Người Đàn Ông Mang Tên Ove
Tác giả: Fredrik Backman
Người dịch: Hoàng Anh
NXB Trẻ - Năm xuất bản 8-2017
25
MỘT MIẾNG TÔN
Ông Ove đợi cho đến sau bữa sáng, khi đã để con mèo ra
ngoài. Chỉ khi đó ông mới lấy một cái lọ bằng nhựa từ ngăn kệ trên cùng trong
phòng tắm xuống. Ông ước lượng sức nặng của nó trên tay như thể sắp ném nó đi
đâu đó rồi lắc khẽ để xem còn bao nhiêu viên thuốc.
Trong giai đoạn cuối, bác sĩ đã kê rất nhiều thuốc giảm đau
cho bà Sonja. Phòng tắm của họ vẫn còn giống như một kho chứa hàng của bọn
mafia Colombia. Dĩ nhiên ông không tin vào thuốc men, ông luôn cho rằng nó chỉ
có tác dụng tâm lý, và do vậy nó chỉ phát huy hiệu quả trên những người có thần
kinh yếu đuối. Nhưng ông vừa mới nhận ra thuốc không phải là một cách tự sát hiếm
gặp.
cách tự sát hiếm gặp. Ông nghe thấy tiếng động ngoài cửa trước.
Con mèo đã quay về và đang cào móng vào cửa, kêu la như bị mắc bẫy. Làm như nó
đã đọc được suy nghĩ của ông vậy. Ove biết ông sẽ làm nó thất vọng, nhưng ông
không thể mong đợi nó sẽ thông cảm cho hành động của mình.
Ông nghĩ đến cảm giác của việc kết liễu đời mình theo cách
này. Trước giờ ông chưa từng dùng thuốc. Ông cũng hiếm khi nào say xỉn. Cảm
giác mất kiểm soát hoàn toàn xa lạ đối với ông. Theo năm tháng, ông đã nhận ra
chính cái cảm giác đó là thứ làm người ta thích thú và cố gắng đi tìm, nhưng
theo ông chỉ có một kẻ hoàn toàn ngớ ngẩn mới có thể thấy tình trạng mất kiểm
soát là thứ đáng để nhắm tới. Ông tự hỏi liệu mình có cảm thấy buồn nôn, có cảm
thấy đau đớn khi các cơ quan trong người đầu hàng và dừng hoạt động hay không.
Hay ông chỉ ngủ thiếp đi trong lúc cơ thể lịm dần?
Lúc này con mèo đang kêu gào ầm ĩ ngoài cửa. Ove nhắm mắt và
nghĩ đến Sonja. Không phải ông là loại người buông xuôi chờ chết. Ông không muốn
bà nghĩ như thế. Nhưng nó quá sai rồi, tất cả chuyện này. Bà đã cưới ông. Để rồi
bây giờ ông không biết làm sao để sống tiếp khi không có cái mũi của bà ấp vào
hõm cổ của mình. Thế đấy.
Ove mở nắp lọ và đổ những viên thuốc ra lòng bàn tay. Ông
nhìn chúng, như thể chờ đợi chúng biến hình thành những con robot sát thủ. Dĩ
nhiên chuyện đó là không thể. Ông thấy thật khó giải thích được làm thế nào những
viên thuốc nhỏ màu trong này có thể gây hại cho mình, bất kể số lượng mà ông uống
vào. Lúc này con mèo phát ra âm thanh giống như nó đang khạc tuyết đầy cánh cửa
nhà ông. Nhưng rồi nó bị cắt ngang bởi một âm thanh khác hẳn.
Tiếng chó sủa.
Ove ngẩng đầu lên. Mọi thứ yên ắng được vài giây, sau đó ông
nghe thấy tiếng con mèo ré lên đau đớn. Lại một tràng sủa nữa. Và cây sậy tóc
vàng la hét gì đó.
Ông bấu lấy cái bồn rửa mặt và nhắm mắt lại, như thể làm vậy
sẽ ngăn được những âm thanh kinh khủng kia. Nhưng không. Cuối cùng ông thở dài
và đứng thẳng người lại. Ông mở nắp lọ thuốc và bỏ những viên thuốc vào trong
trở lại. Rồi ông bước xuống cầu thang. Khi băng qua phòng khách, ông đặt lọ thuốc
lên bậu cửa sổ. Qua lớp kính, ông trông thấy cây sậy tóc vàng đứng ngoài đường
đang co chân lấy đà lao về phía con mèo.
Ove mở cửa nhà đúng lúc cô ta sắp sửa đá vào đầu con mèo.
Con vật mau lẹ thụp đầu tránh gót giày bén ngót và lùi về phía lán cất dụng cụ
của ông. Nùi giẻ sủa điên cuồng, nước dãi văng tứ tung như một con chó dại. Có
một túm lông dính nơi răng của nó. Theo như Ove nhớ thì đây là lần đầu tiên ông
trông thấy cây sậy tóc vàng không đeo kính râm. Đôi mắt màu xanh lục của cô ta
ánh lên những tia độc ác. Cô ta lùi lại, co chân chuẩn bị đá cú nữa, nhưng rồi
trông thấy ông Ove và khựng lại nửa chừng. Môi dưới cô ta run lên tức giận.
- Tôi sẽ xử nó! - Cô ta rít lên và chỉ vào con mèo.
Ove lắc đầu một cách chậm rãi, không rời mắt khỏi cây sậy
tóc vàng. Cô ta nuốt nước bọt. Có gì đó trong nét mặt rắn đanh như đá tảng của
ông làm cho cô ta nao núng.
- Nó là một con m-è-è-o-o hoang mất dạy. Nó phải chết. Nó
dám cào Prince! - Cô ta lắp bắp.
Ove không nói gì, đôi mắt ông đen kịt lại. Ngay cả con chó
cũng lùi ra xa.
- Đi nào, Prince! - Cô ta gọi nó, rồi cả chủ lẫn tớ lập tức
biến mất sau góc nhà như thể bị ông Ove đẩy từ phía sau.
Ove đứng nguyên tại chỗ, miệng thở hổn hển. Ông ấn tay lên
ngực và cảm thấy quả tim mình đập loạn xạ. Ông khẽ rên lên. Rồi ông nhìn con
mèo. Con mèo nhìn ông. Nó có một vết thương mới ở mạng sườn. Bộ lông nó lại một
lần nữa rớm máu.
- Chín mạng của mày sẽ không giúp mày cầm cự được đâu, mèo ạ.
- Ông nói.
Con mèo liếm chân, mặt không có vẻ gì là thích đếm. Ông Ove
gật gù rồi bước tránh qua một bên.
- Thôi, vào nhà đi con.
Con mèo lững thững bước qua ngưỡng cửa. Ông đóng cửa lại.
Ông đứng giữa phòng khách. Ánh mắt của Sonja chiếu vào ông từ
mọi hướng. Đến bây giờ ông mới nhận ra mình đã để ảnh của bà ở khắp nơi: trên
bàn bếp, trên tường hành lang và trên cầu thang. Bà ở bậu cửa sổ phòng khách,
nơi con mèo vừa nhảy lên và đang ngồi ngay phía sau bà. Nó nhìn ông với ánh mắt
bất bình và gạt lọ thuốc rơi xuống sàn. Khi ông nhặt lọ thuốc lên, đôi mắt con
mèo nhìn ông như thể muốn hét toáng lên: “J'accuse!”. [Tôi tố cáo! Tiếng Pháp
trong nguyên bản]
Ông Ove đá một cú vào len tường rồi quay gót đi sang bếp để
cất lọ thuốc vào trong tủ. Sau đó ông pha cà phê và đổ nước vào một cái bát cho
con mèo.
Họ uống trong im lặng.
Ove nhặt cái bát không lên và đặt nó cạnh tách cà phê của
ông trong bồn rửa. Ông đứng chống nạnh ở đó một lúc. Rồi ông quay người đi ra hành
lang.
- Đi theo tao. - Ông nói mà không buồn nhìn con mèo. - Chúng
ta sẽ dạy cho con chó cỏ đó một bài học.
Ove mặc chiếc áo khoác mùa đông màu xanh biển, xỏ đôi giày gỗ,
rồi để cho con mèo bước ra khỏi cửa trước. Ông nhìn những tấm ảnh của Sonja
trên tường. Bà mỉm cười với ông. Việc chết đi cũng chưa phải là quá cấp thiết,
nó có thể đợi thêm vài giờ, ông nghĩ bụng rồi theo con mèo bước ra ngoài đường.
Ove đi tới nhà của Rune. Ông đợi vài phút sau khi bấm
chuông. Tiếng lê bước chậm rãi vang lên trong nhà trước khi ổ khóa kêu lạch cạch,
giống như một con ma di chuyển với sợi xích nặng nề buộc phía sau. Cánh cửa rốt
cuộc cũng mở ra cho thấy ông Rune đang đứng nhìn Ove và con mèo với đôi mắt trống
rỗng.
- Anh có tôn không? - Ove hỏi luôn không rào đón.
Rune tập trung nhìn vào ông trong vài giây, như thể bộ não của
ông ta đang tuyệt vọng tìm kiếm một ký ức.
- Tôn á? - Ông ta lẩm bẩm. Trông ông ta chẳng khác nào một
người vừa mới tỉnh ngủ và đang cố nhớ xem mình đã mơ thấy gì.
- Tôn. Đúng rồi. - Ove gật đầu.
Rune nhìn Ove, hay đúng hơn là nhìn xuyên qua người ông. Đôi
mắt của ông ta có sự long lanh của một chiếc xe mới đánh bóng. Rune trông rất hốc
hác, lưng thì còng. Bộ râu của ông ta đã ngả màu muối tiêu với phần rìa ngoài
nhiều muối hơn tiêu. Ông ta từng có một cơ thể rắn chắc khiến người ta kiêng nể,
nhưng giờ đây lớp trang phục treo hờ hững trên người ông ta như những miếng giẻ
rách. Ove nhận thấy Rune đã trở nên rất, rất già, và suy nghĩ đó khiến ông
choáng váng khủng khiếp. Ánh mắt của Rune đảo tới đảo lui một chút, rồi miệng
ông ta bắt đầu nhăn nhúm lại.
- Ove? - Rune thốt lên.
- Vâng! Chắc chắn tôi không phải là Giáo hoàng rồi. - Ove
đáp.
Lớp da chùng trên khuôn mặt của Rune nhăn thành một nụ cười
mệt mỏi. Hai người đàn ông, một thời từng thân với nhau trong chừng mực nào đó,
giờ đây giương mắt ngó nhau. Một người từ chối quên đi quá khứ, người kia không
tài nào nhớ nổi nó.
- Ông già rồi. - Ove nói.
Rune nhăn mặt.
Giọng nói đầy lo lắng của Anita vang lên, và chỉ một giây
sau những bước chân nhỏ nhắn gấp gáp đã nhanh chóng đưa bà ra tới cửa.
- Có ai đến à, Rune? Ông làm gì ở ngoài đó vậy? - Bà hỏi với
giọng sợ hãi ngay trước khi xuất hiện trên ngưỡng cửa.
Rồi bà trông thấy Ove.
- Chào anh, Ove. - Bà nói và khựng lại.
Ove đứng đó với đôi tay đút trong túi quần. Con mèo bên cạnh
ông trông như thể cũng sẽ làm như thế nếu trên người nó có túi hoặc tay. Anita
trông nhỏ xíu nhợt nhạt trong chiếc quần dài xám, áo gi-lê đan tay cũng màu
xám, mái tóc muối tiêu và làn da xám ngoét. Nhưng Ove nhận thấy đôi mắt bà hơi
đỏ và sưng. Bà nhanh chóng đưa tay quẹt mắt và chớp mi để xua đi nỗi đau trong
đó. Giống như những phụ nữ thuộc thế hệ của bà hay làm khi họ đứng trước cửa
nhà mỗi sớm mai, cương quyết quét sạch lo buồn ra khỏi nhà mình với một cây chổi.
Anita dịu dàng đặt tay lên vai Rune và đưa ông quay về chiếc xe lăn đặt cạnh cửa
sổ phòng khách.
- Chào anh, Ove. - Bà lặp lại với một giọng thân tình pha lẫn
ngạc nhiên sau khi quay lại cửa. - Tôi có thể giúp gì được anh đây?
- Chị có tôn không? - Ông hỏi.
Anita ngơ ngác không hiểu.
- Tôn gì cơ? - Bà hỏi lại.
Ove thở hắt ra.
- Chúa ơi, tôn lợp mái ấy.
Anita vẫn ngơ ngác.
- Sao tôi lại có thứ đó được?
- Rune chắc chắn có trong lán dụng cụ. - Ove đáp và chìa tay
ra.
Anita gật đầu. Bà lấy chìa khóa của cái lán đang treo trên
tường xuống và đặt vào tay của ông Ove.
- Tôn á? - Bà hỏi lại một lần nữa.
- Phải. - Ove đáp.
- Nhưng nhà chúng tôi có lợp mái tôn đâu nhỉ.
- Chuyện đó thì liên quan gì?
Anita lắc đầu.
- Ờ… đúng là không liên quan. Dĩ nhiên rồi.
- Người ta luôn thủ sẵn một tấm tôn trong nhà. - Ove nói,
như thể đó là điều hiển nhiên nhất quả đất.
Anita gật đầu theo cái cách mà người ta làm khi đối diện với
sự thật không thể bác bỏ rằng một tấm tôn là thứ mà những người bình thường có
đầu óc minh mẫn luôn cất đâu đó trong lán dụng cụ của họ phòng khi hữu sự.
- Nhưng nếu vậy thì sao anh lại không có? - Bà hỏi, chủ yếu
để có cái mà nói.
- Tôi dùng hết rồi. - Ove đáp.
Anita gật đầu tỏ vẻ thông cảm, theo cái cách mà người ta làm
khi đối diện với sự thật không thể bác bỏ rằng không có gì bất thường khi một
người đàn ông bình thường có nhà không lợp mái tôn lại có nhu cầu nhiều đến nỗi
dùng hết chỗ tôn của mình.
Một phút sau, Ove đắc thắng quay lại ngưỡng cửa, kéo theo một
tấm tôn to như cái thảm trải sàn phòng khách. Anita hoàn toàn không hiểu làm thế
nào một tấm kim loại to đến thế lại lọt vào nhà bà mà bà không hề hay biết.
- Tôi đã nói mà. - Ove gật đầu.
Ông trả chìa khóa lại cho Anita.
- Ờ… đúng là như lời anh đã nói. - Bà buộc phải thừa nhận.
Ove quay về phía cửa sổ. Rune nhìn ông. Ngay lúc Anita quay
gót đi vào nhà, ông ta lại nở nụ cười nhăn nhó và giơ tay vẫy khẽ. Dường như
ông ta đã biết đích xác Ove là ai và ông đang làm gì ở đây.
Anita đứng im, ngập ngừng, rồi đối mặt với người hàng xóm.
- Bên bảo trợ xã hội lại đến. Họ muốn đưa Rune đi khỏi đây.
- Bà nói mà không ngước mắt lên.
Nhắc đến tên của chồng, giọng nói của Anita chợt khô giòn
như giấy báo cũ.
Ove búng tấm tôn.
- Họ bảo tôi không đủ khả năng chăm sóc cho ông ấy. Nhất là
với tình trạng bệnh tật của Rune và những thứ khác. Họ nói ông ấy phải được đưa
tới một nhà dưỡng lão.
Ove tiếp tục búng vào tấm tôn.
- Ông ấy sẽ chết mất nếu được đưa vào nhà dưỡng lão, Ove à.
Anh biết đấy… - Anita thì thào.
Ove gật đầu và nhìn xuống một đầu lọc thuốc lá đông cứng nằm
kẹt trong khe hở giữa hai viên đá lát đường. Ông thoáng nhận thấy Anita hơi bị
niễng. Ove nhớ một năm về trước Sonja đã giải thích với ông đó là do ca phẫu
thuật thay hông. Hồi đó bàn tay của Anita cũng run khá nhiều. “Giai đoạn đầu của
chứng đa xơ cứng”, Sonja đã nói như vậy. Vài năm trước đó thì Rune cũng bắt đầu
mắc hội chứng Alzheimer.
- Vậy thì con trai anh chị có thể về đây đỡ đần bố mẹ. - Ông
khẽ nói.
Anita ngẩng đầu lên. Bà nhìn vào mắt ông và mỉm cười độ lượng.
- John á? Thằng bé đang ở bên Mỹ, anh biết đấy. Nó lo cái
thân nó còn chưa xong. Anh biết thừa bọn trẻ bây giờ mà!
Ove không đáp. Anita nhắc tới “nước Mỹ” như thể nó là thiên
đường, nơi đứa con ích kỷ của bà đã chuyển tới sống. Ông chưa một lần nào gặp lại
thằng nhóc đó từ khi Rune đổ bệnh. Giờ thì nó đã là một người đàn ông trưởng
thành, và nó không có thời gian để chăm sóc bố mẹ.
Anita chợt bừng tỉnh như thể nhớ ra mình vừa làm một việc
không hay. Bà mỉm cười xin lỗi ông Ove.
- Xin lỗi anh. Tôi không nên đứng đây làm anh mất thì giờ với
những câu nói lẩn thẩn của mình.
Nói đoạn bà quay trở vào nhà. Ông Ove đứng đó cùng với tấm
tôn và con mèo. Ông lẩm bẩm gì đó ngay trước khi cánh cửa đóng lại. Anita ngạc
nhiên quay người, ló mặt qua khe cửa và hỏi ông:
- Xin lỗi, anh vừa nói gì à?
Ove đổi chân, né tránh ánh mắt của bà Anita. Rồi ông quay
người bỏ đi và buột miệng đáp:
- Tôi nói là nếu chị gặp rắc rối với mấy cái máy sưởi chết
tiệt đó, chị có thể sang gõ cửa nhà tôi. Bây giờ tôi sống với con mèo.
Khuôn mặt nhăn nheo của Anita bừng sáng với một nụ cười ngạc
nhiên. Bà bước một chân ra khỏi cửa, tưởng như muốn nói gì đó. Có lẽ là về
Sonja, có lẽ bà muốn nói rằng mình nhớ người bạn thân của mình đến mức nào. Rằng
bà rất nhớ những gì bốn người họ chia sẻ với nhau khi dọn nhà đến đây gần bốn
mươi năm về trước. Rằng thậm chí bà cũng thấy nhớ cái cách mà ông Ove và ông
Rune tranh cãi với nhau. Nhưng Ove đã khuất dạng.
Quay trở về lán dụng cụ của mình, ông Ove lấy bình ắc-quy của
chiếc Saab và hai cái kẹp kim loại lớn ra. Ông đặt tấm tôn nằm trên lớp đá lát
nằm giữa cái lán và ngôi nhà, rồi cẩn thận rải tuyết che phủ nó.
Khi xong việc, ông đứng cạnh con mèo và chiêm ngưỡng tác phẩm
của mình hồi lâu. Một cái bẫy chó hoàn hảo, được giấu kỹ dưới tuyết và nối với
nguồn điện, sẵn sàng ra tay. Đây là một sự trả đũa tương xứng. Lần tới, khi cây
sậy tóc vàng dắt cái nùi giẻ chết tiệt đi ngang qua chỗ này và con chó đó nảy
sinh ý đồ tè bậy trên vỉa hè nhà ông, nó sẽ tưới nước thẳng lên một tấm kim loại
nhiễm điện. Chúng ta sẽ xem cảnh đó vui như thế nào, ông Ove tự nhủ.
Con mèo nghiêng đầu và nhìn tấm kim loại.
- Như một tia sét đánh thẳng vào bàng quang của nó. - Ông
Ove nói.
Con mèo nhìn ông hồi lâu. Hình như nó muốn nói rằng: “Ông
không định làm thế thật đấy chứ?”. Ông Ove đút tay vào túi quần và lắc đầu.
- Không… tao nghĩ là không. - Ông rầu rĩ thở dài.
Đoạn ông cất bình ắc quy, các kẹp điện cực và tấm tôn vào
nhà để xe. Không phải vì con chó chết tiệt kia và cây sậy tóc vàng không đáng bị
điện giật một cú nhớ đời. Mà bởi vì ông biết thời gian gần đây không ai nhắc
ông về sự khác biệt giữa độc ác bởi người ta phải làm thế và độc ác bởi người
ta có thể.
- Mặc dù vậy, đó vẫn là một sáng kiến cực kỳ hay ho. - Ông
nói với con mèo khi họ quay trở vào trong nhà.
Con mèo bước vào phòng khách với điệu bộ như muốn nói: “Phải,
tất nhiên rồi…”.
Sau đó họ ăn trưa.
26
MỘT XÃ HỘI KHÔNG CÒN AI BIẾT SỬA XE ĐẠP NỮA
Không phải Sonja không khuyến khích Ove kết bạn. Thỉnh thoảng
bà vẫn làm thế. Ông coi việc bà không cằn nhằn quá nhiều về chuyện đó là bằng
chứng cho tình yêu của bà. Nhiều người cảm thấy khó khăn khi phải sống cùng với
một người chỉ thích ở một mình. Nó gây bực bội cho những ai không thể thích
nghi với điều đó. Nhưng Sonja không bao giờ cằn nhằn quá mức. “Em chấp nhận anh
đúng như con người thật của anh”, bà từng nói như thế.
Tuy vậy, Sonja cũng đủ thông minh để nhận ra ngay cả những
người đàn ông như Ove cũng thích có ai đó để thỉnh thoảng trò chuyện cùng. Và
đã lâu ông không được làm điều đó.
- Tao thắng. - Ove nói cộc lốc khi nghe thấy tiếng thùng thư
đóng lại.
Con mèo nhảy khỏi bậu cửa sổ trong phòng khách và đi sang
nhà bếp. Cái đồ cay cú ăn thua, ông nghĩ bụng trong lúc bước ra cửa. Đã nhiều
năm rồi ông không có dịp đánh cược với người khác về thời điểm giao thư. Ông từng
chơi trò này với Rune trong những dịp nghỉ hè, và họ đã phát triển một hệ thống
phức tạp gồm các mốc và các khoảng ba mươi giây để xác định xem ai là người
đoán chính xác nhất. Hồi đó thư từ được giao đúng mười hai giờ, nên họ cần những
mốc phân định tỉ mỉ để biết ai thắng ai thua. Bây giờ thì mọi việc không như thế
nữa. Thư từ có thể được giao vào bất kể lúc nào, kể cả giữa buổi chiều. Bưu điện
làm việc theo kiểu tùy hứng và người nhận phải biết ơn về chuyện đó. Ông Ove đã
cố bày trò đánh cược với Sonja sau khi ông và Rune không thèm nhìn mặt nhau,
nhưng bà không hiểu được luật chơi. Thế là ông nghỉ chơi luôn.
Cậu nhóc lui lại vừa kịp để tránh bị hất văng khỏi thềm nhà
khi ông Ove mở toang cửa. Ông ngạc nhiên nhìn cậu trai mặc đồng phục bưu tá.
- Có chuyện gì thế? - Ông hỏi.
Lúng túng tìm cách trả lời, cậu ta mân mê một tờ báo và một
lá thư trên tay. Lúc đó ông mới nhận ra cậu ta chính là người đã cãi nhau với
ông về chiếc xe đạp dựng sai chỗ chỉ vài ngày trước đó. Chiếc xe mà cậu ta bảo
là đang định sửa. Với cái đám ranh con này, “sửa” đồng nghĩa với “ăn trộm và
rao bán trên mạng”, ông quá biết điều đó.
Nom cậu đưa thư còn kém hào hứng hơn cả ông Ove, nếu điều đó
là có thể, khi cậu ta nhận ra ông. Cậu ta giống như một anh bồi bàn không biết nên
phục vụ món ăn cho khách hay mang nó trở vào trong bếp và nhổ nước bọt vào đó.
Cậu ta thờ ơ nhìn Ove trước khi miễn cưỡng đưa ông chỗ thư báo cùng một câu “Của
ông đây!” cộc lốc. Ove cầm lấy, mắt không rời khỏi cậu ta.
- Thùng thư bị hỏng nên tôi phải giao theo cách này.
Nói đoạn cậu nhóc hất đầu về phía đống kim loại từng là
thùng thư của ông Ove trước khi bị một anh chàng cò hương không biết lùi xe
rơ-mooc tông gãy, và hất đầu về phía chỗ thư báo ông đang cầm.
Ove nhìn xuống chúng. Tờ báo là một trong những thứ rác rưởi
mà họ phát không ngay cả khi ông đã dán thông báo nói rõ rằng mình không cần.
Còn lá thư thì nhiều khả năng là thư quảng cáo. Đồng ý là tên và địa chỉ của
ông được viết bằng tay ở ngoài bì thư, nhưng chẳng qua cũng chỉ là một chiêu lừa
của bọn quảng cáo, nhằm làm cho người nhận tưởng nó là thư riêng, để rồi mở nó
ra và bị nhấn chìm trong mớ thông tin tiếp thị. Cái trò này còn lâu mới bịp được
ông.
Cậu thanh niên đứng đổi chân, mắt nhìn xuống đất. Có vẻ như
cậu ta đang có chuyện muốn nói.
- Còn gì nữa không? - Ông Ove hỏi.
Cậu ta luồn tay vào mớ tóc bết nhờn của một người dậy thì muộn.
- Có… con bà nó… có cái này tôi thắc mắc… Có phải vợ ông tên
là Sonja không?
Ove tỏ vẻ nghi ngờ. Cậu ta chỉ tay vào bì thư.
- Tôi thấy cái họ ghi trên đó. Cô giáo tôi cũng có họ giống
vậy. Tôi đâm thắc mắc…
Dường như cậu ta đang tự rủa sả mình vì đã nói ra điều đó. Cậu
ta quay gót bỏ đi. Ove hắng giọng và đá vào ngưỡng cửa.
- Chờ đã… nếu đúng thì sao? Có chuyện gì với Sonja à?
Cậu ta dừng chân.
- Là… con bà nó… là tôi quý mến cô, vậy thôi. Tôi… ông biết
rồi… tôi không rành đọc viết và mấy cái kiểu kiểu vậy.
Ove đã định nói: “tôi cũng đoán thế”, nhưng lại thôi. Cậu
thanh niên vụng về quay người tới lui, lúng túng luồn tay vào mái tóc, như thể
hi vọng bới ra được chữ nghĩa trên đó.
- Đó là người giáo viên duy nhất tôi từng học không cho rằng
tôi ngu như bò. - Cậu ta nói khẽ, như thể bị cảm xúc làm cho nghẹn ngào. - Cô
Sonja cô bảo tôi đọc cái ông… cái ông Shakespeare đó. Tôi còn không biết mình
có thể đọc nổi, ông hiểu không? Cô Sonja đã làm tôi đọc được những cuốn sách
dày cui và những thứ khác. Tôi buồn thối ruột khi biết tin cô qua đời.
Ove không đáp. Cậu thanh niên nhìn xuống đất và nhún vai.
- Có vậy thôi…
Cậu ta im lặng. Hai người một già một trẻ đứng đó, cách nhau
vài bước chân, đá đá lớp tuyết. Như thể họ đang đá tới đá lui một ký ức. Ký ức
về một người phụ nữ cứ nhất định nhìn thấy nhiều tiềm năng nơi những người đàn
ông hơn là họ tự thấy. Không ai trong hai người biết phải làm gì với trải nghiệm
chung đó.
- Cậu muốn làm gì với chiếc xe đạp đó? - Cuối cùng ông Ove
lên tiếng.
- Tôi đã hứa đem nó đi sửa cho bạn gái tôi. Nhà cô ấy ở đằng
kia. - Cậu thanh niên đáp, hất đầu về phía ngôi nhà ở cuối phố, đối diện với
nhà của bà Anita và ông Rune.
Đó là nơi những kẻ biểu quyết ủng hộ việc phân loại rác trú
ngụ khi không đi chơi Thái Lan hay đâu đó.
- Ờ… thật ra, cô ấy chưa phải là bạn gái tôi. Nhưng tôi muốn
cô ấy. Kiểu vậy.
Ove nhìn cậu trai theo cái cách của những người lớn tuổi soi
những lỗi ngôn ngữ mà người nhỏ tuổi hơn phạm phải trong khi nói chuyện.
- Thế cậu có dụng cụ không? - Ông hỏi.
Cậu ta lắc đầu.
- Cậu định sửa kiểu gì mà không có dụng cụ? - Ove thắc mắc,
ngạc nhiên thực sự.
Cậu ta nhún vai.
- Tôi không biết.
- Vậy sao cậu lại hứa sửa nó?
Cậu ta đá vào tuyết và đưa cả bàn tay lên vuốt mặt, bối rối.
- Tại vì tôi… thích cô ấy.
Ove không biết phải nói gì để đáp lại. Ông cuộn tròn tờ báo
lại và đập nó vào lòng bàn tay như một cây gậy.
- Thôi… tôi đi đây. - Cậu ta nói lí nhí và dợm quay người bỏ
đi.
- Quay lại đây sau giờ làm việc, tôi sẽ lấy cái xe ra cho cậu.
Câu nói của ông Ove dường như tự bật ra từ thinh không.
- Nhưng cậu phải đem theo dụng cụ sửa xe. - Ông nói thêm.
Cậu thanh niên tươi tỉnh hẳn lên.
- Ông nói thật không?
Ove tiếp tục đập tờ báo cuộn tròn vào tay. Cậu nhóc nuốt nước
bọt.
- Ông nói thật à! OK ngay. Nhưng mà khoan… con bà nó… hôm
nay không được rồi! Tôi… ơ… tôi còn phải đi làm công việc khác. Nhưng ngày mai…
ngày mai tôi sẽ tới. Ngày mai tôi tới lấy cái xe nhé?
Ove nghiêng đầu, tự hỏi liệu cậu trai trước mặt ông có phải
là một nhân vật trong phim hoạt hình bước ra đời thật hay không. Cậu ta hít một
hơi thật sâu và trấn tĩnh lại.
- Công việc khác? - Ông Ove hỏi tiếp, như thể ông là người dẫn
chương trình đố vui trên truyền hình và một thí sinh vừa cho ông đáp án chưa đầy
đủ.
- Tôi làm trong một quán cà phê vào buổi tối và dịp cuối tuần.
Cậu ta nói câu đó với tia hi vọng nhen lên trong đôi mắt. Rốt
cuộc cậu ta đã có thể cứu vãn mối quan hệ với cô bạn gái, người thậm chí không
biết mình là bạn gái của cậu ta.
- Ở quán có đồ nghề! Tôi có thể đem cái xe đạp tới đó! - Cậu
ta nói với giọng hào hứng.
- Hai công việc? Chỉ một thì không đủ sao? - Ove vừa hỏi vừa
dùng tờ báo cuộn tròn chỉ vào logo của bưu điện trên chiếc áo cậu ta đang mặc.
- Tôi đang để dành tiền. - Cậu ta giải thích.
- Cho việc gì?
- Mua ô tô.
Ove nhận thấy cậu ta đứng thẳng người lại khi nhắc tới chữ
“ô tô”. Ông ngần ngừ trong giây lát. Rồi ông chậm rãi đập tờ báo cuộn tròn vào
lòng bàn tay trở lại.
- Xe hiệu gì?
- Tôi đang địa một con Renault. - Cậu ta hớn hở đáp, ngực ưỡn
ra.
Bầu không khí bao quanh hai người bỗng đông cứng lại. Một sự
im lặng lạ lùng bao trùm lên họ. Nếu đây là một cảnh trong phim thì máy quay sẽ
chạy một vòng quanh họ trước khi ông Ove đánh mất sự điềm tĩnh.
- Renault? Renault sao? Cái hiệu xe Pháp chết tiệt đó! Cậu
không thể đi mua một chiếc xe Pháp được!!!
Cậu thanh niên trông như muốn nói gì đó nhưng không kịp, vì
đôi tay ông Ove đã vung loạn xạ như thể đang xua đuổi một con ong lì lợm.
- Chúa ơi, nhóc à! Cậu có biết gì về xe cộ không vậy?
Cậu nhóc lắc đầu. Ông Ove thở dài sườn sượt rồi đặt tay lên
trán giống như đang bị một cơn đau nửa đầu đột ngột hành hạ.
- Vậy làm thế nào cậu đem cái xe đạp tới tiệm cà phê nếu
không có ô tô? - Một lát sau ông hỏi, khi đã bình tĩnh hơn đôi chút.
- Tôi… chưa nghĩ ra. - Cậu ta đáp.
Ông Ove lắc đầu.
- Renault? Lạy Chúa nhân từ…
Cậu thanh niên gật đầu. Ông bực bội cau mày.
- Vậy cái tiệm cà phê ngớ ngẩn đó ở đâu? - Ông lẩm bẩm.
Hai mươi phút sau, Parvaneh ra mở cửa trong sự ngạc nhiên tột
độ. Ove đang đứng trước nhà cô, trầm ngâm đập tờ báo cuộn tròn vào lòng bàn
tay.
- Cô có cái tem màu xanh đó không?
- Cái gì ạ?
- Cô phải dán con tem “xe tập lái” màu xanh. Cô có nó không?
Cô gật đầu.
- Dạ có, nhưng…
- Hai tiếng nữa tôi sẽ quay lại đón cô. Chúng ta sẽ tập bằng
xe của tôi.
Nói đoạn ông quay gót và băng qua đường, không buồn đợi nghe
câu trả lời.
-----------
Còn tiếp.
-----------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét