Thứ Hai, 22 tháng 1, 2018

Người Đàn Ông Mang Tên Ove - Chương 37&38

Người Đàn Ông Mang Tên Ove

Tác giả: Fredrik Backman
Người dịch: Hoàng Anh
NXB Trẻ - Năm xuất bản 8-2017

37

NHỮNG KẺ NHIỀU CHUYỆN

- Tôi rất tiếc về chuyện này. - Ove nói lí nhí, tay phủi tuyết trên tấm bia mộ. - Nhưng bà biết rồi đấy. Mọi người không còn tôn trọng giới hạn riêng tư của nhau nữa rồi. Họ xộc thẳng vào nhà người mà không buồn gõ cửa và làm đủ trò, thậm chí bây giờ đến ngồi nhà xí cũng không còn được yên thân nữa.
Vừa phân trần, Ove vừa đào những cây hoa chết cóng lên và thay bằng cây mới, Ông nhìn bà như thể chờ đợi một sự đồng tình. Nhưng bà không nói gì cả, tất nhiên rồi. Con mèo ngồi trên tuyết bên cạnh Ove, vẻ mặt nó thể hiện sự đồng tình tuyệt đối. Đặc biệt là về việc không thể đi vệ sinh trong yên bình.
Lena đã ghé qua nhà ông Ove sáng hôm đó để gửi vài tờ báo. Hình ảnh của ông chình ình ngay trang nhất, đúng là một ông già khó tính điển hình. Ông đã giữ lời và để cho chị ta phỏng vấn. Nhưng không có chuyện mỉm cười như một con lừa trước ống kính máy ảnh, ông đã khẳng định điều đó một cách rõ ràng.
- Đây là một bài phỏng vấn tuyệt vời! - Lena nói với giọng tự hào.
Ove không đáp, nhưng chị ta dường như không bận tâm về điều đó. Lena trông có vẻ sốt ruột. Chị đi qua đi lại, mắt nhìn đồng hồ với vẻ bực dọc.
- Cô bận thì cứ đi đi. - Ove lẩm bẩm.
Đáp lại, Lena cười khúc khích như một thiếu nữ tuổi teen.
- Anders và tôi sẽ đi trượt băng trên hồ!
Ove gật đầu, coi đó như một lời khẳng định rằng cuộc nói chuyện đã kết thúc, và đóng cửa lại. Ông đặt tờ báo xuống dưới thảm chùi chân. Nó sẽ hữu ích trong việc thấm hút chỗ tuyết và bùn mà con mèo và Mirsad mang vào.
Quay vào trong bếp, ông bắt đầu dọn dẹp những tờ rơi quảng cáo và chỗ báo miễn phí mà Adrian đã đem đến cùng với thư từ trong ngày. Bà Sonja đã dạy cậu nhóc đọc Shakespeare, nhưng rõ ràng cậu ta không thể đọc được tấm biển “KHÔNG NHẬN THƯ RÁC” của ông.
Nằm ở dưới cùng là lá thư của Lena mà Adrian đã đem tới vào lần đầu tiên cậu ta bấm chuông nhà ông. Lúc đó cậu ta còn bấm chuông, chứ giờ thì cậu ta chạy ra chạy vào như thể đây là nhà của mình, Ove hậm hực tự nhủ trong lúc giơ lá thư lên ngọn đèn trong bếp như người ta soi kiểm một tờ giấy bạc. Sau đó, ông lấy một con dao ra từ trong ngăn kéo, mặc dù bà Sonja giận điên mỗi khi ông dùng dao làm bếp thay cho cái rọc thư.

Ông Ove thân mến,
Hi vọng ông bỏ quá cho tôi vì đã liên hệ với ông như thế này. Nhà báo Lena đã cho tôi biết rằng ông không muốn làm rùm beng chuyện này, nhưng chị ấy đã tử tế cung cấp cho tôi địa chỉ của ông. Bởi lẽ với tôi nó là một chuyện lớn, và tôi không thể im lặng trước hành động của ông. Tôi tôn trọng việc ông không muốn tôi trực tiếp nói lời cảm ơn, nhưng ít nhất tôi cũng xin mạn phép giới thiệu ông với những người vô cùng biết ơn sự dũng cảm và quên mình của ông. Người như ông bây giờ hiếm lắm. Cảm ơn còn là một từ quá nhẹ.

Lá thư được ký bởi người đàn ông mặc com-lê đen và áo choàng xám, người mà Ove đã đưa ra khỏi đường ray sau khi ông ta bất tỉnh. Lena đã cho ông biết rằng vụ mất ý thức là do một loại bệnh lý phức tạp của não bộ gây ra. Nếu họ không phát hiện ra nó và điều trị sớm, chứng bệnh sẽ làm anh ta qua đời trong vòng vài năm tới. “Theo cách nào đó, ông đã cứu mạng anh ta những hai lần”, chị ta đã tuyên bố như vậy với một giọng nói hào hứng đến nỗi ông Ove đâm hối tiếc vì đã không khóa cửa nhốt luôn chị ta trong nhà để xe khi có cơ hội.
Ông gập lá thư lại vào nhét vào phong bì. Ông giơ tấm ảnh lên. Nhìn thẳng vào ông là ba đứa trẻ, đứa lớn nhất ở độ tuổi thiếu niên, còn hai đứa kia trạc tuổi cô con gái lớn của Parvaneh. Hay đúng hơn là chúng không nhìn, chúng đang nằm đè lên nhau với những khẩu súng nước trong tay và cười ré lên. Phía sau chúng là một người phụ nữ tóc vàng chừng bốn mươi lăm tuổi, miệng cười toe toét, hai tay dang rộng như một con chim săn mồi xoải cánh, mỗi tay cầm một xô sóng sánh nước. Bị đè bên dưới những đứa trẻ là người đàn ông kia, nhưng thay vì mặc com-lê đen, ở đây anh ta mặc một chiếc áo thun có cổ màu xanh và đang cố gắng vùng vẫy để thoát ra.
Ove vứt bỏ lá thư cùng với chỗ tờ rơi quảng cáo. Ông cột các túi rác lại và đặt ở cửa trước, sau đó quay vào trong bếp, lấy một miếng nam châm trong ngăn kéo ra và đính tấm ảnh lên cửa tủ lạnh, bên cạnh bức vẽ đầy màu sắc mà cô bé ba tuổi nhà hàng xóm đã vẽ tặng ông trong chuyến đi từ bệnh viện trở về.
Ove lướt tay trên tấm bia mộ một lần nữa, mặc dù ông đã phủi sạch tuyết.
- Thế đấy, tôi đã nói với họ là bà cũng cần sự yên bình như mọi người, nhưng họ không chịu nghe.
- Chào bác, Sonja. - Parvaneh lên tiếng phía sau lưng ông và vui vẻ vẫy tay, làm rơi cả chiếc găng to sụ.
- Cháu chào ba-a-a. - Cô bé ba tuổi bi bô.
- Chào bà chứ. - Chị cô bé chỉnh lại.
- Chào bác Sonja. - Patrick, Jimmy, Adrian và Mirsad đồng thanh lên tiếng.
Ove phủi tuyết bám trên giày và bực bội gật đầu với con mèo bên cạnh ông.
- Ờ. Còn đây là con mèo mà bà đã biết.
Bụng của Parvaneh giờ đây to đến nỗi trông cô như một con rùa khổng lồ khi cô khom người đặt một bàn tay lên tấm bia mộ, trong khi tay kia bám vào cánh tay của chồng. Tất nhiên ông không đời nào nói ra sự ví von đó. Là người đã từng thử nhiều cách tự sát, ông biết có nhiều cách dễ chịu hơn cách đó.
- Bó hoa này là của gia đình cháu. - Parvaneh mỉm cười nói với tấm bia mộ. Rồi cô chìa ra một bó hoa khác và nói thêm. - Đây là của hai bác Rune và Anita. Họ gửi cho bác rất nhiều thương yêu.
Nhóm người đa dạng về tuổi tác và chủng tộc quay gót đi ra bãi đỗ xe, nhưng Parvaneh nán lại bên cạnh tấm bia mộ. Khi ông Ove thắc mắc, cô chỉ đáp: “Bác đừng bận tâm làm gì!”, cùng với nụ cười khiến ông chỉ muốn ném thứ gì đó vào cô. Không phải là những thứ cứng chắc, có lẽ vậy. Một thứ gì đó mang tính tượng trưng thôi.
Ove hừ một tiếng rồi quyết định rằng việc nói chuyện cùng lúc với hai người phụ nữ này sẽ chỉ phí hơi. Ông bỏ đi về phía chiếc Saab.
- Chuyện đàn bà con gái ấy mà. - Parvaneh nói ngắn gọn khi cô quay trở ra bãi đỗ xe và ngồi vào ghế lái.
Ove không hiểu cô ngụ ý gì, nhưng ông quyết định không hỏi thêm. Ở hàng ghế sau, chị của Nasanin giúp cô bé cài dây an toàn, trong khi Jimmy, Mirsad và Patrick xoay xở ngồi vào chiếc ôtô mới của Adrian. Một chiếc Toyota. Không phải là sự lựa chọn của một người có suy nghĩ. Nhưng ít nhất nó cũng không phải là ôtô Pháp. Và Ove đã thương lượng một mức giảm gần tám ngàn cùng với bộ lốp xe mùa đông khuyến mãi. Do vậy, bất chấp mọi thứ, đây là một thương vụ chấp nhận được. Khi Ove đến chỗ đại lý xe thì cậu nhóc đã bắt đầu hỏi giá một chiếc Hyundai. Thế nên vụ việc đáng lẽ đã tồi tệ hơn.
Trên đường về, họ ghé vào tiệm McDonald’s trong sự mừng rỡ của Jimmy và hai cô bé. Và bởi vì Parvaneh cần đi vệ sinh. Chủ yếu là lý do này. Sau khi về đến bãi đỗ xe của khu nhà, họ chia tay nhau. Ove, Mirsad và con mèo vẫy tay chào gia đình của Parvaneh và Jimmy trong lúc họ đi về nhà mình.
Thật khó để xác định được người đàn ông béo lùn đã đợi bao lâu ở phía bên ngoài nhà ông Ove. Có lẽ là suốt buổi sáng. Ông ta có vẻ mặt cương quyết của một người lính đứng trước chốt gác giữa một vùng quê. Tưởng như ông ta được đẽo từ một thân cây và cái lạnh không độ chẳng hề hấn gì đối với ông ta. Tuy nhiên, khi Mirsad đi vòng qua góc nhà và người đàn ông béo lùn trông thấy cậu ta, ông lập tức sống động hẳn lên.
- Chào con. - Ông vừa nói vừa duỗi người và đổi chân.
- Chào bố. - Mirsad lí nhí.
Tối hôm đó Ove dùng bữa với Parvaneh và Patrick trong khi hai bố con trò chuyện bằng hai thứ tiếng về những thất vọng, những hi vọng và sự nam tính ở trong bếp nhà ông. Có lẽ chủ yếu họ nói về sự can đảm. Sonja chắc sẽ thích điều này, Ove nghĩ bụng. Nhưng ông cố không cười nhiều quá để tránh bị Parvaneh chú ý.
Trước khi lên phòng đi ngủ, cô bé bảy tuổi ấn vào tay ông một mảnh giấy đề mấy chữ “Thiệp mời sinh nhật”. Ove đọc nó một cách chăm chú như thể đó là hợp đồng thuê nhà.
- Ta hiểu rồi. Vậy cháu có muốn một món quà không? - Cuối cùng ông hỏi.
Cô bé nhìn xuống sàn nhà, lắc đầu.
- Ông không cần phải mua gì đâu. Dù sao thì cháu cũng chỉ muốn có một thứ mà thôi.
Ove gập tờ giấy lại và nhét vào túi quần sau. Tiếp đó, ông chống tay vào hông một cách uy quyền.
- Thế à?
- Mẹ bảo là nó quá đắt, nên ông không mua tặng cháu cũng không sao đâu ạ. - Cô bé nói tiếp mà không nhìn lên, rồi lắc đầu một lần nữa.
Ove gật đầu tỏ vẻ thông hiểu, giống như hành động của một tên tội phạm khi hắn muốn thông báo với đồng bọn rằng điện thoại của chúng đang bị nghe lén. Hai ông cháu nhìn tới lui trong hành lang để kiểm tra xem ông bố bà mẹ có đang nghe lỏm hay không, sau đó Ove cúi xuống. Cô bé gái khum tay lại thành cái loa trước miệng và thì thào vào tai ông:
- Một chiếc iPad.
Mặt Ove đơ ra như thể vừa nghe một đoạn mật mã nào đó.
- Nó là một loại máy tính. Nó có những ứng dụng vẽ tranh đặc biệt. Dành cho trẻ con. - Cô bé thì thào lớn hơn.
Và trong đôi mắt cô bé ánh lên một tia lấp lánh. Tia sáng mà ông cảm thấy rất quen thuộc.


38

ĐOẠN KẾT CỦA MỘT CÂU CHUYỆN

Nói một cách tổng quát, có hai loại người trên thế gian này. Những người hiểu được mấy sợi cáp trắng hữu dụng đến mức nào, và những người không hiểu. Jimmy thuộc nhóm đầu. Cậu thích những sợi dây cáp trắng. Cũng như những chiếc điện thoại màu trắng. Và những cái màn hình máy tính màu trắng có hình một thứ trái cây ở mặt sau. Đó là những gì ông Ove tổng kết được trên đường đi vào trung tâm thành phố, khi Jimmy nói liến thoắng một cách hào hứng về những thứ mà mọi người có đầu óc đều quan tâm, cho đến lúc ông Ove rơi vào một tình trạng lơ mơ và những lời nói của anh chàng mập mạp trở thành tiếng ù ù trong tai ông.
Ngay khi cậu thanh niên buông mình ngồi thịch vào ghế phụ lái của chiếc Saab với một cái bánh mì kẹp thịt cỡ lớn trong tay, Ove đã thầm ao ước mình đừng nhờ cậu ta giúp đỡ trong chuyện này. Mọi chuyện chẳng khá hơn là bao khi Jimmy lạch bạch đi “xem một vài thứ” ngay khi họ bước chân vào cửa hàng.
Thà tự thân vận động cho xong như mọi khi, Ove tự nhủ trong lúc lê bước tới quầy kỹ thuật. Chỉ đến khi ông quát vào mặt người nhân viên: “Cậu bị phẫu thuật thùy não hay sao vậy?”, thì Jimmy mới vội vàng chạy lại để giúp đỡ. Nhưng thực ra người cần giúp là tay nhân viên của cửa hàng, người đang cố gắng giới thiệu với ông Ove các dòng máy tính xách tay mà họ trưng bày.
- Chúng tôi đi cùng nhau. - Jimmy gật đầu nói với anh ta, kèm theo ánh mắt ngụ ý: “Đừng lo, tôi sẽ bảo vệ anh!”
Anh chàng nhân viên bực bội hít một hơi rồi chỉ tay vào ông Ove.
- Tôi đang cố giúp ông ta nhưng…
- Anh chỉ đang cố giới thiệu với tôi một đống những thứ rác rưởi, rõ ràng là thế! - Ove ngắt lời và đe dọa anh ta bằng một thứ mà ông vớ đại từ cái kệ gần nhất.
Ông không biết chắc nó là cái gì, nhưng trông nó giống như một cái phích cắm điện màu trắng, và có thể được sử dụng để ném vào tay nhân viên nếu cần. Anh chàng nhìn Jimmy với một cú giật nhẹ nơi đuôi mắt, thứ mà dường như ông Ove có khả năng tạo ra nơi những người tiếp xúc với ông. Nó thường gặp đến nỗi người ta có thể gọi nó là một triệu chứng mang tên ông.
- Ông ấy không có ý định làm hại ai đâu. - Jimmy cố nói với giọng hòa giải.
- Tôi đang cố cho ông ta xem một chiếc MacBook, và ông ta đặt câu hỏi về loại xe mà tôi sử dụng. - Người nhân viên nói một tràng, khuôn mặt lộ rõ vẻ tổn thương.
- Đó là một câu hỏi thích đáng. - Ove làu bàu và quả quyết gật đầu với Jimmy.
- Tôi không có ôtô! Bởi vì tôi thấy nó không cần thiết, và tôi muốn sử dụng những phương tiện đi lại thân thiện với môi trường hơn! - Người nhân viên nói với giọng the thé.
Ove nhìn Jimmy và dang hai tay ra, như thể chuyện đó giải thích cho tất cả.
- Chúng ta không thể nói lý lẽ với một người như thế.
Ông gật đầu, rõ ràng đang trông đợi một sự hậu thuẫn.
- Mà cậu biến đi đâu thế hả?
- Đi xem mấy cái màn hình đằng kia ạ. - Jimmy phân trần.
- Cậu định mua màn hình à?
- Không ạ. - Jimmy đáp và nhìn ông như thể đó là một câu hỏi lạ lùng, gần giống như cách bà Sonja nói: “Chuyện đó thì liên quan gì?” mỗi khi ông hỏi liệu bà có thực sự cần mua thêm một đôi giày nữa hay không.
Người nhân viên cửa hàng tìm cách quay gót và lánh ra chỗ khác, nhưng ông Ove đã giơ chân chặn anh ta lại.
- Anh đi đâu vậy? Chúng ta chưa xong việc mà.
Lúc này trông anh ta khổ sở thực sự. Jimmy vỗ lưng anh chàng để động viên.
- Ông Ove đây chỉ muốn xem một cái iPad thôi mà. Anh có thể giúp chúng tôi được không?
Anh ta nhìn Ove với một ánh mắt dữ tợn.
- Được. Nhưng như tôi đã hỏi ông ta, hai người quan tâm loại nào? Loại 16, 32 hay 64 Gigabyte?
Ông Ove nhìn anh ta như thể muốn bảo anh ta đừng có làm người khác rối trí với những con số ngẫu nhiên nữa.
- Có nhiều phiên bản với các dung lượng bộ nhớ khác nhau. - Jimmy giải thích.
- Và tôi đoán họ muốn một khoản chi phí tăng thêm đáng kể cho nó chứ gì? - Ove hỏi lại với giọng khinh khỉnh.
Jimmy gật đầu và quay sang tay nhân viên bán hàng.
- Tôi nghĩ ông Ove muốn biết thêm về sự khác biệt giữa các loại máy khác nhau.
Anh ta rên lên.
- Thế ông muốn loại bình thường hay có 3G? - Jimmy quay sang hỏi ông Ove. - Nó sẽ chỉ được sử dụng ở nhà hay cả ở ngoài đường nữa?
Ove giơ ngón tay trỏ lên và chỉ thẳng vào tay nhân viên:
- Này! Tôi muốn con bé có cái tốt nhất! Hiểu chưa?
Anh ta e dè lùi lại. Jimmy mỉm cười và dang rộng đôi tay hộ pháp như thể muốn ôm ai đó một cái.
- Vậy thì là loại 128 GB, có 3G, thứ cao cấp nhất các anh có. Thêm một sợi cáp nữa nhé.
Vài phút sau ông Ove thô bạo giật lấy cái túi đựng hộp iPad ở quầy, miệng lẩm bẩm gì đó như là “tám ngàn hai trăm chín mươi lăm krona mà không có nổi một cái bàn phím!”, và “quân kẻ cướp”, “bọn lừa đảo” cùng một loạt những từ ngữ miệt thị khác.
Thế là cô bé bảy tuổi được nhận một chiếc iPad từ tay ông Ove vào buổi tối hôm đó. Cùng một sợi cáp từ Jimmy.
Cô bé đứng trên hành lang, ngay phía bên trong cửa ra vào, không biết phải làm gì. Cuối cùng cô bé gật đầu và nói:
- Tuyệt quá… Cháu cảm ơn ạ.
Jimmy vui vẻ gật đầu.
- Cháu có đồ ăn nhẹ không?
Cô bé chỉ tay về phía phòng khách đang đầy ắp người. Ở giữa phòng là một chiếc bánh sinh nhật có tám cây nến cháy sáng. Anh chàng mập mạp lập tức tiến về phía đó. Cô bé giờ đã lên tám tuổi nán lại trong hành lang và sờ vào hộp iPad với ánh mắt ngỡ ngàng. Dường như cô bé không tin được mình đang thực sự cầm nó trong tay. Ove nghiêng người về phía cô bé. - Đó là cảm giác của ta mỗi khi mua một chiếc ôtô mới. - Ông nói khẽ.
Cô bé nhìn quanh để bảo đảm không bị ai nhìn thấy, rồi mỉm cười và ôm chầm lấy ông.
- Cháu cảm ơn… ông ngoại. - Cô bé nói lí nhí rồi ù té chạy về phòng mình.
Ông Ove im lặng đứng trong hành lang, mân mê chùm chìa khóa nhà trong đôi tay chai sạn. Patrick chống nạng đi cà nhắc bám theo cô bé tám tuổi. Rõ ràng anh chàng đã được giao nhiệm vụ khó khăn nhất của buổi tối: thuyết phục con gái rằng ngồi ăn bánh kem dưới này trong bộ váy đẹp với những người lớn sẽ vui hơn nhiều so với ru rú trong phòng để nghe nhạc và tải các ứng dụng vào chiếc iPad mới. Ông Ove đứng nhìn sàn nhà suốt gần mười phút.
- Bác ổn chứ?
Giọng nói của Parvaneh nhẹ nhàng len lỏi vào trong đầu Ove như thể ông đang trong một giấc mơ. Cô đứng trên ngưỡng cửa phòng khách, hai tay đặt trên cái bụng tròn quay, đu đưa nó như thể nó là một cái giỏ quần áo lớn. Ove ngước nhìn lên với đôi mắt ươn ướt.
- Vâng, vâng, tôi ổn.
- Bác có muốn vào ăn một miếng bánh không?
- Không… không, tôi không thích bánh kem. Tôi sẽ đi dạo một chút với con mèo.
Đôi mắt nâu to tướng của Parvaneh nhìn xoáy vào ông giống như cô thường làm trong những ngày vừa qua, và chúng luôn làm ông cảm thấy không thoải mái. Như thể chúng đầy ắp những dự cảm đen tối.
- Thôi được. - Cuối cùng cô nói, dù có vẻ chưa bị thuyết phục. - Sáng mai chúng ta học lái xe tiếp nhé? Cháu sẽ bấm chuông nhà bác lúc tám giờ.
Ove gật đầu. Con mèo bước ra hành lang với bộ ria mép dính kem bơ.
- Mày xong chưa? - Ove hỏi con mèo.
Thấy nó tỏ ra đã sẵn sàng, ông liếc nhìn Parvaneh, xoay xoay chùm chìa khóa một chút và hạ giọng đáp:
- Được. Hẹn cô tám giờ sáng mai.
Màn đêm dày đặc của mùa đông đã buông xuống khi Ove và con mèo tiến ra con đường nằm giữa hai dãy nhà. Tiếng nhạc và tiếng cười nói của buổi tiệc tràn ra ngoài, tựa như một tấm thảm ấm áp trải dài giữa những ngôi nhà. Sonja chắc sẽ thích điều này, Ove tự nhủ. Hẳn bà sẽ thích những thay đổi diễn ra sau khi cô nàng bầu bí người nước ngoài và gia đình lắm trò của cô đến đây. Chắc bà sẽ cười rất nhiều. Trời ơi, ông nhớ tiếng cười đó biết bao.
Ove đi về phía bãi đỗ xe cùng với con mèo. Ông đá thử mấy cái biển báo, lay các cửa nhà để xe, đảo một vòng quanh bãi xe dành cho khách rồi quay về. Ông kiểm tra khu gom rác. Khi họ về đến chỗ lán dụng cụ của ông, Ove chợt thấy có gì đó di chuyển ở ngôi nhà cuối cùng phía bên dãy nhà của Parvaneh và Patrick. Lúc đầu ông tưởng đó là một người khách của họ, nhưng rồi ông nhận ra bóng người di chuyển bên cạnh lán dụng cụ của ngôi nhà thuộc về gia đình phân loại rác. Theo như Ove biết, cả nhà họ vẫn đang ở Thái Lan. Ông nheo mắt để bảo đảm mình không nhìn nhầm, và trong vài giây quả thực ông không thấy gì cả. Nhưng ngay khi ông tự nhủ rằng thị lực của mình dạo này không còn như trước nữa thì bóng người lại xuất hiện. Phía sau nó là hai cái bóng khác. Rồi ông nghe thấy âm thanh không lẫn vào đâu được của tiếng búa đập vào lớp kính cửa sổ đã được dán băng dính cách điện. Người ta vẫn làm như vậy để giảm bớt tiếng ồn khi kính vỡ. Ove đã học được điều đó từ hồi làm trong ngành đường sắt, khi họ phải đập bỏ các tấm kính cửa sổ bị vỡ sao cho không đứt tay.
- Ê! Mấy người làm gì đó? - Ông lớn tiếng hỏi qua màn đêm.
Ba bóng người phía bên ngoài ngôi nhà vắng chủ khựng lại. Ove nghe thấy những giọng nói xì xào.
- Ê này! - Ông quát lớn và bắt đầu chạy về phía chúng.
Ove trông thấy một tên tiến vài bước về phía mình, và nghe thấy một tên khác hét gì đó. Ông tăng tốc lao vào chúng như một cái búa đóng cọc, trong đầu chỉ kịp nghĩ rằng lẽ ra mình nên cầm theo thứ gì đó để làm vũ khí, nhưng đã quá muộn. Ông thoáng thấy một trong những bóng đen vung vẩy một thứ gì đó dài và hẹp trên tay, nên quyết định tấn công hắn trước.
Khi cảm thấy đau nhói trong lồng ngực, Ove tưởng một tên nào đó đã đấm vào lưng ông. Nhưng rồi ông lãnh trọn cú tấn công thứ hai. Nó giống như ai đó dùng kiếm chém vào ông, xẻ đôi ông từ đầu xuống chân. Ove há miệng hớp không khí nhưng bất thành. Ông ngã gục trong khi đang chạy và đập toàn bộ cơ thể xuống tuyết. Ông cảm thấy cơn đau âm ỉ khi cày má vào băng tuyết và nhận thấy mọi thứ trong lồng ngực mình ép lại trong một cú co thắt khủng khiếp. Chẳng khác nào một cái lon nhôm bị nén bẹp trong tay người ta.
Ove nghe thấy tiếng chân chạy trên tuyết của bọn đạo chích và nhận ra chúng đang tẩu thoát. Ông không biết bao nhiêu giây đã trôi qua, nhưng cơn đau trong đầu ông thật sự không thể nào chịu nổi. Ông chỉ muốn khóc thét lên, nhưng trong phổi không còn oxy nữa. Tất cả những gì ông nghe thấy là giọng nói văng vẳng của Parvaneh giữa những tiếng đập thình thịch của mạch máu trong tai. Ông nghe thấy tiếng những bước chân loạng choạng của cô trên tuyết, và nhận ra cơ thể đồ sộ của cô trên đôi chân bé tí. Suy nghĩ cuối cùng của ông trước khi bất tỉnh là ông phải bắt cô hứa không để cho chiếc xe cứu thương chạy vào giữa hai dãy nhà.
Bởi vì các phương tiện có động cơ bị cấm lưu thông trong khu dân cư.
------------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét