Người Đàn Ông Mang Tên Ove
Tác giả: Fredrik Backman
Người dịch: Hoàng Anh
NXB Trẻ - 8-2017
5
(NGÀY TRƯỚC)
NGƯỜI BỐ
Ove biết bạn bè của bà không thể hiểu được vì sao bà cưới
ông. Không trách họ được.
Mọi người nói ông là người cay độc. Có lẽ họ đúng. Ông chưa
bao giờ nghĩ ngợi nhiều về điều đó. Mọi người cũng gọi ông là người khó gần.
Ông tin rằng điều này có nghĩa là ông không quá chạy theo đồng loại. Và xét về
mặt này thì ông hoàn toàn đồng tình với họ. Nói chung con người không được
thông minh cho lắm.
Ông không phải là người nhiều lời. Ông đã đi đến chỗ nhận ra
rằng, ít nhất vào thời đại bây giờ, đây là một khiếm khuyết trầm trọng trong
con người ông. Ngày nay người ta phải ba hoa chích chòe được với bất kỳ kẻ nào
đứng trong phạm vi một cánh tay xung quanh họ, đơn giản vì như vậy mới là “dễ gần.”
Ông không làm được chuyện đó. Có lẽ là do cách ông được nuôi dạy. Có thể đàn
ông ở thế hệ của ông không hề chuẩn bị đầy đủ cho một thế giới trong đó mọi người
khua môi múa mép về việc làm cái này cái kia, nhưng chuyện thực hiện chúng dường
như chẳng còn bõ công nữa. Ngày nay, đứng trước ngôi nhà mới được cải tạo của
mình, người ta có thể huênh hoang như thể tự tay họ đã xây dựng nó, mặc dù chỉ
động đến vài con ốc vít. Thậm chí họ còn không giả vờ nói khác đi. Họ huênh
hoang vì mình đã chẳng làm gì cả! Việc có thể tự mình lót ván sàn, sửa sang một
căn phòng hay thay cái lốp xe đã trở thành một thứ thừa thãi. Nếu cái gì người
ta cũng có thể dùng tiền mua được thì còn gì là giá trị? Giá trị của một con
người nằm ở đâu?
Bạn bè của bà không thể hiểu được vì sao bà quyết định mỗi
sáng thức dậy bên cạnh ông và trải qua một ngày cùng ông. Ông cũng không hiểu nổi.
Ông đóng cho bà một cái giá sách để bà chất lên đó những quyển sách được viết bởi
những người có thể bôi kín hết trang này tới trang khác bằng cảm xúc của mình.
Ông hiểu những thứ mình có thể nhìn thấy và sờ mó được. Xi măng và bê tông.
Kính và thép. Đồ nghề. Những thứ mà người ta có thể tính toán. Góc vuông và những
chỉ dẫn rõ ràng. Mô hình và các bức vẽ. Những thứ mà người ta có thể vẽ ra giấy.
Ông là một con người của trắng và đen.
Còn bà là màu sắc. Tất cả màu sắc của ông.
Trước khi gặp bà, thứ duy nhất mà Ove từng yêu là những con
số. Ông không có ký ức đặc biệt nào khác về tuổi trẻ của mình. Ông không bị bắt
nạt và cũng không phải một kẻ hiếp đáp người khác, không giỏi chơi thể thao
nhưng cũng không quá tệ. Không bao giờ là trung tâm chú ý nhưng cũng chưa bao
giờ đứng ngoài cuộc, ông chỉ hiện diện mà thôi. Ông cũng không nhớ gì nhiều về
thời niên thiếu của mình. Ông chưa bao giờ là loại người mất thời gian vào việc
nhớ cái này cái nọ trừ phi nhu cầu đặt ra. Ông nhớ mình từng khá hạnh phúc,
nhưng trong vài năm sau đó thì không. Có vậy thôi.
Ông nhớ những con số. Những con số lấp đầy đầu óc ông. Ông
còn nhớ mình đã thích những bài học toán ở trường đến thế nào. Có thể với những
người khác đó là một cực hình, nhưng với ông thì không. Ông không biết vì sao,
và cũng không mất công đoán làm gì. Ông chưa bao giờ hiểu được vì sao phải mất
thời gian nghiền ngẫm lý giải mọi chuyện. Cứ sống đúng với chính mình, làm công
việc của mình, vậy là đủ đối với ông.
Hồi Ove bảy tuổi, phổi của mẹ cậu đình công vào một buổi
sáng tháng Tám. Bà làm việc ở một nhà máy hóa chất. Về sau Ove nhận ra hồi đó mọi
người không biết gì nhiều về vấn đề hô hấp và an toàn lao động. Mẹ cậu còn hút
thuốc lá nữa, bà hút suốt ngày. Ove vẫn còn nhớ hình ảnh mẹ mỗi sáng thứ Bảy ngồi
bên cửa sổ căn bếp ngôi nhà nhỏ của họ ở phía ngoài thành phố, với đám mây khói
dày đặc xung quanh, mắt ngước nhìn bầu trời. Thỉnh thoảng bà cất tiếng hát với
chất giọng khàn khàn, còn cậu thì ngồi bên dưới cửa sổ với cuốn sách toán trong
lòng. Ove còn nhớ mình rất thích nghe mẹ hát. Tất nhiên, giọng bà bị khàn và
hát chênh phô nhiều chỗ, nhưng cậu bé Ove vẫn cứ thích nghe.
Bố của Ove làm việc trong ngành đường sắt. Lòng bàn tay của
bố chai sần như thể bị cắt cứa bằng dao, và những nếp nhăn trên khuôn mặt bố
sâu đến nỗi tạo thành những kênh dẫn mồ hôi chảy xuống ngực mỗi khi làm lụng.
Tóc bố thưa, người bố mỏng, nhưng cơ bắp ở cánh tay bố sắc nét đến nỗi trông như
được đẽo tạc bằng đá. Có lần, hồi Ove còn rất bé, cậu được bố mẹ cho phép tham
dự một bữa tiệc lớn, nơi có các bạn bè làm cùng công ty đường sắt của bố. Sau
khi bố đã uống hai chai bia, một vài người khách thách bố thi vật tay. Ove chưa
từng thấy ai to lớn bằng những người thách đấu ngồi giạng chân trên băng ghế đối
diện mình khi ấy. Một số người có lẽ nặng phải đến hai trăm cân. Bố cậu thắng tất
cả bọn họ. Khi hai bố con đi về nhà tối hôm ấy, bố đã quàng tay qua vai cậu và
nói: “Ove này, chỉ có những kẻ ngu ngốc mới nghĩ rằng kích thước và sức mạnh là
một. Con hãy nhớ điều đó”. Và Ove không bao giờ quên.
Bố của Ove chưa bao giờ sử dụng nắm đấm với con trai mình
hay bất kỳ ai khác. Nhiều đứa bạn cùng lớp đi học với đôi mắt bầm đen vì bị
đánh bằng khóa thắt lưng, nhưng Ove chưa bao giờ bị ăn đòn. “Chúng ta không
dùng vũ lực trong cái nhà này”, bố từng tuyên bố như thế. “Dù là với nhau hay với
bất kỳ ai khác”.
Là người trầm tính và tử tế, bố rất được quý mến ở công ty
đường sắt. Một số người còn cho rằng bố “quá tốt bụng”. Hồi bé, Ove còn nhớ
mình không tài nào hiểu nổi vì sao “quá tốt bụng” lại là một điều không hay.
Thế rồi mẹ qua đời, và bố càng trở nên trầm lắng hơn. Dường
như mẹ đã đem theo lượng ngôn từ ít ỏi mà bố từng có.
Vậy nên Ove và bố chưa bao giờ nói chuyện lâu dù yêu quý
nhau. Hai bố con có thể ngồi im lìm đối diện nhau bên bàn bếp và bận rộn theo
các cách khác nhau. Cứ hai ngày một lần, họ đem thức ăn cho một gia đình chim sống
trong cái cây chết sau nhà. Quan trọng là phải cách ngày, Ove hiểu như vậy. Cậu
không biết lý do, nhưng cũng không cảm thấy mình cần phải biết.
Vào các buổi tối, hai bố con ăn xúc xích và khoai tây. Rồi họ
chơi bài. Họ không bao giờ dư dả, nhưng luôn đủ sống.
Những từ ngữ duy nhất còn sót lại nơi bố (thứ mà mẹ sẵn lòng
bỏ lại) toàn liên quan đến máy móc. Bố có thể nói về chúng hàng giờ liền. “Máy
móc cho con thứ mà con xứng đáng”, bố từng giải thích như thế. “Nếu con đối xử
với chúng một cách tôn trọng, chúng sẽ cho con sự tự do, ngược lại chúng sẽ tước
đoạt tự do của con”.
Trong suốt một thời gian dài, bố không có ô tô, nhưng vào thập
niên 1940 và 1950, khi các ông chủ và các lãnh đạo của ngành đường sắt bắt đầu
mua xe riêng, một tin đồn nhanh chóng lan truyền trong công ty rằng việc kết
thân với người công nhân đường sắt kiệm lời ấy sẽ chỉ có lợi mà thôi. Bố của
Ove chưa bao giờ hoàn tất việc học và cũng không hiểu được hết các phép toán
trong sách của con trai, nhưng lại hiểu máy móc động cơ rất rõ.
Khi con gái của ngài giám đốc làm đám cưới và chiếc xe rước
dâu bị hỏng trên đường đưa cô đến nhà thờ, bố của Ove được vời đến. Bố vừa đạp
xe vừa đeo trên vai hộp đồ nghề nặng tới nỗi phải cần đến hai người đỡ lấy khi
ông xuống xe. Và chiếc ô tô đỏng đảnh khi ông tới đã nổ máy giòn giã lúc ông
quay về. Vợ của ngài giám đốc mời ông tham dự đám cưới, nhưng ông bảo rằng sẽ
không hay nếu những người khách sang trọng phải ngồi cùng một kẻ có đôi tay
dính dầu mỡ đến mức không rửa sạch được. Tuy vậy, ông sẵn lòng nhận lấy một túi
bánh mì và thịt cho cậu con trai ở nhà. Hồi đó Ove mới lên tám. Khi bố bày bàn
ăn tối hôm đó, Ove tưởng như mình được thưởng thức yến tiệc của vua chúa.
Vài tháng sau, ngài giám đốc lại cho vời bố của Ove lần nữa.
Tại bãi đỗ xe của trụ sở công ty có một chiếc Saab 92 cực kỳ cũ kỹ và tàn tạ.
Đó là lứa ô tô đầu tiên của Saab, nó không còn được sản xuất sau khi phiên bản
nâng cấp rõ rệt của nó là Saab 93 được tung ra thị trường, nhưng bố nhận ra
ngay cơ cấu dẫn động và động cơ nằm ngang kêu to như máy pha cà phê của nó. Chiếc
xe đã gặp tai nạn, theo lời giải thích của ngài giám đốc thích nghịch sợi dây
đeo quần bên trong áo vest. Thân xe màu xanh ve chai đã bị móp méo nghiêm trọng,
và tình trạng của những thứ nằm bên dưới ca-pô xe không đẹp mắt chút nào. Nhưng
bố của Ove đã rút chiếc tua vít nhỏ từ trong túi của bộ đồ bảo hộ lem luốc ra,
rồi sau khi xem xét một hồi, ông tuyên bố rằng với một chút thời gian và đồ nghề
thích hợp ông có thể làm cho nó chạy trở lại.
- Xe của ai vậy nhỉ? - Bố của Ove hỏi lúc đứng thẳng người lại
và dùng giẻ lau tay.
- Nó thuộc về một người họ hàng của tôi. - Ngài giám đốc đáp
như thế, đồng thời rút chiếc chìa khóa trong túi quần ra ấn vào tay bố cậu. -
Giờ nó là của anh đấy.
Vỗ vai bố của Ove một cái, ngài giám đốc quay trở vào văn
phòng. Bố đứng nguyên tại chỗ trong sân, cố gắng lấy lại hơi thở. Tối hôm đó
ông đã giải thích mọi chuyện cho cậu con trai mắt tròn mắt dẹt và chỉ cho cậu mọi
thứ cần biết về con quái vật diệu kỳ đỗ trong vườn nhà họ. Bố ngồi trên ghế lái
đến tận nửa đêm cùng với Ove trong lòng, giải thích cặn kẽ cách các bộ phận cơ
khí được gắn kết với nhau. Bố có thể mô tả từng con ốc, từng cái ống nhỏ. Ove
chưa bao giờ thấy một người đàn ông nào hãnh diện như bố mình tối hôm ấy. Thế
là mới tám tuổi đầu, Ove đã quyết định cả đời mình sẽ không lái hiệu xe nào
khác ngoài hiệu Saab.
Mỗi khi được nghỉ ngày thứ Bảy, bố của Ove thường đưa con
trai ra ngoài sân, mở nắp ca-pô xe, và dạy cho cậu bé tên của tất cả các bộ phận
trong xe cũng như vai trò của chúng. Vào ngày Chủ nhật thì hai bố con đi nhà thờ.
Không phải vì họ ngoan đạo, mà vì mẹ của Ove cứ nhất định bắt họ phải làm điều
đó. Họ ngồi ở hàng ghế cuối, mỗi người nhìn một vết ố trên sàn cho đến khi xong
lễ. Và phải nói thật là họ dành thời gian tưởng nhớ mẹ của Ove nhiều hơn là
nghĩ đến Chúa. Đó là thời gian của bà, dù bà không còn hiện diện nữa. Sau đó,
hai bố con sẽ đi một chuyến dài giữa vùng thôn quê trên chiếc Saab. Đấy luôn là
khoảng thời gian trong tuần mà Ove thích nhất.
Năm đó, để khỏi loanh quanh trong nhà một mình, Ove cũng bắt
đầu theo bố đi làm việc ở đường ray tàu hỏa sau khi tan trường. Đó là một công
việc nhọc nhằn và rẻ mạt, nhưng giống như bố cậu từng lẩm bẩm, “một công việc
đàng hoàng, và như vậy là đủ”.
Ove quý mến mọi công nhân đường sắt ngoại trừ Tom. Hắn ta to
lớn, ồn ào, với hai bàn tay hộ pháp và đôi mắt lúc nào cũng giống như đang tìm
kiếm một con vật tội nghiệp để hành hạ.
Năm Ove lên chín tuổi, có lần cậu được bố sai đi giúp Tom
làm sạch một toa xe lửa cũ. Trong sự vui sướng bất ngờ, Tom nhặt được một chiếc
vali bị một hành khách vội vã nào đó bỏ quên. Nó đã rơi từ trên giá để hành lý
xuống, khiến cho những thứ đựng bên trong văng hết ra ngoài. Tom nhanh chóng bò
trên sàn, sục sạo mọi thứ mà hắn ta có thể nhìn thấy.
- Của rơi thuộc về người nhặt. - Hắn ta nói.
Trong đôi mắt của Tom có gì đó khiến Ove cảm thấy như lũ côn
trùng đang bò lổm ngổm bên dưới làn da của hắn.
Khi quay lưng bỏ đi, Ove vấp phải một cái ví tiền. Nó được
làm bằng loại da mềm mại tựa vải bông dưới những đầu ngón tay thô ráp của cậu.
Nó cũng không cần phải được buộc chun để khỏi bị bung ra như ví tiền của bố cậu,
mà có một nút bấm bằng bạc kêu tanh tách khi đóng mở. Trong ví có hơn sáu ngàn
krona. Một gia tài vào thời điểm ấy.
Tom trông thấy cái ví và cố giằng nó ra khỏi tay của Ove.
Theo bản năng tự vệ, cậu bé kháng cự lại. Ove nhận thấy sự sững sờ trên khuôn mặt
của gã công nhân đường sắt và chỉ kịp nhìn thấy Tom co nắm đấm lại. Biết mình sẽ
không thể nào thoát thân được, nên Ove nhắm mắt, giữ chặt cái ví hết mức có thể,
và chờ đợi cú đấm.
Nhưng trước khi cả hai người kịp nhận ra, bố của Ove đã đứng
giữa họ. Đôi mắt giận dữ của Tom chiếu thẳng vào mắt bố trong một vài giây,
nhưng bố không hề nao núng. Cuối cùng Tom hạ nắm đấm xuống và cẩn thận lùi lại
một bước.
- Của rơi thuộc về người nhặt, luôn là như vậy. - Hắn ta làu
bàu, tay chỉ vào cái ví.
- Quyền quyết định thuộc về người tìm thấy nó. - Bố của Ove
đáp, không rời mắt khỏi Tom.
Đôi mắt Tom đen kịt lại. Nhưng hắn ta lùi thêm bước nữa,
trong tay vẫn cầm chiếc vali. Tom đã làm việc nhiều năm trong ngành đường sắt,
nhưng chưa bao giờ Ove nghe thấy các đồng nghiệp của bố nói tốt về hắn ta. Đó
là một người không trung thực và hiểm độc, họ hay nói như vậy sau khi đã uống
vài chai bia trong các buổi tiệc tùng. Tuy nhiên, Ove chưa bao giờ nghe bố hùa
theo họ. “Bốn đứa con và một cô vợ đau ốm, ngay cả người tốt hơn Tom cũng có thể
trở thành tồi tệ”, bố thường nói như vậy với các đồng nghiệp của mình, không
quên nhìn thẳng vào mắt họ. Sau đó mọi người đổi chủ đề câu chuyện.
Bố của Ove chỉ vào cái ví trong tay cậu và nói:
- Con quyết định đi.
Ove cứ nhìn dán mắt xuống mặt sàn, cảm thấy ánh mắt thiêu đốt
của Tom trên đỉnh đầu mình. Rồi cậu đáp với một giọng nói nhỏ nhưng không hề
run rẩy rằng bộ phận phụ trách hành lý thất lạc sẽ là nơi thích hợp nhất để giữ
cái ví. Bố cậu gật đầu và nắm tay con trai đi dọc đoạn đường ray mất gần nửa tiếng
để quay về, không nói thêm gì nữa. Ove nghe thấy Tom điên cuồng la lối phía sau
lưng họ. Cậu không bao giờ quên giọng nói đó.
Người phụ nữ ở bộ phận hành lý thất lạc gần như không tin
vào mắt mình khi hai bố con đặt cái ví tiền lên quầy.
- Nó nằm chơ vơ ngay trên sàn à? Cháu không thấy túi hay thứ
gì đựng nó à? - Cô ta hỏi.
Ove nhìn bố dò hỏi, nhưng thấy bố không nói gì nên cậu đáp:
- Vâng ạ.
Người phụ nữ có vẻ bằng lòng với câu trả lời đó.
- Không nhiều người từng giao nộp một số tiền lớn đến thế
này đâu. - Cô mỉm cười với Ove.
- Không phải ai cũng đàng hoàng. - Bố của Ove nói với giọng
cộc lốc, rồi nắm tay con trai.
Hai bố con quay gót và trở về chỗ làm việc.
Sau khi đi được vài trăm mét dọc theo đường ray, Ove hắng giọng,
thu hết can đảm để hỏi tại sao bố cậu không nhắc đến chiếc vali mà Tom tóm được.
- Chúng ta không phải loại người hớt lẻo chuyện của người
khác.
Ove gật đầu. Hai bố con im lặng bước đi.
- Con đã nghĩ đến việc giữ lại chỗ tiền. - Một lúc sau Ove
nói khẽ, tay nắm chặt bàn tay bố như thể sợ bị tuột ra.
- Bố biết. - Bố cậu đáp và siết tay cậu mạnh hơn một chút.
- Nhưng con biết bố sẽ giao nộp nó, và con cũng biết một người
như chú Tom sẽ không làm điều đó.
Bố cậu gật đầu. Hai bố con không nói gì về chuyện đó nữa.
Nếu Ove là kiểu người tự hỏi làm thế nào và khi nào mình trở
thành con người như hiện tại, có lẽ ông sẽ nói rằng đó là thời điểm ông học được
“một là một và hai là hai”. Nhưng ông không phải là người hay nghiền ngẫm mọi
thứ như thế. Ông bằng lòng với việc nhớ rằng ngày hôm đó ông đã quyết định sau
này sẽ giống bố mình nhiều nhất có thể.
Bố mất lúc Ove vừa tròn mười sáu tuổi, khi bị một toa xe bất
ngờ lao tới trên đường ray đụng phải. Cậu được thừa hưởng một chiếc Saab, một
ngôi nhà ọp ẹp cách thành phố vài chục cây số, và một chiếc đồng hồ đeo tay móp
méo, cùng một số thứ lặt vặt khác. Cậu chưa bao giờ có thể lý giải một cách mạch
lạc chuyện đã xảy đến với mình ngày hôm ấy. Nhưng cậu không còn hạnh phúc nữa.
Cậu không hạnh phúc suốt vài năm sau cái chết của bố.
Tại đám tang, cha xứ muốn nói với Ove về một gia đình đỡ đầu,
nhưng rồi nhanh chóng nhận ra rằng cậu được nuôi dạy theo lối không chấp nhận sự
thương hại. Ove cũng đồng thời nói rõ là kể từ lúc đó cha không cần phải dành một
chỗ cho cậu tại các buổi lễ ngày Chủ nhật. Không phải vì cậu không tin ở Chúa,
Ove giải thích với cha xứ như vậy, mà vì trong con mắt của cậu, Chúa chỉ là một
gã tồi.
Ngày hôm sau, Ove đi tới phòng phát lương của công ty đường
sắt và đưa trả phần lương tháng còn lại. Các cô nhân viên ở đó không hiểu gì cả,
khiến cậu phải giải thích rằng bố mình mất vào ngày mười sáu nên không thể đi
làm trong mười bốn ngày còn lại của tháng. Và vì tiền lương của bố được ứng trước,
cậu muốn nộp lại phần còn thừa.
Ngập ngừng, các cô nhân viên bảo Ove ngồi đợi. Sau khoảng mười
lăm phút, ngài giám đốc bước ra và nhìn cậu bé mười sáu tuổi đặc biệt đang ngồi
trên chiếc ghế gỗ trong hành lang cùng với số tiền của bố mình trên tay. Ngài
giám đốc biết rất rõ cậu bé này. Sau khi biết không thể thuyết phục Ove giữ lại
khoản tiền, ngài giám đốc chỉ còn cách bảo cậu làm nốt số ngày làm việc còn lại
của tháng để hợp thức hóa số tiền đó. Ove thấy đây là một đề nghị hợp lý và báo
với nhà trường rằng mình sẽ nghỉ học hai tuần. Nhưng cậu không bao giờ quay trở
lại trường học.
Ove làm việc cho công ty đường sắt được năm năm. Thế rồi vào
một buổi sáng, khi lên tàu, ông trông thấy bà lần đầu tiên. Đó cũng là lần đầu
tiên ông cười kể từ sau cái chết của bố.
Và cuộc sống của ông không còn như trước nữa.
Mọi người bảo Ove rằng ông chỉ nhìn đời theo hai màu đen trắng.
Còn bà là màu sắc. Tất cả màu sắc của ông.
6
CHIẾC XE ĐẠP LẼ RA PHẢI ĐỂ ĐÚNG CHỖ
Ông chỉ muốn chết trong yên bình. Không lẽ đó là một đòi hỏi
quá mức? Ông không nghĩ vậy. Lẽ ra ông có thể đi ngay sau đám tang của vợ hồi
sáu tháng trước. Nhưng không thể cứ thế mà đi được, lúc đó ông đã quyết như thế.
Ông còn phải thu xếp công việc của mình. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu người ta đột
ngột không đi làm nữa vì tự sát? Vợ của ông qua đời vào thứ Sáu, được chôn cất
vào Chủ nhật, và ông đi làm vào thứ Hai. Vì mọi thứ phải diễn ra như vậy. Để rồi
sáu tháng sau, những tay quản lý đột ngột xuất hiện vào một buổi sáng thứ Hai
và bảo rằng họ không muốn thông báo vào thứ Sáu vì “không muốn làm hỏng những
ngày cuối tuần của ông”. Và ngày thứ Ba ông đánh bóng quầy bếp.
Ông đã sửa soạn mọi thứ. Ông trả tiền cho dịch vụ mai táng
và giữ một phần mộ tại nghĩa trang của nhà thờ bên cạnh bà. Ông đã gọi luật sư
đến và thảo một thư hướng dẫn rõ ràng, trước khi nhét nó vào trong một phong bì
cùng tất cả các chứng từ quan trọng, giấy tờ nhà và sổ bảo dưỡng xe của chiếc
Saab. Ông cất phong bì này trong túi áo vest. Ông đã thanh toán mọi hóa đơn.
Ông không còn nợ nần gì nữa, nên không ai phải dọn dẹp các thứ giúp ông. Thậm
chí ông đã rửa sạch cốc cà phê và hủy đặt báo dài hạn. Ông đã sẵn sàng.
Và tất cả những gì ông muốn là chết trong yên bình, ông nghĩ
trong lúc ngồi trên xe và nhìn ra ngoài cửa. Nếu tránh mặt được mấy người hàng
xóm, ông sẽ có thể đi ngay trong chiều nay.
Ove trông thấy anh chàng béo nhà bên lặc lè đi ngang qua.
Không phải ông không ưa người béo. Chắc chắn là không. Người ta có toàn quyền đối
với vẻ ngoài của mình. Chỉ là ông không thể nào hiểu được họ, không thể lý giải
được làm thế nào họ thành ra như thế. Con người ta có thể ăn bao nhiêu? Làm sao
một người có thể tự làm mình phình to gấp đôi? Chắc là phải cần một sự quyết
tâm nhất định, ông nghĩ bụng.
Trông thấy ông Ove, anh chàng béo vẫy tay chào một cách vui
vẻ. Ông gật đầu đáp lại. Cậu ta đứng đó, tiếp tục vẫy tay, khiến cho hai khối mỡ
ở ngực rung rinh sau lớp vải áo thun. Ove luôn nói rằng đây là người duy nhất
mà ông biết có khả năng chén sạch cả chục gói bim bim trong nháy mắt, nhưng lần
nào vợ ông cũng phản đối và bảo ông không nên nói thế. Hay đúng hơn, bà từng phản
đối. Từng phản đối.
Vợ của Ove quý mến anh chàng béo. Sau khi mẹ cậu ta qua đời,
mỗi tuần một lần bà mang một hộp đồ ăn sang cho cậu ta. “Để thỉnh thoảng cậu ấy
được ăn tươi”, bà từng nói như vậy. Ông đáp rằng cậu ta không bao giờ trả hộp,
nên có lẽ cậu ta không phân biệt được cái hộp và thức ăn bên trong nó. Vợ ông bảo
là ông nói thế đủ rồi. Ờ, đủ thì đủ.
Ông đợi cho đến khi anh chàng chén cả thức ăn lẫn hộp đã đi
khuất mới bước xuống xe. Ông vặn thử tay nắm cửa xe ba lần. Rồi ông ra ngoài,
đóng cửa ga ra, vặn thử nắm cửa ba lần. Đi được một đoạn, ông bỗng khựng lại
phía bên ngoài nhà cất xe đạp. Có một chiếc xe đạp nữ đang dựa vào tường. Lại nữa
rồi. Ngay bên dưới tấm biển cảnh báo không được để xe đạp bên ngoài.
Ông bê chiếc xe lên. Lốp trước của nó bị xịt. Ông mở cửa nhà
để xe, xếp nó vào hàng ngay ngắn, trước khi khóa cửa lại. Ông vừa mới vặn thử nắm
cửa ba lần thì nghe thấy một giọng vỡ tiếng nói lúng búng vào tai mình.
- Con bà nó! Ông làm cái gì vậy?
Ông Ove quay lại và thấy mình đối mặt với một thằng nhóc con
đứng cách đó vài bước.
- Cất chiếc xe đạp vào chỗ để xe.
- Ông không được làm vậy!
Nhìn kỹ thì cậu ta khoảng mười tám tuổi, ông nhủ thầm. Gọi
là du côn thì đúng hơn là nhóc con.
- Được chứ sao không?
- Nhưng tôi đang đem nó đi sửa! - Cậu ta hét lên, giọng lạc
đi.
- Nó là một chiếc xe đạp nữ.
- Thì sao?
- Vậy thì nó khó lòng là xe của cậu. - Ông Ove nói.
Cậu ta rên lên và đảo mắt. Ông đút tay vào túi, coi như vấn
đề đã được giải quyết xong.
Tiếp theo là một sự im lặng căng thẳng. Thằng nhóc nhìn Ove
như thể đã nhận thấy ông cứng rắn hơn cần thiết. Đáp lại, ông nhìn sinh vật trước
mặt mình như thể cậu ta chỉ làm lãng phí oxy của khí quyển. Phía sau lưng cậu
ta còn một thanh niên nữa, gầy gò hơn và có đôi mắt quẹt than đen hù. Tên đứng
sau thận trọng kéo áo kẻ đứng trước và thì thào gì đó nghe như là “đừng có gây
sự”. Thằng nhóc bực bội đá vào tuyết như thể lỗi là của thời tiết.
- Đó là xe của bạn gái tôi. - Cuối cùng cậu ta lẩm bẩm, giọng
nhẫn nhục nhiều hơn là bực bội.
Đôi giày thể thao của cậu ta quá to, trong khi quần jean lại
quá chật, Ove ghi nhận. Chiếc áo khoác được kéo lên tận cằm để bảo vệ cậu ta khỏi
cái lạnh. Khuôn mặt gầy gò đầy lông tơ chi chít mụn đầu đen, còn tóc cậu ta
trông như thể bị ai đó nắm để kéo cậu ta lên khỏi một thùng keo.
- Thế bạn gái cậu sống ở đâu nào?
Tựa như vừa bị bắn một mũi tiêu tẩm thuốc mê, thằng nhóc khó
nhọc nâng cánh tay lên, chỉ về phía ngôi nhà ở cuối đường. Nơi những kẻ đã biểu
quyết ủng hộ việc phân loại rác sống cùng với con gái. Ove chậm rãi gật đầu.
- Vậy thì bảo bạn gái cậu vào trong này mà lấy xe. - Ông vừa
đáp vừa gõ tay vào biển cấm để xe đạp lung tung, trước khi quay gót đi thẳng về
nhà.
- Đồ già khốn kiếp! - Thằng nhóc ré lên phía sau lưng ông.
- Suỵt! - Thanh niên mắt quẹt than vội can ngăn.
Ove không buồn đáp trả.
Ông đi ngang qua tấm biển cấm các phương tiện có động cơ đi
vào khu dân cư. Tấm biển mà cô nàng bầu bí người nước ngoài rõ ràng đã không đọc,
mặc dù ông biết cô ta không thể nào không thấy nó được. Ông biết vì chính ông
là người đặt nó tại đây. Bực bội trong lòng, ông bước trên con đường đi bộ giữa
hai dãy nhà, vừa đi vừa giậm chân thình thịch khiến cho ai nhìn thấy cũng tưởng
ông đang muốn làm phẳng mặt đường trải nhựa. Cứ như là sống trên cùng một con
đường với những kẻ vớ vẩn hiện nay còn chưa đủ tệ, ông nghĩ bụng. Cứ như thể
toàn bộ khu này chưa bị biến thành một cái gờ giảm tốc đối với sự phát triển
chung vậy. Tay đi xe Audi và cây sậy tóc vàng sống trong ngôi nhà gần như đối
diện nhà ông, và ở cuối dãy đó là gia đình có mấy cô con gái tuổi teen, tóc đỏ
quạch và mặc quần soóc bên ngoài quần dài, mặt trang điểm như những con gấu
mèo. Ờ thì hiện giờ bọn họ đang đi nghỉ ở Thái Lan, hình như thế, nhưng chuyện
đó không thay đổi được gì cả.
Sống trong ngôi nhà bên cạnh nhà của ông Ove là anh chàng
hai mươi lăm tuổi nặng gần một phần tư tấn, với mái tóc dài như con gái và
chuyên mặc những chiếc áo thun dị hợm. Cậu ta sống với mẹ cho đến khi bà mất vì
bệnh khoảng một năm trước. Hình như cậu ta tên là Jimmy, theo lời của vợ ông.
Ove không biết Jimmy làm nghề gì, ông đoán là một công việc bất hợp pháp. Trừ
phi cậu ta làm nghề nếm thử thịt lợn muối.
Bên cạnh nhà của Jimmy là nhà của Rune và vợ. Ove không coi
Rune là kẻ thù của mình. Mà thật ra là có. Mọi rắc rối của tổ dân phố đều bắt
nguồn từ Rune. Ông ta và bà vợ Anita dọn về khu này đúng ngày mà vợ chồng ông
Ove chuyển đến. Hồi đó Rune lái xe Volvo, nhưng về sau ông ta đã mua một chiếc
BMW. Không thể nói lý lẽ với một người cư xử như vậy.
Chính Rune đã thúc đẩy cuộc lật đổ Ove khỏi chức tổ trưởng tổ
dân phố. Cứ nhìn tình hình hiện tại thì biết. Tiền điện tăng lên, xe đạp không
được cất trong nhà để xe, và người ta lùi cả rơ-mooc vào trong khu dân cư bất
chấp biển cấm. Ông đã cảnh báo những chuyện này từ lâu, nhưng không ai nghe. Kể
từ đó, ông không bao giờ vác mặt đến dự các cuộc họp tổ dân phố nữa. Cứ nghĩ đến
tổ dân phố là cái miệng ông chỉ muốn nhổ nước bọt, như thể mấy chữ đó có nghĩa
rất bậy bạ.
Khi còn cách hộp thư móp méo nhà mình mười lăm mét, Ove
trông thấy cây sậy tóc vàng. Lúc đầu ông không tài nào hiểu nổi cô ta đang làm
gì. Lênh khênh trên đôi giày cao gót, cô ta đang điên cuồng chỉ trỏ trước cửa
nhà ông. Cái nùi giẻ biết sủa - không thể gọi nó là chó - ưa đái bậy trước nhà
ông đang nhặng xị dưới chân bà chủ.
Cây sậy la hét gì đó lớn đến nỗi làm cặp kính râm tụt xuống
tận chóp mũi. Nùi giẻ sủa càng dữ hơn. Ồ, cô nàng đang tức điên lên kìa, Ove
nghĩ thầm. Lúc đó ông mới nhận ra cô ta không chỉ trỏ ngôi nhà của ông. Cô ta
đang ném đá, không phải vào nhà ông, mà vào con mèo.
Con mèo đang co rúm người lại trong một góc tường phía sau
lán cất dụng cụ của Ove. Bộ lông xơ xác trụi lủi của nó lấm tấm vết máu. Nùi giẻ
nhe răng. Con mèo rít lên đáp trả.
- Mày dám dọa Prince hả! - Cây sậy quát, tay nhặt tiếp một
hòn đá và ném về phía con mèo.
Con mèo nhảy tránh. Hòn đá trúng vào bậu cửa sổ. Cô ta nhặt
một hòn đá khác, lăm lăm chuẩn bị ném. Ove tiến nhanh tới phía sau lưng cây sậy
tóc vàng, gần đến nỗi cô ta có thể cảm thấy hơi thở của ông.
- Nếu cô ném hòn đá này vào nhà tôi, tôi sẽ ném cô vào vườn
nhà cô đấy!
Cây sậy quay lại. Mắt họ gặp nhau. Hai tay Ove đang đút túi,
còn cô ta vung vẩy nắm tay trước mặt ông như thể đang đuổi ruồi. Ông không thèm
nhúc nhích.
- Cái giống kinh tởm đó vừa cào Prince!
Cuối cùng cô ta nói, đôi mắt long sòng sọc giận dữ. Ove nhìn
xuống con chó. Nó sủa ông một tiếng. Rồi ông nhìn sang phía con mèo đang ngồi
thu lu bên ngoài nhà của ông, người lấm máu, nhưng vẫn nghênh đầu thách thức.
- Nó đang chảy máu kìa. Vậy là hòa rồi. - Ove nói.
- Còn lâu. Tôi sẽ giết con quái vật đó.
- Ồ, không đâu. - Ông lạnh lùng đáp.
Cây sậy tóc vàng bắt đầu giở giọng hù dọa:
- Chắc con mèo đó đầy rẫy vi trùng, mắc bệnh dại và tỉ tỉ thứ
khác.
Ove quan sát con mèo, rồi nhìn cô ta. Ông gật đầu.
- Cô cũng vậy thôi. Nhưng chúng tôi không ném đá vào cô vì
chuyện đó.
Môi dưới của cây sậy tóc vàng bắt đầu run lên. Cô ta đẩy
kính lên mắt.
- Ông coi chừng cái miệng ông đó!
Ove gật đầu, chỉ tay vào con chó. Nó cố cắn vào chân ông,
nhưng ông giậm chân mạnh đến nỗi làm nó lùi ra xa.
- Con vật này nên được buộc dây dắt trong khu dân cư. - Ông
nói với giọng điềm tĩnh.
Cô ta lắc lắc mái tóc nhuộm và hừ mũi mạnh đến nỗi ông tưởng
một chút nước mũi đã bắn ra.
- Vậy cái con kia thì sao? - Cô ta gào lên, tay chỉ con mèo.
- Không phải chuyện của cô. - Ove đáp.
Cây sậy tóc vàng nhìn ông theo lối của một kẻ bề trên bị sỉ
nhục. Nùi giẻ nhe răng.
- Ông tưởng ông làm chủ cả con phố này hay sao, hả đồ gàn?
Ove bình tĩnh chỉ vào con chó một lần nữa.
- Lần tới con thú này đái bậy trước nhà tôi, - ông nói một
cách lạnh lùng, - tôi sẽ chích điện nó.
- Prince còn lâu mới đái bậy trước cái nhà tởm lợm của ông.
- Cô ta vặc lại và lùi ra sau hai bước, nắm đấm giơ lên. Ove không nhúc nhích.
Cô ta dừng lại, trông như sắp bị lên cơn hen.
Rồi dường như cô ta đã huy động được một chút lý trí còn sót
lại và ngoắc con chó:
- Đi thôi, Prince.
Cây sậy dứ dứ ngón trỏ trước mặt Ove.
- Tôi sẽ kể với Anders chuyện này. Rồi ông sẽ phải hối tiếc
đấy.
- Nhân thể, cô chuyển lời nhắn của tôi với Anders là anh ta
đừng có xoạc háng trước cửa sổ nhà tôi nữa.
- Lão già khốn kiếp. - Cây sậy tóc vàng văng tục rồi bỏ đi một
mạch về phía bãi đỗ xe.
- Nhắn với anh ta là xe của anh ta giống như đồ phế liệu ấy!
- Ông đế thêm.
Cô ta làm một cử chỉ mà Ove chưa bao giờ thấy, mặc dù ông
đoán được ý nghĩa của nó. Sau đó, cô ta và con chó đi về nhà.
Ove đi vòng qua cái lán. Ông thấy những vệt nước tiểu trên lớp
đá lát đường bên cạnh luống hoa. Nếu không bận việc quan trọng hơn vào buổi chiều
hôm nay thì ông đã đuổi ngay theo con chó và biến nó thành thảm chùi chân thực
sự. Nhưng ông còn việc khác phải làm. Ông bước vào trong lán, lấy chiếc khoan đục
bê tông cùng với hộp mũi khoan.
Khi Ove bước ra, ông thấy con mèo đang ngồi nhìn mình.
- Mày có thể chuồn được rồi. - Ông nói.
Con mèo không nhúc nhích. Ove lắc đầu một cách uể oải.
- Đi đi! Tao không phải bạn của mày.
Con mèo vẫn ngồi y chỗ cũ. Ông dang tay ra.
- Chúa ơi, mèo à, việc tao bảo vệ mày khi con mụ ngu ngốc đó
ném đá vào mày chỉ có nghĩa là tao ghét mày ít hơn mụ ta. Và đó cũng không phải
là một cái gì lớn lao, mày nên hiểu như vậy.
Con mèo dường như đang ngẫm nghĩ. Ove chỉ tay ra đường.
- Biến đi.
Không mảy may bận tâm, con mèo liếm bộ lông lấm máu. Nó nhìn
Ove như thể đang cân nhắc một đề nghị thương lượng. Rồi nó chậm rãi đứng dậy và
ung dung bỏ đi, biến mất sau góc tường của cái lán. Ove không buồn nhìn nó. Ông
đi thẳng vào trong nhà và dập cửa lại. Bởi vì như vậy là quá đủ. Giờ ông đi chết
đây.
------------
Còn tiếp.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét