Thứ Năm, 18 tháng 1, 2018

Người Đàn Ông Mang Tên Ove - Chương 29&30

Người Đàn Ông Mang Tên Ove

Tác giả: Fredrik Backman
Người dịch: Hoàng Anh
NXB Trẻ - Năm xuất bản 8-2017

29

CẬU TRAI CONG

- Cháu nói nghiêm túc đấy, chúng ta đang đi đâu đây? - Parvaneh hỏi với giọng hụt hơi.
- Đi sửa một thứ. - Ông Ove nói trong lúc đi trước cô ba bước, với con mèo chạy lon ton bên cạnh.
- Thứ gì ạ?
- Một thứ!
Parvaneh dừng lại để lấy hơi.
- Đây rồi! - Ông Ove nói và đột ngột dừng lại phía bên ngoài một quán cà phê nhỏ.
Mùi bánh sừng bò mới nướng bay ra ngoài qua lớp cửa kính. Parvaneh nhìn về phía bãi đỗ xe bên kia đường, nơi họ bỏ lại chiếc Saab. Lẽ ra họ đã có thể đến nơi, nếu lúc đầu ông Ove không nói chắc như đinh đóng cột rằng quán cà phê nằm ở đầu kia của khu phố. Parvaneh đã đề nghị họ đỗ xe ở bên đó, nhưng khi họ nhận ra mỗi giờ phải trả đắt hơn 1 krona nếu đỗ xe tại đó thì cô đành thôi.
Parvaneh nhận ra Ove là loại người nếu không chắc về con đường mình đi thì cứ bước tiếp, với niềm tin rằng sớm muộn gì cũng sẽ đến nơi. Và bây giờ, khi đã đi một vòng khu phố và nhận ra quán cà phê nằm ở ngay đối diện với nơi họ đã đỗ xe, vẻ mặt của Ove trông như thể đây đúng là điều ông đã định trước. Parvaneh lau mồ hôi trán.
Một người đàn ông có bộ râu lởm chởm và bẩn thỉu đang dựa người vào tường quán, cách đó không xa. Anh ta đặt một cái ly giấy trước mặt. Phía trước cửa quán cà phê, Ove, Parvaneh và con mèo bắt gặp một thanh niên gầy gò chừng hai mươi hai tuổi, mắt viền đen thui như gấu trúc. Phải mất một lúc Ove mới nhận ra đó chính là người đã đứng sau lưng cậu nhóc đòi xe đạp mà ông gặp lúc trước. Trông cậu ta có vẻ dè chừng. Ove gật đầu đáp lại nụ cười của cậu ta, như thể muốn nói rõ ràng mặc dù không có ý định cười đáp lại, ông vẫn chấp nhận nụ cười đó.
- Sao bác không để cháu đỗ xe cạnh cái xe đó? - Parvaneh thắc mắc trong lúc họ mở cửa kính và bước vào trong quán.
Ove không đáp.
- Cháu làm được mà! - Cô nói với giọng tự tin.
Ove mệt mỏi lắc đầu. Hai tiếng trước đó, cô nàng còn không biết chân côn nằm ở đâu, bây giờ thì lại tỏ ra bực mình vì ông không để cô đưa xe vào một vị trí đỗ chật hẹp.
Khi đã ở trong quán, Ove thoáng thấy cậu thanh niên gầy gò mắt viền đen đưa cái bánh mì trên tay cho người đàn ông lang thang.
- Ông đấy à! - Một giọng nói vang lên, hào hứng đến nỗi lạc đi.
Ove quay lại và nhìn thấy cậu nhóc đòi xe đạp. Cậu ta đang đứng phía sau một cái quầy dài, bóng loáng phía trước quán. Ông nhận thấy cậu ta đội một chiếc mũ bóng chày trong nhà.
Con mèo và Parvaneh tỏ ra rất thoải mái. Cô nàng bầu bí lau mồ hôi trán, dù trong quán lạnh cóng. Lạnh hơn cả ngoài đường. Cô rót cho mình chút nước từ một cái bình để trên quầy. Con mèo vô tư tợp một chút nước từ cái ly của Parvaneh khi cô không để ý.
- Hai người biết nhau à? - Cô ngạc nhiên nhìn cậu thanh niên.
- Bọn tôi là bạn. - Cậu ta gật đầu.
- Thật sao? Tôi và bác Ove cũng là bạn! - Parvaneh mỉm cười, bắt chước sự hào hứng hơi hồn nhiên quá mức của cậu thanh niên.
Ove dừng cách quầy một khoảng an toàn. Làm như ai đó có thể lao vào ôm ông nếu ông đến quá gần.
- Tôi tên Adrian.
- Còn tôi là Parvaneh.
- Mọi người có muốn uống gì không? - Adrian hỏi.
- Cho tôi một latte. - Parvaneh nói với giọng thoải mái. Cô thấm mồ hôi trán bằng một tờ khăn giấy. - Latte đá nếu cậu có!
Ông Ove đứng đổi chân và nhìn quanh quán. Ông chưa bao giờ thích các quán cà phê. Sonja thì ngược lại. Bà có thể ngồi cà phê cả ngày Chủ nhật để “ngắm mọi người”, như bà nói. Ông thường ngồi đó cùng bà và đọc một tờ báo. Mọi Chủ nhật họ đều như thế. Kể từ khi bà qua đời, ông không đặt chân tới bất cứ quán cà phê nào nữa. Ông ngước lên và nhận ra mọi người, kể cả con mèo, đang chờ câu trả lời của mình.
- Ừ thì cà phê vậy. Đen.
Adrian gãi gãi da đầu dưới chiếc mũ.
- Tức là… espresso?
- Không. Cà phê.
Adrian chuyển sang gãi cằm.
- Tức là… một ly cà phê đen?
- Phải.
- Có sữa?
- Nếu có sữa thì nó không còn là cà phê đen nữa.
Adrian mân mê mấy lọ đường trên quầy để đỡ tỏ ra ngu ngốc. Muộn rồi, Ove thầm nghĩ.
- Cà phê rang xay bình thường. Bình thường, trời ạ! - Ông nhắc lại.
Adrian gật đầu.
- À… tôi không biết kiểu đó.
Ove giơ tay chỉ vào cái máy pha cà phê trong góc, gần như khuất hoàn toàn sau một cái máy bóng loáng nom giống tàu vũ trụ mà ông biết là được dùng để pha espresso.
- À cái máy đó à… - Adrian đáp, gật gù như thể đã hiểu ra. - Cái máy đó… tôi thật sự không biết cái máy đó hoạt động như thế nào.
- Lẽ ra phải biết chứ. - Ông Ove lẩm bẩm trong lúc đi vòng qua quầy.
Ông đẩy cậu nhóc ra và cầm lấy cái máy. Parvaneh chậc lưỡi. Ove lườm cô.
- Gì? - Ông hỏi.
- Sao ạ? - Cô hỏi lại.
Ove nhướng mày. Cô nhún vai.
- Ai đó vui lòng cho tôi biết chúng ta đang làm gì ở đây được không? - Parvaneh hỏi.
- Cậu nhóc này có một cái xe đạp cần sửa. - Ông Ove vừa đáp vừa đổ nước vào bình.
Khuôn mặt Parvaneh sáng lên.
- Cái xe máng ở đằng sau chiếc Saab ấy ạ? - Cô hỏi lại.
- Ông mang đến tận đây à? Cảm ơn ông nhiều lắm! - Adrian thốt lên.
- Cậu không có ôtô mà, đúng không? - Ove nói trong lúc lục lọi tìm giấy lọc cà phê trong các ngăn kéo.
- Cảm ơn ông! - Adrian tiến một bước về phía ông Ove rồi sực nhớ ra và ngừng lại trước khi làm điều gì ngu ngốc.
- Thế ra nó là xe đạp của cậu à? - Parvaneh hỏi.
- Ơ… thực ra nó là xe của bạn gái tôi. Hay đúng hơn là người yêu tương lai… đại loại vậy.
Parvaneh mỉm cười.
- Vậy ra tôi và ông Ove lái xe đến tận đây chỉ để đem cho cậu chiếc xe đạp cần sửa? Vì một cô gái?
Adrian gật đầu. Parvaneh chồm người qua quầy và vỗ vào cánh tay ông Ove.
- Bác biết không, Ove, đôi khi cháu thấy bác cũng là người có trái tim đấy…
- Cậu có dụng cụ ở đây không vậy? - Ông Ove dịch tay ra xa và hỏi Adrian.
Cậu nhóc gật đầu.
- Vậy cậu đi lấy đi. Cái xe được máng ở đằng sau chiếc Saab bên kia đường.
Adrian biến vào trong bếp. Khoảng một phút sau, cậu quay lại với một hộp dụng cụ lớn và lập tức đi ra cửa.
- Còn cô thì giữ im lặng giúp tôi. - Ông nói với Parvaneh.
Cô nàng mỉm cười, thể hiện rõ rằng mình không có ý định ngậm miệng.
- Tôi chỉ đem cái xe đạp tới đây để cậu ta không phá tan cái nhà để xe đạp. - Ove nói thêm.
- Vâng ạ. Cháu có nói gì đâu. - Parvaneh bật cười.
Ông Ove lại tiếp tục đi tìm giấy lọc.
- A… - Adrian lên tiếng khi gần như đâm sầm vào cậu thanh niên mắt gấu trúc ở cửa. - Đây là sếp tôi.
- Chào cả nhà… xin lỗi, ông đang làm gì thế ạ? - “Ông chủ quán” lên tiếng và tò mò nhìn người đàn ông lạ mặt đang lúi húi sau quầy.
- Cậu kia bận sửa xe. - Ove đáp như thể đây là một chuyện hiển nhiên. - Cậu cất giấy lọc cà phê ở đâu thế?
Mắt gấu trúc chỉ tay về phía một cái kệ. Ông Ove nheo mắt nhìn cậu ta.
- Cậu trang điểm hả?
Parvaneh suỵt khẽ, làm ông bực ra mặt.
- Gì vậy? Tôi hỏi cũng không được sao?
Mắt gấu trúc mỉm cười, vẻ mặt hơi căng thẳng.
- Vâng. - Cậu ta gật đầu và đưa tay dụi mắt. - Tối qua tôi đi nhảy. - Cậu ta mỉm cười biết ơn khi được Parvaneh rút một tờ khăn giấy ướt ra đưa cùng với một cái nháy mắt đồng lõa.
Ove gật đầu và tiếp tục pha cà phê.
- Cậu cũng gặp rắc rối với mấy chiếc xe đạp và chuyện yêu đương trai gái à? - Ông lơ đãng hỏi.
- Không, không, với xe đạp thì không. Và chuyện kia cũng vậy. Thật ra thì… không phải với gái. - Cậu ta cười khúc khích.
Ove bật máy pha cà phê. Khi chiếc máy bắt đầu kêu, ông quay lại, chống tay lên mặt quầy một cách thoải mái.
- Cậu bị bóng hả?
- Bác Ove! - Parvaneh thốt lên và đập vào tay ông.
Ove rụt tay lại và bực bội ra mặt.
- Cái gì vậy?!
- Bác đừng có… bác đừng có gọi người ta như vậy. - Parvaneh đáp, rõ ràng cô không muốn nói ra chữ đó.
- Không bóng thì pê-đê. - Ông Ove nói.
Parvaneh cố đánh vào tay Ove một lần nữa nhưng ông đã tránh kịp.
- Đừng có nói năng như thế! - Cô ra lệnh.
Ove quay về phía cậu thanh niên mắt gấu trúc và hỏi:
- Người ta không được dùng chữ “bóng” à? Thế các cậu dùng chữ gì?
- Đồng tính. Hoặc là… thế giới thứ ba. - Parvaneh chen ngang.
- Ơ, ông thích gọi sao thì gọi. Chẳng sao cả. - Cậu thanh niên mỉm cười và đi vòng qua quầy, đeo tạp dề lên người.
- Được. Thẳng thắn rõ ràng như thế cũng tốt. Vậy ra cậu là trai cong. - Ove lẩm bẩm.
Parvaneh lắc đầu như muốn xin lỗi. Cậu thanh niên chỉ cười.
- Xong rồi. - Ove gật đầu và bắt đầu rót cho mình một tách cà phê trong khi máy vẫn đang chạy.
Sau đó, ông cầm tách cà phê và không nói không rằng đi thẳng ra ngoài, băng qua đường tiến tới chỗ chiếc Saab. Mắt gấu trúc không có ý kiến gì khi thấy ông cầm cái tách đi ra khỏi quán. Dù sao thì chuyện đó cũng không cần thiết cho lắm, căn cứ theo việc chưa đầy năm phút sau khi vào quán ông già đã tự biến mình thành người pha chế và hỏi thẳng về giới tính của cậu.
Adrian đang đứng chôn chân bên cạnh chiếc Saab với vẻ mặt hoang mang.
- Mọi chuyện ổn cả chứ? - Ove hỏi cho có, đồng thời nhấp một ngụm cà phê và nhìn chiếc xe đạp thậm chí còn chưa được dỡ xuống.
- Không… Ông biết đấy… Chuyện này… - Cậu nhóc ấp úng mở lời, tay bất giác đưa lên gãi ngực.
Ove quan sát cậu ta trong ba mươi giây. Ông nhấp một ngụm cà phê nữa, rồi gật đầu, nhăn mặt như thể vừa ăn phải một trái bơ bị chín nẫu. Ông ấn mạnh cái tách vào tay cậu nhóc và bước tới gỡ chiếc xe đạp xuống, đặt nó chổng ngược trên mặt đất, trước khi mở hộp dụng cụ mà cậu ta đã đem ra.
- Bố cậu chưa bao giờ dạy cậu sửa xe đạp à? - Ông hỏi trong lúc cúi xuống xem xét cái lốp xe bị xịt, không buồn nhìn Adrian.
- Ông ta đang bóc lịch. - Cậu chép miệng nói lí nhí, tay vẫn gãi ngực, mắt nhìn quanh như muốn tìm một cái lỗ để chui xuống.
Ove ngước lên và quan sát cậu nhóc. Cậu ta nhìn xuống đất. Ông hắng giọng.
- Cũng không có gì khó. - Lát sau ông lẩm bẩm và ra hiệu cho Adrian ngồi xuống đất.
Hai người mất mười phút để vá lỗ thủng ở săm xe. Ông Ove ra những hướng dẫn nhát gừng, còn Adrian im thin thít từ đầu tới cuối. Nhưng cậu ta chăm chú, khéo tay, và không đến nỗi tự biến mình thành trò hề, ông phải thừa nhận như vậy. Có thể cậu ta không vụng về với đôi tay như với chữ nghĩa. Họ lau bụi chiếc xe bằng miếng giẻ cất trong cốp ô tô, mắt vẫn tránh nhìn nhau.
- Hi vọng cô nàng đó xứng đáng với chuyện này. - Ông Ove nói trước khi đóng cốp xe lại.
Adrian không biết phải nói gì.
Khi họ quay trở lại quán cà phê, một người đàn ông thấp lùn mặc chiếc áo sơ mi lấm bẩn đang đứng trên một cái ghế thang, loay hoay với thứ mà ông Ove đoán là một chiếc quạt sưởi. Mắt gấu trúc đứng dưới đất, tay cầm một bộ tua vít. Cậu ta vẫn tiếp tục chùi nốt lớp trang điểm còn sót lại trên mắt và trông chừng người đàn ông mập mạp với vẻ mặt khá căng thẳng. Cứ như thể cậu ta sợ bị bắt quả tang. Parvaneh phấn khích quay về phía ông Ove.
- Đây là Amel! Ông ấy là chủ quán cà phê này! - Cô nói với giọng vồn vã, tay chỉ vào người đàn ông đứng trên thang.
Amel không quay người lại, nhưng tuôn ra một tràng phụ âm mà ông Ove không hiểu được, dù đoán đó là những tiếng chửi tục pha trộn với từ chỉ các bộ phận cơ thể.
- Ông ấy nói gì vậy? - Adrian hỏi.
Mắt gấu trúc lúng túng vặn vẹo người.
- À… thì… cái quạt sưởi nó… Cậu ta nhìn Adrian, rồi cúi gằm mặt.
- Nó làm sao? - Ove hỏi trong lúc tiến đến chỗ cậu ta.
- Ông ấy nói nó cũng vô dụng như một thằng bóng. - Mắt gấu trúc nói nhỏ đến mức chỉ có mình ông Ove nghe thấy.
Parvaneh thì ngược lại, cô còn mải chỉ trỏ Amel với nét mặt vui vẻ.
- Chúng ta không thể hiểu được những điều ông ấy nói, nhưng cũng có thể đoán được gần như tất cả là những từ tục tĩu. Ông ấy đúng là bản sao của bác đó, Ove!
Ông Ove tỏ ra không vui vẻ chút nào. Cả Amel cũng vậy. Ông ta dừng tay và giơ chiếc tua vít chỉ thẳng vào Ove.
- Con mèo là của ông hả?
- Không. - Ove đáp.
Không những ông muốn nói rằng nó không phải của mình, mà còn muốn nhấn mạnh rằng nó không phải của ai cả.
- Con mèo ra ngoài! Thú vật không ở trong quán! - Amel nói một tràng với những phụ âm nảy bần bật như một lũ trẻ nghịch ngợm chơi đùa.
Ove tò mò quan sát chiếc quạt sưởi trên đầu Amel. Rồi ông nhìn con mèo đang ngồi trên cái ghế đẩu cạnh quầy. Ông lần lượt ngó hộp dụng cụ vẫn đang được Adrian cầm trên tay, chiếc quạt sưởi, và Amel.
- Nếu tôi sửa được nó cho ông, con mèo sẽ ở lại đây.
Ông Ove nói câu đó với giọng chắc nịch như một lời khẳng định chứ không còn nước đôi gì nữa. Amel dường như nao núng trong giây lát. Lúc trấn tĩnh lại, vì một lý do không thể giải thích được sau đó, ông ta thấy mình đã không còn đứng trên ghế thang mà đang giữ chân nó. Ông Ove lúi húi làm việc trên đó trong vài phút, rồi xuống thang, phủi tay vào quần, và đưa cái tua vít cùng chiếc cờ lê nhỏ cho cậu thanh niên mắt gấu trúc.
- Ông sửa được rồi! - Amel ngỡ ngàng thốt lên khi chiếc quạt sưởi hoạt động trở lại.
Nói đoạn ông ta hồ hởi nắm vai ông Ove.
- Whisky nhé? Ông muốn không? Trong bếp, tôi có whisky.
Ove xem giờ. Đã hai giờ mười lăm phút chiều. Ông lắc đầu tỏ vẻ hơi bối rối một chút, phần vì chầu whisky, phần vì Amel vẫn đang nắm vai mình. Mắt gấu trúc biến mất qua cửa bếp ở phía sau quầy, vừa đi vừa chùi mắt.
Adrian bắt kịp ông Ove và con mèo trên đường họ quay lại chỗ chiếc Saab.
- Ove, ông đừng tiết lộ chuyện Mirsad là…
- Ai cơ?
- Sếp của tôi. - Adrian đáp. - Người kẻ mắt đen đó.
- Cậu bóng đó hả?
Adrian gật.
- Ý tôi là bố anh ấy… Amel đó… Ông không biết Mirsad là… - Adrian lúng túng tìm từ.
- Bóng? - Ove hỏi lại.
Cậu nhóc gật đầu. Ông nhún vai. Parvaneh lạch bạch đi theo họ, miệng thở hổn hển.
- Cô làm cái gì mà lâu vậy? - Ông hỏi cô.
- Tôi cho tiền anh ta. - Parvaneh đáp và hất đầu về phía người đàn ông lang thang có bộ râu bẩn thỉu.
- Cô thừa biết anh ta sẽ dùng nó để mua rượu. - Ông nói.
Parvaneh mở to mắt với một tia giễu cợt trong đó, theo nghi vấn của ông.
- Thật à? Thế mà tôi tưởng anh ta sẽ dùng nó để trả khoản vay ưu đãi từ hồi đi học ngành vật lý hạt nhân ở đại học cơ đấy!
Ông Ove hừ mũi rồi mở cửa chiếc Saab. Adrian vẫn đứng im không nhúc nhích ở phía bên kia chiếc xe.
- Gì đấy? - Ông hỏi.
- Ông sẽ không để lộ chuyện của Mirsad chứ? Ông hứa đi.
- Việc quái gì tôi phải tiết lộ chuyện của cậu ta? - Ove chỉ tay vào cậu nhóc. - Này cậu! Cậu muốn mua một chiếc xe Pháp. Như vậy là đủ rắc rối cho cái thân cậu rồi, đừng có đi lo chuyện bao đồng!


30

CÁI XÃ HỘI KHÔNG CẦN ĐẾN ÔNG

Ove phủi tuyết bám trên bia mộ. Ông mạnh tay đào mặt đất lạnh cứng và cẩn thận thay cây hoa. Rồi ông đứng dậy, phủi bụi đất, bần thần nhìn cái tên của bà, trong lòng cảm thấy vô cùng hổ thẹn. Ông luôn là người phàn nàn với bà về chuyện trễ hẹn. Giờ thì ông đứng đây, rõ ràng chưa thể đi theo bà như dự định.
- Toàn những sự cố ngoài ý muốn. - Ông lẩm bẩm với tấm đá. Rồi ông lại im.
Ove không biết chính xác chuyện gì đã xảy ra với mình sau đám tang. Ngày nối ngày, tuần nối tuần lặng lẽ theo cái cách khiến ông gần như không thể nhớ được mình đã làm gì trong khoảng thời gian đó. Trước khi Parvaneh và Patrick tông gãy cái thùng thư của ông, Ove không nhớ mình có nói chuyện với bất kỳ người nào kể từ sau cái chết của Sonja.
Có những buổi tối ông hoàn toàn quên mất việc ăn uống. Chuyện đó không bao giờ xảy ra trước đây, theo như ông còn nhớ. Nhất là từ sau khi ông ngồi xuống bên cạnh Sonja trên chuyến tàu bốn mươi năm về trước. Chừng nào Sonja còn đó, cuộc sống của ông còn sự quy củ. Ông dậy lúc sáu giờ kém mười lăm phút, pha cà phê, đi tuần tra khu phố. Lúc sáu rưỡi, bà đã tắm xong, họ cùng nhau ăn sáng và uống cà phê. Bà ăn trứng, ông ăn bánh mì phết bơ. Đúng bảy giờ kém năm phút, ông đưa bà vào ghế phụ lái của chiếc Saab, cất xe lăn của bà vào cốp sau, rồi chở bà tới trường. Sau đó ông đến cơ quan. Lúc mười giờ kém mười lăm, tại chỗ làm của mình, họ nghỉ tay uống cà phê. Sonja uống cà phê sữa, còn ông dùng cà phê đen. Họ ăn trưa lúc mười hai giờ. Khi đồng hồ chỉ ba giờ kém mười lăm, họ nghỉ giải lao một lần nữa. Đúng năm giờ kém mười lăm, ông đón bà ở sân trường, đưa bà vào ghế và cất chiếc xe lăn vào cốp xe. Lúc sáu giờ chiều thì họ đã ngồi dùng bữa tối trong căn bếp nhà mình, thường là món thịt nấu với khoai tây và nước sốt. Món ăn ưa thích của Ove. Sau đó, bà ngồi thu chân trên ghế sofa giải ô chữ, còn ông loay hoay làm việc trong lán dụng cụ và xem tin tức. Đúng chín rưỡi, ông đưa bà lên gác, vào trong phòng ngủ. Trong nhiều năm liền, Sonja nài nỉ Ove cho bà dọn xuống ở trong phòng dành cho khách tại tầng một, nhưng ông từ chối. Sau khoảng mười năm thì bà nhận ra đó là cách để ông cho bà thấy ông không có ý định buông xuôi. Và ông sẽ không để cho Chúa trời, vũ trụ cũng như những thứ khác chiến thắng. Những thứ tồi tệ đó sẽ biến xuống địa ngục. Thế là bà thôi không mè nheo nữa.
Vào tối thứ Sáu, họ sẽ thức xem tivi đến mười giờ rưỡi. Sáng thứ Bảy họ sẽ dùng bữa sáng muộn, có khi tận tám giờ sáng. Rồi họ ra ngoài để đi mua sắm tại cửa hàng vật liệu, đồ nội thất và dụng cụ làm vườn. Sonja sẽ mua đất trong khi Ove ngó nghiêng các món dụng cụ. Họ chỉ có một ngôi nhà nhỏ với mảnh sân sau khiêm tốn và một bồn hoa nhỏ, nhưng hình như luôn có một thứ gì đó để trồng trọt hoặc dựng lên. Trên đường về nhà, họ sẽ dừng chân để ăn kem. Bà ăn kem sôcôla, còn ông ăn kem có các loại hạt. Cứ mỗi năm, quán kem lại nâng giá thêm một krona, và đó là dịp để Ove “nổi trận lôi đình”, theo mô tả của Sonja. Khi về đến nhà, bà sẽ lăn xe băng qua căn bếp ra sân sau, và ông sẽ giúp bà ngồi xuống đất để có thể chăm sóc mấy luống hoa. Trong lúc đó, ông sẽ rút chiếc tua vít ra và đi vào trong nhà. Đó là thứ hay ho nhất của một căn nhà. Nó không bao giờ hoàn thiện. Luôn có một con ốc vít nằm đâu đó để ông siết lại.
Vào ngày Chủ nhật, họ đi tới một quán cà phê và ngồi uống cùng nhau. Ove đọc báo trong khi bà nói chuyện. Sau đó là thứ Hai. Thế rồi, một thứ Hai nọ, bà không còn tồn tại trên cõi đời này nữa.
Ove không nhớ chính xác ông đã trở nên lặng lẽ như vậy từ khi nào. Ông luôn là người ít nói, nhưng chuyện này hơi khác. Có lẽ ông đã bắt đầu nói thầm trong đầu nhiều hơn. Có lẽ ông đã mất trí, đôi khi ông vẫn tự hỏi điều đó. Nó giống như thể ông không muốn những người khác bắt chuyện với mình, sợ rằng những giọng nói lải nhải đó sẽ xóa mất ký ức về giọng nói của bà.
Ove nhẹ nhàng lướt ngón tay trên tấm bia mộ như thể đang vuốt ve túm tua dài của một tấm thảm thật dày. Ông không tài nào hiểu được những người trẻ cứ luôn miệng ra rả về việc “tìm kiếm bản thân”. Ông thường xuyên nghe điều đó từ những người đồng nghiệp ngoài ba mươi tuổi. Họ chỉ toàn nói rằng mình cần nhiều “thời gian rảnh rỗi” hơn, như thể đó là mục đích duy nhất của việc đi làm: đạt đến điểm mà họ không phải làm việc nữa. Sonja từng bật cười và bảo rằng ông là “người cứng nhắc nhất thế gian”. Ông từ chối coi đó là một lời chỉ trích. Một chút khuôn phép là điều cần thiết, ông nghĩ thế. Nên có sự quy củ, và người ta cần phải tin cậy được mọi thứ. Ông không nghĩ đó là một tính xấu.
Sonja thường nhắc về giai đoạn bị ông Ove xem như một sự lầm lạc trong suy nghĩ, vào khoảng giữa thập niên 1980, khi mà ông bị bà thuyết phục và mua một chiếc Saab màu đỏ, mặc dù từ hồi quen nhau bà biết ông chỉ đi xe màu xanh. “Đó là ba năm tồi tệ nhất trong đời Ove”, bà vừa nói vừa cười khúc khích. Kể từ lúc đó, ông không lái thứ gì ngoài một chiếc Saab màu xanh. “Đa phần các bà vợ nổi giận vì ông chồng không nhận ra mái tóc mới cắt của họ, trong khi mỗi lần tôi cắt tóc, chồng tôi giận mấy ngày liền vì trông tôi không giống như thường ngày”, Sonja thường nói như thế.
Đó là điều mà ông Ove nhớ tiếc nhiều nhất. Việc mọi thứ diễn ra như thường ngày.
Con người cần có một chức năng. Ông đã luôn đóng một vai trò nhất định, không ai có thể phủ nhận điều đó. Ông đã làm tất cả những gì mà xã hội chờ đợi nơi ông. Ông đã làm việc, không bao giờ nghỉ ốm, trả hết nợ nần, đóng thuế, làm những việc cần làm, mua những chiếc xe tốt. Và đổi lại, xã hội đã cảm ơn ông bằng cách nào? Bằng cách cử người đến gặp ông tại cơ quan và bảo rằng ông đi về đi, thế là xong.
Vào một thứ Hai nọ, ông đã không còn bất cứ một vai trò nào nữa.
Mười ba năm về trước, Ove đã mua chiếc Saab 95 màu xanh. Không lâu sau đó, đám người Mỹ tại General Motors đã mua nốt số cổ phần cuối cùng do người Thụy Điển nắm giữ của hãng Saab. Ông đã gấp tờ báo sáng hôm đó với một tràng rủa sả kéo dài tới tận buổi chiều. Ông sẽ không bao giờ mua xe nữa. Ông không có ý định đặt chân lên một chiếc xe ô tô Mỹ, trừ phi đôi chân cùng với phần cơ thể còn lại của ông được bỏ vào quan tài trước đó, bọn họ có thể đoan chắc về điều đó. Sonja tất nhiên cũng đã đọc bài báo và ít nhiều phản đối góc nhìn của Ove về quốc tịch của hãng xe, nhưng không thay đổi được gì. Ý ông đã quyết, ông sẽ giữ quan điểm của mình. Ông sẽ lái chiếc xe hiện có cho tới khi ông hoặc nó bị hỏng. Dù sao thì những chiếc xe tử tế cũng không còn được sản xuất nữa, ông chắc chắn như vậy. Giờ đây bên trong chúng chỉ chứa một đống linh kiện điện tử vớ vẩn. Giống như ta lái một chiếc máy tính vậy. Người ta thậm chí không thể tháo nó ra mà không bị nhà sản xuất dọa chấm dứt bảo hành. Thế cũng tốt. Sonja từng nói rằng chiếc xe sẽ hỏng hóc vì buồn bã vào cái ngày Ove nằm xuống. Có thể lắm.
“Nhưng cái gì cũng có thời”, bà cũng thường nói như vậy. Chẳng hạn như khi các bác sĩ chẩn đoán bệnh cho bà bốn năm về trước. Bà dễ tha thứ hơn ông. Tha thứ cho Chúa trời, vũ trụ và mọi thứ khác. Còn ông thì nổi giận. Có lẽ vì ông cảm thấy ai đó phải nổi giận thay cho bà, khi tất cả những tai ương quái quỷ cứ giáng xuống con người duy nhất không đáng bị như vậy.
Thế nên ông chống lại cả thế giới. Ông chống đối các nhân viên bệnh viện, các bác sĩ chuyên ngành và cả các bác sĩ trưởng khoa. Ông chống đối đám mặc áo trắng và các đại diện của hội đồng thành phố, những kẻ đã trở nên đông đảo đến nỗi ông gần như không nhớ nổi tên của bọn họ. Ông phải tìm một chính sách bảo hiểm cho cái này, một chính sách bảo hiểm khác cho cái kia, liên hệ một người vì Sonja bị bệnh, rồi một người khác vì bà ngồi xe lăn. Thêm một người thứ ba để bà được miễn làm việc, và một người thứ tư để thuyết phục các cấp có thẩm quyền rằng điều bà muốn là ngược lại: Đi làm việc.
Nhưng chống lại đám người mặc áo trắng là điều không thể. Và người ta cũng không thể đảo ngược sự chẩn đoán.
Sonja đã bị ung thư.
“Chúng ta sẽ tiếp nhận mọi chuyện như nó phải thế”, Sonja đã nói như vậy. Và họ đã làm thế. Bà tiếp tục dạy dỗ đám học sinh cá biệt thân thương trong khả năng có thể, cho đến khi Ove phải đẩy bà vào lớp học mỗi buổi sáng vì bà không còn sức lực để tự làm điều đó. Sau một năm bà chỉ còn làm được ba phần tư khối lượng công việc hằng tuần. Sau hai năm bà giảm giờ dạy còn một nửa. Và sau ba năm thì bà chỉ lên lớp được một phần tư thời gian. Khi cuối cùng bà cũng phải từ bỏ công việc, Sonja đã viết một lá thư dài cho từng em học sinh và khuyến khích chúng gọi điện cho mình mỗi khi chúng cần trò chuyện với ai đó.
Gần như tất cả các học sinh đều gọi điện. Chúng còn xếp hàng đi thăm cô giáo nữa. Có lần vào một dịp cuối tuần, học sinh đến nhà đông tới nỗi Ove phải lánh sang lán dụng cụ và ngồi đó chờ suốt sáu tiếng đồng hồ. Khi đứa cuối cùng ra về vào buổi tối hôm đó, ông đã cẩn thận đi một vòng quanh nhà để bảo đảm không có món gì bị mất. Như mọi khi, cho đến khi Sonja bảo ông đừng quên đếm trứng trong tủ lạnh. Ông đưa bà lên gác trong lúc bà cười như nắc nẻ. Ông đưa bà vào giường, và ngay trước khi họ ngủ, bà quay sang ông. Bà giấu ngón tay mình trong lòng bàn tay ông, rồi vùi mũi vào cái hõm bên dưới xương quai xanh của ông.
“Chúa đã lấy đi một đứa con của em, anh Ove yêu quý. Nhưng Ngài cho em cả ngàn đứa khác”.
Vào năm thứ tư, bà qua đời.
Và giờ ông đứng đây, lướt tay trên tấm bia mộ của bà. Hết lần này tới lần khác. Như thể ông muốn xoa bóp cho bà tỉnh lại.
- Lần này tôi sẽ đi lấy khẩu súng của bố bà trên tầng áp mái. - Ove hạ giọng. - Tôi biết bà không thích nó. Tôi cũng không thích.
Ông hít một hơi thật sâu, như để làm cho mình cứng cỏi lên trước khi bà cố gắng thuyết phục ông không làm chuyện đó.
- Hẹn bà ngày mai. - Ông nói với giọng cương quyết, rồi phủi tuyết bám trên giày, tựa hồ không muốn cho bà cơ hội để phản đối.
Rồi ông men theo con đường nhỏ xuống bãi đỗ xe, với con mèo đi những bước êm ru bên cạnh. Họ đi qua cổng, vòng qua chiếc Saab vẫn còn đang được dán con tem “xe tập lái” ở cửa sau. Ông mở cửa trước bên phía ghế phụ. Parvaneh nhìn ông, đôi mắt nâu to tròn của cô ngập tràn sự thương cảm.
- Cháu đang nghĩ tới một chuyện này. - Cô thận trọng lên tiếng khi sang số chiếc Saab và cho xe lăn bánh.
- Đừng.
Nhưng cô không thể ngừng lại.
- Cháu đang nghĩ có khi cháu sẽ giúp bác dọn dẹp nhà cửa. Có thể là cất các món đồ của bác Sonja vào trong thùng và…
Vừa nghe nhắc tới tên của Sonja, lập tức khuôn mặt ông Ove sa sầm. Sự giận dữ làm nó rắn đanh lại như một cái mặt nạ.
- Đừng nói thêm một lời nào nữa! - Ông gầm lên, giọng ông vang rền trong chiếc xe.
- Nhưng cháu chỉ…
- Không một lời chết tiệt nào nữa. Cô hiểu chưa?
Parvaneh gật đầu và im lặng.
Run lên vì giận dữ, Ove nhìn ra ngoài cửa xe trong suốt quãng đường về nhà.
-----------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét