Người Đàn Ông Mang Tên Ove
Tác giả: Fredrik Backman
Người dịch: Hoàng Anh
NXB Trẻ - Năm xuất bản 8-2017
15
CHUYẾN TÀU MUỘN GIỜ
Người đàn ông hơi mập mạp phía bên kia tấm kính có mái tóc
chải lật ra sau và đôi tay đặc kín hình xăm. Cứ như thể bị ai đó đổ cả hũ bơ thực
vật lên đầu chưa đủ, anh ta còn lấy bút vẽ nguệch ngoạc đầy người. Trông chẳng
ra hình thù gì đàng hoàng, chỉ toàn là hoa văn. Một người trưởng thành có đầu
óc bình thường lẽ nào lại chấp nhận đi ra đường với đôi tay trông như lớp lót
áo vest thế kia?
- Máy bán vé của các anh không hoạt động. - Ông Ove thông
báo với anh ta.
- Không thể nào? - Người nhân viên nói.
- Anh nói vậy là sao?
- Ý tôi là nó không chạy thật à?
- Thì tôi vừa nói đấy thôi, nó hỏng rồi!
Người nhân viên tỏ ra hoài nghi.
- Hay là thẻ của ông có vấn đề? Vạch từ bị bẩn chẳng hạn?
Nét mặt ông Ove giống như vừa bị anh ta hỏi xem ông có bị rối
loạn cương dương hay không. Anh ta im lặng.
- Vạch từ trên thẻ của tôi không hề bẩn, anh có thể chắc chắn
về chuyện đó. - Ông gắt lên.
Người đàn ông bên kia tấm kính gật đầu. Rồi anh ta đổi ý và
lắc đầu. Anh ta cố giải thích với ông Ove rằng chiếc máy “vừa nãy còn hoạt động
bình thường”. Ông bảo anh ta chỉ nói vớ vẩn, vì rõ ràng hiện tại nó đang bị hỏng.
Người đàn ông hỏi liệu ông Ove có tiền mặt không, và ông đáp rằng đó không phải
việc của anh ta. Một sự im lặng căng thẳng kéo dài.
Cuối cùng, người nhân viên hỏi xem anh ta có thể kiểm tra thẻ
của ông Ove được không. Khuôn mặt ông giống như thể hai người chạm mặt nhau
trong một hẻm tối và anh ta đòi “xem hàng họ” của ông.
- Đừng có giở trò đấy. - Ông vừa cảnh báo vừa ngập ngừng đẩy
cái thẻ qua cái lỗ nhỏ bên dưới tấm kính.
Người nhân viên tóm lấy cái thẻ và chùi mạnh nó vào quần.
Làm như ông Ove chưa từng đọc mấy bài báo về trò “ăn trộm thông tin trên thẻ”
không bằng. Ông đâu có ngu.
- Anh làm cái gì vậy hả? - Ông hét toáng lên và đập tay vào
lớp kính.
Người nhân viên đẩy trả cái thẻ qua lỗ.
- Ông thử lại đi.
Ove tin rằng bất cứ ông già ngu dốt nào cũng biết nếu cái thẻ
không hoạt động chỉ một phút trước đó thì bây giờ còn lâu nó mới hoạt động được.
Ông nói như thế với người đàn ông ở phía bên kia tấm kính.
- Ông làm ơn thử lại đi. - Anh ta nói.
Ove thở dài sườn sượt. Rồi ông cầm lấy cái thẻ của mình, mắt
không rời khỏi quầy. Máy bán vé hoạt động trơn tru.
- Ông thấy chưa! - Anh ta cười giễu.
Ông Ove quắc mắt nhìn cái thẻ như thể nó vừa mới chơi xỏ
mình, trước khi cất nó vào ví.
- Chúc ông một ngày tốt lành. - Người nhân viên nói với
theo.
- Để xem thế nào đã. - Ông lẩm bẩm.
Trong hai mươi năm qua, gần như mọi người mà ông Ove từng gặp
đều lải nhải về việc ông nên thanh toán mọi thứ bằng thẻ. Nhưng với ông tiền mặt
cũng tốt vậy. Tiền mặt đã phục vụ nhân loại một cách đắc lực trong hàng ngàn
năm kia mà. Với lại, ông cũng không mấy tin tưởng các ngân hàng và hệ thống máy
móc điện tử của họ.
Nhưng bất chấp tất cả, vợ ông cứ nhất định phải làm một cái
thẻ thanh toán, mặc dù ông đã can ngăn hết mực. Khi bà mất đi, ngân hàng đã gửi
cho ông một cái thẻ mới mang tên ông và kết nối nó với tài khoản của bà. Hiện
giờ, sau khi đã mua hoa cho bà trong sáu tháng qua, trong thẻ còn đúng 136
krona 54 ore. Ông biết thừa chỗ tiền này sẽ chảy vào túi của một tay giám đốc
ngân hàng nào đó nếu ông chết trước khi tiêu sạch chúng.
Nhưng khi ông muốn sử dụng các thẻ nhựa chết tiệt ấy thì nó
lại không hoạt động. Hoặc là có những khoản phụ phí khi thanh toán thẻ tại các
cửa hàng. Điều này chỉ càng chứng tỏ là ông luôn đúng. Và ông sẽ nói với vợ
mình ngay khi gặp bà, để cho bà sáng mắt ra.
Sáng nay Ove đã lên đường từ lâu trước khi mặt trời huy động
đủ năng lượng để nhô lên khỏi đường chân trời, chưa nói tới mấy người hàng xóm
của ông. Ông đã nghiên cứu cẩn thận bảng giờ tàu chạy trong hành lang. Rồi ông
tắt hết đèn đóm và máy sưởi, để lại phong bì chứa các lời chỉ dẫn trên tấm thảm
phía trong cửa. Ông tin rằng một người nào đó sẽ tìm thấy nó khi họ đến xem
ngôi nhà.
Ông đã dọn tuyết trước cửa và cất xẻng vào trong lán trở lại,
trước khi khóa cửa lán. Nếu chú ý hơn chắc ông đã nhận thấy vết lõm hình con
mèo nơi đống tuyết lớn ngay phía ngoài lán khi ông bắt đầu đi về phía khu vực đỗ
xe. Nhưng do trong đầu ông còn những chuyện quan trọng hơn nên Ove đã không để
ý.
Rút kinh nghiệm từ lần vừa rồi, ông không đi ô tô mà đi bộ tới
nhà ga. Bởi lẽ lần này ông sẽ không để cô nàng bầu bí, cây sậy tóc vàng, bà vợ
của Rune hay một sợi thừng chất lượng kém làm hỏng buổi sáng của mình. Ông đã xả
gió cho máy sưởi nhà người khác, cho họ mượn đồ, đưa họ tới bệnh viện. Giờ đây
cuối cùng ông cũng lên đường được.
Ove kiểm tra giờ tàu chạy. Ông ghét bị muộn giờ. Nó làm hỏng
kế hoạch, làm mọi thứ rối tung. Vợ ông đúng là rất kém trong việc tuân thủ kế
hoạch, nhưng phụ nữ luôn như thế. Có gắn keo họ vào bản kế hoạch thì họ cũng
không thể nào theo nó nổi, ông đã học được điều đó. Khi ông vạch ra các lịch
trình và hoạch định nơi nào họ đổ xăng, khi nào họ dừng lại uống cà phê, tất cả
cũng chỉ vì ông muốn làm cho chuyến đi đạt hiệu quả cao nhất về mặt thời gian.
Ông luôn nghiên cứu bản đồ và ước tính một cách chính xác thời gian dành cho mỗi
chặng hành trình, cách tránh các điểm ùn tắc vào giờ cao điểm và những con đường
tắt mà đám người chỉ nhờ cậy vào hệ thống GPS sẽ không thể nào mò ra được. Ove
luôn có một chiến lược di chuyển rõ ràng. Ngược lại, trong đầu vợ ông luôn nảy
ra những tư tưởng điên rồ kiểu như “đi theo cảm hứng” và “thong thả thôi”. Cứ
như thể một người trưởng thành có thể hoàn thành được bất cứ điều gì trong đời
với thái độ như vậy. Và bà luôn sực nhớ ra mình phải gọi một cuộc điện thoại hoặc
bỏ quên chiếc khăn quàng. Hoặc là không biết phải mang theo chiếc áo choàng nào
vào phút chót. Hoặc một thứ gì đó. Bà luôn bỏ quên phích cà phê trong bếp,
trong khi đó là thứ duy nhất thực sự quan trọng. Bốn cái áo choàng trong hành
lý nhưng không một giọt cà phê nào. Làm như họ có thể ghé vào một trạm dừng sau
mỗi giờ đồng hồ và mua thứ nước khét lẹt mà người ta bán tại đó. Để bị chậm
thêm. Nhưng mỗi khi ông cằn nhằn, bà lại hỏi về tầm quan trọng của việc tuân
theo lịch trình khi lái xe đi chơi đâu đó. “Chúng ta có vội đâu”, bà nói như thế.
Làm như đó là vấn đề của mọi chuyện.
Giờ đây, đứng một mình trên sân ga, Ove nhét hai tay vào túi
quần. Ông không mặc áo vest. Nó đã bị vấy bẩn và ám mùi khói xe quá nặng, và
Ove nghĩ bà sẽ mắng ông nếu ông xuất hiện trong bộ dạng đó. Bà không thích chiếc
sơ mi và cái áo len mà ông đang mặc, nhưng ít ra chúng cũng sạch sẽ và tươm tất.
Nhiệt độ ngoài trời khoảng mười độ. Do chưa thay chiếc áo gió mùa thu màu xanh
biển bằng chiếc áo choàng mùa đông màu xanh biển nên ông lạnh cóng. Dạo gần đây
ông có hơi xao lãng, ông phải thừa nhận như vậy. Ông đã không thật sự cân nhắc
về việc người ta nên xuất hiện trong bộ dạng như thế nào ở trên kia. Lúc đầu
ông cho rằng mọi người trên đó đều ăn mặc bảnh bao và trang trọng. Nhưng rồi
ông lại nghĩ trên đó hẳn phải có một loại đồng phục nào đó, để tránh rối mắt.
Theo ông, trên đó sẽ có đủ mọi loại người - những người ngoại quốc chẳng hạn, mỗi
người lại mặc một trang phục kỳ quặc khác nhau. Có lẽ một khi đã lên tới nơi,
ông có thể thu xếp việc ăn mặc của mình - chắc chắn phải có một tủ để đồ ở đâu
đó.
Sân ga gần như vắng tanh. Phía bên kia đường ray là vài
thanh niên ngái ngủ với những chiếc ba lô quá khổ mà ông tin là chứa đầy ma
túy. Cùng với bọn họ là một người đàn ông ngoại tứ tuần mặc com-lê xám và khoác
áo choàng đen. Anh ta đang đọc báo. Đứng tách biệt một chút là vài phụ nữ ở độ
tuổi rực rỡ nhất đang rì rầm trò chuyện. Trên ngực áo họ có thêu logo của hội đồng
tỉnh, và mái tóc thấp thoáng những lọn tím. Họ liên tục hút những điếu thuốc lá
bạc hà dài ngoằng.
Ở phía bên này đường ray, trên sân ga chỉ có ba người công
nhân đồ sộ ngoài ba mươi tuổi, mặc quần bảo hộ và đội mũ bảo hiểm. Họ đang đứng
quây lại thành vòng tròn và nhìn xuống một cái hố. Quanh họ là một vòng dây
cách ly được dựng sơ sài. Một người cầm ly cà phê mua từ cửa hàng 7-Eleven, người
thứ hai đang ăn chuối, còn người thứ ba thì cố gắng bấm điện thoại mà không cởi
găng tay. Mọi việc có vẻ không suôn sẻ. Cái hố vẫn nằm đó. Cũng không có gì ngạc
nhiên khi cả thế giới này chìm sâu trong một cuộc khủng hoảng tài chính, ông
nghĩ bụng. Người ta không làm lụng gì ngoài việc đứng ăn chuối và nhìn xuống những
cái hố cả ngày.
Ông xem giờ. Còn một phút nữa. Ông đứng ở gờ mép sân ga, hơi
nhón gót. Sẽ là một cú ngã chừng một mét rưỡi, ông ước lượng. Hoặc một mét sáu.
Có một điều gì đó mang tính biểu tượng trong việc một đoàn tàu đoạt mạng ông.
Nhưng Ove không hoàn toàn hài lòng. Ông không thích để người
lái tàu chứng kiến vụ việc. Do vậy ông đã quyết định chỉ nhảy xuống khi đầu máy
đã đến rất gần, để cho cạnh bên của toa xe đầu tiên đập vào mình thay vì tấm
kính chắn gió lớn ở phía trước. Ông nhìn về hướng con tàu đang đi tới và bắt đầu
đếm. Điều quan trọng là phải canh thời gian thật chính xác. Mặt trời chỉ vừa mới
nhô lên, nó bướng bỉnh chiếu những tia sáng vào mắt ông tựa như một đứa trẻ nghịch
một chiếc đèn pin.
Đúng lúc đó ông nghe thấy một tiếng thét.
Ove ngẩng lên vừa kịp để thấy người đàn ông khoác áo choàng
đen bắt đầu lảo đảo như một con gấu trúc bị uống thuốc ngủ quá liều. Sau đó một
vài giây, anh ta ngước đôi mắt trống rỗng lên, và co giật toàn thân. Đôi tay
anh ta vung vẩy rất mạnh. Thế rồi, tựa như trong một loạt ảnh chụp nhanh, tờ
báo rơi xuống và anh ta ngất đi, rơi từ trên sân ga xuống đường ray đánh thịch
một tiếng, chẳng khác nào một bao xi măng.
Những phụ nữ hút thuốc hét lên hoảng sợ. Đám thanh niên nghiện
hút trố mắt nhìn xuống đường ray, đôi tay níu chặt quai ba lô của mình như thể
sợ bị ngã xuống đó. Đứng ở mép sân ga bên này, ông Ove bực bội hết nhìn nhóm
người này tới nhóm người kia.
- Trời đất quỷ thần ơi! - Ông nói khẽ trong lúc nhảy xuống
đường ray, trước khi hét gọi một người trong đám thanh niên đeo ba lô. - GIÚP
TÔI MỘT TAY NÀO!
Cậu thanh niên từ từ tiến đến gờ mép sân ga. Ove túm lấy người
đàn ông bất tỉnh theo cách của một người cả đời không bao giờ bước chân vào
phòng tập nhưng có thể cắp nách hai trụ bê tông một lượt. Ông nâng người bất tỉnh
tới tay của anh chàng đeo ba lô với một sự dễ dàng mà những gã mặc quần thể
thao đi xe Audi không thể nào có được.
- Chúng ta không thể để anh ta nằm trước mũi tàu hỏa được,
các cậu có hiểu không?
Đám thanh niên bối rối gật đầu, và hợp sức lôi con người mặc
com-lê khoác áo choàng lên sân ga. Hội chị em phụ nữ vẫn còn đang la hét như thể
tin rằng đó là thái độ có ích trong những tình huống tương tự. Lồng ngực của
người đàn ông bất tỉnh nhấp nhô nhè nhẹ nhưng đều đặn trong lúc được đặt nằm ngửa
trên sân ga. Ở lại dưới đường ray, Ove nghe thấy đoàn tàu chạy tới. Mọi việc diễn
ra không giống như kế hoạch của ông, nhưng ông không còn lựa chọn nào khác.
Ông bình thản tiến đến giữa đường ray tàu hỏa, đút hai tay
vào túi quần, và nhìn thẳng vào cặp đèn pha. Ông nghe thấy tiếng rúc cảnh báo
giống như một hồi còi sương mù. Đường ray dưới chân ông rung lên bần bật tựa
như một con bò đực hăng tiết đang sắp sửa lao đến. Ove chầm chậm thở ra. Trong
màn sương điên rồ của sự rung lắc, những tiếng la hét và tiếng rít lạnh gáy
phát ra từ hệ thống hãm phanh của đoàn tàu, ông cảm thấy vô cùng thư thái.
Thế là xong.
Đối với Ove, những thời khắc tiếp theo bỗng kéo dài ra tựa hồ
thời gian cũng đạp phanh và làm cho mọi thứ quanh ông chuyển động như trong
phim chiếu chậm. Những âm thanh hỗn loạn nhỏ lại thành một tiếng rì rầm trong
tai ông, đoàn tàu tiến tới chậm chạp đến nỗi tưởng như được kéo bởi hai con bò
già. Những ngọn đèn pha nhấp nháy vô vọng trước mắt ông. Và trong khoảng tối giữa
hai ánh chớp sáng, khi ông không bị lóa mắt, Ove trông thấy ánh mắt của người
lái tàu. Cậu ta không thể nào lớn hơn hai mươi tuổi. Có lẽ cậu ta vẫn còn bị
các đồng nghiệp lớn tuổi hơn gọi là “thằng nhóc”.
Ông nhìn chăm chú khuôn mặt của cậu nhóc. Hai nắm tay của
ông co lại trong túi quần, trong khi ông tự nguyền rủa mình vì chuyện sắp xảy
ra. Nhưng chẳng ích gì, ông nghĩ bụng. Có một cách đúng đắn để giải quyết tình
huống này. Dù nó dở hơi.
Thế là, khi đoàn tàu còn cách ông khoảng mười lăm, hai mươi
mét, Ove bực bội văng tục, và với sự điềm tĩnh giống như lúc pha cho mình một
tách cà phê, ông rời khỏi đường ray, trèo lên sân ga trở lại.
Đoàn tàu chạy đến tận chỗ ông thì người lái tàu mới dừng được
nó. Sự hoảng sợ đã làm cho khuôn mặt của cậu nhóc cắt không còn hột máu. Rõ
ràng cậu ta đang cố gắng kiềm chế để không khóc nấc lên. Hai ông cháu nhìn nhau
qua cửa sổ đầu máy như thể cả hai vừa mới thoát khỏi một thảm họa và nhận ra
mình không phải là người duy nhất còn sống trên trái đất. Một người cảm thấy nhẹ
nhõm với suy nghĩ đó, còn người kia lại thấy thất vọng.
Cậu nhóc trong đầu máy xe lửa thận trọng gật đầu. Ông Ove nhẫn
nhục gật đầu đáp lại.
Chuyện ông không muốn sống nữa là một nhẽ. Nhưng ông không
phải loại người phá hỏng cuộc đời của một ai đó bằng cách nhìn vào mắt anh ta
ngay trước khi ông tan xương nát thịt trên kính chắn gió của đoàn tàu mà anh ta
đang lái. Cả bố ông lẫn Sonja sẽ không bao giờ tha thứ cho ông về chuyện đó.
- Ông có sao không? - Một công nhân cất tiếng phía sau lưng
Ove.
- Chậm một phút thôi là ông thành người quá cố rồi đấy! - Một
công nhân khác thốt lên.
Họ đứng đó nhìn ông theo cách gần giống như khi họ nhìn xuống
hố. Có vẻ như đó là năng lực chủ đạo của họ: nhìn các thứ. Ông nhìn lại.
- Ý tôi là vài giây. - Người công nhân thứ ba nói, tay vẫn
còn cầm quả chuối đang ăn dở.
- Chuyện này suýt nữa đã kết thúc một cách tồi tệ. - Người
công nhân đầu tiên cười mỉm.
- Còn phải nói. - Người thứ hai đồng tình.
- Chết người luôn ấy chứ. - Người thứ ba bồi thêm.
- Ông đúng là anh hùng!
- Ông đã cứu đời anh ta.
- Cứu mạng, chứ không phải cứu đời. - Ove chỉnh lại và cảm
thấy như mình đang nói bằng giọng điệu của Sonja.
- Suýt nữa thì tiêu rồi. - Người thứ ba nói, tiện mồm cắn một
miếng chuối.
Nằm trên đường ray, đoàn tàu đã bật toàn bộ đèn báo động đỏ,
xịt khói và kêu ré lên như một gã mập ú vừa lao đầu vào tường. Một số lượng lớn
những hình mẫu điển hình cho đám chuyên viên tư vấn IT và những kẻ đáng ngờ
khác theo suy đoán của ông chạy ùa ra ngoài, đứng lố nhố trên sân ga.
- Tôi đoán bây giờ các anh sẽ có rất nhiều đoàn tàu bị chậm
giờ. - Ông nói và ngán ngẩm nhìn đám người lộn xộn trên sân ga.
- Vâng. - Người công nhân thứ nhất công nhận.
- Đúng rồi ạ. - Người thứ hai nói.
- Rất, rất nhiều. - Người thứ ba gật gù.
Ông Ove phát ra một âm thanh giống như tiếng một cái ngăn
kéo bàn nặng trĩu mở ra trên thanh ray han gỉ. Không nói gì nữa, ông đi thẳng
qua chỗ họ.
- Ơ, ông đi đâu đấy? Ông là người hùng mà! - Người công nhân
thứ nhất ngạc nhiên gọi với theo ông Ove.
- Phải đấy. - Người thứ hai thốt lên.
- Một người hùng! - Người thứ ba đế thêm.
Ove không đáp. Ông đi ngang qua chỗ người nhân viên ngồi
trong quầy phía sau tấm kính và quay ra con đường phủ đầy tuyết trắng để trở về
nhà.
Quanh ông, đường phố chầm chậm thức giấc cùng với những chiếc
ô tô nước ngoài, đống dữ liệu máy tính, những món nợ trong thẻ tín dụng và các
thứ vớ vẩn khác.
Ngày hôm nay thế là hỏng bét, ông cay đắng tự nhủ.
Lúc đi tới chỗ nhà để xe đạp trong khu đỗ xe, Ove trông thấy
chiếc Skoda màu trắng chạy tới từ hướng nhà của Anita và Rune. Một phụ nữ cương
nghị đeo kính ngồi ở ghế hành khách, trên tay cầm một đống hồ sơ giấy tờ. Cầm
lái chiếc xe là người đàn ông mặc áo sơ mi trắng. Ông phải nhảy tránh sang một
bên để không bị chiếc xe đâm vào khi nó đua tốc độ vòng qua góc đường.
Qua kính chắn gió, người tài xế giơ điếu thuốc lá cháy đỏ về
phía Ove, nhếch mép cười ngạo nghễ. Làm như thể lỗi là ở phía ông vì đã cản đường,
còn anh ta là người hào hiệp cho qua.
- Đồ ngu! - Ove gào tướng lên với chiếc Skoda, nhưng người
đàn ông áo trắng hình như không hề phản ứng.
Ông ghi nhớ biển số trước khi chiếc xe biến mất sau cua ngoặt.
- Rồi có ngày sẽ đến lượt ông thôi, ông già. - Một giọng nói
độc địa vang lên phía sau lưng Ove.
Ông quay người và theo bản năng giơ nắm đấm lên, để rồi
trông thấy hình ảnh của mình phản chiếu trong cặp kính mát của cây sậy tóc
vàng. Cô ta đang bế con chó chết tiệt đó trong tay. Nó gầm gừ với Ove.
- Người của bên bảo trợ xã hội đó. - Cô ta vừa nói vừa hất đầu
về hướng chiếc xe vừa khuất dạng.
Lúc đó ông Ove trông thấy Anders đang lùi chiếc Audi ra khỏi
nhà để xe của anh ta. Nó có cặp đèn pha LED mới tinh, theo ghi nhận của ông. Chắc
là để cho không ai không nhận ra chiếc xe được một gã đỏm dáng lái kể cả khi trời
tối.
- Chuyện đó thì liên quan gì với cô? - Ông nói với cây sậy.
Cái miệng của cô ta cong lên thành một hình dạng gần giống với
nụ cười của một phụ nữ đã bơm vào môi mình cả đống chất thải môi trường và độc
tố thần kinh.
- Liên quan chứ, bởi vì lần này họ sẽ tống lão già ở ngôi
nhà cuối đường vào trại dưỡng lão. Và sau lão ta sẽ là ông!
Cô ta nhổ một bãi nước bọt và tiến đến chỗ chiếc Audi. Ove
nhìn theo, ngực phập phồng dưới lớp vải áo. Khi chiếc xe đổi hướng, cô ta giơ
ngón tay giữa với ông qua kính chắn gió. Thoạt đầu bản năng thúc đẩy ông đuổi
theo và phá tan tành con quái vật đúc bằng sắt đó, cùng với nó là những kẻ đểu
giả, ốm nhách, sủa nhặng xị và cặp đèn pha LED. Nhưng rồi đột nhiên ông thấy
khó thở như thể vừa chạy nước rút trên tuyết. Ông gập người về phía trước, chống
hai tay vào đầu gối, và tức tối nhận ra mình đang thở hổn hển. Tim ông đập điên
cuồng vào xương ức như một kẻ bị nhốt trong buồng thang máy gặp sự cố.
Vài phút sau ông đứng thẳng người lại. Tầm nhìn của ông hơi
có vấn đề ở phía đuôi mắt phải. Chiếc Audi đã biến mất. Ove quay người và chậm
rãi đi về nhà, một bàn tay áp trên ngực.
Khi về đến nơi, ông dừng chân cạnh lán cất dụng cụ. Đập vào
mắt ông là cái hố có hình thân mèo ở chỗ đụn tuyết.
Trong hố có một con mèo đang nằm. Lẽ ra ông phải nhận ra nó
từ trước.
16
(NGÀY TRƯỚC)
CHIẾC XE TẢI TRONG RỪNG
Trước cái ngày mà chàng trai lầm lì hơi vụng về có thân hình
lực lưỡng và đôi mắt xanh buồn vời vợi ngồi xuống bên cạnh Sonja trên tàu hỏa,
chỉ có ba thứ trên đời được cô yêu thương một cách vô điều kiện: những cuốn
sách, bố cô và lũ mèo.
Cô được khá nhiều người để ý, đương nhiên rồi. Những người
theo đuổi cô rất đa dạng cả về dáng dấp lẫn diện mạo. Cao to tóc đen hoặc thấp
lùn tóc vàng, hoạt bát hoặc tẻ nhạt, lịch lãm và huênh hoang, đẹp trai nhưng
ham ăn, tất thảy đều có cả, và họ sẽ đeo đuổi tích cực hơn nếu không chùn bước
trước tin đồn trong làng rằng bố cô đã thủ sẵn vài khẩu súng trong ngôi nhà gỗ
biệt lập giữa rừng. Nhưng không ai trong số họ nhìn cô theo cái cách mà chàng
trai ấy nhìn lúc anh ngồi xuống cạnh cô trên tàu. Ánh mắt anh dường như muốn
nói rằng cô là cô gái duy nhất trên trái đất này.
Thỉnh thoảng, đặc biệt là trong những năm đầu tiên, vài người
trong đám bạn gái vẫn thắc mắc về sự lựa chọn của Sonja. Cô rất xinh đẹp, đa phần
những người xung quanh cô luôn cảm thấy họ phải nhắc đi nhắc lại với cô như vậy.
Ngoài ra cô lại còn thích cười và thuộc kiểu người nhìn ra được những điểm tích
cực nơi bất cứ thứ gì mà cuộc đời ném vào mình. Còn Ove thì hỡi ơi. Đó là câu
mà những người xung quanh Sonja cứ nói mãi. Ove đã là một ông già cộc cằn từ hồi
học tiểu học. Và cô hoàn toàn có thể chọn một người tốt hơn nhiều.
Nhưng với Sonja, Ove chưa bao giờ là một người nghiêm khắc,
vụng về và cay nghiệt. Với cô, anh là những bông hoa hơi giập trong cuộc hẹn ăn
tối đầu tiên của họ. Anh là chiếc áo vest màu nâu của bố, chật căng nơi đôi vai
rộng. Anh đặt niềm tin quá nhiều vào lẽ công bằng, sự trung thực, tính cần cù,
và một thế giới đúng sai rạch ròi. Không phải vì người ta có thể được nhận huy
chương hoặc một cái vỗ vai khen ngợi về điều đó, mà chỉ vì nó nên như vậy. Kiểu
người như Ove đã tuyệt chủng rồi, Sonja hiểu. Thế nên cô bám ngay lấy người đàn
ông này. Ove không thể làm thơ viết nhạc tặng cô hoặc mua cho cô những món quà
đắt tiền. Nhưng chẳng có chàng trai nào bắt những chuyến tàu không phải của
mình mỗi ngày chỉ vì thích được ngồi cạnh nghe cô nói chuyện.
Và khi cô nắm cánh tay to như cái bắp đùi của mình, rồi cù
nhẹ cho đến khi khuôn mặt lầm lì của anh nở nụ cười, tưởng như một lớp thạch
cao nứt ra cho thấy những viên ngọc bên trong. Mỗi khi chuyện đó xảy ra, cô cảm
thấy trong lòng mình có thứ gì đó cất cao tiếng hát. Và chúng chỉ thuộc về cô
mà thôi, những khoảnh khắc ấy.
Sonja không giận Ove vào cuộc hẹn ăn tối đầu tiên, khi anh
thú nhận mình đã nói dối về việc đi nghĩa vụ quân sự. Tất nhiên là cô có vô số
lần giận Ove sau này, nhưng trong buổi tối đó thì không.
- Có người đã nói rằng những người đàn ông tốt nhất sinh ra
với đầy lỗi lầm và sau đó tiến bộ lên, chứ không phải họ không bao giờ làm điều
gì sai. - Cô dịu dàng nói.
- Ai đã nói như vậy? - Ove hỏi, mắt nhìn vào ba món dao nĩa
trên bàn, giống như cách một người nhìn vào cái hộp mở sẵn trong lúc ai đó bảo
anh ta chọn loại vũ khí cho cuộc quyết đấu.
- Shakespeare.
- Thế thì sao? - Ove thắc mắc.
- Thì tuyệt vời chứ sao! - Sonja gật đầu và mỉm cười.
- Anh chưa bao giờ nghe ông ta cả.
- Đọc chứ! - Sonja chỉnh lại và âu yếm đặt tay lên tay anh.
Trong gần bốn mươi năm họ sống cùng nhau, Sonja đã dạy hàng
trăm học sinh gặp khó khăn trong việc học đọc và viết. Bà đã thành công trong
việc làm chúng đọc các tác phẩm của Shakespeare, nhưng chưa bao giờ ép Ove đọc
được dù chỉ một vở kịch. Ngay khi họ chuyển đến khu dân cư này, suốt mấy tuần
liền tối nào Ove cũng rút vào trong lán. Khi ông xong việc, một cái tủ sách đẹp
chưa từng thấy đã mọc lên trong phòng khách nhà họ.
“Em phải cất chúng ở đâu đó chứ”, ông đã lẩm bẩm như thế
trong lúc dùng đầu nhọn của chiếc tua vít cạy cạy vết đứt nhỏ nơi ngón cái.
Sonja đã sà vào vòng tay Ove và nói rằng bà yêu ông. Ông gật
đầu.
Duy nhất một lần Sonja hỏi về những vết bỏng trên cánh tay
ông. Bà đã phải xâu chuỗi lại hoàn cảnh cụ thể của việc Ove bị mất ngôi nhà bố
mẹ để lại từ những mảnh nhỏ rời rạc mà ông miễn cưỡng cung cấp. Nhưng cuối cùng
bà cũng biết được lý do tay ông bị sẹo. Và khi một người bạn gái hỏi Sonja vì
sao lại yêu Ove, bà đáp rằng hầu hết đàn ông bỏ chạy khi đứng trước một vụ hỏa
hoạn. Còn những người như ông lao thẳng vào đó.
Ove có thể đếm trên đầu ngón tay số lần gặp bố của Sonja.
Ông già sống ở một nơi khá xa trên phía bắc. Dường như bố của Sonja đã xem bản
đồ phân bố dân cư của Thụy Điển và quyết định rằng đó là nơi cách xa các đồng
bào của mình nhất mà ông có thể sống được.
Mẹ của Sonja đã mất trong khi lâm bồn. Bố cô không bao giờ tục
huyền. “Tôi có vợ chứ. Chỉ là bà ấy không có nhà vào lúc này thôi”, ông già nói
thế mỗi khi có ai đó dám khơi lại vấn đề.
Sonja dọn tới thành phố khi bắt đầu học trung học với chuyên
ban khoa học xã hội. Bố đã phẫn nộ nhìn cô khi Sonja đề nghị ông dọn đến ở cùng
với mình. “Rồi bố làm gì ở đó? Gặp người ta à?”. Ông đã gằn giọng như thế. Bố
luôn phát âm hai chữ “người ta” như thể nó bậy bạ lắm vậy. Thế là Sonja đành
thôi. Ngoài những dịp cuối tuần được con gái về thăm và những chuyến đi tới cửa
tiệm tạp hóa tại ngôi làng gần đó, ông già chỉ có mỗi Ernest làm bầu bạn.
Ernest là chú mèo nông trại lớn nhất thế giới. Hồi còn bé,
Sonja thực sự tin rằng nó là một con ngựa con. Nó đến và đi khỏi nhà bố cô một
cách tùy hứng, chứ không sống ở đó. Không ai biết nó sống ở đâu. Sonja lấy tên
của nhà văn Ernest Hemingway để đặt cho con mèo. Bố cô không bao giờ quan tâm đến
sách vở, nhưng khi thấy con gái ngồi đọc báo ở tuổi lên năm, ông cũng đủ khôn
ngoan để biết mình phải làm gì. “Con gái không được đọc những thứ vớ vẩn như vậy.
Đầu óc ngu đi đấy con ạ”, ông đã nói thế trong lúc đưa Sonja đến trước quầy thủ
thư tại thư viện làng. Bà thủ thư già không rõ ông bố ngụ ý gì khi nói câu đó,
nhưng bà hoàn toàn chắc chắn về trí tuệ hơn người của cô con gái.
Những chuyến đi mua sắm nhu yếu phẩm hằng tháng được bổ sung
thêm một lượt ghé thăm thư viện, bà thủ thư và ông bố đã quyết định luôn mà
không cần bàn cãi thêm. Năm Sonja lên mười hai tuổi, cô đã đọc tất cả các quyển
sách của thư viện ít nhất hai lần. Những quyển mà cô yêu thích như Ông già và
biển cả chẳng hạn, cô đọc nhiều lần đến độ không đếm xuể nữa. Bởi vậy nên mèo
Ernest mới được mang cái tên đó. Và nó là một con mèo vô chủ. Nó không biết
nói, nhưng thích đi câu cá cùng với bố của Sonja, người đánh giá rất cao các phẩm
chất của nó. Họ sẽ chia đều số cá câu được khi quay về.
Lần đầu tiên Sonja dẫn Ove đến căn nhà gỗ trong rừng, anh và
bố cô im lặng ngồi đối diện nhau, mỗi người nhìn chỗ thức ăn của mình suốt gần
một tiếng đồng hồ, trong khi cô cố gắng khơi mào một cuộc trò chuyện. Cả hai
người đàn ông đều không hiểu rõ lắm về chuyện mình đang làm, ngoại trừ việc nó
rất quan trọng đối với người phụ nữ duy nhất mà họ quan tâm. Họ chống đối nỗ lực
hòa giải của Sonja một cách mạnh mẽ và cương quyết, nhưng bất thành.
Ngay từ đầu, bố của Sonja đã không muốn có cuộc gặp gỡ đó. Tất
cả những gì ông biết về bạn trai của con gái mình là cậu ta đến từ thành phố,
và Sonja đã nói rằng cậu ta không thích mèo. Theo ông, hai đặc tính ấy đủ biến
Ove thành một người không thể tin cậy được.
Về phần mình, Ove cảm thấy như đang trong một cuộc phỏng vấn
xin việc, mà anh lại chưa bao giờ giỏi về khoản đấy. Do vậy, trong lúc Sonja
vui vẻ nói chuyện như mọi khi, căn phòng chìm trong một kiểu im lặng chỉ xuất
hiện giữa một người đàn ông không muốn mất con gái và một người chưa hoàn toàn
hiểu được rằng mình đã được lựa chọn để đưa cô ấy đi khỏi nhà. Cuối cùng Sonja
đá vào cẳng chân Ove để bắt anh nói gì đó. Ove ngước mắt lên khỏi cái đĩa ăn,
nhận ra cái nheo mắt đầy giận dữ của bạn gái và hắng giọng, tuyệt vọng nhìn
quanh tìm thứ gì đó để hỏi han ông già. Bởi lẽ đó là điều anh đã được dạy: nếu
không có gì để nói, hãy tìm thứ gì đó để hỏi. Một trong những cách làm cho người
ta quên đi ác cảm đối với bạn là tạo cơ hội cho họ nói về mình.
Một lúc sau, ánh mắt Ove bắt gặp chiếc xe tải đỗ phía ngoài
cửa sổ nhà bếp.
- Đó là một chiếc L10, đúng không ạ? - Anh vừa nói vừa chỉ
trỏ bằng cái nĩa.
- Ờ. - Ông già vẫn nhìn đĩa thức ăn của mình.
- Bây giờ chúng được sản xuất bởi Saab. - Ove nhận định với một
cái gật đầu nhanh.
- Scania! - Ông già gằn giọng, quắc mắt nhìn anh.
Căn phòng một lần nữa bị đè nén bởi thứ im lặng chỉ xuất hiện
giữa người yêu của cô con gái và bố cô.
Ove cúi gằm mặt nhìn đĩa thức ăn của mình. Sonja đá vào chân
bố. Ông già cáu tiết nhìn con gái và thấy cái nheo mắt giận dữ ấy. Ông không
ngu đến nỗi không biết tốt hơn là tránh chuyện có thể xảy ra giữa hai bố con,
và bực dọc hắng giọng, trệu trạo nhai thức ăn.
- Chỉ vì một thằng cha nào đó ở Saab vung tiền ra mua lại
nhà máy đó không có nghĩa nó không còn là một chiếc Scania. - Ông già khẽ gằn
giọng với thái độ đỡ buộc tội hơn trước, rồi dịch cẳng chân ra xa chiếc giày của
con gái thêm một chút.
Bố của Sonja luôn lái xe tải hiệu Scania và không hiểu được
vì sao người ta lại cần những hiệu khác. Thế rồi, sau nhiều năm ông làm người
dùng trung thành, Scania sáp nhập vào Saab. Đó là một hành động bội bạc mà ông
không bao giờ tha thứ được.
Về phần mình, Ove chú ý nhiều hơn đến Scania sau khi nó được
sáp nhập vào Saab. Anh trầm ngâm quan sát chiếc xe qua cửa sổ trong lúc nhai
khoai tây.
- Nó chạy có tốt không ạ? - Ove hỏi.
- Không. - Ông già cáu kỉnh lẩm bẩm, rồi quay về với cái đĩa
ăn của mình. - Không có mẫu xe nào chạy tốt cả.
- Không chiếc nào được sản xuất đàng hoàng. Đám thợ sửa xe
đòi cả nửa gia tài mỗi khi mó tay vào nó. - Ông nói thêm mà không ngẩng mặt
lên, như thể đang giải thích với ai đó dưới gầm bàn.
- Cháu có thể xem qua nó nếu bác đồng ý. - Ove nói, khuôn mặt
thoắt trở nên hào hứng.
Đó là lần đầu tiên Sonja thấy bạn trai mình tỏ ra nhiệt tình
đến thế.
Hai người đàn ông nhìn nhau một lát. Rồi bố của Sonja gật đầu.
Ove cũng gật, và cả hai quả quyết đứng dậy, tựa như hai người đàn ông vừa nhất
trí lên đường tiêu diệt một kẻ thứ ba. Vài phút sau, bố của Sonja quay trở vào
bếp, tựa người vào cây gậy chống, rồi buông mình xuống ghế với tiếng gầm gừ bất
mãn thường trực. Ông già ngồi đó một lúc, cẩn thận nhồi thuốc vào tẩu, rồi hất
đầu về phía xoong đồ ăn và nói:
- Ngon đấy.
- Cảm ơn bố. - Sonja đáp.
- Con nấu mà, không phải bố.
- Con cảm ơn không phải vì được ăn. - Sonja đáp trong lúc dọn
mấy cái đĩa và trìu mến hôn lên trán bố, mắt trông thấy Ove lúi húi bên dưới nắp
ca pô của chiếc xe tải.
Bố cô không nói gì, chỉ khẽ hừ mũi và vớ lấy tờ báo trên mặt
quầy bếp. Đi được nửa đường sang phòng khách, ông dừng bước và tần ngần đứng tại
chỗ, tựa người vào cây gậy chống.
- Cậu ta có biết câu cá không? - Ông làu bàu, mắt không nhìn
con gái.
- Con nghĩ là không. - Sonja đáp.
Ông gật đầu, đứng lặng hồi lâu.
- Ờ. Cái đó học được. - Cuối cùng ông lẩm bẩm, rồi đưa tẩu
thuốc lên miệng và bước sang phòng khách.
Sonja chưa bao giờ nghe bố tặng ai một lời khen hay hơn.
-----------
Còn tiếp.
-----------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét