GHQ*của Mỹ chi phối, đám báo chí lại hăm hở viết bài theo mệnh lệnh của chúng, ca ngợi chủ nghĩa dân tộc. Nhật Bản trước chiến tranh là một quốc gia ngu muội. Chúng viết như thể toàn bộ quốc dân đều không có học thức. Việc coi riêng mình là chính nghĩa, xem thường dân chúng thật đáng khinh bỉ.
*[General Head Quarters, Tổng hành dinh Mỹ]
Chà, lại lạc đề mất rồi. Đến tuổi này, không tránh được việc càu nhàu những chuyện như vậy. Chỉ là nhìn anh chàng lúc nãy, ta chợt nhớ đến bọn sĩ quan trong quân đội ngày ấy. Tin tưởng mù quáng vào tổ chức, không dùng cái đầu để suy nghĩ mà luôn tin những điều mình nghe theo là đúng, vì tổ chức mà tận sức trung thành.
Nhiều kẻ chỉ huy chiến dịch tấn công cảm tử cũng thế. “Không phải chỉ có bọn bay chết đâu. Chính tao cũng nhất định sẽ nối gót theo sau!”. Chúng đã nói như vậy đấy. Nhưng hầu như chẳng có ai nối gót theo họ cả. Chiến tranh kết thúc, tất cả tỏ vẻ như thể bản thân chẳng có trách nhiệm gì. “Cảm tử quân là tự nguyện. Họ chân thành hiến dâng tính mạng cho Tổ quốc từ tận đáy lòng”. Chúng tâng bốc các cảm tử quân, nhằm tránh né trách nhiệm của mình, hoặc giả để giảm bớt sự dằn vặt lương tâm đi phần nào. Chính vì sự ngụy biện thổi phồng của bọn chúng mà việc phán xét, khen chê cảm tử quân mới bắt đầu.
Tuy vậy, Trung tướng Onishi Takijiro người được xem là cha đẻ của việc tấn công cảm tử đã mổ bụng tự sát vào ngày thế chiến kết thúc. Có không ít người coi đó là cái chết anh dũng. Chết vì nhận trách nhiệm. Ta lại chẳng nghĩ nó oanh liệt chút nào. Liệu một ông già tự sát có thể lãnh được trách nhiệm về việc cướp đi mạng sống của bao thanh niên trẻ có tiền đồ sao?
Đành rằng chiến dịch đòi hỏi việc cảm tử ở trận Leyte là xác đáng. Nhưng các cuộc tấn công cảm tử từ trận Okinawa trở về sau là hoàn toàn vô nghĩa. Nếu có dũng khí hy sinh tại sao không mổ bụng mà nói: “Dù có đổi mạng mình, cũng phản đối tấn công cảm tử”. Chiến thuật tấn công cảm tử được cho là do trung tướng Onishi Takijiro đề xuất và tiến hành vào tháng Mười năm 1944 nhưng sự thật có phải vậy không? Bản thân ông ấy gọi tấn công cảm tử là chiến dịch bá đạo.
Hải quân sử dụng các vũ khí tấn công như Kaiten và Oka vào năm cuối thế chiến, nhưng nó được phát triển từ đầu năm 1943. Bất kỳ loại vũ khí mới nào được phát triển cũng phải có chính sách của quân đội. Nếu nói vậy, trung tướng Onishi chắc chắn bị hàm oan. Vậy nhưng cho đến lúc chết, trung tướng Onishi vẫn không biện minh gì về chuyện này. E là ông ấy đã chết vì bảo vệ cho nhiều người. Nếu thực vậy, ta mong ông ấy che giấu cho những người trẻ tuổi.
Nhắc đến Kaiten, nó là quả ngư lôi sống. Ngư lôi hiện đại bây giờ do máy tính điều khiển, dù tàu địch có chạy trốn, nó vẫn bám đuổi chính xác, vẫn có thể bắn trúng đích, còn Kaiten thì nhiệm vụ đó sẽ giao cho con người. Chắc chẳng có quân đội quốc gia nào nghĩ ra được chuyện như thế đâu nhỉ.
Tuy nhiên, đối với Hải quân có lẽ nền tảng tấn công cảm tử đã có từ thuở ban đầu. Trong trận Trân Châu Cảng mở đầu cho cuộc chiến, cũng đã có chuyện những chiếc tàu ngầm Ko-hyoteki tấn công cảm tử.
Ko-hyoteki là loại tàu ngầm đặc biệt do hai người điều khiển. Trong đợt tấn công Trân Châu Cảng, Hải quân đã cho lắp đặt Ko-hyoteki vào tàu ngầm mẹ, đưa đến gần biển Hawaii, cho lao vào cảng Trân Châu. Nhưng tàu ngầm loại nhỏ không thể phá vỡ hàng cảnh giới nghiêm ngặt của cảng quân sự Mỹ. Dù có thể thành công, thì thoát ra ngoài chờ tàu ngầm thu về là điều không thể. Tóm lại, nó cũng không khác gì đội tấn công cảm tử. 10 chiến sĩ tàu Ko-hyoteki đã xuất kích mà không mong có thể sống sót quay trở về. Có thể nói chuyện xảy ra khi đó đã hứa hẹn cho việc tấn công cảm tử sau này.
Chuyện ngoài lề thôi, nhưng khi ấy có một chiếc mắc kẹt tại cửa vịnh, một người đã bị bắt làm tù binh. Đại bản doanh rầm rộ tán dương 9 chiến sĩ hy sinh và bỏ qua sự tồn tại của người bị bắt và còn sống là thiếu úy Sakamaki. Tuy nhiên, chẳng bao lâu tên của thiếu úy Sakamaki lộ ra ngoài, nhà của anh ấy bị ném đá, các bức thư quấy nhiễu đầy những lời lẽ như “Đồ phản động”, “Sao không tự sát?”... từ khắp cả nước đổ tới.
Tàu của thiếu úy Sakamaki bị hỏng la bàn con quay hồi chuyển, thứ tuyệt đối cần thiết cho việc di chuyển*. Cũng vì vậy mà Thiếu úy không thể lái tàu, lạc mất vị trí và bị mắc cạn. Đồng đội đi cùng đã chết. Nghe nói ngược với thiếu úy Sakamaki, 9 chiến sĩ đã hy sinh kia, dân làng và trẻ con xếp hàng xưng tụng họ như anh hùng. Vậy mà sau chiến tranh, lại quay phắt trở thành tội phạm chiến tranh, bị dân trong làng nhìn bằng ánh mắt lạnh nhạt. Không gì đau lòng bằng giai đoạn ấy.
*[Con quay hồi chuyển là một thiết bị dùng để đo đạc hoặc duy trì phương hướng, dựa trên các nguyên tắc bảo toàn mô men động lượng]
Những biến cố và con người liên quan đến tấn công cảm tử nhiều vô số, nhưng dù thế nào ta cũng không thể tha thứ cho Đô đốc Hạm đội Không quân Năm Ugaki Matome. Ugaki sau khi biết chiến tranh sẽ kết thúc, đã tìm chỗ chết cho mình, ông ta dẫn theo 17 thuộc cấp đi tấn công cảm tử. Cha của đại úy Nakaturu, một trong những người bị dẫn theo đã nói rằng, “Nếu muốn chết, ông ấy chết một mình đi”. Quả đúng vậy.
Tuy nhiên, có cả những người ta không thể quên. Đó là thiếu tá Minobe Tadashi, người kiên quyết phản đối tấn công cảm tử.
Thiếu tá Minobe là người đã phản đối thẳng thắn phương châm “Toàn lực tấn công tự sát” do tham mưu trưởng thông báo trong hội nghị tác chiến mặt trận Okinawa của Hạm đội Liên hợp được tổ chức tại Kisarazu với sự tham gia của hơn 80 chỉ huy.
Quân lính bị áp đặt rằng “Lệnh của cấp trên là lệnh của Thượng Đế”. Với tội kháng lệnh nếu bị đưa ra Tòa án quân sự có thể sẽ bị tử hình. Vậy mà thiếu tá Minobe đánh cược bằng tính mạng mình, mạnh dạn phản đối. Không những vậy còn hỏi ngược lại vị thượng cấp rằng, “Đưa các máy bay luyện tập ra tấn công cảm tử là điều vô cùng khủng khiếp. Nếu các vị nghĩ tôi nói láo thì có thể leo lên máy bay tập luyện thử tấn công đi. Tôi sẽ bắn rơi toàn bộ bằng Reisen”.
Khi biết được những lời thiếu tá Minobe đã nói, ta khâm phục từ tận đáy lòng, không ngờ trong Hải quân Đế quốc cũng có vị chỉ huy dũng cảm đến thế. Nếu trong hội nghị ngày ấy có nhiều người như thiếu tá Minobe thì cuộc tấn công cảm tử Okinawa không chừng đã không xảy ra.
Tên của thiếu tá Minobe Tadashi không được nhiều người Nhật biết đến là thiếu sót của nghề làm báo.
Tại sao anh ấy lại không được biết đến? Ta nghĩ đó là do quá trình hoạt động của anh ấy sau chiến tranh. Thiếu tá Minobe sau chiến tranh là sĩ quan của Lực lượng tự vệ. Các phóng viên tiến bộ nghĩ xấu về Lực lượng tự vệ ắt chẳng tán dương sĩ quan của họ đâu phải không? Thêm một điều nữa, Minobe không hoàn toàn chối bỏ tấn công cảm tử. Sau chiến tranh, anh ấy từng bày tỏ rằng, “Khi không còn biện pháp tấn công nào hiệu quả ngoài tấn công cảm tử thì cũng đành phải chọn cách đó”. Dù vậy, thiếu tá Minobe đã không cho bất cứ máy bay nào trong đội của mình tham gia cảm tử.
Minobe mới chính là một người Nhật có bản lĩnh thật sự. Anh ấy được đánh giá cao tại hải ngoại hơn là ở Nhật. Thật đáng tiếc. Ta nghĩ đó là người chúng ta không nên cho vào quên lãng.
Thiếu tá Shido Saburo cũng là một chỉ huy chiến đấu cơ anh dũng. Shido Saburo là vị chỉ huy 13 chiếc Reisen trình diễn màn mở đầu ngoạn mục tại Trung Hoa đại lục. Sau đó, anh chiến đấu tại Rabaul rồi chuyển về Mariana và Leyte. Năm cuối thế chiến thì trở thành Phi đội trưởng phi đội 203 của Kagoshima. Thế nhưng trước sự kêu gọi toàn quân tấn công cảm tử của cấp trên, một chiếc anh ấy cũng không cho tham gia.
Thiếu tá Okajima Kiyokuma thuộc phi đội chiến đấu 303 cũng kiên quyết từ chối đưa máy bay tấn công đi tự sát, dù bị Bộ tư lệnh tuyên bố là kẻ phản quốc. Trong số các sĩ quan xuất thân từ trường Quân sự Hải quân cũng có những người bản lĩnh như thế đó. Tiếc là số lượng ấy quá nhỏ nhoi.
Chúng ta nói chuyện về thầy Miyabe nào!
Thầy ấy là một giáo quan tuyệt vời, được nhiều học viên dự bị ngưỡng mộ. Cung cách tử tế, giọng điệu lễ độ, hoàn toàn không giống các quân nhân. Tuy vậy, cả người thầy toát lên một uy lực gì đó rất khó diễn tả. Bọn ta bàn tán rằng đó là chính là sự chuyên nghiệp.
Chúng ta không được huấn luyện không chiến. Bởi vì các học viên dự bị đều là phi công tấn công cảm tử.
Chúng ta bị bắt viết đơn tình nguyện tham gia tấn công vào ngày cuối của khóa đào tạo. Đó là một mệnh lệnh mang hình thức đơn xin tự nguyện. Chính vì thế mà các cảm tử quân bị những người ban lệnh nói rằng “Bọn chúng tham gia tấn công là do ý nguyện của bản thân”. Và sau sáu mươi năm vẫn tiếp tục bị những người như anh chàng vừa rồi phán xét đấy. Ta bảo đảm với các cháu. Tấn công cảm tử đều làm theo mệnh lệnh, từ một bộ phận nhỏ ngoại lệ.
Dù kết thúc giai đoạn học viên phi hành và nhậm chức Thiếu úy nhưng bọn ta chưa được bố trí thực chiến mà tiếp tục tham gia tập huấn điều khiển. Khoảng thời gian đó, vì nhiên liệu bay không có nên học viên hầu như không được bay, tốt nghiệp chỉ là hình thức thôi.
Thứ chúng ta được lái trong khóa tập huấn là những chiếc máy bay huấn luyện cánh kép “Chuồn chuồn đỏ” hay những chiếc máy bay tiêm kích trên mẫu hạm kiểu 96 đời cũ. Những chiếc máy bay huấn luyện đó bay bằng xăng thô, dầu thông hoặc cồn ethyl. Sau này ta nghe nói, ngay cả máy bay thực chiến cũng không được sử dụng xăng hàng không chuyên dụng có chỉ số octan cao.
Đây là chuyện ngoài lề thôi. Sau chiến tranh, khi quân Mỹ kiểm tra tính năng của các chiến đấu cơ Nhật Bản, họ cho xăng có chỉ số octan của Mỹ vào máy bay tiêm kích loại 4* của Lục quân thì tính năng của nó còn vượt cả chiếc mustang P51. P51 được cho là máy bay chiến đấu mạnh nhất trong chiến tranh Thế giới thứ hai. Khi nghe chuyện đó, ta đã nghĩ chiến tranh thật sự là một cuộc đọ sức toàn diện. Dù có một hay hai điểm vượt trội cũng chẳng làm nên trò trống gì.
*[Tức loại Nakajima Ki-84 Hayate]
Mặc dù vậy, bọn ta vẫn cố gắng, nguyện dùng chút sức lực nhỏ bé của mình, dâng hiến thân mình để bảo vệ đất nước. Suy nghĩ đó là của kẻ yêu nước mù quáng sao?
Sau khi trở thành quân nhân dự bị cho đội cảm tử quân, ta được lái Reisen trong khóa huấn luyện và bất ngờ vì tính năng tuyệt vời của nó khác xa các loại máy bay tập huấn. Đây là chiếc Reisen đã bắn máy bay Mỹ rơi rụng sao? Chỉ ngồi vào ghế điều khiển thôi cũng đã ngập tràn cảm xúc rồi.
Tuy nhiên, bài tập huấn của bọn ta là bổ nhào bằng Reisen. Đó là bài tập huấn cho tấn công cảm tử, bài tập cho cái chết. Mang bom, tìm tàu địch và đâm vào. Dù vậy chúng ta vẫn tham gia huấn luyện một cách nghiêm túc. Tại sao ư? Con người là vậy mà phải không?
Một hôm, ta nghĩ mình đã thể hiện khá tốt trong buổi tập bay nâng đầu máy bay sau khi bổ nhào. Khi buổi tập kết thúc, ta đã nói với thầy Miyabe tại phi trường.
“Hôm nay tôi làm khá lắm phải không?”
“Cậu làm tôi ngạc nhiên đấy. Làm rất tốt!”, thầy Miyabe cười nói.
“Thật chứ?”
“Thật! Không phải nịnh đâu. Không riêng cậu mà tất cả mọi người đều rất xuất sắc. Tôi hiểu vì sao Hải quân lại chọn nhiều sinh viên cho việc lái máy bay. Nhưng mà...”. Nụ cười trên gương mặt thầy Miyabe tắt lịm. “Những người thể hiện tốt sẽ bị đưa ra chiến trường trước tiên”.
Ta hiểu ngụ ý câu nói đó. Ra chiến trường có nghĩa là tấn công cảm tử. Thầy Miyabe nói tiếp.
“Đối với tôi, các bài huấn luyện bay là luyện để sống sót. Làm sao để bắn địch, làm sao để tránh khỏi địch. Nhưng với các cậu thì khác. Các cậu được đào tạo để chết. Hơn nữa, lại tuần tự bắt đầu từ những người giỏi. Vì thế, cứ dở hoài lại tốt hơn”.
Ta không biết phải trả lời thầy thế nào.
“Tất cả các cậu đều là những người cần thiết cho nước Nhật, rất cần, rất cần sau khi chiến tranh kết thúc”. Thầy nói rất rõ ràng.
Thế nhưng bây giờ ta tin, chính thầy Miyabe mới là người cần thiết cho Nhật Bản. Chính thầy ấy mới là người không nên chết.
“Chiến tranh sẽ kết thúc sao?”
“Sẽ kết thúc”.
“Chúng ta sẽ thắng chứ?”
Thầy Miyabe cười. Đó là một nụ cười buồn.
“Điều đó thì tôi không biết”. Thầy nói. “Tôi đã chiến đấu trên Thái Bình Dương với quân Mỹ từ sau trận Trân Châu Cảng. Quân lực của họ rất đáng sợ”.
“Về số lượng ư?”
“Không chỉ số lượng mà tất cả đều hơn hẳn chúng ta”.
“Vậy còn những chiếc Reisen tuyệt vời thì sao?”
“Thời khai chiến, nó là chiếc chiến cơ vô địch. Tôi từng nghĩ rằng chỉ cần ngồi trên nó thì chắc chắn sẽ không thua. Tuy nhiên, từ nửa sau năm 1943, Mỹ đã tung ra các chiến đấu cơ có tính năng vượt hơn hẳn Reisen là Grumman F6F và Sikorsky”.
Những lời nói ấy thật bàng hoàng. Cho đến lúc đó, chúng ta vẫn được dạy Reisen là máy bay chiến đấu mạnh nhất thế giới, đã bắn rơi vô số máy bay Mỹ.
“Reisen đã chiến đấu quá lâu rồi!”, thầy Miyabe nói. “Nó đã chiến đấu liên tục trên tuyến đầu suốt năm năm từ chiến tranh Trung-Nhật. Dù đã được cải tiến nhiều lần nhưng không có tính năng nào vượt trội. Điều đáng buồn với Reisen là không phát triển được thế hệ máy bay tiếp nối. Reisen khi xưa là một chiến binh vô địch còn bây giờ... đã là một người lính già rồi!”
Ta như thấy hình ảnh chiếc Reisen mà thầy Miyabe vừa nói trùng khớp với bản thân thầy ấy. Có phải chính Reisen là một hình ảnh khác của thầy Miyabe không?
Dù trong lúc chiến cuộc ngày càng chuyển biển xấu, chúng ta vẫn cố gắng tập huấn hằng ngày. Dù là tập huấn nhưng cũng nguy hiểm đến tính mạng, chỉ cần sai sót một bước trong màn bổ nhào là có thể dẫn đến cái chết. Thực tế đã có nhiều học viên chết trong buổi tập bay ấy.
Người bạn thân chí cốt của ta cũng vì thế mà chết. Ito thất bại trong việc nâng đầu phi cơ tại buổi tập bổ nhào và cứ thế đâm thẳng xuống đất. Cậu ấy là một chàng trai vui vẻ, được mọi người yêu mến, giỏi thơ Dodoitsu*. Sau những buổi tập huấn cực khổ, cậu ấy lại dùng chất giọng trời phú của mình khiến mọi người vui vẻ. Chàng trai ấy đã chết ngay trước mắt ta. Không có cú sốc nào hơn thế.
*[Một thể thơ Nhật từ thời Edo]
Giáo quan khi ấy là thầy Miyabe. Thầy từ máy bay bước xuống, mặt xanh xao. Đêm đó, toàn bộ học viên dự bị được gọi tập trung thành hàng. Một Trung úy xuất thân từ trường quân sự kích động quát tháo.
“Tao nghĩ chuyện xảy ra ngày hôm nay bọn mày đã biết rồi”.
Bọn ta đã nghĩ vị trung úy sẽ nói những lời tiếc thương với Ito. Nhưng những lời phát ra từ miệng hắn thật quá sức tưởng tượng.
“Sĩ quan dự bị đã chết không có đủ tinh thần. Không thể chiến đấu ngoài chiến trường với trạng thái như thế được!”
Trung úy quát như hét lên, quất đầu gươm xuống sàn. Vì truyện của Ito mà cất công gọi các sĩ quan dự bị tập trung để miệt thị.
“Những kẻ mất mạng trong các buổi huấn luyện không xứng đáng được gọi là quân nhân. Làm sao có thể làm tổn thất các chiến cơ quý giá như thế! Bọn bay, đừng bao giờ lặp lại chuyện đó lần thứ hai!”
Bọn ta bất mãn đến độ ruột gan cháy bỏng, đổ lệ trong lòng. Chiến tranh là đây ư? Quân đội là đây ư? Nơi đây sinh mạng con người còn bị xem nhẹ hơn một chiếc máy bay.
“Trung úy!”
Khi ấy, ta nghe tiếng của thầy Miyabe.
“Thiếu úy Ito đã mất là một chàng trai bản lĩnh. Không phải là người không có tư chất quân nhân”.
Không khí lúc bấy giờ đặc quánh như đóng băng. Mặt tên trung úy biến sắc, run lên bần bật vì tức giận.
“Mày!”
Tên trung úy từ trên lao xuống, đấm thẳng vào mặt thầy Miyabe. Gã đấm liên tục không ngơi tay. Máu từ mũi và miệng phun ra nhưng thầy không ngã.
Trung úy thấp người, dù hắn có đánh hết sức thì thầy Miyabe cũng không thể ngã. Không những thế, còn như đứng từ trên nhìn xuống tên trung úy.
“Thiếu úy Ito là một chàng trai đầy khí phách!”
Thầy Miyabe không chịu thua, lớn tiếng đáp lại khiến toàn thân hắn bắt đầu run lên.
“Sĩ quan đặc vụ mà dám xấc láo!”
Tên trung úy nói, tiếp tục đấm đá. Được một lúc rồi quay lưng bỏ về phía doanh trại. Phi đội trưởng thoáng bối rối cho giải tán.
Vết thương trên mặt thầy Miyabe rất trầm trọng. Môi rách, cả trên mắt cũng chảy máu. Tất cả bọn ta đều hết lòng cảm phục, thầm cám ơn thầy Miyabe đã bảo vệ danh dự cho Ito. Khi ấy ta đã nghĩ, nếu tham gia tấn công mà có thể bảo vệ con người này ta cũng bằng lòng.
Tâm trạng đó không phải chỉ của riêng ta. Thực tế đã có người liều mạng bảo vệ thầy Miyabe.
Chuyện đó xảy ra không lâu sau khi Ito qua đời. Thầy Miyabe dẫn ba học viên dự bị tập bổ nhào. Khi đó, phía sau thầy Miyabe bốn chiếc Sikorsky từ đám mây tiến ra công kích.
Không có tín hiệu cảnh báo. Có lẽ đó là lực lượng máy bay trinh sát đến từ mẫu hạm gần biển. Khi lực lượng canh phòng phát hiện ra thì chúng đã tiến xuống cao độ khá thấp. Thầy Miyabe lại hoàn toàn sơ ý, không phát hiện máy bay địch. Thầy đang bay bảo vệ các phi cơ của sĩ quan dự bị tập bổ nhào. Đám Sikorsky từ từ tiến đến thu hẹp khoảng cách. Chúng ta dùng hết sức kêu gào nhưng chắc chắn thầy Miyabe không thể nghe thấy.
Đúng lúc ấy, chiếc Reisen của học viên dự bị đã hoàn thành bài bổ nhào, bay ngược lên đâm bổ vào giữa phi cơ của thầy Miyabe và chiếc Sikorsky. Vì máy bay của sĩ quan dự bị không được trang bị đạn súng nên không thể bắn được kẻ thù. Dù thế, cậu ấy một lòng muốn cứu thầy Miyabe nên đã liều mình bay bổ vào máy bay địch.
2 trong 4 chiếc Sikorsky không bận tâm, vẫn tiếp tục bám theo thầy Miyabe. Chiếc dẫn đầu nổ súng. Khoảnh khắc ấy, thầy Miyabe đã nhận ra, cho phi cơ trượt đi nhưng dường như đã muộn.
Thế nhưng khi Reisen của sĩ quan dự bị nhắm Sikorsky đâm thẳng vào thì 2 chiếc chiến cơ địch né ra, một chiếc cứ thế bay thẳng lên. Đó là quyết định sai lầm chết người! Từ phía dưới, máy bay thầy Miyabe nổ súng khiến nó bốc cháy trong phút chốc.
Một chiếc Sikorsky sau khi xoay vòng định bay lên trên trốn thoát nhưng thầy Miyabe đã bắt được vị trí cao độ. Vì đây là cuộc chiến tầm thấp nên địch không thể dùng thuật bổ nhào trốn thoát đặc trưng.
Máy bay địch đảo chiều, quay về hướng máy bay thầy Miyabe. Hai chiếc bay ngược chiều nhau, máy bay địch nghiêng thân máy và rơi xuống, cũng chẳng nhảy dù ra, e là đã bị bắn trực diện vào ghế điều khiển. Hai chiếc Sikorsky rút lui lên cao, hoặc giả là dụ ta bay lên, nhưng thầy Miyabe không đuổi theo bọn chúng.
Thầy Miyabe tập hợp các máy bay học viên dự bị trên không, bản thân thầy thì bay lên cao, canh chừng khoảng mười phút. Sau đó, cho bọn họ hạ cánh.
Thầy Miyabe đáp xuống sau cùng. Ta nhìn chiếc máy bay đó mà rùng mình, hai cánh và bụng máy bay lỗ chỗ như tổ ong. Sau đó kiểm tra thấy, có cả vết đạn cách thùng nhiên liệu bên trong cánh chỉ chừng một centimet. Nếu trúng vào thùng nhiên liệu đó chắc chắn máy bay của thẩy Miyabe sẽ phát nổ.
“Sơ suất quá!”. Giọng thầy run run, gương mặt tái mét. “Ai là người vừa cứu tôi?”
Sĩ quan dự bị đã cứu thầy Miyabe bị trúng đạn vào thẳng ghế điều khiển, kính chắn gió vỡ bay từng mảnh, đồng hồ đo cũng nhảy loạn xạ. Bản thân phi công cũng bị trúng đạn, giữ được mạng đúng là kỳ tích.
Thầy chạy theo cậu ấy, đang được chuyển đi bằng băng ca.
“Cậu làm trò ngu ngốc gì vậy hả?”
Sĩ quan dự bị đó nằm liệt trên băng ca, ngẩng gương mặt đầy máu lên hỏi.
“Thầy không sao chứ?”
“Sao cậu lại hành xử liều lĩnh như vậy?”
“Thầy là người cần thiết cho đất nước này. Thầy không thể chết!”
Khi nghe câu nói đó, lòng ta bồi hồi cảm xúc. Cậu ấy đã truyền đạt được sâu sắc tình cảm của mình. Chắc hẳn cậu ấy đã nghĩ, vì thầy Miyabe, dù chết cũng cam lòng. Và ta cũng có cùng một tâm trạng ấy.
Dù bị bất ngờ vậy, kỹ thuật không chiến của thầy Miyabe có thể gói gọn trong từ “Tuyệt hảo!” Thầy đã bắn rơi hai chiếc Sikorsky vượt xa về tính năng trong tíc tắc, quả là viên ngọc quý của Hải quân Nhật Bản.
Vậy mà, Hải quân cũng không để cho người như thầy được sống. Thầy Miyabe sau đó dẫn vài sĩ quan dự bị di chuyển đến căn cứ Kyushu. Nghe nói toàn bộ các sĩ quan dự bị bay đến Kyushu khi ấy đều hy sinh vì tấn công cảm tử. Sau đó, ta cũng nhanh chóng được lệnh đến Kyushu.
Nơi ta đến là cứ địa Kokubun ở Kagoshima. Ta đã nghĩ những ngày cuối đời của mình sắp kết thúc rồi, thế nhưng lệnh tấn công chưa được ban ra ngay. Những chiếc Reisen bọn ta mang đến, được các cảm tử quân khác lái đi tấn công.
Giai đoạn đó, máy bay tấn công cảm tử từ Kokubun xuất kích gần như mỗi ngày. Ta đã tiễn đưa nhiều người bạn và nghĩ tiếp theo sẽ tới lượt mình. Ta còn viết di thư để lại cho cha mẹ. Trước khi ra đi, ta ước ao cháy bỏng được gặp lại họ dù chỉ một lần, nhưng e rằng không thể thực hiện được.
Sau khi trận Okinawa kết thúc, căn cứ Kokubun nhiều lần bị quân Mỹ không kích. Với các trận ném bom và bắn phá mặt đất, nhiều máy bay đã bị phá hỏng. Nhiều người, bao gồm cả ta được lệnh chuyển đến Phi đội Usa tại Oita.
Khi vừa bước ra khỏi căn cứ thì ta bị một đôi vợ chồng già gọi lại. Họ hỏi thăm tin tức của con trai là một học viên dự bị nọ. Người thiếu úy ấy, cách đó vài hôm đã tham gia tấn công cảm tử. Khi nghe ta thuật lại vậy, người đàn ông cúi đầu lặng lẽ, còn người phụ nữ ngồi sụp xuống đất.
“Vừa nghe tin nó ở Kokubun, chúng tôi liền đến đây ngay nhưng đã không kịp rồi”. Người cha thất vọng nói.
“Cậu ấy rất vững vàng, còn mỉm cười trước khi xuất kích, rồi cất cánh bay đi như một nam tử hán”.
“Cám ơn cậu. Nghe thế chúng tôi đã yên tâm rồi”.
Người cha nói thế rồi cúi thấp đầu. Người mẹ ngồi sụp cất lên những tiếng thổn thức.
“Nó là con một”.
Ông ấy lẩm bẩm sau đó ôm lấy người vợ, đỡ bà đứng dậy, chào ta một lần nữa và rời khỏi căn cứ.
Đó là cảnh tượng không hiếm gặp ở Kokubun.
Các cảm tử quân bị cấm thông báo cho gia đình biết việc xuất kích. Những người bạn còn sống sẽ nhờ người bên ngoài căn cứ chuyển thư thông báo về cho gia đình. Nhưng đến kịp trước khi xuất kích là chuyện hy hữu, nhiều người thân đến sau khi xuất kích và rời khỏi căn cứ cùng nỗi bi thương.
Tại căn cứ, ta cũng thấy những phụ nữ trẻ được thông báo về cái chết của chồng mình. Và cả ở Kokubun lẫn Usa nữa. Có những người vì quá đau buồn và sốc nên không thể đứng vững. Nhìn họ ta thầm nghĩ việc mình chưa kết hôn quả là may mắn. Thế nhưng, cùng lúc đó ta lại thấy thương bản thân mình đến lúc chết vẫn không biết người phụ nữ mình yêu là ai.
Tại Usa ta vẫn là quân nhân dự bị. Tâm trạng khi ấy ta chẳng còn nhớ rõ. Có lẽ rằng sợ hãi. Thế nhưng nỗi đau đớn khi đưa tiễn bạn bè của mình, có muốn chắc cũng không thể quên được.
Ở Kokubun hay Usa ta đều không gặp được thầy Miyabe.
Một khoảng lặng ngắn sau những lời của ông Takeda. Người mở lời trước là vợ ông.
- Đây là lần đầu tiên ông kể về tấn công cảm tử.
Trước câu nói của vợ, ông Takeda gật đầu.
- Tôi đã không kể với bất cứ ai về chuyên tấn công cảm tử. Vì tôi nghĩ, dù có kể với ai họ cũng sẽ không hiểu được.
- Ông cũng nghĩ tôi như vậy à?
Ông Takeda lắc đâu.
- Nhiều lần tôi đã định nhưng mãi vẫn chưa nói được. Một mặt, tôi muốn người khác hiểu về nỗi đau của tôi, nhưng riêng bà, tôi không muốn bà biết điều đó.
- Tôi cũng có một chuyện đến giờ vẫn chưa nói với ông. - Vợ ông Takeda nhìn vào mắt chồng. - Tôi và ông quen nhau tại nơi làm việc và kết hôn vào năm 1950. Tôi từng nghe bàn tán rằng ông là cảm tử quân nhưng tôi hoàn toàn không thể tưởng tượng được chuyện đó. Bởi tại nơi làm việc ông lúc nào cũng vui vẻ, cười nói.
Ông Takeda gật đầu.
- Trước khi cưới ông cũng không hề nói về chuyện đội cảm tử quân. Thế nhưng khi đã thành vợ thành chồng tôi đã rất kinh ngạc. Mỗi đêm ông đều mơ thấy ác mộng bật lên những tiếng kêu đau đớn. Đó là vẻ mặt đáng sợ mà ban ngày tôi chưa từng thấy. Khi ấy, tôi đã nghĩ con người này đã gặp những chuyện đau đớn đến thế nào đây, và tôi không cầm được nước mắt.
- Tôi đã không biết... - Ông Takeda nói. - Sao bà không nói với tôi?
- Nói cũng để làm gì chứ? Tôi cũng không thể gánh giúp ông nỗi đau ấy. Khi con trai đầu của chúng ta học trung học, cuối cùng những cơn ác mộng đêm đã biến mất. Nhìn gương mặt bình yên của ông trong giấc ngủ, tôi nghĩ cuối cùng ông cũng thoát khỏi chiến tranh và trở về.
Ông Takeda khẽ nói cám ơn rồi đặt tay mình lên tay vợ.
Lúc từ biệt, ông Takeda đã nói.
- Thầy Miyabe là một người đầy khí phách. Tuy chỉ tiếp xúc chưa đầy vài tháng nhưng ta thấy thầy ấy thực sự là một người tuyệt vời.
- Cám ơn ông.
- Chính thầy ấy mới là người phải sống.
- Cháu rất vui vì câu nói ấy.
Mặt ông Takeda hơi đanh lại.
- Khi thầy Miyabe sắp leo lên Reisen bay đến Kyushu, ta đã nói “Thầy bảo trọng nhé”. Lập tức thầy bảo “Tôi tuyệt đối sẽ không chết” với gương mặt nghiêm nghị, trong mắt thầy tràn đầy ý niệm sống mãnh liệt. Ta đã nghĩ con người ấy tuyệt đối sẽ không chết.
- Dù vậy, chiến tranh cũng không tha cho ông ngoại cháu.
- Không phải chiến tranh. - Chị nói. - Ông ngoại đã bị Hải quân giết chết.
Ông Takeda gật đầu.
- Đúng như cháu nói, có lẽ người giết thầy ấy chính là Hải quân.
------------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét