Người Đàn Ông Mang Tên Ove
Tác giả: Fredrik Backman
Người dịch: Hoàng Anh
NXB Trẻ - 8-2017
7
KHOAN MỘT CÁI LỖ TRÊN TRẦN
Ông Ove đã mặc cái quần dài đẹp nhất của mình cùng với chiếc
áo sơ-mi đi nhà thờ Chủ nhật. Ông cẩn thận trải một tấm nhựa trên sàn nhà, như
để bảo vệ một tác phẩm nghệ thuật. Không phải vì nó còn quá mới (mặc dù ông vừa
chà giấy nhám nó chưa đầy hai năm trước). Ông khá chắc chắn việc treo cổ không
làm người ta đổ nhiều máu, và cũng không lo lắng vì lượng bụi bê tông rơi xuống
từ lỗ khoan. Cũng như vết trầy cái ghế đẩu gây ra khi ông đá văng nó. Ông đã bịt
mấy miếng lót vào chân ghế, nên nó sẽ không để lại dấu vết gì cả. Không, tấm nhựa
mà ông đang cẩn thận trải ra để che phủ toàn bộ tiền sảnh, phòng khách và phần
lớn căn bếp hoàn toàn không dành cho ông.
Ove hình dung sẽ có cả đám cò nhà đất vây quanh chỗ này, cố
chui vào ngôi nhà trước cả khi xe cứu thương đưa thi thể ra ngoài. Ông không thể
để cho những gã con hoang đó làm trầy xước sàn nhà bằng những đôi giày của
chúng, dù là bước qua hay không bước qua xác ông. Chắc chắn rồi!
Ông đặt giữa sàn nhà một chiếc ghế đẩu phủ lấm tấm những vệt
sơn của ít nhất bảy màu sắc khác nhau. Vợ của ông nhất trí về mặt nguyên tắc là
cứ mỗi sáu tháng bà sẽ để ông sơn lại một căn phòng trong nhà. Hay nói chính
xác hơn là mỗi sáu tháng bà lại muốn một màu sơn khác. Thế là bà gọi cho bên
trang trí nội thất để hỏi giá. Rồi bà nói với ông về số tiền sẽ phải trả cho thợ.
Và ông lại lọ mọ lôi chiếc ghế để sơn phòng ra.
Người ta hay nhớ những thứ lạ lùng khi mất đi người thân nào
đó. Những thứ nhỏ xíu. Những nụ cười. Cách bà trở mình trong lúc ngủ. Thậm chí
là việc sơn lại một căn phòng cho bà.
Ông mở hộp lấy mũi khoan ra. Chúng là thứ quan trọng nhất
khi khoan tường. Không phải máy khoan, mà là mũi khoan. Cũng giống như bạn phải
có bộ lốp thích hợp cho ô tô thay vì băn khoăn về má phanh và những thứ vớ vẩn
tương tự. Bất cứ ai có hiểu biết đều nói như vậy. Ove đứng ở giữa phòng để ước
lượng khoảng cách, rồi tựa như một bác sĩ phẫu thuật xem xét chỗ dụng cụ của
mình, ông quan sát các mũi khoan. Ông chọn một mũi, gắn nó vào máy khoan, rồi bấm
nút khởi động vài lần để tiếng máy vang lên. Ông lắc đầu, cho rằng nó chưa chuẩn,
và thay mũi khoan. Lặp lại thao tác bốn lần, cuối cùng ông cũng hài lòng và vừa
bước đi vừa vung vẩy cái máy khoan như một khẩu súng lớn.
Ove đứng giữa phòng khách, mắt ngước lên nhìn trần nhà. Ông
phải đo trước khi bắt đầu. Để cho cái lỗ khoan thật sự nằm chính giữa. Không
còn gì tệ hơn việc khoan bừa trên trần nhà.
Ông đi lấy một chiếc thước dây rồi tiến hành đo từ bốn góc -
mỗi góc hai lần cho chắc ăn - trước khi đánh dấu điểm trung tâm của trần nhà bằng
một chữ thập.
Bước xuống ghế, ông đi một vòng để xem tấm lót bằng nhựa có
nằm đúng vị trí hay chưa. Ông mở khóa cửa chính để cho người ta không phải phá
chúng khi vào nhà đưa ông xuống. Đó là một cánh cửa bền chắc, còn tồn tại được
nhiều năm nữa.
Ông mặc áo vest vào, kiểm tra cái phong bì ở túi trong. Cuối
cùng, ông quay tấm ảnh vợ đặt ở cửa sổ sao cho bà nhìn ra ngoài, về phía cái
lán. Ông không muốn bà thấy việc ông sắp làm, nhưng không dám đặt sấp tấm ảnh
xuống. Vợ của ông luôn cằn nhằn khi họ đến nơi nào đó không có tầm nhìn. Bà cần
“thứ gì đó sống động để nhìn”, như lời bà nói. Thế nên ông quay mặt bà ra phía
cái lán, tự nhủ rằng con mèo phiền toái đó sẽ quay lại. Vợ ông thích con mèo
phiền toái.
Cầm lấy máy khoan cùng với cái móc, ông đứng thẳng người
trên ghế đẩu, và bắt đầu khoan. Khi tiếng chuông cửa vang lên lần đầu tiên, ông
nghĩ rằng mình nghe nhầm và phớt lờ nó. Ở lần thứ hai, ông nhận ra có người
đang bấm chuông thực sự, và cũng phớt lờ nó.
Đến lần thứ ba thì ông ngừng khoan và quắc mắt nhìn cánh cửa.
Làm như ông có thể dùng ý nghĩ để thuyết phục kẻ đứng ngoài kia biến đi. Nhưng
vô ích. Người đó rõ ràng đang nghĩ rằng cách giải thích hợp lý nhất cho việc
cánh cửa không mở ra ngay từ đầu là do ông chủ nhà không nghe thấy tiếng
chuông.
Ông Ove bước xuống khỏi chiếc ghế đẩu, băng qua phòng khách
ra tiền sảnh. Không lẽ việc tự sát một cách yên bình lại khó khăn đến thế?
- Gì đấy? - Ông gắt giọng hỏi sau khi mở toang cửa.
Anh chàng cò hương vừa kịp rụt đầu tránh được cánh cửa trong
đường tơ kẽ góc.
- Chào bác! - Cô nàng bầu bí reo lên vui vẻ bên cạnh chồng.
Ông cụp mắt nhìn cô vợ, rồi ngước lên quan sát anh chồng. Cò
hương đang bận sờ nắn xem các bộ phận trên mặt có còn nằm đúng chỗ hay không.
- Của bác đấy. - Cô nói tiếp với giọng thân thiện, rồi dúi một
cái hộp nhựa màu xanh vào tay Ove.
Ove ngơ ngác.
- Bánh quy ạ. - Cô vội giải thích.
Ove chậm rãi gật đầu, như thể ghi nhận nó.
- Bác mặc đẹp quá. - Cô vợ mỉm cười.
Ông lại gật đầu.
Và ba người họ đứng đó, chờ đợi nhau nói tiếp. Cuối cùng cô
vợ nhìn anh chồng và lắc đầu.
- Ồ, thôi nào, anh để cái mặt của anh yên được không, cưng?
- Cô khẽ nói, rồi đẩy anh một cái.
Cò hương nhìn vợ và gật đầu. Anh nhìn Ove. Ông nhìn cô vợ.
Anh chồng chỉ vào cái hộp, mặt sáng bừng.
- Cô ấy là người Iran, bác biết đấy. Đi đâu cũng phải đem
theo đồ ăn.
Ông nhìn anh chồng với ánh mắt hờ hững. Anh chàng cò hương
càng ngập ngừng hơn.
- Dạ… cũng vì thế mà cháu hợp với người Iran. Họ thích nấu
ăn và cháu thích…
Đến đây thì anh ta ngừng lại. Ông Ove tỏ ra không mấy quan
tâm.
- … ăn. - Anh chàng nói nốt.
Anh chàng định làm cử chỉ gì đó để phụ họa cho câu nói,
nhưng rồi nhìn vợ và quyết định thôi.
- Còn gì nữa không? - Ông Ove hỏi với giọng mệt mỏi.
Cô vợ duỗi tay rồi đặt lên cái bụng bầu.
- Bọn cháu chỉ muốn có chút quà ra mắt bác, vì từ giờ chúng
ta đã là hàng xóm…
Ove gật đầu nhanh.
- Được rồi. Chào cô cậu.
Ông đóng cửa, nhưng cô vợ đã giơ tay ngăn lại.
- Và bọn cháu cũng muốn cảm ơn bác vì đã lùi xe giúp. Bác thật
tử tế!
Ove hừ một tiếng. Ông miễn cưỡng để ngỏ cửa.
- Không cần phải cảm ơn tôi vì chuyện đó.
- Có chứ, bác rất tử tế. - Cô vợ khăng khăng.
- Không, ý tôi là không cần phải cảm ơn, vì một người đàn
ông trưởng thành lẽ ra nên biết cách lùi ô tô có gắn rơ-mooc. - Ove đáp và nhìn
anh chàng cò hương, người đang nhìn ông như thể không biết đây có phải là một lời
sỉ nhục hay không.
Ove quyết định không giúp anh ta ra khỏi tình thế khó xử.
Ông quay gót và một lần nữa tìm cách đóng cửa.
- Tên của cháu là Parvaneh! - Cô vợ nói, một chân đặt trên
ngưỡng cửa.
Ove nhìn bàn chân, rồi nhìn khuôn mặt gắn trên cùng cơ thể với
nó. Ông không hiểu được hành động của cô ta.
- Cháu là Patrick! - Cò hương nói.
Cả Ove lẫn Parvaneh đều không buồn để ý tới anh chàng.
- Bác lúc nào cũng khó như vậy à? - Parvaneh thắc mắc một
cách nghiêm túc.
Ove nổi cáu:
- Tôi không khó.
- Có đấy ạ.
- Không hề.
- Vâng, vâng, bác nói chuyện ngọt như mía lùi ấy. - Cô vợ
đáp với giọng điệu khiến Ove cảm thấy cô ta ngụ ý điều ngược lại.
Ông buông nắm cửa ra và nhìn cái hộp trong tay mình.
- Ờ, bánh quy Ả Rập. Ngon chứ hả? - Ông lẩm bẩm.
- Ba Tư.
- Gì cơ?
- Ba Tư, chứ không phải Ả Rập. Cháu là người Iran… Đó là nơi
mà người ta nói tiếng Ba Tư ấy, bác biết không?
- Tiếng Ba Tư? Vì nó có ba mươi tư chữ cái à?
Tiếng cười của cô làm ông bất ngờ. Nó giống như nước có ga bị
rót quá nhanh và tuôn trào ra khỏi ly. Hoàn toàn lạc lõng trên nền xi măng xám
và những viên đá lát vuông vức. Giòn tan, tinh quái, không bị gò bó vào khuôn
khổ hay phép tắc nào.
Ove lùi lại một bước và giẫm phải một miếng băng dính dưới
sàn. Bực bội giãy giãy chân, ông làm bung một góc tấm nhựa bảo vệ. Khi cố gỡ cả
miếng băng dính lẫn tấm nhựa, ông bị vấp và càng làm nó bung ra nhiều hơn. Rồi
ông cũng lấy được thăng bằng và đứng trên ngưỡng cửa, cố gắng trấn tĩnh lại.
Ông túm lấy nắm cửa, nhìn anh chàng cò hương và tìm cách chuyển chủ đề.
- Vậy cậu đang làm công việc gì?
Anh ta nhún vai mỉm cười, hơi e dè.
- Cháu làm tư vấn IT.
Ove và Parvaneh lắc đầu nhịp nhàng tựa như hai vận động viên
bơi nghệ thuật. Trong một thoáng nó làm ông bớt ghét cô ta một chút, mặc dù ông
chỉ miễn cưỡng thừa nhận điều đó.
Cò hương dường như không nhận thấy gì. Anh chỉ tò mò nhìn
cái khoan mà ông Ove đang cầm chắc trên tay như một du kích cầm khẩu AK47.
Sau khi nhìn ngó chán chê, anh nghiêng người tới trước và
nhòm vào trong nhà của ông Ove.
- Bác đang làm gì thế ạ?
Ông nhìn anh ta như cách người ta nhìn một người thấy người
khác cầm trên tay cái khoan mà còn hỏi cầm khoan làm gì.
- Tôi đang khoan. - Ông đáp.
Parvaneh nhìn chồng và đảo mắt. Nếu cái bụng bầu không chứng
tỏ cô ta sẵn lòng góp phần duy trì bộ gen của anh chàng, chắc ông đã thấy cô ta
dễ thương.
- À. - Cò hương gật đầu.
Rồi anh ta chồm người tới trước và quan sát mặt sàn phòng
khách đang được phủ tấm nhựa bảo vệ.
Anh ta tươi hẳn lên và nhìn ông, miệng cười toe.
- Trông cứ như là bác sắp sát hại ai đó vậy!
Ove im lặng quan sát cò hương. Anh ta hắng giọng, hơi do dự.
- Ý cháu là, nó giống như cảnh trong một tập phim Dexter. -
Anh nói tiếp với một nụ cười dè dặt hơn. - Đó là một series phim truyền hình… về
một tay chuyên đi sát hại người khác.
Nói đến đó anh ta im lặng, sục mũi giày vào khe hở giữa các
viên đá lát đường.
Ove lắc đầu, không rõ là vì câu nào.
- Tôi có việc phải làm. - Ông nói cộc lốc và siết chặt tay nắm
cửa.
Cô vợ ý tứ thúc cùi chỏ vào sườn anh chồng. Anh ta liếc vợ,
rồi cố huy động dũng khí nhìn Ove với vẻ mặt của một người chờ bị cả thế giới bắn
dây thun vào người.
- Dạ, chuyện là thế này, thực ra bọn cháu sang đây vì cháu
muốn mượn một vài thứ…
Ông Ove nhướng mày.
- Vài thứ?
Anh hắng giọng.
- Một cái thang, và một cái khóa có đầu ngôi sao.
- Ý cậu là khóa lục giác?
Cô vợ gật đầu. Anh chồng tỏ vẻ hoang mang.
- Nó là khóa ngôi sao đúng không ạ?
- Khóa lục giác. - Parvaneh và ông Ove cùng sửa một lượt.
Cô vợ đắc thắng gật đầu với anh chồng, tay chỉ ông Ove.
- Đó, anh nghe thấy bác nói chưa?
Anh ta lẩm bẩm gì đó không rõ.
- Còn anh thì cứ khăng khăng bảo nó là khóa ngôi sao.
Anh chồng tiu nghỉu ra mặt:
- Có đâu mà?
- Có.
- Không có.
- Có, anh đã khăng khăng như thế!
- Không hề!
Ánh mắt của ông Ove chuyển từ người này sang người kia như
thể đang xem một trận đấu quần vợt.
- Có. - Một người nói.
- Không. - Người kia đáp.
- Mọi người đều dùng chữ đó!
- Đa số nói không có nghĩa là nó đúng!
- Chúng ta tra Google xem nào.
- Phải rồi. Tra Google đi. Hoặc Wikipedia.
- Đưa điện thoại của em cho anh.
- Anh dùng điện thoại của anh đi.
- Trời ơi, anh không mang nó theo, hiểu chưa!
- Giỏi nhỉ!
Ông Ove nhìn hai người trong lúc cuộc tranh cãi tiếp tục diễn
ra. Họ giống như hai cái máy sưởi hỏng đua nhau rít lên xem cái nào kêu to hơn.
- Chúa ơi! - Ông lẩm bẩm.
Parvaneh bắt đầu bập môi bắt chước tiếng một con côn trùng
bay để chế giễu chồng. Hiệu quả tức thì. Với cả anh ta và Ove. Ông bỏ cuộc.
Ông đi vào nhà, treo áo vest lên, đặt cái khoan xuống, xỏ
đôi giày gỗ, rồi đi ngang qua chỗ họ để tới cái lán. Ông gần như chắc chắn cả
cô vợ lẫn anh chồng đều không buồn để ý tới mình. Họ vẫn còn cãi nhau chí chóe
khi ông vác cái thang quay lại.
- Anh khiêng giúp bác ấy đi chứ, Patrick. - Parvaneh nói to
khi trông thấy ông Ove.
Cò hương đi về phía ông trên những bước chân lóng ngóng. Ông
nhìn anh ta như thể đang quan sát một người mù đi trước đầu xe buýt. Đến lúc đó
Ove mới nhận ra là trong lúc ông đi ra ngoài, lãnh địa của ông đã bị một người
nữa xâm nhập.
Anita, vợ của Rune, đang đứng nhìn họ bên cạnh Parvaneh. Ove
quyết định cách phản ứng hợp lý duy nhất là giả vờ như không nhìn thấy bà ta. Mọi
thái độ khác nơi ông đều chỉ khuyến khích bà ta mà thôi. Ông đưa cho anh chàng
cò hương một cái hộp hình trụ, trong đó có cả bộ khóa lục giác.
- Ồ, nhiều thật đấy. - Anh chàng vừa nói vừa trố mắt nhìn
cái hộp.
- Cậu cần cỡ nào?
Anh ta nhìn ông với vẻ mặt của một người không đủ tự tin để
nói ra điều mình đang nghĩ.
- Cỡ… thông thường ạ?
Ove nhìn anh ta hồi lâu.
- Cậu dùng cái này cho việc gì? - Cuối cùng ông hỏi.
- Để lắp một cái tủ áo IKEA mà bọn cháu đã tháo rời khi chuyển
nhà. Cháu chẳng nhớ đã cất bộ khóa ngôi sao ở đâu nữa.
Ông nhìn cái thang.
- Cậu đặt cái tủ áo ở trên nóc nhà hay sao?
Anh chàng cò hương bật cười và lắc đầu.
- À… dạ, cháu hiểu ý bác rồi. Cháu mượn cái thang vì cửa sổ
trên tầng bị kẹt. Không tài nào mở ra được. - Anh ta thêm vào mấy chữ cuối, như
thể nếu không thì ông Ove không thể hiểu được chữ “kẹt”.
- Vậy tức là cậu định mở nó từ bên ngoài?
Anh chàng cò hương gật đầu rồi vụng về đỡ lấy cái thang từ
tay Ove. Ông nhìn anh ta và định nói gì nữa, nhưng lại thôi. Ông quay sang phía
cô vợ.
- Thế sao cô phải sang tận đây?
- Để động viên tinh thần ạ. - Parvaneh nói liến thoắng.
Ông có vẻ không hoàn toàn tin điều đó. Cò hương cũng vậy.
Ánh mắt của ông miễn cưỡng chuyển sang phía vợ của Rune. Bà
ta vẫn đứng đó. Tưởng như đã hàng năm trời ông không gặp bà ta. Trông Anita già
hẳn đi. Dạo này mọi người dường như đều bị lão hóa sau lưng ông.
- Vâng? - Ông mở lời.
Vợ của Rune cười nhẹ và chắp hai tay trước bụng.
- Ove à, anh cũng biết đấy, tôi không muốn làm phiền anh,
nhưng mấy cái máy sưởi trong nhà tôi hình như bị làm sao ấy. Không có tí hơi
nóng nào. - Bà ta nói với một cách thận trọng, rồi lần lượt mỉm cười với những
người xung quanh.
Parvaneh và chồng mỉm cười đáp lại. Ông Ove nhìn xuống cái đồng
hồ móp méo của mình.
- Không ai làm việc trong khu phố này nữa hay sao? - Ông thắc
mắc.
- Tôi nghỉ hưu rồi. - Anita nói với giọng tựa như xin lỗi.
- Còn cháu thì nghỉ đẻ. - Parvaneh tiếp lời, tay vỗ vỗ cái bụng
bầu.
- Cháu làm tư vấn IT. - Anh chàng cò hương cũng lên tiếng một
cách tự hào.
Một lần nữa Ove và Parvaneh đồng loạt lắc đầu.
Vợ của Rune cố nài thêm:
- Tôi nghĩ có thể là do mấy cái máy sưởi.
- Chị xả gió chúng chưa?
Anita lắc đầu, tò mò hỏi lại:
- Anh nghĩ có thể là do vậy sao?
Ove đảo mắt.
- Bác Ove! - Parvaneh thốt lên với giọng của một cô giáo quở
trách học trò. - Bác đừng có khó như thế.
- Tôi đã nói với cô rồi, tôi không khó.
Ánh mắt của cô ta không hề nao núng. Ông hừ một tiếng, rồi
quay lại đứng trên ngưỡng cửa. Như vậy là quá đủ rồi. Ông chỉ muốn chết thôi. Tại
sao những con người điên rồ này không chịu hiểu điều đó?
Parvaneh đặt tay lên cánh tay của bà Anita một cách khích lệ.
- Cháu tin chắc bác Ove có thể giúp bác sửa lại máy sưởi.
- Như thế thì tốt quá, Ove. - Vợ của Rune nói ngay, mặt sáng
rỡ.
Ove đút tay vào túi. Ông đá đá miếng nhựa bị bung lên ở ngưỡng
cửa.
- Ông chồng của chị không thể tự lo những chuyện như vậy
trong nhà mình hay sao?
Vợ của Rune lắc đầu ngao ngán.
- Không, Rune dạo này ốm yếu lắm, anh biết đấy. Người ta bảo
đó là bệnh Alzheimer. Anh ấy phải ngồi xe lăn. Mọi chuyện không dễ dàng…
Ove gật đầu vẻ thông cảm, như thể ông được nhắc điều mà vợ
ông đã nói với ông hàng ngàn lần và ông luôn quên nó đi.
- Phải rồi, phải rồi. - Ông đáp với giọng sốt ruột.
- Bác thổi gió giúp bác ấy mấy cái máy sưởi nhé. Đi mà bác!
- Parvaneh nài.
Ông liếc nhanh sang cô, định phản bác câu gì đó, nhưng rồi
ông cụp mắt xuống đất.
- Không lẽ đó là đòi hỏi quá đáng hay sao? - Cô nàng bầu bí
tiếp tục nhìn xoáy vào ông, tay khoanh lại trước bụng.
Ove lắc đầu.
- Không phải là thổi gió, mà là xả gió… Chúa ơi! - Ông ngẩng
mặt lên nhìn những người hàng xóm. - Các người chưa bao giờ xả gió máy sưởi hay
sao?
- Chưa bao giờ. - Parvaneh đáp luôn.
Bà Anita nhìn sang anh chàng cò hương với ánh mắt lo lắng.
- Cháu chẳng hiểu mọi người đang nói gì đâu ạ. - Anh trấn
an.
Vợ của Rune nhẫn nhục gật đầu và quay sang phía Ove một lần
nữa.
- Nếu anh không phiền thì…
Ông vẫn đứng nguyên trên ngưỡng cửa, mắt nhìn xuống đất.
- Lẽ ra chị nên nghĩ đến chuyện này trước khi lật đổ tôi ở
cuộc họp tổ dân phố. - Ông khẽ nói và ho húng hắng.
- Trước khi gì cơ? - Parvaneh hỏi lại.
Vợ của Rune hắng giọng.
- Nhưng mà, Ove à, làm gì có lật đ…
- Có đấy. - Ông gắt.
Bà Anita nhìn sang Parvaneh với một nụ cười bối rối.
- Cô thấy đấy, ông nhà tôi và ông Ove đây chưa bao giờ hòa
thuận được với nhau. Trước khi Rune nhà tôi bị ốm, ông ấy là tổ trưởng tổ dân
phố, thế chỗ ông Ove. Lúc nhà tôi được bầu lên, đã có một chút xích mích giữa
hai người.
Ông Ove ngước mắt lên và chỉ thẳng ngón tay trỏ vào Anita.
- Một cuộc lật đổ! Chính xác là như thế.
Vợ của Rune gật đầu với Parvaneh.
- À, chuyện là trước cuộc họp đó, Rune đã tập hợp được một số
người ủng hộ đề nghị của mình, theo đó hệ thống sưởi trong các ngôi nhà sẽ được
thay thế. Và ông Ove ch…
- Anh ta biết cái quái gì về hệ thống sưởi kia chứ? - Ove lớn
tiếng.
Ông lập tức nhận được ánh mắt của Parvaneh và quyết định
không nói hết suy nghĩ của mình.
Vợ của Rune gật đầu.
- Có thể anh đúng, Ove. Nhưng dù sao thì bây giờ Rune cũng
đang đau ốm. Chấp nhau làm gì nữa. - Môi dưới của bà khẽ run lên.
Rồi Anita trấn tĩnh lại, hất cằm lên một cách cứng cỏi, và hắng
giọng.
- Phía bảo trợ xã hội cho biết họ sẽ đưa Rune đi khỏi đây và
tống anh ấy vào viện dưỡng lão. - Bà cố gắng nói nốt.
Ove lại đút tay vào túi quần và lùi vào trong ngưỡng cửa.
Ông đã nghe đủ rồi.
Cùng lúc đó, anh chàng cò hương cho rằng đã đến lúc đổi chủ
đề để làm không khí nhẹ nhàng hơn một chút. Anh ta chỉ xuống sàn nhà.
- Kia là vệt gì thế ạ?
Ove quay lại, nhìn khoảng sàn lộ ra dưới tấm nhựa.
- Trông như thể sàn nhà bác có… có… vệt bánh xe. Bác đi xe đạp
trong nhà hay sao thế? - Anh ta hỏi tiếp.
Parvaneh tiếp tục chiếu ánh mắt tò mò vào Ove trong lúc ông
lùi thêm một bước nữa để chắn tầm quan sát của chồng cô.
- Không có gì đâu.
- Nhưng cháu có thể thấy nó… - Anh ta bối rối nói tiếp.
- Là vợ của ông ấy, Sonja. Bà ấy phải… - Anita cắt ngang,
nhưng đến lượt mình, bà bị ông Ove ngắt lời.
- Đủ rồi. Các người IM HẾT ĐI! - Ông hét lên với ánh mắt
điên dại.
Cả bốn người cùng im lặng, choáng váng như nhau. Bàn tay của
Ove run lên khi ông bước vào trong nhà và đóng sầm cửa lại.
Ông nghe thấy Parvaneh khẽ hỏi Anita về chuyện đã xảy ra. Bà
vợ của Rune lúng túng tìm từ, rồi đáp:
- Thôi, tốt hơn tôi nên về nhà. Chuyện của vợ ông ấy thì…
Quên nó đi. Mấy bà già như tôi hay bị cái tật nhiều chuyện thôi mà…
Ông nghe thấy tiếng cười gượng gạo của Anita, sau đó tiếng
bước chân của bà ta vang lên, gấp gáp đi vòng qua căn lán của ông. Giây lát
sau, cô nàng bầu bí và anh chàng cò hương cũng ra về.
Trong tiền sảnh nhà ông chỉ còn lại sự im lặng.
Ove buông người xuống chiếc ghế, thở nặng nhọc. Tay ông vẫn
còn run rẩy như thể ông đang đứng trong nước đá ngập đến thắt lưng. Trống ngực
ông đập thình thịch. Dạo này nó xảy ra ngày càng nhiều. Ông phải gắng sức để hớp
một chút không khí, như một chú cá bị đưa ra khỏi chậu nước. Bác sĩ ở công ty của
ông bảo nó là hiện tượng mãn tính và ông không được làm việc quá sức. Nói thì dễ
lắm.
“Giờ thì ông có thể về nhà nghỉ ngơi”, các sếp của ông đã
nói như vậy. “Với quả tim trở chứng và những thứ khác”. Họ gọi đó là “nghỉ hưu
non”, nhưng lẽ ra họ nên nói thẳng là “sa thải”. Một phần ba thế kỷ làm việc để
rồi ông bị đối xử như thế đấy.
Ove không rõ mình ngồi trên cái ghế đẩu bao lâu, với cái máy
khoan trong tay và nhịp tim đập mạnh đến nỗi ông nghe được tiếng thình thịch của
nó trong đầu. Trên bức tường, bên cạnh cửa ra vào, có một tấm ảnh chụp ông và
Sonja. Lần ấy hai vợ chồng đi sang Tây Ban Nha du lịch. Bà có làn da rám nắng,
mặc chiếc váy đỏ, và nom vô cùng hạnh phúc. Ove đứng bên cạnh nắm tay vợ. Ông
ngồi đó khoảng chừng một tiếng và nhìn bức ảnh không rời mắt. Trong tất cả điều
mà ông nghĩ mình tiếc nhớ nhất về bà, điều ông thực sự ao ước có thể làm được một
lần nữa là nắm lấy tay bà. Sonja hay co ngón trỏ lại, giấu nó vào lòng bàn tay
ông. Và ông luôn cảm thấy trên đời này không có gì là không thể mỗi khi bà làm
như vậy. Trong tất cả những thứ ông tiếc nhớ, đó là thứ ông nhớ nhiều nhất.
Ove chậm rãi đứng dậy. Ông đi vào phòng khách. Leo lên cái
ghế đẩu. Ông khoan cái lỗ trên trần rồi gắn móc treo vào.
Xong xuôi, ông bước xuống ghế đẩu và xem xét thành quả công
việc.
Ông bước ra tiền sảnh, mặc áo vest vào, sờ nắn chiếc phong
bì trong túi áo. Ông đã tắt hết đèn đuốc trong nhà, rửa sạch tách cà phê, và gắn
cái móc trong phòng khách. Xong hết các việc rồi.
Ông lấy sợi dây thừng từ cái móc treo áo trong tiền sảnh. Thật
dịu dàng, ông dùng mu bàn tay ve vuốt những chiếc áo khoác của vợ mình một lần
cuối. Rồi ông đi vào phòng khách, thắt một nút thòng lọng bằng sợi dây thừng, gắn
nó vào cái móc trên trần, trèo lên chiếc ghế đẩu, và tròng đầu vào thòng lọng.
Ông dùng chân đá cái ghế.
Nhắm mắt lại, Ove cảm thấy nút thòng lọng thít quanh cổ mình
như hàm của một con thú hoang to xác.
8
(NGÀY TRƯỚC)
DẤU CHÂN CỦA BỐ ÔNG
Bà tin vào định mệnh. Theo bà, mọi con đường ta đi trong cuộc
đời, dù là hướng này hay hướng khác, đều dẫn tới một thứ đã được định sẵn cho
chúng ta.
Tất nhiên ông chỉ lẩm bẩm cho qua chuyện trong lúc tập trung
vào một cái đinh vít hoặc cái gì đó mỗi khi bà bắt đầu nói như thế. Nhưng ông
không bao giờ bất đồng với bà. Có lẽ với bà, định mệnh là một “thứ gì đó”, ông
không muốn lạm bàn. Nhưng với ông, định mệnh là “một người nào đó”.
Trở thành một đứa trẻ mồ côi vào năm mười sáu tuổi là một việc
rất kỳ lạ. Mất đi gia đình của mình trước khi kịp xây dựng gia đình riêng để
thay thế nó. Đó là một kiểu cô đơn rất đặc biệt.
Tỉ mỉ và có trách nhiệm, Ove đã hoàn tất hai tuần lễ làm việc
trên đường ray. Và trong sự ngạc nhiên của chính mình, cậu nhận ra mình thích
nó. Có một sự tự do nhất định khi làm một công việc. Kiểm soát mọi thứ bằng đôi
bàn tay và chứng kiến thành quả cho nỗ lực của mình. Ove chưa từng ghét trường
học, nhưng cậu cũng không thấy được mục đích của nó. Cậu thích toán và học vượt
hai năm so với các bạn cùng lớp trong môn này. Còn với các môn học khác, thành
thực mà nói, cậu không quá quan tâm đến chúng.
Nhưng chuyện này là một điều gì đó hoàn toàn khác. Một điều
phù hợp với cậu hơn nhiều.
Khi kết thúc ca làm việc của ngày cuối cùng, Ove cảm thấy
chán chường. Không chỉ vì cậu sẽ phải quay lại trường để đi học, mà vì lúc này
cậu mới nhận ra không hiểu mình sẽ kiếm sống bằng cách nào. Bố là người tốt về
nhiều mặt, đương nhiên rồi, nhưng Ove phải thừa nhận là bố để lại cho cậu một
di sản không có gì nhiều nhặn ngoài ngôi nhà xuống cấp, chiếc Saab cũ nát, và
chiếc đồng hồ đeo tay móp méo. Sẽ không có chuyện Ove chấp nhận sự cứu trợ của
nhà thờ, Chúa có thể tin vào điều đó, Ove đã độc thoại như vậy trong phòng thay
đồ, cho mình và có lẽ cho cả Chúa.
- Nếu ngài phải lấy đi cả bố lẫn mẹ tôi, thì cứ việc giữ lại
số tiền của ngài! - Cậu hét với cái trần nhà.
Rồi Ove thu dọn đồ đạc và ra về. Không rõ Chúa hay ai đó là
người đã lắng nghe, chỉ biết rằng khi cậu bước ra khỏi phòng thay đồ, một người
thuộc ban giám đốc đã đứng đợi sẵn.
- Cậu Ove? - Người đàn ông cất tiếng hỏi.
Ove gật đầu.
- Ngài giám đốc muốn bày tỏ sự cảm kích của mình vì cậu đã
làm việc rất tích cực trong hai tuần lễ vừa qua. - Người đàn ông đi thẳng vào vấn
đề.
- Cảm ơn. - Ove đáp và dợm quay đi.
Nhưng người đàn ông đã giữ tay cậu lại. Ove dừng bước.
- Ngài giám đốc muốn hỏi xem cậu có quan tâm đến việc ở lại
đây và tiếp tục làm việc cho chúng tôi hay không?
Ove im lặng đứng nhìn người đàn ông, dường như để kiểm tra
xem đó là một lời nói thật hay một trò đùa. Rồi cậu chậm rãi gật đầu.
Khi Ove đi được vài bước, người đàn ông nói với theo:
- Ngài giám đốc bảo là cậu giống hệt bố!
Ove không quay lại. Nhưng đầu cậu ngẩng cao hơn trong lúc bước
tiếp.
Và cậu đã tiếp nối con đường của bố như thế. Cậu làm việc cần
cù, không bao giờ phàn nàn, cũng như không bao giờ ốm đau. Những người công
nhân làm cùng ca với Ove nhận thấy cậu khá trầm lặng và hơi kỳ quặc. Cậu không
bao giờ muốn tham gia uống bia với họ sau ca trực, và hình như cũng không quan
tâm đến phụ nữ, một chuyện càng kỳ quặc hơn. Nhưng cậu là con trai của bố, và
chưa bao giờ làm gì để họ phải phàn nàn. Nếu có ai nhờ Ove giúp một tay, cậu sẽ
giúp ngay. Nếu có ai nhờ trực hộ, cậu sẽ đồng ý không mảy may thắc mắc. Cứ thế,
theo thời gian, gần như tất cả bọn họ đều nợ Ove một vài lần trợ giúp, và cậu
được họ chấp nhận.
Khi chiếc xe tải thường chở họ ngược xuôi dọc theo đường tàu
bị hỏng cách thành phố hai mươi cây số, giữa một cơn mưa đêm lớn nhất của năm
đó, Ove đã sửa nó thành công chỉ với một chiếc tua vít và nửa cuộn băng dính.
Sau lần ấy, các công nhân đường sắt đánh giá cậu là người dễ mến.
Tối đến, Ove luộc xúc xích và khoai tây, rồi vừa ngồi nhai
trệu trạo vừa nhìn ra ngoài cửa sổ bếp. Rốt cuộc cậu đem đồ vào ngồi ăn trong
chiếc Saab.
Sáng hôm sau cậu quay lại với công việc. Cuộc sống của Ove
tuần tự trôi qua như thế. Cậu thích sự nề nếp, thích biết được những gì sẽ diễn
ra. Từ sau cái chết của bố, cậu bắt đầu phân biệt rõ hơn loại người làm những
chuyện nên làm và loại làm điều ngược lại. Những người chỉ làm và những người
chỉ nói. Cậu nói ngày càng ít đi và làm ngày càng nhiều hơn.
Ove không có bạn bè. Nhưng mặt khác cậu cũng gần như không
có kẻ thù, ngoại trừ Tom, người kể từ sau khi được cất nhắc lên làm đốc công đã
không bỏ lỡ một cơ hội nào để phá hỏng cuộc đời của Ove. Hắn giao cho cậu những
công việc bẩn thỉu và nặng nhọc nhất, quát mắng cậu, ngáng chân cậu trong bữa
sáng, cử cậu kiểm tra gầm toa xe và cho chúng chạy trong lúc cậu còn nằm trên
đường ray, không có gì bảo vệ. Khi Ove hốt hoảng tránh ra vừa kịp lúc, Tom cười
khinh bỉ và hét lên: “Cẩn thận đấy, kẻo lại mất mạng giống như ông già mày đấy
con ạ!”.
Ove chỉ cúi đầu làm thinh. Cậu thấy không việc gì phải thách
thức một người đàn ông to gấp đôi mình. Cậu đi làm hằng ngày và hoàn thành công
việc của mình - như vậy là đủ đối với bố, nên với cậu cũng vậy. Các đồng nghiệp
của Ove quen dần với tính cách của cậu. “Khi người ta không nói nhiều thì họ
cũng không phun ra những lời bậy bạ”, một trong những công nhân lớn tuổi nói với
Ove vào một buổi chiều bên đường tàu. Cậu gật đầu đồng tình. Một số người hiểu
được điều đó, số khác thì không.
Và cũng chỉ có một số người hiểu được thái độ của Ove tại
văn phòng giám đốc vào một ngày nọ.
Khi đó là hai năm sau cái chết của bố cậu. Ove vừa tròn mười
tám tuổi. Tom bị nghi lấy cắp tiền trong hộc đựng tiền của một toa xe, và Ove
có lẽ là nhân chứng duy nhất. Trên toa xe lúc đó chỉ có hai người. Theo lời giải
thích của một người quản lý tại văn phòng ngài giám đốc lúc Tom và Ove được triệu
tập lên, không một ai tin Ove là thủ phạm. Tất nhiên cậu không phải là người lấy
tiền.
Ove ngồi đợi trên một chiếc ghế gỗ ở phía ngoài phòng làm việc
của ngài giám đốc. Cậu nhìn sàn nhà được mười lăm phút thì cửa mở. Tom bước ra,
hai nắm đấm siết chặt tới mức da tay trắng bệch.
Tom nhìn vào mắt Ove, nhưng cậu tiếp tục nhìn xuống sàn nhà
cho đến khi được đưa vào phòng làm việc của ngài giám đốc.
Nhiều người đàn ông mặc com-lê có vẻ mặt nghiêm nghị đang ngồi
quanh phòng. Bản thân ngài giám đốc thì đi qua đi lại phía sau bàn làm việc, sắc
mặt hơi đỏ cho thấy ông đang giận đến nỗi không thể đứng yên một chỗ.
- Cậu có muốn ngồi xuống không, Ove? - Một trong những người
đàn ông mặc com-lê lên tiếng.
Ove nhìn vào mắt ông ta, và nhận ra ông ta là ai. Bố đã từng
sửa ô tô cho ông ta một lần. Một chiếc Opel Manta với phần động cơ khá lớn. Ông
ta mỉm cười thân thiện với cậu và chỉ tay vào chiếc ghế giữa phòng, tựa như muốn
cho Ove biết cậu đang ở giữa những người bạn và có thể thư giãn.
Ove lắc đầu. Người đàn ông gật đầu, tỏ ra thông cảm…
- Thế này nhé, đây chỉ là một thủ tục thôi, Ove. Không ai ở
đây tin cậu ăn trộm tiền cả. Cậu chỉ cần nói cho chúng tôi biết ai đã làm chuyện
đó.
Ove nhìn xuống sàn nhà. Nửa phút trôi qua.
- Cậu Ove?
Ove không đáp.
Giọng nói nghiêm khắc của ngài giám đốc rốt cuộc cũng phá
tan sự im lặng:
- Trả lời câu hỏi đi, Ove!
Cậu vẫn im lặng, mắt nhìn xuống sàn. Nét mặt của những người
đàn ông mặc com-lê trong phòng chuyển từ sự tin tưởng sang hoang mang.
- Ove, cậu biết là phải trả lời câu hỏi. Cậu có lấy tiền
không?
- Không. - Cậu đáp với giọng cứng cỏi.
- Vậy thì ai lấy?
Ove lặng thinh.
- Trả lời câu hỏi đi! - Ngài giám đốc ra lệnh.
Ove ngước mắt lên. Cậu thẳng người lại và đáp:
- Tôi không phải là loại người đi hớt lẻo chuyện người khác.
Cả căn phòng lặng ngắt trong khoảng thời gian phải đến vài
phút.
- Cậu nên hiểu, Ove… rằng nếu cậu không nói cho chúng tôi biết
người lấy tiền là ai, và nếu chúng tôi có từ một nhân chứng trở lên khẳng định
thủ phạm là cậu, thì chúng tôi sẽ đi đến kết luận rằng cậu chính là người lấy
tiền.
Ove gật đầu, nhưng không nói thêm gì cả. Ngài giám đốc nhìn
Ove chăm chú như thể cậu là người lừa bịp trong một ván bài poker. Gương mặt
Ove vẫn bình thản. Ngài giám đốc gật đầu một cách dứt khoát.
- Vậy thì cậu có thể đi.
Và Ove ra về.
Tom đã đổ vấy cho Ove khi hắn ta ở trong văn phòng của ngài
giám đốc mười lăm phút trước đó. Buổi chiều cùng ngày, hai công nhân trẻ trong
kíp của Tom, những kẻ sốt sắng muốn lấy lòng đàn anh, đã tuyên bố họ chứng kiến
tận mắt Ove ăn trộm tiền. Nếu Ove vạch mặt Tom thì sẽ có mâu thuẫn giữa các lời
khai, nhưng cậu lại im lặng. Sáng hôm sau, người đốc công bảo Ove thu dọn đồ
trong tủ của mình và đến trình diện trước cửa phòng làm việc của giám đốc.
Đứng gần cửa phòng thay đồ, Tom đã buông lời chế giễu Ove
khi cậu bước ra.
- Đồ ăn cắp. - Hắn ta rít lên.
Ove đi qua chỗ Tom mà không buồn ngẩng đầu lên.
- Ăn cắp! Ăn cắp! Ăn cắp! - Một trong những công nhân trẻ đã
làm chứng chống lại cậu cũng phụ họa theo, cho đến khi một công nhân lớn tuổi
tát một cái làm hắn im bặt.
- ĐỒ ĂN CẮP! - Tom hét to đến nỗi mấy chữ đó vẫn còn văng vẳng
trong đầu Ove vài ngày sau đó.
Cậu đi thẳng ra ngoài cửa mà không ngoái đầu lại, rồi hít một
hơi thật dài. Cậu điên tiết lắm, nhưng không phải vì bị gọi là kẻ cắp. Cậu chưa
bao giờ để tâm đến lời xúc xiểm của những người khác. Nhưng nỗi hổ thẹn của
chuyện đánh mất công việc mà bố mình đã theo đuổi cả đời cứ như một que sắt
nung đỏ chọc vào ngực cậu.
Ove có thừa thời gian để suy nghĩ về cuộc đời của mình trong
chuyến đi cuối đến văn phòng ngài giám đốc với gói đồ cá nhân trên tay. Cậu
thích làm việc tại đây. Các nhiệm vụ đích thực, dụng cụ đích thực, một công việc
thực sự. Ove quyết định rằng một khi đã làm việc xong với các cảnh sát, cậu sẽ
cố gắng đi tìm một công việc mới giống như thế này. Có lẽ cậu sẽ phải đi xa. Việc
có tên trong hồ sơ cảnh sát đòi hỏi một khoảng cách địa lý thích hợp trước khi
mọi thứ nguội đi và không còn làm người khác quan tâm nữa. Chẳng có gì giữ chân
mình ở đây cả, Ove nghĩ bụng. Nhưng ít nhất cậu cũng không trở thành người hớt
lẻo. Ove hi vọng điều đó sẽ làm bố mình khoan dung hơn cho chuyện cậu đánh mất
công việc của bố khi hai người đoàn tụ với nhau.
Ove ngồi trên cái ghế gỗ trước cửa phòng giám đốc gần bốn
mươi phút, trước khi một phụ nữ trung niên mặc váy bó màu đen và đeo kính mắt xếch
bước ra mời cậu vào phòng. Bà đóng cửa lại sau lưng Ove. Cậu đứng đó với vài bộ
đồ bảo hộ lao động trong tay. Ngài giám đốc ngồi sau bàn làm việc, hai bàn tay
chắp lại đặt trước mặt. Hai người nhìn nhau lâu như thể trong mắt người này thì
người kia là một bức tranh đặc biệt thu hút trong viện bảo tàng.
- Chính Tom là người lấy tiền. - Ngài giám đốc lên tiếng.
Ove không nói gì. Ngài giám đốc gật đầu.
- Nhưng những người đàn ông trong nhà cậu không phải là loại
người hớt lẻo.
Ove vẫn không đáp, nhưng ngài giám đốc nhận thấy cậu thẳng
lưng thêm một chút khi nghe nhắc đến gia đình mình.
Một lần nữa ông ta gật đầu, đeo kính lên mắt, xem qua một số
giấy tờ, rồi bắt đầu viết. Như thể cậu công nhân trẻ tuổi đã bốc hơi khỏi căn
phòng trong những giây phút đó. Ove đứng trước mặt giám đốc lâu đến nỗi cậu bắt
đầu tự hỏi liệu ông ta có còn nhớ đến sự hiện diện của mình hay không. Cậu hắng
giọng. Ngài giám đốc ngước mắt lên.
- Vâng?
- Điều làm nên một người đàn ông không phải là lời nói, mà
chính là hành động của anh ta. - Ove nói.
Ngài giám đốc ngạc nhiên nhìn cậu. Đó là câu dài nhất mà họ
được nghe thấy cậu công nhân trẻ tuổi nói ra kể từ khi vào làm việc ở công ty
đường sắt này hai năm về trước. Thực lòng mà nói, Ove cũng không hiểu chúng từ
đâu mà ra. Cậu chỉ cảm thấy cần phải nói ra như vậy.
Ngài giám đốc lại nhìn xuống đống giấy tờ, viết lách gì đó.
Rồi ông đẩy một tờ giấy qua bàn làm việc, và chỉ chỗ cho Ove ký tên vào.
- Đây là lá đơn xin nghỉ việc của cậu. - Ông ta nói.
Ove ký tên. Cậu đứng thẳng người lại với một vẻ mặt cứng cỏi.
- Ngài có thể bảo họ vào trong này. Tôi đã sẵn sàng.
- Ai cơ? - Giám đốc hỏi lại.
- Cảnh sát. - Ove đáp, hai nắm tay siết lại bên hông.
Ngài giám đốc lắc đầu quầy quậy và lục lọi đống giấy tờ của
mình.
- Biên bản ghi lời chứng rõ ràng đã bị thất lạc trong cái đống
hỗn độn này.
Ove dồn trọng lượng cơ thể từ chân nọ sang chân kia, không
biết phải trả lời ra sao. Ngài giám đốc phẩy tay, nói mà không nhìn vào Ove:
- Cậu có thể đi được rồi đó.
Ove quay gót đi ra ngoài hành lang, và khép cửa lại sau lưng
mình. Cậu cảm thấy thật nhẹ nhõm.
Khi cậu ra đến cửa trước, người phụ nữ lúc nãy bắt kịp cậu.
Trước khi Ove kịp phản ứng thì bà ta đã ấn một tờ giấy vào tay cậu.
- Ngài giám đốc muốn cậu biết rằng cậu đã được nhận làm nhân
viên quét dọn ban đêm trên các chuyến tàu ngoại tỉnh. Sáng mai cậu sẽ lên trình
diện đốc công. - Bà ta nói.
Ove nhìn bà ta không chớp mắt, rồi nhìn xuống tờ giấy. Bà ta
ghé người lại gần cậu.
- Ngài giám đốc còn bảo tôi chuyển một lời nhắn thế này: Cậu
đã không lấy cái ví tiền hồi cậu chín tuổi, nên ông ấy dám cá là bây giờ cậu
cũng không lấy gì hết. Sẽ thật đáng tiếc nếu ông ấy phải đuổi ra đường con trai
của một người đàn ông chân chính chỉ vì cậu ấy có một số nguyên tắc.
Ove đã trở thành người quét dọn ca đêm như thế. Nếu chuyện ấy
không xảy ra, ông sẽ không bao giờ trông thấy bà khi tan ca vào buổi sáng hôm
đó. Cùng với đôi giày đỏ, chiếc ghim cài áo bằng vàng, mái tóc nâu óng mượt. Và
tiếng cười luôn làm cho ông có cảm giác như ai đó chạy chân trần trong tim mình
suốt phần đời còn lại.
Bà luôn nói rằng “mọi con đường đều dẫn tới một thứ đã được
định sẵn cho chúng ta”. Với bà, có lẽ nó là một thứ gì đó.
Nhưng với Ove, nó là một người nào đó.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét