Thứ Năm, 11 tháng 1, 2018

Người Đàn Ông Mang Tên Ove - Chương 15&16

Người Đàn Ông Mang Tên Ove

Tác giả: Fredrik Backman
Người dịch: Hoàng Anh
NXB Trẻ - Năm xuất bản 8-2017

15

CHUYẾN TÀU MUỘN GIỜ

Người đàn ông hơi mập mạp phía bên kia tấm kính có mái tóc chải lật ra sau và đôi tay đặc kín hình xăm. Cứ như thể bị ai đó đổ cả hũ bơ thực vật lên đầu chưa đủ, anh ta còn lấy bút vẽ nguệch ngoạc đầy người. Trông chẳng ra hình thù gì đàng hoàng, chỉ toàn là hoa văn. Một người trưởng thành có đầu óc bình thường lẽ nào lại chấp nhận đi ra đường với đôi tay trông như lớp lót áo vest thế kia?
- Máy bán vé của các anh không hoạt động. - Ông Ove thông báo với anh ta.
- Không thể nào? - Người nhân viên nói.
- Anh nói vậy là sao?
- Ý tôi là nó không chạy thật à?
- Thì tôi vừa nói đấy thôi, nó hỏng rồi!
Người nhân viên tỏ ra hoài nghi.
- Hay là thẻ của ông có vấn đề? Vạch từ bị bẩn chẳng hạn?
Nét mặt ông Ove giống như vừa bị anh ta hỏi xem ông có bị rối loạn cương dương hay không. Anh ta im lặng.
- Vạch từ trên thẻ của tôi không hề bẩn, anh có thể chắc chắn về chuyện đó. - Ông gắt lên.
Người đàn ông bên kia tấm kính gật đầu. Rồi anh ta đổi ý và lắc đầu. Anh ta cố giải thích với ông Ove rằng chiếc máy “vừa nãy còn hoạt động bình thường”. Ông bảo anh ta chỉ nói vớ vẩn, vì rõ ràng hiện tại nó đang bị hỏng. Người đàn ông hỏi liệu ông Ove có tiền mặt không, và ông đáp rằng đó không phải việc của anh ta. Một sự im lặng căng thẳng kéo dài.
Cuối cùng, người nhân viên hỏi xem anh ta có thể kiểm tra thẻ của ông Ove được không. Khuôn mặt ông giống như thể hai người chạm mặt nhau trong một hẻm tối và anh ta đòi “xem hàng họ” của ông.
- Đừng có giở trò đấy. - Ông vừa cảnh báo vừa ngập ngừng đẩy cái thẻ qua cái lỗ nhỏ bên dưới tấm kính.
Người nhân viên tóm lấy cái thẻ và chùi mạnh nó vào quần. Làm như ông Ove chưa từng đọc mấy bài báo về trò “ăn trộm thông tin trên thẻ” không bằng. Ông đâu có ngu.
- Anh làm cái gì vậy hả? - Ông hét toáng lên và đập tay vào lớp kính.
Người nhân viên đẩy trả cái thẻ qua lỗ.
- Ông thử lại đi.
Ove tin rằng bất cứ ông già ngu dốt nào cũng biết nếu cái thẻ không hoạt động chỉ một phút trước đó thì bây giờ còn lâu nó mới hoạt động được. Ông nói như thế với người đàn ông ở phía bên kia tấm kính.
- Ông làm ơn thử lại đi. - Anh ta nói.
Ove thở dài sườn sượt. Rồi ông cầm lấy cái thẻ của mình, mắt không rời khỏi quầy. Máy bán vé hoạt động trơn tru.
- Ông thấy chưa! - Anh ta cười giễu.
Ông Ove quắc mắt nhìn cái thẻ như thể nó vừa mới chơi xỏ mình, trước khi cất nó vào ví.
- Chúc ông một ngày tốt lành. - Người nhân viên nói với theo.
- Để xem thế nào đã. - Ông lẩm bẩm.
Trong hai mươi năm qua, gần như mọi người mà ông Ove từng gặp đều lải nhải về việc ông nên thanh toán mọi thứ bằng thẻ. Nhưng với ông tiền mặt cũng tốt vậy. Tiền mặt đã phục vụ nhân loại một cách đắc lực trong hàng ngàn năm kia mà. Với lại, ông cũng không mấy tin tưởng các ngân hàng và hệ thống máy móc điện tử của họ.
Nhưng bất chấp tất cả, vợ ông cứ nhất định phải làm một cái thẻ thanh toán, mặc dù ông đã can ngăn hết mực. Khi bà mất đi, ngân hàng đã gửi cho ông một cái thẻ mới mang tên ông và kết nối nó với tài khoản của bà. Hiện giờ, sau khi đã mua hoa cho bà trong sáu tháng qua, trong thẻ còn đúng 136 krona 54 ore. Ông biết thừa chỗ tiền này sẽ chảy vào túi của một tay giám đốc ngân hàng nào đó nếu ông chết trước khi tiêu sạch chúng.
Nhưng khi ông muốn sử dụng các thẻ nhựa chết tiệt ấy thì nó lại không hoạt động. Hoặc là có những khoản phụ phí khi thanh toán thẻ tại các cửa hàng. Điều này chỉ càng chứng tỏ là ông luôn đúng. Và ông sẽ nói với vợ mình ngay khi gặp bà, để cho bà sáng mắt ra.
Sáng nay Ove đã lên đường từ lâu trước khi mặt trời huy động đủ năng lượng để nhô lên khỏi đường chân trời, chưa nói tới mấy người hàng xóm của ông. Ông đã nghiên cứu cẩn thận bảng giờ tàu chạy trong hành lang. Rồi ông tắt hết đèn đóm và máy sưởi, để lại phong bì chứa các lời chỉ dẫn trên tấm thảm phía trong cửa. Ông tin rằng một người nào đó sẽ tìm thấy nó khi họ đến xem ngôi nhà.
Ông đã dọn tuyết trước cửa và cất xẻng vào trong lán trở lại, trước khi khóa cửa lán. Nếu chú ý hơn chắc ông đã nhận thấy vết lõm hình con mèo nơi đống tuyết lớn ngay phía ngoài lán khi ông bắt đầu đi về phía khu vực đỗ xe. Nhưng do trong đầu ông còn những chuyện quan trọng hơn nên Ove đã không để ý.
Rút kinh nghiệm từ lần vừa rồi, ông không đi ô tô mà đi bộ tới nhà ga. Bởi lẽ lần này ông sẽ không để cô nàng bầu bí, cây sậy tóc vàng, bà vợ của Rune hay một sợi thừng chất lượng kém làm hỏng buổi sáng của mình. Ông đã xả gió cho máy sưởi nhà người khác, cho họ mượn đồ, đưa họ tới bệnh viện. Giờ đây cuối cùng ông cũng lên đường được.
Ove kiểm tra giờ tàu chạy. Ông ghét bị muộn giờ. Nó làm hỏng kế hoạch, làm mọi thứ rối tung. Vợ ông đúng là rất kém trong việc tuân thủ kế hoạch, nhưng phụ nữ luôn như thế. Có gắn keo họ vào bản kế hoạch thì họ cũng không thể nào theo nó nổi, ông đã học được điều đó. Khi ông vạch ra các lịch trình và hoạch định nơi nào họ đổ xăng, khi nào họ dừng lại uống cà phê, tất cả cũng chỉ vì ông muốn làm cho chuyến đi đạt hiệu quả cao nhất về mặt thời gian. Ông luôn nghiên cứu bản đồ và ước tính một cách chính xác thời gian dành cho mỗi chặng hành trình, cách tránh các điểm ùn tắc vào giờ cao điểm và những con đường tắt mà đám người chỉ nhờ cậy vào hệ thống GPS sẽ không thể nào mò ra được. Ove luôn có một chiến lược di chuyển rõ ràng. Ngược lại, trong đầu vợ ông luôn nảy ra những tư tưởng điên rồ kiểu như “đi theo cảm hứng” và “thong thả thôi”. Cứ như thể một người trưởng thành có thể hoàn thành được bất cứ điều gì trong đời với thái độ như vậy. Và bà luôn sực nhớ ra mình phải gọi một cuộc điện thoại hoặc bỏ quên chiếc khăn quàng. Hoặc là không biết phải mang theo chiếc áo choàng nào vào phút chót. Hoặc một thứ gì đó. Bà luôn bỏ quên phích cà phê trong bếp, trong khi đó là thứ duy nhất thực sự quan trọng. Bốn cái áo choàng trong hành lý nhưng không một giọt cà phê nào. Làm như họ có thể ghé vào một trạm dừng sau mỗi giờ đồng hồ và mua thứ nước khét lẹt mà người ta bán tại đó. Để bị chậm thêm. Nhưng mỗi khi ông cằn nhằn, bà lại hỏi về tầm quan trọng của việc tuân theo lịch trình khi lái xe đi chơi đâu đó. “Chúng ta có vội đâu”, bà nói như thế. Làm như đó là vấn đề của mọi chuyện.
Giờ đây, đứng một mình trên sân ga, Ove nhét hai tay vào túi quần. Ông không mặc áo vest. Nó đã bị vấy bẩn và ám mùi khói xe quá nặng, và Ove nghĩ bà sẽ mắng ông nếu ông xuất hiện trong bộ dạng đó. Bà không thích chiếc sơ mi và cái áo len mà ông đang mặc, nhưng ít ra chúng cũng sạch sẽ và tươm tất. Nhiệt độ ngoài trời khoảng mười độ. Do chưa thay chiếc áo gió mùa thu màu xanh biển bằng chiếc áo choàng mùa đông màu xanh biển nên ông lạnh cóng. Dạo gần đây ông có hơi xao lãng, ông phải thừa nhận như vậy. Ông đã không thật sự cân nhắc về việc người ta nên xuất hiện trong bộ dạng như thế nào ở trên kia. Lúc đầu ông cho rằng mọi người trên đó đều ăn mặc bảnh bao và trang trọng. Nhưng rồi ông lại nghĩ trên đó hẳn phải có một loại đồng phục nào đó, để tránh rối mắt. Theo ông, trên đó sẽ có đủ mọi loại người - những người ngoại quốc chẳng hạn, mỗi người lại mặc một trang phục kỳ quặc khác nhau. Có lẽ một khi đã lên tới nơi, ông có thể thu xếp việc ăn mặc của mình - chắc chắn phải có một tủ để đồ ở đâu đó.
Sân ga gần như vắng tanh. Phía bên kia đường ray là vài thanh niên ngái ngủ với những chiếc ba lô quá khổ mà ông tin là chứa đầy ma túy. Cùng với bọn họ là một người đàn ông ngoại tứ tuần mặc com-lê xám và khoác áo choàng đen. Anh ta đang đọc báo. Đứng tách biệt một chút là vài phụ nữ ở độ tuổi rực rỡ nhất đang rì rầm trò chuyện. Trên ngực áo họ có thêu logo của hội đồng tỉnh, và mái tóc thấp thoáng những lọn tím. Họ liên tục hút những điếu thuốc lá bạc hà dài ngoằng.
Ở phía bên này đường ray, trên sân ga chỉ có ba người công nhân đồ sộ ngoài ba mươi tuổi, mặc quần bảo hộ và đội mũ bảo hiểm. Họ đang đứng quây lại thành vòng tròn và nhìn xuống một cái hố. Quanh họ là một vòng dây cách ly được dựng sơ sài. Một người cầm ly cà phê mua từ cửa hàng 7-Eleven, người thứ hai đang ăn chuối, còn người thứ ba thì cố gắng bấm điện thoại mà không cởi găng tay. Mọi việc có vẻ không suôn sẻ. Cái hố vẫn nằm đó. Cũng không có gì ngạc nhiên khi cả thế giới này chìm sâu trong một cuộc khủng hoảng tài chính, ông nghĩ bụng. Người ta không làm lụng gì ngoài việc đứng ăn chuối và nhìn xuống những cái hố cả ngày.
Ông xem giờ. Còn một phút nữa. Ông đứng ở gờ mép sân ga, hơi nhón gót. Sẽ là một cú ngã chừng một mét rưỡi, ông ước lượng. Hoặc một mét sáu. Có một điều gì đó mang tính biểu tượng trong việc một đoàn tàu đoạt mạng ông.
Nhưng Ove không hoàn toàn hài lòng. Ông không thích để người lái tàu chứng kiến vụ việc. Do vậy ông đã quyết định chỉ nhảy xuống khi đầu máy đã đến rất gần, để cho cạnh bên của toa xe đầu tiên đập vào mình thay vì tấm kính chắn gió lớn ở phía trước. Ông nhìn về hướng con tàu đang đi tới và bắt đầu đếm. Điều quan trọng là phải canh thời gian thật chính xác. Mặt trời chỉ vừa mới nhô lên, nó bướng bỉnh chiếu những tia sáng vào mắt ông tựa như một đứa trẻ nghịch một chiếc đèn pin.
Đúng lúc đó ông nghe thấy một tiếng thét.
Ove ngẩng lên vừa kịp để thấy người đàn ông khoác áo choàng đen bắt đầu lảo đảo như một con gấu trúc bị uống thuốc ngủ quá liều. Sau đó một vài giây, anh ta ngước đôi mắt trống rỗng lên, và co giật toàn thân. Đôi tay anh ta vung vẩy rất mạnh. Thế rồi, tựa như trong một loạt ảnh chụp nhanh, tờ báo rơi xuống và anh ta ngất đi, rơi từ trên sân ga xuống đường ray đánh thịch một tiếng, chẳng khác nào một bao xi măng.
Những phụ nữ hút thuốc hét lên hoảng sợ. Đám thanh niên nghiện hút trố mắt nhìn xuống đường ray, đôi tay níu chặt quai ba lô của mình như thể sợ bị ngã xuống đó. Đứng ở mép sân ga bên này, ông Ove bực bội hết nhìn nhóm người này tới nhóm người kia.
- Trời đất quỷ thần ơi! - Ông nói khẽ trong lúc nhảy xuống đường ray, trước khi hét gọi một người trong đám thanh niên đeo ba lô. - GIÚP TÔI MỘT TAY NÀO!
Cậu thanh niên từ từ tiến đến gờ mép sân ga. Ove túm lấy người đàn ông bất tỉnh theo cách của một người cả đời không bao giờ bước chân vào phòng tập nhưng có thể cắp nách hai trụ bê tông một lượt. Ông nâng người bất tỉnh tới tay của anh chàng đeo ba lô với một sự dễ dàng mà những gã mặc quần thể thao đi xe Audi không thể nào có được.
- Chúng ta không thể để anh ta nằm trước mũi tàu hỏa được, các cậu có hiểu không?
Đám thanh niên bối rối gật đầu, và hợp sức lôi con người mặc com-lê khoác áo choàng lên sân ga. Hội chị em phụ nữ vẫn còn đang la hét như thể tin rằng đó là thái độ có ích trong những tình huống tương tự. Lồng ngực của người đàn ông bất tỉnh nhấp nhô nhè nhẹ nhưng đều đặn trong lúc được đặt nằm ngửa trên sân ga. Ở lại dưới đường ray, Ove nghe thấy đoàn tàu chạy tới. Mọi việc diễn ra không giống như kế hoạch của ông, nhưng ông không còn lựa chọn nào khác.
Ông bình thản tiến đến giữa đường ray tàu hỏa, đút hai tay vào túi quần, và nhìn thẳng vào cặp đèn pha. Ông nghe thấy tiếng rúc cảnh báo giống như một hồi còi sương mù. Đường ray dưới chân ông rung lên bần bật tựa như một con bò đực hăng tiết đang sắp sửa lao đến. Ove chầm chậm thở ra. Trong màn sương điên rồ của sự rung lắc, những tiếng la hét và tiếng rít lạnh gáy phát ra từ hệ thống hãm phanh của đoàn tàu, ông cảm thấy vô cùng thư thái.
Thế là xong.
Đối với Ove, những thời khắc tiếp theo bỗng kéo dài ra tựa hồ thời gian cũng đạp phanh và làm cho mọi thứ quanh ông chuyển động như trong phim chiếu chậm. Những âm thanh hỗn loạn nhỏ lại thành một tiếng rì rầm trong tai ông, đoàn tàu tiến tới chậm chạp đến nỗi tưởng như được kéo bởi hai con bò già. Những ngọn đèn pha nhấp nháy vô vọng trước mắt ông. Và trong khoảng tối giữa hai ánh chớp sáng, khi ông không bị lóa mắt, Ove trông thấy ánh mắt của người lái tàu. Cậu ta không thể nào lớn hơn hai mươi tuổi. Có lẽ cậu ta vẫn còn bị các đồng nghiệp lớn tuổi hơn gọi là “thằng nhóc”.
Ông nhìn chăm chú khuôn mặt của cậu nhóc. Hai nắm tay của ông co lại trong túi quần, trong khi ông tự nguyền rủa mình vì chuyện sắp xảy ra. Nhưng chẳng ích gì, ông nghĩ bụng. Có một cách đúng đắn để giải quyết tình huống này. Dù nó dở hơi.
Thế là, khi đoàn tàu còn cách ông khoảng mười lăm, hai mươi mét, Ove bực bội văng tục, và với sự điềm tĩnh giống như lúc pha cho mình một tách cà phê, ông rời khỏi đường ray, trèo lên sân ga trở lại.
Đoàn tàu chạy đến tận chỗ ông thì người lái tàu mới dừng được nó. Sự hoảng sợ đã làm cho khuôn mặt của cậu nhóc cắt không còn hột máu. Rõ ràng cậu ta đang cố gắng kiềm chế để không khóc nấc lên. Hai ông cháu nhìn nhau qua cửa sổ đầu máy như thể cả hai vừa mới thoát khỏi một thảm họa và nhận ra mình không phải là người duy nhất còn sống trên trái đất. Một người cảm thấy nhẹ nhõm với suy nghĩ đó, còn người kia lại thấy thất vọng.
Cậu nhóc trong đầu máy xe lửa thận trọng gật đầu. Ông Ove nhẫn nhục gật đầu đáp lại.
Chuyện ông không muốn sống nữa là một nhẽ. Nhưng ông không phải loại người phá hỏng cuộc đời của một ai đó bằng cách nhìn vào mắt anh ta ngay trước khi ông tan xương nát thịt trên kính chắn gió của đoàn tàu mà anh ta đang lái. Cả bố ông lẫn Sonja sẽ không bao giờ tha thứ cho ông về chuyện đó.
- Ông có sao không? - Một công nhân cất tiếng phía sau lưng Ove.
- Chậm một phút thôi là ông thành người quá cố rồi đấy! - Một công nhân khác thốt lên.
Họ đứng đó nhìn ông theo cách gần giống như khi họ nhìn xuống hố. Có vẻ như đó là năng lực chủ đạo của họ: nhìn các thứ. Ông nhìn lại.
- Ý tôi là vài giây. - Người công nhân thứ ba nói, tay vẫn còn cầm quả chuối đang ăn dở.
- Chuyện này suýt nữa đã kết thúc một cách tồi tệ. - Người công nhân đầu tiên cười mỉm.
- Còn phải nói. - Người thứ hai đồng tình.
- Chết người luôn ấy chứ. - Người thứ ba bồi thêm.
- Ông đúng là anh hùng!
- Ông đã cứu đời anh ta.
- Cứu mạng, chứ không phải cứu đời. - Ove chỉnh lại và cảm thấy như mình đang nói bằng giọng điệu của Sonja.
- Suýt nữa thì tiêu rồi. - Người thứ ba nói, tiện mồm cắn một miếng chuối.
Nằm trên đường ray, đoàn tàu đã bật toàn bộ đèn báo động đỏ, xịt khói và kêu ré lên như một gã mập ú vừa lao đầu vào tường. Một số lượng lớn những hình mẫu điển hình cho đám chuyên viên tư vấn IT và những kẻ đáng ngờ khác theo suy đoán của ông chạy ùa ra ngoài, đứng lố nhố trên sân ga.
- Tôi đoán bây giờ các anh sẽ có rất nhiều đoàn tàu bị chậm giờ. - Ông nói và ngán ngẩm nhìn đám người lộn xộn trên sân ga.
- Vâng. - Người công nhân thứ nhất công nhận.
- Đúng rồi ạ. - Người thứ hai nói.
- Rất, rất nhiều. - Người thứ ba gật gù.
Ông Ove phát ra một âm thanh giống như tiếng một cái ngăn kéo bàn nặng trĩu mở ra trên thanh ray han gỉ. Không nói gì nữa, ông đi thẳng qua chỗ họ.
- Ơ, ông đi đâu đấy? Ông là người hùng mà! - Người công nhân thứ nhất ngạc nhiên gọi với theo ông Ove.
- Phải đấy. - Người thứ hai thốt lên.
- Một người hùng! - Người thứ ba đế thêm.
Ove không đáp. Ông đi ngang qua chỗ người nhân viên ngồi trong quầy phía sau tấm kính và quay ra con đường phủ đầy tuyết trắng để trở về nhà.
Quanh ông, đường phố chầm chậm thức giấc cùng với những chiếc ô tô nước ngoài, đống dữ liệu máy tính, những món nợ trong thẻ tín dụng và các thứ vớ vẩn khác.
Ngày hôm nay thế là hỏng bét, ông cay đắng tự nhủ.
Lúc đi tới chỗ nhà để xe đạp trong khu đỗ xe, Ove trông thấy chiếc Skoda màu trắng chạy tới từ hướng nhà của Anita và Rune. Một phụ nữ cương nghị đeo kính ngồi ở ghế hành khách, trên tay cầm một đống hồ sơ giấy tờ. Cầm lái chiếc xe là người đàn ông mặc áo sơ mi trắng. Ông phải nhảy tránh sang một bên để không bị chiếc xe đâm vào khi nó đua tốc độ vòng qua góc đường.
Qua kính chắn gió, người tài xế giơ điếu thuốc lá cháy đỏ về phía Ove, nhếch mép cười ngạo nghễ. Làm như thể lỗi là ở phía ông vì đã cản đường, còn anh ta là người hào hiệp cho qua.
- Đồ ngu! - Ove gào tướng lên với chiếc Skoda, nhưng người đàn ông áo trắng hình như không hề phản ứng.
Ông ghi nhớ biển số trước khi chiếc xe biến mất sau cua ngoặt.
- Rồi có ngày sẽ đến lượt ông thôi, ông già. - Một giọng nói độc địa vang lên phía sau lưng Ove.
Ông quay người và theo bản năng giơ nắm đấm lên, để rồi trông thấy hình ảnh của mình phản chiếu trong cặp kính mát của cây sậy tóc vàng. Cô ta đang bế con chó chết tiệt đó trong tay. Nó gầm gừ với Ove.
- Người của bên bảo trợ xã hội đó. - Cô ta vừa nói vừa hất đầu về hướng chiếc xe vừa khuất dạng.
Lúc đó ông Ove trông thấy Anders đang lùi chiếc Audi ra khỏi nhà để xe của anh ta. Nó có cặp đèn pha LED mới tinh, theo ghi nhận của ông. Chắc là để cho không ai không nhận ra chiếc xe được một gã đỏm dáng lái kể cả khi trời tối.
- Chuyện đó thì liên quan gì với cô? - Ông nói với cây sậy.
Cái miệng của cô ta cong lên thành một hình dạng gần giống với nụ cười của một phụ nữ đã bơm vào môi mình cả đống chất thải môi trường và độc tố thần kinh.
- Liên quan chứ, bởi vì lần này họ sẽ tống lão già ở ngôi nhà cuối đường vào trại dưỡng lão. Và sau lão ta sẽ là ông!
Cô ta nhổ một bãi nước bọt và tiến đến chỗ chiếc Audi. Ove nhìn theo, ngực phập phồng dưới lớp vải áo. Khi chiếc xe đổi hướng, cô ta giơ ngón tay giữa với ông qua kính chắn gió. Thoạt đầu bản năng thúc đẩy ông đuổi theo và phá tan tành con quái vật đúc bằng sắt đó, cùng với nó là những kẻ đểu giả, ốm nhách, sủa nhặng xị và cặp đèn pha LED. Nhưng rồi đột nhiên ông thấy khó thở như thể vừa chạy nước rút trên tuyết. Ông gập người về phía trước, chống hai tay vào đầu gối, và tức tối nhận ra mình đang thở hổn hển. Tim ông đập điên cuồng vào xương ức như một kẻ bị nhốt trong buồng thang máy gặp sự cố.
Vài phút sau ông đứng thẳng người lại. Tầm nhìn của ông hơi có vấn đề ở phía đuôi mắt phải. Chiếc Audi đã biến mất. Ove quay người và chậm rãi đi về nhà, một bàn tay áp trên ngực.
Khi về đến nơi, ông dừng chân cạnh lán cất dụng cụ. Đập vào mắt ông là cái hố có hình thân mèo ở chỗ đụn tuyết.
Trong hố có một con mèo đang nằm. Lẽ ra ông phải nhận ra nó từ trước.

16

(NGÀY TRƯỚC)
CHIẾC XE TẢI TRONG RỪNG

Trước cái ngày mà chàng trai lầm lì hơi vụng về có thân hình lực lưỡng và đôi mắt xanh buồn vời vợi ngồi xuống bên cạnh Sonja trên tàu hỏa, chỉ có ba thứ trên đời được cô yêu thương một cách vô điều kiện: những cuốn sách, bố cô và lũ mèo.
Cô được khá nhiều người để ý, đương nhiên rồi. Những người theo đuổi cô rất đa dạng cả về dáng dấp lẫn diện mạo. Cao to tóc đen hoặc thấp lùn tóc vàng, hoạt bát hoặc tẻ nhạt, lịch lãm và huênh hoang, đẹp trai nhưng ham ăn, tất thảy đều có cả, và họ sẽ đeo đuổi tích cực hơn nếu không chùn bước trước tin đồn trong làng rằng bố cô đã thủ sẵn vài khẩu súng trong ngôi nhà gỗ biệt lập giữa rừng. Nhưng không ai trong số họ nhìn cô theo cái cách mà chàng trai ấy nhìn lúc anh ngồi xuống cạnh cô trên tàu. Ánh mắt anh dường như muốn nói rằng cô là cô gái duy nhất trên trái đất này.
Thỉnh thoảng, đặc biệt là trong những năm đầu tiên, vài người trong đám bạn gái vẫn thắc mắc về sự lựa chọn của Sonja. Cô rất xinh đẹp, đa phần những người xung quanh cô luôn cảm thấy họ phải nhắc đi nhắc lại với cô như vậy. Ngoài ra cô lại còn thích cười và thuộc kiểu người nhìn ra được những điểm tích cực nơi bất cứ thứ gì mà cuộc đời ném vào mình. Còn Ove thì hỡi ơi. Đó là câu mà những người xung quanh Sonja cứ nói mãi. Ove đã là một ông già cộc cằn từ hồi học tiểu học. Và cô hoàn toàn có thể chọn một người tốt hơn nhiều.
Nhưng với Sonja, Ove chưa bao giờ là một người nghiêm khắc, vụng về và cay nghiệt. Với cô, anh là những bông hoa hơi giập trong cuộc hẹn ăn tối đầu tiên của họ. Anh là chiếc áo vest màu nâu của bố, chật căng nơi đôi vai rộng. Anh đặt niềm tin quá nhiều vào lẽ công bằng, sự trung thực, tính cần cù, và một thế giới đúng sai rạch ròi. Không phải vì người ta có thể được nhận huy chương hoặc một cái vỗ vai khen ngợi về điều đó, mà chỉ vì nó nên như vậy. Kiểu người như Ove đã tuyệt chủng rồi, Sonja hiểu. Thế nên cô bám ngay lấy người đàn ông này. Ove không thể làm thơ viết nhạc tặng cô hoặc mua cho cô những món quà đắt tiền. Nhưng chẳng có chàng trai nào bắt những chuyến tàu không phải của mình mỗi ngày chỉ vì thích được ngồi cạnh nghe cô nói chuyện.
Và khi cô nắm cánh tay to như cái bắp đùi của mình, rồi cù nhẹ cho đến khi khuôn mặt lầm lì của anh nở nụ cười, tưởng như một lớp thạch cao nứt ra cho thấy những viên ngọc bên trong. Mỗi khi chuyện đó xảy ra, cô cảm thấy trong lòng mình có thứ gì đó cất cao tiếng hát. Và chúng chỉ thuộc về cô mà thôi, những khoảnh khắc ấy.
Sonja không giận Ove vào cuộc hẹn ăn tối đầu tiên, khi anh thú nhận mình đã nói dối về việc đi nghĩa vụ quân sự. Tất nhiên là cô có vô số lần giận Ove sau này, nhưng trong buổi tối đó thì không.
- Có người đã nói rằng những người đàn ông tốt nhất sinh ra với đầy lỗi lầm và sau đó tiến bộ lên, chứ không phải họ không bao giờ làm điều gì sai. - Cô dịu dàng nói.
- Ai đã nói như vậy? - Ove hỏi, mắt nhìn vào ba món dao nĩa trên bàn, giống như cách một người nhìn vào cái hộp mở sẵn trong lúc ai đó bảo anh ta chọn loại vũ khí cho cuộc quyết đấu.
- Shakespeare.
- Thế thì sao? - Ove thắc mắc.
- Thì tuyệt vời chứ sao! - Sonja gật đầu và mỉm cười.
- Anh chưa bao giờ nghe ông ta cả.
- Đọc chứ! - Sonja chỉnh lại và âu yếm đặt tay lên tay anh.
Trong gần bốn mươi năm họ sống cùng nhau, Sonja đã dạy hàng trăm học sinh gặp khó khăn trong việc học đọc và viết. Bà đã thành công trong việc làm chúng đọc các tác phẩm của Shakespeare, nhưng chưa bao giờ ép Ove đọc được dù chỉ một vở kịch. Ngay khi họ chuyển đến khu dân cư này, suốt mấy tuần liền tối nào Ove cũng rút vào trong lán. Khi ông xong việc, một cái tủ sách đẹp chưa từng thấy đã mọc lên trong phòng khách nhà họ.
“Em phải cất chúng ở đâu đó chứ”, ông đã lẩm bẩm như thế trong lúc dùng đầu nhọn của chiếc tua vít cạy cạy vết đứt nhỏ nơi ngón cái.
Sonja đã sà vào vòng tay Ove và nói rằng bà yêu ông. Ông gật đầu.
Duy nhất một lần Sonja hỏi về những vết bỏng trên cánh tay ông. Bà đã phải xâu chuỗi lại hoàn cảnh cụ thể của việc Ove bị mất ngôi nhà bố mẹ để lại từ những mảnh nhỏ rời rạc mà ông miễn cưỡng cung cấp. Nhưng cuối cùng bà cũng biết được lý do tay ông bị sẹo. Và khi một người bạn gái hỏi Sonja vì sao lại yêu Ove, bà đáp rằng hầu hết đàn ông bỏ chạy khi đứng trước một vụ hỏa hoạn. Còn những người như ông lao thẳng vào đó.
Ove có thể đếm trên đầu ngón tay số lần gặp bố của Sonja. Ông già sống ở một nơi khá xa trên phía bắc. Dường như bố của Sonja đã xem bản đồ phân bố dân cư của Thụy Điển và quyết định rằng đó là nơi cách xa các đồng bào của mình nhất mà ông có thể sống được.
Mẹ của Sonja đã mất trong khi lâm bồn. Bố cô không bao giờ tục huyền. “Tôi có vợ chứ. Chỉ là bà ấy không có nhà vào lúc này thôi”, ông già nói thế mỗi khi có ai đó dám khơi lại vấn đề.
Sonja dọn tới thành phố khi bắt đầu học trung học với chuyên ban khoa học xã hội. Bố đã phẫn nộ nhìn cô khi Sonja đề nghị ông dọn đến ở cùng với mình. “Rồi bố làm gì ở đó? Gặp người ta à?”. Ông đã gằn giọng như thế. Bố luôn phát âm hai chữ “người ta” như thể nó bậy bạ lắm vậy. Thế là Sonja đành thôi. Ngoài những dịp cuối tuần được con gái về thăm và những chuyến đi tới cửa tiệm tạp hóa tại ngôi làng gần đó, ông già chỉ có mỗi Ernest làm bầu bạn.
Ernest là chú mèo nông trại lớn nhất thế giới. Hồi còn bé, Sonja thực sự tin rằng nó là một con ngựa con. Nó đến và đi khỏi nhà bố cô một cách tùy hứng, chứ không sống ở đó. Không ai biết nó sống ở đâu. Sonja lấy tên của nhà văn Ernest Hemingway để đặt cho con mèo. Bố cô không bao giờ quan tâm đến sách vở, nhưng khi thấy con gái ngồi đọc báo ở tuổi lên năm, ông cũng đủ khôn ngoan để biết mình phải làm gì. “Con gái không được đọc những thứ vớ vẩn như vậy. Đầu óc ngu đi đấy con ạ”, ông đã nói thế trong lúc đưa Sonja đến trước quầy thủ thư tại thư viện làng. Bà thủ thư già không rõ ông bố ngụ ý gì khi nói câu đó, nhưng bà hoàn toàn chắc chắn về trí tuệ hơn người của cô con gái.
Những chuyến đi mua sắm nhu yếu phẩm hằng tháng được bổ sung thêm một lượt ghé thăm thư viện, bà thủ thư và ông bố đã quyết định luôn mà không cần bàn cãi thêm. Năm Sonja lên mười hai tuổi, cô đã đọc tất cả các quyển sách của thư viện ít nhất hai lần. Những quyển mà cô yêu thích như Ông già và biển cả chẳng hạn, cô đọc nhiều lần đến độ không đếm xuể nữa. Bởi vậy nên mèo Ernest mới được mang cái tên đó. Và nó là một con mèo vô chủ. Nó không biết nói, nhưng thích đi câu cá cùng với bố của Sonja, người đánh giá rất cao các phẩm chất của nó. Họ sẽ chia đều số cá câu được khi quay về.
Lần đầu tiên Sonja dẫn Ove đến căn nhà gỗ trong rừng, anh và bố cô im lặng ngồi đối diện nhau, mỗi người nhìn chỗ thức ăn của mình suốt gần một tiếng đồng hồ, trong khi cô cố gắng khơi mào một cuộc trò chuyện. Cả hai người đàn ông đều không hiểu rõ lắm về chuyện mình đang làm, ngoại trừ việc nó rất quan trọng đối với người phụ nữ duy nhất mà họ quan tâm. Họ chống đối nỗ lực hòa giải của Sonja một cách mạnh mẽ và cương quyết, nhưng bất thành.
Ngay từ đầu, bố của Sonja đã không muốn có cuộc gặp gỡ đó. Tất cả những gì ông biết về bạn trai của con gái mình là cậu ta đến từ thành phố, và Sonja đã nói rằng cậu ta không thích mèo. Theo ông, hai đặc tính ấy đủ biến Ove thành một người không thể tin cậy được.
Về phần mình, Ove cảm thấy như đang trong một cuộc phỏng vấn xin việc, mà anh lại chưa bao giờ giỏi về khoản đấy. Do vậy, trong lúc Sonja vui vẻ nói chuyện như mọi khi, căn phòng chìm trong một kiểu im lặng chỉ xuất hiện giữa một người đàn ông không muốn mất con gái và một người chưa hoàn toàn hiểu được rằng mình đã được lựa chọn để đưa cô ấy đi khỏi nhà. Cuối cùng Sonja đá vào cẳng chân Ove để bắt anh nói gì đó. Ove ngước mắt lên khỏi cái đĩa ăn, nhận ra cái nheo mắt đầy giận dữ của bạn gái và hắng giọng, tuyệt vọng nhìn quanh tìm thứ gì đó để hỏi han ông già. Bởi lẽ đó là điều anh đã được dạy: nếu không có gì để nói, hãy tìm thứ gì đó để hỏi. Một trong những cách làm cho người ta quên đi ác cảm đối với bạn là tạo cơ hội cho họ nói về mình.
Một lúc sau, ánh mắt Ove bắt gặp chiếc xe tải đỗ phía ngoài cửa sổ nhà bếp.
- Đó là một chiếc L10, đúng không ạ? - Anh vừa nói vừa chỉ trỏ bằng cái nĩa.
- Ờ. - Ông già vẫn nhìn đĩa thức ăn của mình.
- Bây giờ chúng được sản xuất bởi Saab. - Ove nhận định với một cái gật đầu nhanh.
- Scania! - Ông già gằn giọng, quắc mắt nhìn anh.
Căn phòng một lần nữa bị đè nén bởi thứ im lặng chỉ xuất hiện giữa người yêu của cô con gái và bố cô.
Ove cúi gằm mặt nhìn đĩa thức ăn của mình. Sonja đá vào chân bố. Ông già cáu tiết nhìn con gái và thấy cái nheo mắt giận dữ ấy. Ông không ngu đến nỗi không biết tốt hơn là tránh chuyện có thể xảy ra giữa hai bố con, và bực dọc hắng giọng, trệu trạo nhai thức ăn.
- Chỉ vì một thằng cha nào đó ở Saab vung tiền ra mua lại nhà máy đó không có nghĩa nó không còn là một chiếc Scania. - Ông già khẽ gằn giọng với thái độ đỡ buộc tội hơn trước, rồi dịch cẳng chân ra xa chiếc giày của con gái thêm một chút.
Bố của Sonja luôn lái xe tải hiệu Scania và không hiểu được vì sao người ta lại cần những hiệu khác. Thế rồi, sau nhiều năm ông làm người dùng trung thành, Scania sáp nhập vào Saab. Đó là một hành động bội bạc mà ông không bao giờ tha thứ được.
Về phần mình, Ove chú ý nhiều hơn đến Scania sau khi nó được sáp nhập vào Saab. Anh trầm ngâm quan sát chiếc xe qua cửa sổ trong lúc nhai khoai tây.
- Nó chạy có tốt không ạ? - Ove hỏi.
- Không. - Ông già cáu kỉnh lẩm bẩm, rồi quay về với cái đĩa ăn của mình. - Không có mẫu xe nào chạy tốt cả.
- Không chiếc nào được sản xuất đàng hoàng. Đám thợ sửa xe đòi cả nửa gia tài mỗi khi mó tay vào nó. - Ông nói thêm mà không ngẩng mặt lên, như thể đang giải thích với ai đó dưới gầm bàn.
- Cháu có thể xem qua nó nếu bác đồng ý. - Ove nói, khuôn mặt thoắt trở nên hào hứng.
Đó là lần đầu tiên Sonja thấy bạn trai mình tỏ ra nhiệt tình đến thế.
Hai người đàn ông nhìn nhau một lát. Rồi bố của Sonja gật đầu. Ove cũng gật, và cả hai quả quyết đứng dậy, tựa như hai người đàn ông vừa nhất trí lên đường tiêu diệt một kẻ thứ ba. Vài phút sau, bố của Sonja quay trở vào bếp, tựa người vào cây gậy chống, rồi buông mình xuống ghế với tiếng gầm gừ bất mãn thường trực. Ông già ngồi đó một lúc, cẩn thận nhồi thuốc vào tẩu, rồi hất đầu về phía xoong đồ ăn và nói:
- Ngon đấy.
- Cảm ơn bố. - Sonja đáp.
- Con nấu mà, không phải bố.
- Con cảm ơn không phải vì được ăn. - Sonja đáp trong lúc dọn mấy cái đĩa và trìu mến hôn lên trán bố, mắt trông thấy Ove lúi húi bên dưới nắp ca pô của chiếc xe tải.
Bố cô không nói gì, chỉ khẽ hừ mũi và vớ lấy tờ báo trên mặt quầy bếp. Đi được nửa đường sang phòng khách, ông dừng bước và tần ngần đứng tại chỗ, tựa người vào cây gậy chống.
- Cậu ta có biết câu cá không? - Ông làu bàu, mắt không nhìn con gái.
- Con nghĩ là không. - Sonja đáp.
Ông gật đầu, đứng lặng hồi lâu.
- Ờ. Cái đó học được. - Cuối cùng ông lẩm bẩm, rồi đưa tẩu thuốc lên miệng và bước sang phòng khách.
Sonja chưa bao giờ nghe bố tặng ai một lời khen hay hơn.
-----------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét