Chủ Nhật, 9 tháng 2, 2020

Không Chiến Zero Rực Lửa - P 13

Không Chiến Zero Rực Lửa

Tác giả: Naoki Hyakuta
Người dịch: Võ Vương Ngọc Chân
NXB Văn Học & Alpha Books Co - 2016
*

Chân tướng

Ông tựa lưng vào chiếc ghế trong thư phòng, mắt nhắm lại, sau đó nói.
- Ta đã định một lúc nào đó phải kể cho các cháu nghe.
Chị em tôi yên lặng gật đầu.
- Khi nghe các cháu bảo sẽ tìm hiểu về Miyabe, ông đã dự cảm sẽ có ngày này.
Ông vừa nói vừa đưa tay lấy viên thuốc trị bệnh tim trong chiếc hộp nhỏ ra uống.
- Matsuno bảo không cần phải nói với bọn trẻ chuyện ấy nhưng ông đã định một lúc nào đó sẽ nói. Nếu vạn nhất không có cơ hội đó thì còn có một bức thư ông viết lại toàn bộ câu chuyện. Hơn mười năm trước ông đã đưa cho một luật sư giữ hộ. Phòng khi ông đột ngột qua đời, bức thư sẽ được gửi đến cho Kiyoko.
Ông gặp Miyabe tại Phi đội Tsukuba.
Tại đó, chúng ta được huấn luyện để làm cảm tử quân. Tuy nhiên lúc đó chúng ta chưa biết gì, ban đầu chỉ là khóa huấn luyện bay cơ bản. Khi đó, Miyabe làm giáo quan.
Sau khi giáo trình kết thúc, học viên chúng ta được phát một mảnh giấy rằng có tình nguyên tham gia tấn công cảm tử không. Ông đã đánh dấu tình nguyên dù không muốn tham gia. Chắc hẳn ai cũng vậy, thế nhưng tất cả đều tình nguyện. Là chúng ta không có dũng khí sao? Không phải vậy.
Vào độ ấy, cả trên đại lục và nhiều đảo trên Thái Bình Dương, mỗi ngày đều có vô số binh sĩ hy sinh. Trên báo đăng những bài viết hào hùng của Tổng hành dinh Đế quốc nhưng một mặt cũng đầy những dòng Chết cho vinh quang. Trong tình cảnh ấy, ông đã nghĩ dù hy sinh thân mình mà có thể bảo vệ Tổ quốc và những người mình thương yêu thì chết cũng cam tâm, dù là tấn công tự sát.
Thế nhưng một mặt ông lại không muốn chết. Chúng ta không phải là những thằng điên. Chúng ta cũng không phải loài chuột Lemming lập thành bầy mà lao xuống biển. Chúng ta muốn cái chết của mình mang một ý nghĩa.
Miyabe là người có phong thái và ngôn từ nhã nhặn. Phong thái điềm tĩnh đó không giống như người đã từng đi qua nơi địa ngục không biết bao nhiêu lần. Hoàn toàn khác với các giáo quan khác.
Ông nhớ sự mâu thuẫn trong cách thầy ấy dạy. Miyabe đã rất khổ tâm khi dạy những kỹ thuật bay cho chúng ta.
Khi chúng ta dần giỏi lên, Miyabe lúc nào cũng khen ngợi nhưng luôn ẩn sâu một nỗi buồn trong gương mặt cười đó. Miyabe là người có lòng trắc ẩn.
Một lần, trong buổi huấn luyện bay có đồng đội đã tử nạn. Trước sự đau buồn của chúng ta, một sĩ quan đã buông những lời lăng mạ. Khi ấy, Miyabe đã liều mình rửa nhục cho học viên dự bị đó.
Mọi người chúng ta đều nghĩ vì vị giáo quan này có chết cũng cam lòng.
Nếu khi ấy Miyabe im lặng, chắc là vận mệnh của ông và Miyabe đã hoàn toàn khác rồi phải không? Vận mệnh con người chỉ vì một chuyện nhỏ nhặt đã xoay chuyển một vòng lớn. Định mệnh quả là kỳ lạ.
Chuyện xảy ra một tháng sau đó.
Ngày hôm ấy, khi đang bay tập, quân địch đột ngột đến tấn công. Giáo quan Miyabe lo tập trung vào chúng ta nên không phát hiện ra địch. Ngay cả người lão luyện như Miyabe cũng có lúc như thế.
Ông phát giác ra quân địch, vừa đúng lúc kết thúc lượt bổ nhào, đang định quay về đội hình. Ông liền lao vào giữa máy bay địch và giáo quan. Khi đó, ông không nghĩ gì cả, chỉ làm trong vô thức. Nhưng quả thực lúc đó ông không thể để thầy Miyabe gặp nguy hiểm được.
Máy bay thực tập của học viên chúng ta không được trang bị súng máy. Dù vậy ông vẫn lao đến phía trước và bị trúng đạn của địch thật. Đạn phá vỡ ghế điều khiển. Ông bất tỉnh, cứ thế rơi xuống nhưng gần chạm mặt đất thì ông tỉnh táo trở lại nên kịp thời hướng đầu máy bay lên. Ngước nhìn lên, ông thấy máy bay địch đang rơi. Chiếc máy bay địch còn lại cũng bị thầy Miyabe bắn rơi nốt. Chuyện xảy ra sau đó, ông không còn nhớ bởi vì sau khi tiếp đất, ông đã thực sự bất tỉnh.
Ông được đưa vào bệnh viện Hải quân. Miyabe chỉ đến thăm một lần duy nhất, tặng ông một chiếc áo choàng. Chắc hẳn Miyabe đã nhìn thấy chiếc áo choàng đã sờn, rách tả tơi của ông. Áo choàng của Miyabe là quân trang nhưng có chỉnh sửa thêm đôi chút. Bên trong được chần thêm bông và may thêm một miếng da trên cổ.
Tuy nhiên, chưa kịp xỏ tay qua chiếc áo choàng ấy một lần thì mùa xuân đã đến rồi. Ra viện, ông trở về đội, lúc đó đã không còn thấy thầy Miyabe đâu, cả bạn bè cùng khóa của ông nữa. Họ đã đi trước ông rồi. Ông có cảm giác mình cũng sẽ sớm nối gót theo họ thôi.
Tâm trạng lúc ấy thực sự rất phức tạp. Ban đầu ông không thể chấp nhận cái chết, nghĩ rằng không thể có chuyện vô lý đến thế. Dù vậy, dần dần ông lại nghiêng về tâm trạng chấp nhận cái chết. Đó là cảnh giới tinh thần ông đạt được sau khi trải qua sự đau khổ và đấu tranh nội tâm cực độ. Một lời không thể giải thích được tâm trạng ấy. Sau chiến tranh ông suy nghĩ về chuyện này rất nhiều nhưng tới giờ vẫn không thể tái hiện lại được những suy nghĩ lúc ấy. Trong thời đại đảo điên ấy, có lẽ suy nghĩ cũng thật điên khùng.
Dù vậy, ông có thể khẳng định bọn ông không hăm hở đón nhận cái chết, không vui sướng gì khi tấn công cảm tử. Ông chưa bao giờ nghiêm túc nghĩ về gia đình và đất nước nhiều như lúc ấy, chưa từng nghĩ đến cuộc sống của những người yêu thương sau khi ông chết đi như lúc ấy.
Ông nhận được lệnh xuất kích đến cứ địa Omura ở Kyushu vào tháng Bảy. Ngay sau đó, ông nhận được một lá thư báo tin buồn từ mẹ, vị hôn thê của ông đã qua đời. Cô ấy là em họ của ông, từ nhỏ chúng ta đã rất thân thiết, mọi người đều xem cô ấy là hôn thê của ông. Cả hai đều mến nhau nhưng theo ông thì đó không phải là tình yêu. Mối quan hệ đó rất trong sáng, đến tay còn chưa nắm. Tuy nhiên khi trở thành học viên phi công dự bị, ông đã hủy hôn ước vì nghĩ mình không thể sống sót trong cuộc chiến này.
Trong thư mẹ viết, cô ấy bị bỏng nặng trong đợt không kích Tokyo vào tháng Năm, hai tuần sau thì mất. Ông đã tình nguyện tham gia tấn công cảm tử vì mong muốn cứu lấy những người mình yêu thương, vậy mà... Khi biết cô ấy trước khi chết đã gọi tên ông, ông không kìm được nước mắt.
Vào tháng Tám, ông nghe tin Hiroshima và Nagasaki bị một thứ bom tối tân tàn phá thảm khốc. Một học viên dự bị từng theo học khoa Vật lý tại Đại học Kyoto đã nói, “Thứ bom được thả xuống Nagasaki chắc là bom nguyên tử”.
“Nó là thứ gì vậy?”, ai đó hỏi.
Anh chàng kia giải thích: Bom nguyên tử là loại bom phân hạch các hạt nhân nguyên tử, có sức tàn phá mà không loại bom nào từ trước đến giờ có thể so sánh được.
“Thứ được ném xuống Nagasaki là bom nguyên tử thật à?”
“Tôi không biết. Nhưng nếu tin đồn về tình trạng hủy diệt là thật thì có khả năng đó. Loại bom đạn tối tân được ném xuống Hiroshima có lẽ cũng chính là nó”.
Ông đã nghĩ, nếu đúng vậy thì đất nước Nhật Bản có lẽ sẽ bị diệt vong thật sự. Nếu tham gia tấn công cảm tử mà có thể bảo vệ Tổ quốc thì ông sẽ nguyện chết một cách anh dũng. Hơn nữa, ông sẽ có thể đến bên vị hôn thê của mình...
Chẳng bao lâu sau, ông nhận được lệnh tấn công cảm tử cùng một người bạn cùng khóa Teranishi. Vì chúng ta đã chấp nhận nên hầu như chẳng nao núng gì, cả hai đều nói “Chúng ta sẽ đi cùng nhau”.
Nơi ông đến là Kanoya. Tại đó ông đã gặp lại Miyabe. Lúc ấy Miyabe gần như là một người khác. Nói sao nhỉ... Đó là gương mặt của người đã mất đi linh hồn, mắt đỏ ngầu, toàn thân đằng đằng sát khí. Lần đầu ông thấy Miyabe như thế.
Ông không thể cất tiếng gọi nhưng Miyabe đã nhận ra.
“Vết thương của cậu đã lành chưa?”, Miyabe hỏi, mặt không chút biểu cảm.
“Rồi ạ”
“Vậy thì tốt”
Cuộc đối thoại giữa ông và Miyabe chỉ có thế.
Vừa đến Kanoya, ông được thông báo là hai ngày sau sẽ xuất kích. Không hề nao núng, ông chỉ cảm thấy tiếc vì không thể nói lời từ biệt mẹ. Đêm đó, ông đã viết di thư cho bà.
Ngày tiếp theo, ông tản bộ ngoài căn cứ, rời thôn bản, đi về hướng núi. Hôm ấy là một ngày nắng nóng, nhưng mồ hôi đổ ra nên cũng thấy dễ chịu. Từ ngày mai thì ngay cả mồ hôi cũng không chảy được kia mà.
Tất cả mọi thứ trong mắt ông đều đáng yêu. Thứ gì cũng đẹp cả. Cỏ dại ven đường cũng đẹp vô cùng. Ông ngồi ngắm những bông hoa màu trắng nhỏ nở giữa đám cỏ dại. Ông thầm nghĩ “Đẹp thật!”. Lần đầu tiên ông nhìn thấy loài hoa ấy trong đời.
Ông cởi giày, thả chân xuống suối. Cái lạnh của dòng nước khiến ông rất dễ chịu. Ông cứ ngâm cả hai chân như thế vào nước, nằm bên bờ suối, khép mắt nghe tiếng ve sầu. Lần đầu tiên ông thấy cả tiếng ve sầu cũng êm tai đến thế. Con của những chú ve này chắc cũng sẽ kêu như thế vào mùa hè bảy năm sau. Khi ấy Nhật Bản ra sao? Nghĩ đến đó, tâm trạng ông đau đớn vô ngần.
Ngày hôm sau, trời chưa sáng chúng ta đã tập trung tại sở chỉ huy, nghe Tư lệnh phát biểu trước khi xuất kích. Khi ấy, ông kinh ngạc thấy Miyabe trong nhóm cảm tử quân. Bởi ông nghĩ Miyabe sẽ lái máy bay hộ tống. Đến cuối cùng, Hải quân còn giết cả người này ư?
Sau khi uống ly rượu cuối cùng, toàn đội hướng về phía phi cơ, ông và Teranishi đến chào Miyabe.
“Được chết cùng thầy Miyabe, tôi cảm thấy rất mãn nguyện”.
Trước câu nói của Teranishi, Miyabe chỉ im lặng gật đầu rồi đặt tay lên vai bọn ông. Bàn tay ấy rất có lực. Bộ râu ria xồm xoàm của Miyabe đã được cạo sạch sẽ.
“Tôi vẫn chưa trả lại chiếc áo choàng quý giá mà thầy Miyabe đã tặng”.
Lúc đó, chẳng hiểu tại sao ông lại nói câu ấy.
“Mùa hè thì cần gì đến nó đâu”, Miyabe cười đáp. Ông cũng bất giác bật cười.
“Nào, đi thôi!”
Miyabe nói và bước về phía đường băng.
Động cơ đã được khởi động sẵn. Khi ông định leo lên máy bay thì Miyabe bước đến lên tiếng.
“Thiếu úy Oishi, nhờ cậu một việc”.
“Gì vậy ạ?”
“Cậu đổi máy bay cho tôi được không?”
Miyabe nói muốn đổi chiếc 52 sang chiếc 21. Chiếc 52 vận tốc nhanh hơn hẳn. Ông nghĩ rằng Miyabe nên lái chiếc tốt hơn nên đã từ chối.
Miyabe quay về. Nhưng chẳng mấy chốc ông ấy lại quay lại, một lần nữa muốn đổi máy bay. Sau nhiều lần tranh luận, ông đã chấp nhận việc hoán đổi máy bay.
Ông xuống khỏi chiếc 21, leo lên chiếc 52.
Không lâu sau, miếng chèn bánh xe được lấy ra, máy bay từ từ chuyển động, sau đó rời mặt đất. Bên cạnh ông là máy bay của Miyabe. Nhìn thấy ông ấy ở ghế điều khiển, đột nhiên nước mắt ông giàn giụa. Ông đã nghĩ bản thân mình chết cũng không sao, nhưng ông muốn Miyabe ấy được sống. Nếu ông chết thì có thể cứu được người này không?
Ông quyết dùng thân mình bảo vệ Miyabe. Ông sẽ bám sát Miyabe cho đến phút cuối cùng. Nếu chiến cơ địch tấn công ông ấy, ông sẽ lao vào. Tất cả pháo đối không, ông sẽ lãnh hết.
Đội hình di chuyển theo hướng nam. Bầu trời phương đông rạng sáng yếu ớt. Ngắm bầu trời lúc bình minh bất chợt ông nhớ đến từ hừng đông.
Hừng đông... Người xưa dùng từ mới đẹp làm sao.
Ông ngước nhìn phía sau, vịnh Kagoshima ánh lên lấp lánh, những ngọn núi Kyushu phủ đầy màu xanh dần tắm mình trong nắng sớm. Đẹp quá!
Nếu vì bảo vệ Tổ quốc xinh đẹp này mà hy sinh thì ông không hối hận. Giờ mình sẽ được chết cùng một người đàn ông bản lĩnh thật sự.
Ông nhớ về vị hôn thê. Sắp được về bên em rồi...
Mẹ, con xin lỗi. Ông kêu lên trong lòng. Cuộc đời con thật hạnh phúc. Con đã lớn lên trong tình yêu thương tràn đầy của mẹ. Nếu được sinh ra một lần nữa, con vẫn muốn được làm con của mẹ. Nếu có thể, lần này con sẽ là con gái để suốt đời sống cùng mẹ.
Rồi ông dẹp bỏ mọi lưu luyến. Cả vẻ đẹp Tổ quốc, cả tình yêu thương dành cho vị hôn thê, cả sự tưởng nhớ về mẹ già. Tất cả. Từ bây giờ, việc đâm mình vào tàu địch là tất cả. Và chuyện ông quyết hy sinh vì Miyabe nữa.
Dù vậy, xuất kích chưa đầy một giờ đồng hồ, động cơ có biểu hiện lạ thường. Cỗ máy bắt đầu rung lên từng đợt, dầu bôi trơn từ động cơ bắn lên. Dầu dính vào kính chắn gió, nhanh chóng nhuộm đen mặt kính. Ông hoàn toàn không thể nhìn rõ phía trước.
Thỉnh thoảng ông thay đổi góc độ máy bay, tránh không làm hỏng đội hình và tiếp tục bay. Tuy nhiên, tình trạng động cơ ngày càng tệ hơn. Lực đẩy giảm rõ rệt, tốc độ bị hạn chế. Ông mở van tiết lưu nhưng cũng không thể tăng tốc, ngay lập tức ông bị tụt lại.
Phân đội trưởng bay sát bên hông, ra hiệu hỏi “Sao thế?”. Ông báo động cơ có dấu hiệu bất thường. Phân đội trưởng nhìn thấy kính chắn gió của ông bị nhuộm đen ngòm, ra chỉ thị bằng tay “Rút về!”. Ông đáp “Không!”. Tuy nhiên, đúng lúc ấy, máy bay lại rung lên bần bật. Phân đội trưởng ra lệnh “Quay về!” một lần nữa và rời khỏi.
Ông đã thử nhiều cách nhưng động cơ không thể phục hồi được nữa. Máy bay ông bị bỏ rơi khỏi đội hình.
“Miyabe!”. Ông gào hết sức lực. Sau đó vừa khóc vừa cho quay đầu phi cơ.
Thế nhưng, máy bay dường như không thể quay về tận Kanoya. Ông tìm vị trí Kikaishima trên bản đồ. Nó nằm cách khoảng 50 hải lý về phía tây. Động cơ có thể chịu được hay không còn nhờ vào vận may. Nếu động cơ ngừng trước khi đến Kikaishima thì ông sẽ chết. Giữa đường chiến đấu cơ địch xuất hiện cũng chết. Tất cả là định mệnh của ông.
Để giảm sức nặng cho máy bay, ông rút dây thả bom. Thế nhưng quả bom không rơi, dù ông có rút dây bao nhiêu lần. Nó đã được gắn chặt vào thân máy bay, không thả xuống được. Họ đã làm chuyện tàn nhẫn như vậy sao? Nếu vậy, thậm chí còn không thể hạ cánh khẩn cấp được ư? Mục đích của Bộ Tổng tư lệnh là đã xuất kích cảm tử thì toàn đội đều phải chết.
20 phút sau, Kikaishima đã xuất hiện trong tầm nhìn của ông. Trên không phận đảo không có bóng dáng quân địch.
Vừa lúc đó động cơ cũng ngừng hoạt động, chỉ còn cách lướt trên không. Hơn nữa, kính chắn gió lại dính đầy nhớt đen, tầm nhìn rất hạn chế. Nếu sai góc độ tiếp đất, bom dưới bụng máy bay sẽ phát nổ. Cũng không thể bay ngược lên để thực hiện tiếp đất lại.
Đã chuẩn bị tâm lý đón cái chết, đột nhiên khi đó ông nghe tiếng của Miyabe vang lên.
Thiếu úy Oishi! Tuyệt đối đừng bỏ cuộc! Dù thế nào cũng phải sống!
Ông nghe tiếng nói đó rất rõ ràng, dù đã qua sáu mươi năm, tiếng nói ấy vẫn còn đọng trong ký ức. Không phải là ông hoang tưởng đâu, có chuyện ấy thật đấy.
Ngay trước khi vào đường băng, ông nghiêng thân máy bay nhìn bao quát phi trường. Ghi nhớ cự li và góc độ rồi quay máy bay lại như cũ. Sau đó, ông nhắm mắt lại và quyết định tiếp đất bằng con mắt của trái tim.
Trong đầu ông hiện rõ khung cảnh của phi trường như nhìn rõ bằng mắt vậy. Trạng thái máy bay đến gần đường băng cũng cảm nhận được một cách sinh động. Cho chiếc máy bay đang hạ xuống quay theo chiều ngang, vào tư thế tiếp đất ba điểm. Máy bay hạ thấp hơn nữa. Cao độ 50 mét... 20 mét... 5 mét... Sau đó khi ông đoán chừng chỉ còn 1 mét, bánh xe gõ xuống đường băng, máy bay cứ thế trượt đi, không lâu sau thì dừng lại.
Đến giờ ông vẫn nghĩ đó là một kỳ tích. Bảo ông làm lại một lần nữa, cũng tuyệt đối không thể, chỉ có thể nghĩ đó là một trải nghiệm hy hữu.
Ông đã được cứu. Dù vậy, khi trở lại nội địa chắc chắn sẽ phải tiếp tục xuất kích trong đội cảm tử quân khác. Tuy nhiên, động cơ máy bay đã bị hỏng hoàn toàn, không thể sửa lại một cách nhanh chóng.
Chiều tối hôm đó ông được thông tín viên cứ địa thông báo, đợt tấn công hôm ấy, ngoại trừ ông, tất cả các phi công còn lại đều hy sinh.
Miyabe đã mất.
Ông cũng nghe phát Tuyên bố đầu hàng Gyokuon tại Kikaishima.
- Đó là số mệnh của ông ngoại rồi! - Chị Keiko thì thầm.
- Đó không phải là số mệnh! - Ông nói rành mạch. - Đến Kikaishima, khi định bước ra khỏi ghế điều khiển, ông phát hiện một mảnh giấy. Trên đó là dòng chữ viết nhanh nguệch ngoạc của Miyabe.
- Hả? - Tôi bất giác bật thốt lên.
- Trên tờ giấy viết: “Nếu thiếu úy Oishi may mắn sống sót trong cuộc chiến này, tôi xin nhờ cậu một việc. Nếu gia đình tôi lưu lạc, sống khổ cực đầu đường xó chợ, mong cậu hãy giúp họ”. Có lẽ anh ấy đã viết nó khi quay lại chiếc 52 một lần nữa. Điều đó không thể là ngẫu nhiên được.
Tôi im lặng lắc đầu, khó khăn lắm mới mở miệng được.
- Sao...
Ông khẽ lắc đầu.
- Chuyện đó, ông không biết. Nhưng... - Ông nhìn tôi nói. - Ông nghĩ, khi leo lên chiếc 52, Miyabe đã phát hiện ra động cơ không ổn. Lúc ấy, người đó đã nhận ra trong tay mình có tấm vé sống còn của bản thân...
Trong lòng tôi dâng lên thứ cảm xúc rất khó diễn tả thành lời. Nữ thần số mệnh vào phút cuối lại trao cho ông Miyabe sự lựa chọn quá tàn nhẫn.
Ông Miyabe đã do dự quay về chiếc 52 một lần. Nhưng rồi, ông đã dứt khoát trao tấm vé sống còn lại cho ông Oishi... Bên cạnh tôi, chị đang nhìn xuống, trên má đẫm nước mắt.
Một lúc sau, ông ngoại lại khẽ kể tiếp.
- Tuy nhiên, ông phải mất ba năm mới gặp được vợ Miyabe.
Nhà Miyabe ở Yokohama nhưng cả thành phố đều bị hủy hoại sau trận không kích tháng Năm. Không có người hàng xóm nào biết tin tức của cô ấy.
Ông quay về trường Đại học. Hễ có thời gian là ông đi hỏi thăm về vợ của anh ấy, nhưng hoàn toàn không có tin tức gì. Hai năm sau, ông tốt nghiệp và vào làm trong Sở đường sắt Quốc gia.
Khoảng thời gian ấy, nhiều người trong khu phố mà vợ anh Miyabe từng sống đã quay trở về, nhưng vẫn không thấy cô ấy đâu. Ông cũng thường xuyên liên lạc với các bạn cùng khóa, bởi ông nghĩ nếu vợ anh Miyabe gặp khó khăn có thể sẽ liên lạc với ai đó. Vậy mà vẫn không nhận được tin tức gì, cứ thế lại một năm nữa trôi qua.
Thời ấy, ai cũng bận rộn với cuộc sống của mình. Ông có thể quay lại học Đại học quả là một điều may mắn. Mẹ ông là giáo viên Tiểu học ở Tokyo nên cũng không phải khổ sở để kiếm cái ăn. Thế nhưng đó cũng không phải một cuộc sống no đủ. Áo quần đều phải sửa từ các quân phục cũ, áo choàng thì ông cứ mặc suốt chiếc áo anh Miyabe đã tặng.
Ông biết tin tức về gia đình Miyabe là nhờ một người bạn làm trong Bộ Y tế và Phúc lợi. Nghe nói văn phòng cựu quân nhân của Bộ Y tế và Phúc lợi nhận được đơn xin trợ cấp từ nhà của quả phụ Miyabe, địa chỉ ở Osaka.
Ông tức tốc đến Osaka. Đó là mùa đông năm 1949. Khi ấy, từ Tokyo đến Osaka phải đi mất mười mấy tiếng, bằng thời gian bay sang Mỹ bấy giờ.
Đó là một ngày đông lạnh giá. Ông lần theo địa chỉ tìm đến, nơi ấy là một xóm nghèo, đến độ có thể gọi là khu ổ chuột. Đó là một dãy nhà như trại lính, cả xóm bốc lên một thứ mùi hôi thối xộc vào mũi.
Ngực ông thắt lại. Vợ con anh Miyabe, những người anh ấy sống chết muốn bảo vệ lại phải sống nơi đây, thật quá đau lòng. Không, còn hơn cả đau lòng, ông còn cảm thấy phẫn nộ.
Ông len vào con hẻm nhỏ. Một cô bé đang lẻ loi đứng đó, mặc bộ đồ đầy mảnh vá, choàng thêm chiếc khăn len màu đỏ. Khi thấy gương mặt khả ái đó, ông chợt nhớ đến gương mặt Miyabe.
“Cháu có biết nhà Miyabe ở đâu không?”, ông cất tiếng hỏi. Cô bé quay lưng chạy đi, ông vội bước theo sau. Rồi cô bé chui vào một gian trong dãy nhà. Đó cũng gọi là nhà sao? Dãy nhà được ghép từ những tấm ván cũ tạp nham, mái nhà lợp bằng kẽm.
Ông đứng trước nhà. Tấm thớt Kamaboko* được dùng thay cho bảng tên, trên đó viết nắn nót dòng chữ “Miyabe”.
*[Tấm gỗ đựng một loại chả cá Nhật Bản]
“Xin lỗi ạ!”, ông chào.
“Vâng”. Cùng với tiếng thưa, một phụ nữ bước ra.
Cô ấy mặc quần thụng, quấn khăn. Tuy xuề xòa nghèo túng nhưng vẫn là một mỹ nhân. Ông bỗng quên hết những lời cần nói, chỉ nhìn cô ấy chăm chăm.
Thật lạ là cô ấy cũng đứng nhìn ông sững sờ, như thể nhìn thấy ma hay thứ gì đó rất đáng sợ.
“Tôi là Oishi Kenichiro. Trong thời chiến đã từng được anh nhà chiếu cố nhiều”.
Cô ấy như giật mình, cúi người chào.
“Tôi là vợ anh Miyabe. Cám ơn cậu đã giúp đỡ chồng tôi”.
“Không, người hàm ơn là tôi”. Bên cạnh cô ấy, bé gái lúc nãy nhìn ông không rời mắt.
“Mời cậu vào nhà”.
Ông từ hiên bước vào, không có cửa trước, lập tức vào đến gian phòng. Hơn thế, căn phòng chỉ rộng chừng bốn chiếu Tatami, trên sàn chỉ là chiếu rơm trải trên ván. Trong nhà, nút áo chất cao như núi.
“Thật ngại quá! Tôi nhận việc làm tại nhà nên bày bừa nhiều”.
Cô ấy gọi con gái, lấy vài đồng xu bảo con bé mua nước về.
“Nước ép? Thật hả mẹ?”. Đứa bé ngạc nhiên hỏi lại.
Ông bối rối, lấy tiền trong ví mình ra đưa cho cô bé.
“Con hãy mua nước hay kẹo, bất cứ thứ gì con thích”.
“Thật khó xử quá, chuyện này...”
“Không sao. Tôi không mang theo gì, lại đường đột đến thăm nhà, hãy để tôi gửi tiền”.
“Vậy nghe theo cậu”. Ông nói mãi cô ấy mới đồng ý.
Ông kể với cô ấy chuyện ông được thầy Miyabe chăm sóc khi còn là học viên dự bị và chuyện ở cùng căn cứ Kanoya với Miyabe.
Nhưng chuyện hôm xuất kích tấn công cảm tử, ông không thể nào mở miệng nói được rằng Miyabe đã chết thay ông. Thay vào đó, ông nói Miyabe đã cứu ông trong trận không chiến. Cô ấy chỉ yên lặng lắng nghe.
“Tôi còn sống như bây giờ là nhờ ơn anh Miyabe”.
“Miyabe, anh ấy... Anh Miyabe thích giúp đỡ người khác nhỉ”. Cô ấy nói.
“Không phải chỉ riêng tôi, anh Miyabe còn giúp đỡ nhiều người khác nữa”.
“Anh Miyabe chết không phải vô ích rồi”.
Vừa nghe câu nói của cô ấy, mắt ông ngấn lệ.
“Tha lỗi cho tôi”. Ông chống hai tay xuống sàn. “Phải chi tôi chết thay được cho anh ấy”. Nước mắt rơi lã chã trên tay ông.
“Xin cậu ngẩng mặt lên”. Cô ấy nói. “Anh Miyabe đã chết vì chúng tôi. Không, không riêng gì anh ấy, những người chết vì cuộc chiến đó, tất cả đều vì chúng tôi mà đúng không?”
Ông ngước lên, thấy cô ấy đang mỉm cười.
“Phút cuối của anh Miyabe như thế nào?”
“Anh ấy đón nhận giây phút cuối cùng của mình đầy khí khái như một quân nhân thực thụ”.
“Vậy là tôi vui rồi.” Cô ấy nói thế rồi lại cười. Ông nghĩ, người phụ nữ này mới mạnh mẽ làm sao.
“Nhưng mà, người đó đã nói dối tôi”. Đột nhiên, cô ấy trở giọng lạnh lùng. “Anh ấy đã hứa nhất định sẽ trở về, vậy mà...”
Đôi mắt cô ấy ngấn lệ, hai giọt nước mắt lăn dài xuống má khi nhắm mắt lại.
Ngực ông thắt lại. Sau đó là nỗi ăn năn lớn nhất trong ba năm qua của ông. Tại sao khi đó ông lại đổi máy bay? Tại sao lại không kiên quyết từ chối yêu cầu của anh ấy? Nếu thế bây giờ cô ấy đã có thể sống hạnh phúc cùng Miyabe rồi.
Lúc ấy, cô bé gái quay trở lại, giật mình khi thấy mẹ khóc.
“Không có gì đâu”, cô ấy nói với con gái. “Mẹ nói chuyện về cha nên buồn chút thôi”.
“Cha của Kiyoko hả? Cha là người như thế nào?”
“Là người đàn ông bản lĩnh, tốt bụng, dũng cảm hơn bất kỳ ai”, ông trả lời thay.
“Nhưng cha chết rồi”.
Một lần nữa, ông lại đau nhói như ngực bị bóp nghẹt. Khi từ biệt, ông đưa cho vợ anh Miyabe một phong bì ông đã chuẩn bị từ trước.
“Chút lòng thành này mong chị nhận cho”.
“Cái này là…”
“Tôi chỉ muốn trả lại anh Miyabe một phần sự quan tâm của anh ấy trong thời chiến.
“Tôi không thể nhận”.
Tuy nhiên, ông rất mực kiên quyết:
“Nếu không thể báo đáp ân nhân cứu mạng của mình thì tôi không còn là người nữa”.
Cuối cùng cô ấy cũng chịu thua.
Đó là cuộc gặp gỡ giữa ông và Matsuno.
Cứ vài tháng ông lại dối mẹ đi công tác một lần, đến thăm nhà cô ấy ở Osaka. Mỗi lần như thế, ông đều đưa tiền. Matsuno nói không thể nhận nhưng ông vẫn cố để lại. Số tiền thì ông quên rồi, nhưng có lẽ là phân nửa lương của ông khi đó. Ông nói dối Matsuno rằng lương của nhân viên Đường sắt, đã tốt nghiệp Đại học thì cao lắm.
Mẹ ông cũng khổ sở lắm. Sau khi ông tốt nghiệp Đại học và đi làm thì bà phải nghỉ việc ở trường tiểu học do cơ thể suy nhược. Hình như bà nghĩ ông giở trò quậy phá, nhưng cũng không nói gì. Có lẽ bà nghĩ ông muốn tìm cách quên đi trải nghiệm cay đắng là cảm tử quân bằng cuộc sống phóng đãng.
Các đồng nghiệp ở Sở thì nghĩ ông là một tên keo kiệt, bủn xỉn. Ông không đi chơi cùng đồng nghiệp, áo quần vẫn là quân phục được sửa lại. “Nghe nói thằng ấy tích góp cũng được kha khá rồi đấy”. Tin đồn như thế còn lọt vào tai, nhưng ông vẫn bình thản. Còn có cả tin đồn rằng, “Hắn để tiền cho gái”. Tin đồn ấy có lẽ cũng đúng nửa phần. Bởi vì ông đã bị Matsuno lôi cuốn.
Lúc nào đi Osaka ông cũng bắt chuyến đêm. Buổi sáng là đến nhà cô ấy. Cả ngày hôm ấy phần lớn thời gian ông dạo phố cùng Matsuno và Kiyoko. Chúng ta đi gần như hết thành phố Osaka: Shinsekai, thành Osaka, Dotonbori, nhà ga Tenroku, phố Sennichimae.
Mỗi lần đến Osaka, ông đều nhận thấy thành phố ấy đang dần dần hồi phục. Khuôn mặt mọi người tươi vui hơn, nhịp sống cũng năng động hơn. Dù vậy, vẫn còn đó những tàn tích của chiến tranh. Những tòa nhà bị hư hại vì không kích, vẫn còn các lều bán chợ trời trên những cánh đồng bị thiêu rụi.
Hơn thế, trước nhà ga Osaka có khá nhiều thương binh. Người hỏng mắt, người mất tay, người cụt chân, có người mất cả tay lẫn chân mặc áo trắng của bệnh nhân, ngồi bên đường. Cảnh đó thậm chí còn có ở Tokyo. Nhìn thấy vậy, ngực ông đau nhói. Họ vì đất nước mà mất đi một phần thân thể, phải tiếp tục sống cuộc đời đau khổ kéo dài. Nhưng mặt khác, đường phố ngày ngày đổi mới như muốn quên đi ký ức về chiến tranh. Khoảng cách đó thật đáng sợ.
Mỗi lần đi ngang các thương binh, Matsuno đều đưa tiền cho Kiyoko, bảo cô bé bỏ vào thùng quyên góp.
Chúng ta thường ăn cơm trưa tại quán. Ông kể chuyện về thời còn là học viên phi hành dự bị. Thầy Miyabe là một giáo quan tốt như thế nào. Matsuno khi vui vẻ, khi đượm buồn khi nghe chuyện của chồng.
Matsuno hầu như không kể gì về Miyabe, chỉ duy nhất một lần cô ấy kể về chuyện kết hôn. Cô ấy kết duyên với Miyabe qua việc xem mắt. Khi Miyabe trở về từ Trung Quốc năm 1941 và tạm dừng ở phi đội của hạm Yokohama, đã được ông chủ quán nơi đó yêu mến và gả cho cô con gái duy nhất của mình. Có lẽ ông ấy nhìn thoáng qua đã thấu anh Miyabe là người thích hợp với con gái mình rồi. Ông mất trong trận không kích tại Yokohama vào năm 1945. Anh Miyabe và Matsuno đã tổ chức lễ cưới mà chưa từng nói chuyện với nhau câu nào.
Ông cùng Matsuno và Kiyoko đi dạo giống như đôi vợ chồng dẫn theo đứa con nhỏ. Kiyoko dần gắn bó với ông, ông thường cho Kiyoko ngồi rên vai. Sau một ngày dạo phố như thế, ông lại đi chuyến đêm về Tokyo. Cứ như thế liên tục vài tháng một lần.
Đến thăm Osaka được vài lần thì Matsuno mặc váy. Vì cô ấy chỉ luôn mặc quần thụng nên đó là một hình ảnh tươi mới đáng ngạc nhiên.
“Hôm trước có một người quen bán rẻ vải cho, nên tôi đã may”. Matsuno nói, vẻ ngượng ngùng.
“Rất hợp với chị. Hơn nữa lại...”. Tuyệt đẹp! Ông định nói thế nhưng không thốt ra miệng được.
Hôm ấy không có Kiyoko, cô bé đã đi chơi cùng đám bạn. Ông cùng Matsuno đi dạo ở Shisaibashi. Trong buổi hẹn riêng lần đầu của hai người khi ấy, trống ngực ông đập mạnh, nhưng đồng thời cũng có cảm giác tội lỗi.
Buổi chiều hôm ấy, khi ở quán ăn tại Takashima, cô ấy đã nghiêm túc hỏi.
“Tại sao cậu Onishi lại tốt với chúng tôi như vậy?”
“Vì tôi đã được anh Miyabe cứu mạng”.
“Đó chẳng phải là chuyện đương nhiên ở chiến trường sao?”
“Không. Anh Miyabe thật sự đã liều mình bảo vệ tôi”.
“Chuyện đó xảy ra khi nào, ở đâu?” Cô ấy hỏi như tra vấn. “Lúc trước tôi đã hỏi nhưng cậu không trả lời”.
Ông nghẹn lời.
“Xin cậu hãy nói sự thật cho tôi biết”.
“Tôi biết rồi. Tôi sẽ nói”. Ông hạ quyết tâm và kể cho Matsuno nghe về lần xuất kích cuối cùng của ông và anh Miyabe. Tất cả.
Từ giữa câu chuyện, Matsuno yên lặng nhìn xuống. Ngay cả sau khi câu chuyện kết thúc, cô ấy cũng cúi mặt, không nói câu nào.
“Sau chiến tranh tôi cũng không ngừng suy nghĩ về chuyện của anh Miyabe khi ấy. Anh Miyabe đã tìm thấy một sợi dây có thể cứu mạng mình. Nhưng cuối cùng anh ấy đã từ chối nắm lấy nó”.
Matsuno vẫn kiên nhẫn hướng mắt xuống, rồi một lúc sau, cô ấy nói như thì thầm.
“Tại sao anh Miyabe lại chọn cậu?”
“Tôi không biết. Nhưng tôi nhớ lại một chuyện”. Ông kể về sự việc hồi còn là học viên dự bị, chuyện ông vô tình cứu mạng thầy Miyabe, sau đó bị thương và được thầy tặng chiếc áo khoác khi đến thăm ông tại bệnh viện.
“Chiếc áo đó là do tôi sửa lại”. Matsuno nói giọng yếu ớt.
Ông nhớ bên trong chiếc áo khoác có chần bông, trên cổ còn may thêm lớp da.
“Vậy sao ạ? Anh Miyabe đã tặng tôi món đồ quý giá quá”.
“Ngày xuất kích đó, anh Miyabe gặp cậu đúng là định mệnh”. Matsuno ngẩng mặt lên nói, nhìn thẳng vào mắt ông. Khi nhìn vào đôi mắt đầy đau buồn đó, lòng ông lại dâng lên nỗi ân hận sâu sắc. Tại sao lúc đó ông lại đồng ý đổi máy bay?
“Xin hãy tha thứ cho tôi”. Ông nói. Matsuno im lặng cúi đầu. “Tôi còn sống đến hôm nay là nhờ ơn anh Miyabe. Chính vì vậy, hãy cho tôi được toại nguyện. Anh Miyabe đã nhờ tôi chăm sóc chị và Kiyoko. Vì lý do đó mà tôi mới có thể sống, nếu không thể thực hiện việc ấy, cuộc đời tôi sẽ chẳng còn ý nghĩa gì nữa”.
Matsuno không đáp gì. Dù vậy, cô ấy không từ chối sự giúp đỡ của ông. Nhưng ông đã quyết dù cô ấy nghĩ thế nào, ông cũng không ngừng việc giúp đỡ đó lại. Thế nên ông vẫn tiếp tục lui tới Osaka.
Hai năm sau, cô ấy chuyển nhà từ nội thành Osaka đến Toyonaka. Đó chỉ là một căn hộ nhỏ nhưng có cả bếp. Matsuno cũng được nhận vào làm tại một công ty vận tải ở Toyonaka. Công ty ấy lại có quan hệ với Sở Đường sắt, ông đã lợi dụng sự kết nối này.
Ông chỉ nói dối cô ấy một điều. Ông nói vì giữ lời hứa với di ngôn của anh Miyabe mà tận lực vì Matsuno và Kiyoko. Đó là thật nhưng không chỉ có thế. Ông muốn gặp Matsuno...
Lý do ông lui tới Osaka cũng vậy. Nếu là chu cấp tiền bạc thì chỉ cần gửi đến là xong rồi.
Ông cất công bắt chuyến tàu đêm, không gì hơn là muốn gặp cô ấy.
Matsuno chắc cũng biết chuyện ấy. Không, cũng có thể cô ấy không biết. Ông chẳng thể nhớ tâm trạng của mình nữa. Tuy nhiên, dù thế nào Matsuno cũng không phải cô gái có thể mở miệng nói, “Chỉ cần gửi tiền là được rồi”. Cứ như thế, mối quan hệ kỳ lạ của chúng ta kéo dài năm năm.
Trong khoảng thời gian ấy, mẹ ông mất, Kiyoko cũng đã là học sinh Trung học. Cô bé đã trở thành một thiếu nữ xinh đẹp, hoạt bát. Ông 30, còn Matsuno đã 33 tuổi.
Đó là vào ngày giỗ anh Miyabe, tháng Tám năm 1954. Chúng ta đi thăm mộ. Hai năm trước, Matsuno đã mua phần đất của nghĩa trang phía Bắc Osaka, xây một ngôi mộ nhỏ cho chồng tại đó. Matsuno không gắn kèm pháp danh, trên bia chỉ khắc Miyabe Kyuzo chi mộ.
Cách khu mộ không xa có một ngôi chùa, chúng ta sau khi viếng mộ đã ghé qua. Trong chùa không một bóng người, chúng ta ngồi xuống trước hiên của chính điện. Bất ngờ Matsuno nói.
“Cậu Oishi, thời gian qua, rất cám ơn cậu”.
Ông khá bất ngờ, không biết phải nói gì.
“Chúng tôi đã được cậu Oishi chăm sóc quá nhiều rồi”. Matsuno gập đầu xuống. “Không có lý do gì chúng tôi lại nhận của cậu nhiều hơn nữa”.
“Tôi vẫn chưa báo đáp xong ân tình của anh Miyabe.”
Matsuno nhìn thẳng vào mặt ông và nói:
“Cậu định báo đáp ơn ấy đến bao giờ? Nếu là báo ơn cho Miyabe thì cậu đã báo đáp đủ rồi”.
“Vẫn chưa...” Ông khổ sở nói.
“Cậu định sống vì chúng tôi cả đời như thế sao?”
“Không được sao? Tôi đã được anh Miyabe cứu mạng, không, là anh Miyabe đã chết vì tôi”.
“Còn cuộc sống của cậu thì sao? Hạnh phúc của cậu sẽ thế nào?”
“Tôi có vị hôn thê. Khi tôi trở thành học viên dự bị, hôn ước đã được hủy bỏ nhưng nếu tôi sống sót trở về, có thể tôi đã sống cùng cô ấy”.
“Cô gái đó bây giờ ra sao?”
“Cô ấy đã mất trong một trận không kích”.
Matsuno im lặng. Giữa hai người có một khoảng lặng khá dài. Người phá vỡ sự im lặng đó là Matsuno.
“Cậu tận lực vì chúng tôi như thế, chỉ vì ân tình với anh Miyabe thôi sao?”. Matsuno nhìn thẳng vào mắt ông, ánh mắt sắc sảo. Ông bất giác đưa mắt sang hướng khác.
“Tôi thật đáng xấu hổ”. Ông quay lưng về phía Matsuno. “Quả là vì ân nghĩa với anh Miyabe. Nhưng tôi tận lực vì chị không phải chỉ vì thế. Tôi là một thằng đê tiện!”
Tiếng ve ở đâu đó vang lên. Ông bật khóc vì sự xấu xa và tủi thẹn của mình. Khi ấy, có thứ gì đó nhẹ nhàng chạm vào vai ông. Quay lại, Matsuno đang đặt tay lên vai ông. Từ mắt Matsuno một giọt nước mắt lớn lăn xuống.
“Nghe tôi nói có được không?”
Ông gật đầu.
“Lần cuối cùng tôi gặp anh Miyabe... là khi anh ấy từ phương Nam trở về đất liền, lấy được vài ngày phép trở về Yokohama. Người ấy khi từ biệt đã nói nhất định sẽ sống trở về, dù có cụt tay, què chân, cũng sẽ trở về...”
Ông gật đầu.
“Sau đó, anh Miyabe còn nói Giả dụ có chết, ngay cả như thế, anh cũng sẽ trở về. Dù có đầu thai kiếp khác, anh cũng nhất định quay về bên em”.
Matsuno liếc nhìn ông. Đôi mắt ấy rất đáng sợ, lần đầu tiên ông nhìn thấy ở cô ấy.
“Khi lần đầu nhìn thấy cậu, tôi đã nghĩ anh Miyabe tái sinh quay về. Ngày hôm ấy, khi nhìn thấy cậu mặc chiếc áo choàng của anh ấy đứng trước cửa nhà, tôi nghĩ anh Miyabe đã giữ lời”.
Ông đã ôm chặt Matsuno. Cô ấy cũng ôm chặt ông. Cả hai cùng lặng lẽ khóc.
- Các cháu nghĩ rốt cuộc cũng là chuyện tình nam nữ thôi phải không?
Kể xong, ông ngoại hỏi. Tôi lắc đầu, không nói được câu gì.
- Thế là ông và Matsuno đã kết hôn. Chiến tranh đã kết thúc được chín năm. Sau đó, hai người chưa một lần nhắc đến Miyabe. Tuy nhiên chưa lúc nào chúng ta quên Miyabe. Matsuno cho đến khi mất vẫn tận tụy vì ông.
Tôi nhắm mắt hồi tưởng về bà. Bà trong ký ức của tôi là người có nụ cười nhẹ nhàng, hiền từ, vậy mà lại có cuộc đời như thế...
- Chuyện này ông chỉ nói riêng với tụi cháu thôi. Thật khó nói với Kiyoko. Chuyện này ông đã định mang theo xuống mồ. - Ông khẽ nói.
Tôi im lặng gật đầu.
- Matsuno sau chiến tranh vô cùng cực khổ. Thời gian ấy, phụ nữ một mình nuôi con, không người thân thuộc là chuyện vô cùng vất vả. Hiểu ý ông muốn nói không? Trước khi kết hôn, Matsuno đã nói hết với ông chuyện bản thân đã sống ra sao trong thời kỳ hậu chiến. Ông đã nghe hết toàn bộ và chấp nhận Matsuno. Hoàn toàn không do dự. - Ông thở mạnh. - Matsuno đã bị lừa... trở thành thê thiếp của trưởng nhóm Yakuza nọ. Cô ấy không kể chi tiết nhưng có lẽ bị khuất phục bởi tiền và vũ lực. Cũng không chừng là vì mất anh Miyabe nên đành phó thác số phận.
Chị Keiko ôm mặt.
- Thường thì khó thoát khỏi sự chi phối của thứ ác ma đó. Nhưng một chuyện bất ngờ đã xảy ra. Đó là việc lạ kỳ đến mức ông không nghĩ trên đời lại có chuyện kỳ diệu đến thế. - Ông ngoại hạ giọng. - Tại ngôi nhà mà Matsuno bị giam cầm, nhiều người đã bị tấn công và giết chết. Hai thằng Yakuza của nhóm cũng bị thương nặng.
Tôi cảm giác có một luồng hơi lạnh chạy dọc sống lưng.
- Khi ấy Matsuno đã trải qua một chuyện kỳ lạ. Cô ấy cũng có mặt tại đó nhưng... Cô ấy đã nhìn thấy một người đàn ông mang thanh gươm đẫm máu, đó là một người không hề quen biết. Người đàn ông toàn thân đầy máu ấy ném ví tiền xuống cho Matsuno, và bảo “Cố mà sống”.
Trong đầu tôi hiện lên hình ảnh một người.
- Matsuno đã nghĩ người đó là anh Miyabe sống lại. Vốn biết không thể nào có chuyện đó nhưng trên đời lại xảy ra kỳ tích như thế. Có lẽ những việc đó được dẫn dắt bởi tình cảm của anh Miyabe dành cho Matsuno. Cô ấy đã được anh Miyabe bảo vệ. Ông nghĩ cũng giống như việc kéo ông đến với Matsuno, Miyabe đã điều khiển tên sát nhân đó.
Người đàn ông đó chính là ông ấy. Tuy không có căn cứ nhưng tôi tin chắc là vậy. Cả ông ấy sau chiến tranh cũng không ngừng tìm kiếm vợ của ông ngoại... Cả ông ấy cũng liều mạng vì Miyabe Kyuzo.
Nước mắt tôi rơi xuống. Ông ngoại nhìn tôi chăm chăm.
- Matsuno khi lâm chung đã nói cảm ơn ông.
Chuyện đó tôi cũng nhớ. Đó là câu nói cuối cùng của bà. Sau đó, bà ngoại nhắm mắt.
- Các cháu còn nhớ khi ấy ông đã khóc không?
Tôi gật đầu. Khi ấy, ông ngoại đã đã bám lấy thi thể của bà gào khóc vang vọng cả căn phòng bệnh.
- Ông đã muốn nói người cám ơn phải là ông. Nhưng ông khóc còn vì một lý do nữa. Khi ấy ông đã nhìn thấy Miyabe. Miyabe mặc bộ đồ bay, đang đứng bên cạnh Matsuno. Anh ấy đến đón Matsuno... Chuyện ấy chắc các cháu không tin phải không? - Ông ngoại nói, ánh mắt nhìn xa xăm. - Không tin cũng không sao. Bản thân ông cũng có cảm giác như mình thấy ảo giác. Có lẽ là ảo giác. Nhưng lúc ấy cảm giác của ông rất rõ ràng. Sau đó anh Miyabe và Matsuno rời đi. Lúc Matsuno rời đi, đã nói lời cám ơn với ông.
- Ông ơi, không phải vậy đâu. - Tôi nói. - Bà yêu ông mà.
- Cháu cũng nghĩ vậy. - Chị Keiko nói.
Ông ngoại không đáp, một giọt lệ trào ra.
- Ông chắc cũng chẳng còn lâu nữa. Thời trẻ thì sợ chết. Khi nhận lệnh tấn công cảm tử cuối cùng cũng sợ hãi. Khi ấy ông đã cố gắng chiến đấu với nỗi sợ hãi đó. Tuy nhiên, bây giờ ông còn không sợ gì nữa. Ông đã sống một cuộc đời hạnh phúc. Khi ông chết, Matsuno sẽ đến đón ông, anh Miyabe cũng sẽ đến phải không?
Sau đó, ông bảo muốn được ở một mình một lát.
Tôi và chị rời khỏi phòng. Khi ra khỏi nhà ông ngoại, trời đã tối hẳn. Vừa bước ra khỏi cổng, chị đã bật khóc dữ dội. Tôi ôm lấy vai chị. Từ khi trưởng thành đến giờ tôi và chị mới lại ôm nhau như thế. Tôi không biết rằng chị nhỏ nhắn đến thế. Trên khu phố tĩnh lặng, chỉ vang lên tiếng khóc của chị. Đường ướt sũng, khi nãy có cơn mưa rào chăng?
Một lúc sau, chị Keiko bình tĩnh trở lại rồi nói:
- Chị sẽ từ chối lời cầu hôn của anh Takayama. Chị cứ suy nghĩ suốt nhưng đến hôm nay chị đã rõ tình cảm của mình.
Mặt chị đẫm nước mắt nhưng có vẻ tươi tỉnh.
- Chắc cũng khỏi cần phải viết thành sách.
Đáp lại câu đùa của tôi, chị cười nói:
- Vậy thì đã sao. - Sau đó nói khẽ. - Chuyện này chị chưa nói với Kentaro, chị nhận được một lá thư dài từ anh Fujiki. Anh ấy xin lỗi về việc cầu hôn qua điện thoại, còn viết rằng mong chị hãy hạnh phúc. Sau đó, kể lại những kỷ niệm ngày xưa, có cả nhiểu ký ức đẹp mà chị đã quên... Anh Fujiki vẫn luôn xem trọng chị... - Chị Keiko vừa nói lại vừa khóc. - Nếu chị không lấy người mình yêu, thì ông sẽ giận chị mất.
Tôi gật đầu, vô tinh ngước nhìn bầu trời đêm. Thật ngạc nhiên, cả bầu trời đầy sao. Đây là lần đầu tiên tôi thấy nhiều sao đến thế trên bầu trời Tokyo. Chị cũng ngước lên nhìn trời.
Khi ấy, tôi thấy một ngôi sao phương đông vẽ một đường ngắn và biến mất.
------------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét