Người Đàn Ông Mang Tên Ove
Tác giả: Fredrik Backman
Người dịch: Hoàng Anh
NXB Trẻ - Năm xuất bản 8-2017
13
ANH HỀ MANG TÊN BEPPO
- Ông Ove vui mà. - Cô bé ba tuổi cười rúc rích vui vẻ.
- Ờ. - Cô chị bảy tuổi lẩm bẩm một cách dửng dưng, rồi nắm
tay em tiến đến cửa bệnh viện trên những bước chân tự tin.
Mẹ của chúng suýt nữa đã tranh cãi với ông Ove, nhưng rồi
cho rằng không có thời gian để làm điều đó. Cô lạch bạch đi về phía cửa bệnh viện,
một tay đặt trên cái bụng bầu như thể sợ đứa bé bên trong sẽ trốn mất.
Ove lê bước theo sau cô nàng bầu bí. Ông không thèm chấp lối
suy nghĩ của cô, theo đó “tốt nhất là trả tiền và ngưng tranh cãi”. Bởi vì với
ông đó là vấn đề nguyên tắc. Khi nhân viên bãi xe ấn cho ông một vé phạt vì cái
tội hỏi tại sao người ta phải trả tiền cho việc đỗ xe ở bệnh viện, ông không thể
không quát lên rằng: “Anh không phải cảnh sát!”. Thế đấy.
Người ta đi tới bệnh viện để chết, ông biết như vậy. Người
ta đã phải đóng đủ thứ phí cho những việc mình làm khi còn sống, nên ông thấy
thật quá đáng khi nhà nước muốn đòi tiền đỗ xe cả khi bạn đi chết. Ông đã giải
thích điều đó với tay nhân viên bãi xe. Thế là anh ta vung vẩy tập vé phạt trước
mặt ông, Parvaneh cũng bắt đầu càm ràm rằng cô ta sẵn lòng trả tiền. Như thể đó
là điều quan trọng.
Phụ nữ dường như không thể hiểu được các nguyên tắc.
Ông nghe thấy cô bé bảy tuổi đi phía trước phàn nàn rằng quần
áo mình ám đầy mùi khói xe. Mặc dù đã quay kính xuống trong suốt chặng đường, họ
vẫn không tài nào xóa được mùi khói. Mẹ chúng đã gặng hỏi xem Ove làm gì trong
nhà để xe, nhưng ông chỉ ậm ừ cho qua chuyện. Tất nhiên với một đứa trẻ ba tuổi,
việc đi trên một chiếc xe quay kính xuống giữa nhiệt độ âm ngoài trời là cả một
chuyến phiêu lưu. Cô bé bảy tuổi thì ngược lại, tỏ ra hoang mang hơn nhiều và bịt
khăn kín mặt. Cô bé khó chịu vì bị trượt trên tấm giấy báo mà ông Ove lót trên
nệm ghế đề phòng trường hợp hai chị em “làm bẩn”. Ông cũng trải giấy báo trên
ghế trước, nhưng mẹ chúng đã giật phăng đi trước khi ngồi xuống. Ông nhăn mặt
phản đối, nhưng tự kiềm chế để không nói gì hết. Thay vào đó, ông liên tục nhìn
cái bụng bầu suốt quãng đường đi đến bệnh viện, như thể sợ cô ta rỉ nước ối
trên nệm ghế.
- Đứng yên ở đây nhé. - Parvaneh nói với hai cô con gái khi
họ đã đến quầy lễ tân của bệnh viện.
Họ được bao quanh bởi các vách tường kính và những băng ghế
sực mùi chất khử trùng. Nhân viên y tế mặc đồ trắng đi dép nhựa đủ màu, còn những
ông già bà cả lê bước tới lui trong hành lang, người tựa vào những cái khung tập
đi mỏng manh. Một bảng thông báo đặt trên sàn nhà cho biết thang máy số 2 ở cổng
A đang không sử dụng được, và người thăm bệnh ở khu 114 vui lòng dùng thang máy
số 1 ở cổng C. Bên dưới là một dòng thông báo khác cho biết thang máy số 1 ở cổng
C hiện đang được bảo trì, và người thăm bệnh ở khu 114 vui lòng sử dụng thang máy
số 2 ở cổng A. Bên dưới lại là một dòng thông báo thứ ba cho biết khu 114 đang
đóng cửa sửa chữa cho đến hết tháng. Dưới cùng là tấm ảnh của một thằng hề kèm
dòng thông báo rằng chú hề Beppo của bệnh viện sẽ đi thăm các bệnh nhi trong
ngày hôm nay.
- Ông Ove đi đâu rồi? - Parvaneh thốt lên.
- Ông đi vệ sinh, con nghĩ thế ạ. - Cô bé bảy tuổi lí nhí
đáp.
- H-è-è-è! - Cô bé ba tuổi reo lên, tay chỉ vào bảng thông
báo.
- Cô có biết ở đây muốn đi vệ sinh phải trả tiền không? -
Ove hỏi với giọng kinh ngạc. Parvaneh quay ngoắt lại và lườm ông một cái.
- Bác có cần tiền lẻ không?
Ông bực bội ra mặt.
- Tôi cần tiền lẻ để làm gì?\
- Để đi vệ sinh ấy.
- Tôi có cần đi vệ sinh đâu?
- Nhưng bác vừa nói là… - Cô bỏ lửng câu nói và lắc đầu -
Thôi bỏ đi… Vé đỗ xe còn bao nhiêu thời gian nữa ạ?
- Mười phút.
Parvaneh rên lên.
- Bác không hiểu là chuyện này sẽ mất nhiều hơn mười phút à?
- Vậy thì tôi sẽ đi nạp tiền thêm mười phút nữa. - Ông Ove
nói với giọng thản nhiên.
- Sao bác không nạp tiền lâu hơn để khỏi phải bận lòng? - Cô
nói với vẻ mặt như thể hối tiếc vì mình đã hỏi như thế.
- Bởi vì đó chính là điều bọn họ muốn! Họ muốn thu tiền cho
khoảng thời gian mà chúng ta không sử dụng đến!
- Thôi, cháu mệt mỏi vì tranh luận lắm rồi… - Parvaneh thở
dài, tay đưa lên trán.
Cô nhìn sang hai đứa con gái.
- Hai con ngoan ngoãn ngồi đây với ông Ove trong khi mẹ đi
thăm bố được không? Được không nào?
- Dạ-ạ-ạ. - Cô bé bảy tuổi rầu rĩ đáp.
- Được ạ! - Cô bé ba tuổi ré lên một cách phấn khích.
- Sao cơ? - Ông Ove thì thì thầm.
Parvaneh ngước lên.
- Ý cô là sao? Ngồi đây với tôi à? Thế còn cô?
Ove bàng hoàng khi thấy cô nàng bầu bí dường như không ghi
nhận sự bực dọc trong giọng nói của ông.
- Bác ngồi đây trông bọn trẻ nhé. - Cô nói thẳng thừng và biến
vào trong hành lang bệnh viện trước khi ông kịp phản đối.
Ove đứng đó nhìn theo Parvaneh, như thể mong đợi cô sẽ chạy
lại và nói rằng mình chỉ đùa. Nhưng cô không quay lại. Ông bèn quay về phía bọn
trẻ với vẻ mặt như sắp chiếu đèn vào mắt chúng và tra hỏi chứng cứ ngoại phạm của
chúng vào thời điểm án mạng.
- SÁCH! - Cô bé ba tuổi bỗng ré lên và lao tới góc phòng đợi,
nơi có cả một đống hỗn độn đồ chơi, bàn cờ và những quyển sách tranh.
Ông Ove gật đầu, ghi nhận trong đầu là cô em có thể tự chơi,
trước khi quay sang cô chị.
- Được rồi, thế còn cháu?
- Ông nói vậy là sao ạ?
- Cháu có cần gì không? Đồ ăn, đi vệ sinh hay đại loại thế?
Cô bé nhìn ông già như thể vừa được ông rủ uống bia hút thuốc.
- Cháu sắp TÁM TUỔI rồi! Cháu có thể đi vệ sinh MỘT MÌNH!
Ông Ove dang tay ra.
- Ồ tất nhiên, tất nhiên. Rất xin lỗi vì đã hỏi cháu như thế.
- Hứ. - Cô bé buông một tiếng.
- Chị hư! - Cô bé ba tuổi ré lên lúc quay lại và chạy loanh
quanh dưới chân ông già.
Ông Ove hoang mang quan sát cô bé con. Cô bé ngước khuôn mặt
tươi cười nhìn ông.
- Đọc sách! - Cô bé ra lệnh, đôi tay giơ quyển sách ra phía
trước xa đến nỗi suýt mất thăng bằng.
Ông cảnh giác nhìn quyển sách như thể nó là một email rác từ
một hoàng tử Phi châu nào đó đề nghị một “vụ đầu tư siêu lợi nhuận” và chỉ cần
số tài khoản ngân hàng của ông để “hoàn tất thủ tục”.
- Đọc sách! - Cô bé con lặp lại, trước khi leo lên băng ghế
trong phòng chờ với một sự mau lẹ đáng kinh ngạc.
Ông Ove miễn cưỡng ngồi xuống chiếc ghế, cách xa một chút.
Cô bé ba tuổi thở dài sốt ruột và biến mất trước khi xuất hiện lại sau đó vài
giây dưới nách Ove, hai bàn tay tì vào đầu gối của ông, mũi dán vào những hình
vẽ đầy màu sắc trong sách.
- Ngày xưa có một đoàn tàu nhỏ. - Ông đọc với một sự nhiệt
tình tương đương với khi người ta đọc tờ khai thuế.
Rồi ông lật sang trang sau. Cô bé ba tuổi níu tay ông và lật
trở lại. Cô chị uể oải lắc đầu.
- Ông phải mô tả những gì xảy ra trong trang sách nữa. Và nhại
giọng.
Ove nhìn cô bé bảy tuổi.
- Cái quái…? - Ông khựng lại và đằng hắng. - Nhại giọng gì
cơ?
- Giọng kể chuyện đời xưa ấy. - Cô chị giải thích.
- Ông hư. - Cô em reo lên mừng rỡ.
- Không hề. - Ove đáp.
- Có mà. - Cô em khăng khăng.
- Ta không biết… ta không biết nhại giọng.
- Ông không biết đọc truyện cho trẻ con gì cả. - Cô chị nhận
xét.
- Tại mấy đứa không chịu nghe đấy chứ! - Ông vặc lại.
- Tại ông không biết KỂ CHUYỆN!
Ove nhìn quyển sách một cách ngao ngán.
- Mà cái truyện vớ vẩn gì thế này? Một đoàn tàu biết nói à?
Không có gì liên quan tới ôtô sao?
- Biết đâu nó kể về một ông già khíu chọ nào đấy? - Cô bé lẩm
bẩm.
- Ta không phải là “ông già khíu chọ”. - Ove rít lên.
- Hề! - Cô em reo lên.
- Và ta cũng không phải là thằng hề!
Cô chị đảo mắt với ông Ove, y hệt mẹ mình.
- Nó có nói ông đâu. Nó nói anh hề kia kìa.
Ông ngước mắt và thấy một người đàn ông trưởng thành ăn mặc
giả làm hề đang đứng ở ngưỡng cửa phòng đợi. Anh ta cũng mang bộ mặt cười ngớ
ngẩn.
- Hè-è-è! - Cô bé ba tuổi ré lên và nhảy loi choi trên băng
ghế như thể bị uống thuốc kích thích, theo đánh giá của ông Ove.
Ông đã từng nghe về chuyện đó. Người ta cho những đứa trẻ bị
rối loạn tăng động giảm chú ý dùng amphetamine.
- Ồ, nhìn xem cô bé nào kìa? Cháu có thích xem ta biểu diễn
một màn ảo thuật không? - Anh hề thốt lên và lạch bạch tiến đến chỗ ba ông cháu
như một con ngỗng trên đôi giày đỏ to quá khổ mà, theo suy nghĩ của ông Ove, chỉ
có một người cực kỳ ngớ ngẩn mới mang chúng thay vì đi tìm cho mình một công việc
đàng hoàng.
Anh hề nhìn ông với ánh mắt vui vẻ.
- Xin hỏi ông đây có đồng năm krona không ạ?
- Không, ông đây không có nhá. - Ove đáp.
Anh ta tỏ vẻ ngạc nhiên. Đó không phải là một nét mặt phù hợp
với một chú hề.
- Nhưng… đây là một màn ảo thuật. Chẳng lẽ ông không có đồng
tiền nào trong người à? - Anh ta khẽ nói với chất giọng thật của mình, khá
tương phản với nhân vật đang sắm vai, và cho thấy đằng sau bộ mặt hề ngốc nghếch
là một anh chàng hai mươi lăm tuổi bình thường. - Thôi nào, tôi là anh hề của bệnh
viện. Đây là vì lũ trẻ. Tôi sẽ trả lại tiền mà.
- Ông đưa cho anh ấy đồng năm krona đi. - Cô bé bảy tuổi
nói.
- Hè-è-è! - Cô bé ba tuổi ré lên.
Ông Ove nhìn xuống cô bé con nói còn chưa sõi rồi nhăn mũi.
- Thôi được. - Nói đoạn ông rút một đồng năm krona từ trong
ví ra. Rồi ông chỉ tay vào anh hề. - Tôi muốn anh trả nó lại ngay. Tôi cần nó để
trả tiền đỗ xe.
Anh hề sốt sắng gật đầu và giật đồng xu khỏi tay ông.
Một lát sau, Parvaneh quay trở lại phòng đợi. Cô khựng lại,
bối rối nhìn khắp nơi.
- Có phải chị đang tìm hai cô con gái không? - Một y tá đanh
giọng hỏi từ phía sau lưng cô.
- Vâng. - Parvaneh ngơ ngác đáp.
- Chúng kia kìa. - Người y tá nói với giọng khá bất bình và
chỉ tay về phía băng ghế nằm cạnh cửa kính dẫn ra bãi xe.
Ông Ove đang ngồi ở đó, tay khoanh trước ngực, tức tối ra mặt.
Bên cạnh ông là cô chị bảy tuổi đang nhìn lên trần nhà với vẻ ngao ngán tột
cùng, còn bên kia là cô em ba tuổi tươi hơn hớn như vừa được ăn kem. Đứng kè
hai đầu của băng ghế là hai nhân viên bảo vệ to lớn dềnh dàng của bệnh viện, cả
hai đều mang vẻ mặt dữ tợn.
- Hai cô bé này có phải là con của chị không? - Một người hỏi
với giọng điệu không giống như vừa được ăn kem chút nào.
- Vâng, các cháu đã gây ra chuyện gì ạ? - Parvaneh thắc mắc,
hoảng sợ ra mặt.
- Chúng không làm gì cả. - Người bảo vệ còn lại đáp cùng với
một cái liếc mắt thù địch nhằm vào ông Ove.
- Tôi cũng vậy. - Ông lẩm bẩm, mặt mày sưng sỉa.
- Ông Ove đánh chú hề! - Cô bé ba tuổi ré lên một cách vui vẻ.
- Đồ mách lẻo. - Ông nói.
Parvaneh há hốc mồm nhìn ông, không biết phải nói gì nữa.
- Anh ta cũng không giỏi làm ảo thuật cho lắm. - Cô bé bảy
tuổi rên rỉ, rồi đứng dậy. - Mình về nhà được chưa ạ?
- Khoan đã? Chú… chú hề nào?
- Chú hề Beppo. - Cô bé con đáp và gật đầu một cách hiểu biết.
- Anh ta muốn làm trò ảo thuật. - Cô chị nói.
- Một trò ảo thuật ngớ ngẩn. - Ông Ove đế thêm.
- Anh ta làm biến mất đồng năm krona của ông Ove. - Cô bé
nói thêm.
- Và sau đó anh ta đưa lại tôi đồng năm krona khác! - Ông
Ove cắt ngang cùng với một cái quắc mắt giận dữ nhằm vào một trong hai người
người bảo vệ, như thể giải thích như vậy là đủ.
- Mẹ, ông đánh chú hề. - Cô bé con nói liến thoắng.
Parvaneh nhìn ông Ove, hai đứa con gái và hai nhân viên bảo
vệ một hồi lâu.
- Chúng tôi đến đây để thăm chồng tôi. Anh ấy bị tai nạn.
Tôi đưa bọn trẻ đến chào bố. - Cô phân trần với hai người bảo vệ.
- Bố ngã. - Cô bé ba tuổi nói.
- Thôi được rồi. - Một trong hai người bảo vệ gật đầu.
- Nhưng người này sẽ ở lại đây. - Người bảo vệ còn lại chỉ
tay vào ông Ove.
- Tôi có mạnh tay đâu? Tôi chỉ đẩy nhẹ thôi mà. - Đoạn ông lẩm
bẩm nói thêm. - Mấy người đâu phải cảnh sát!
- Thật đấy, anh ta làm ảo thuật dở òm. - Cô bé bảy tuổi nói
với giọng cáu kỉnh trong lúc ba mẹ con rời phòng đợi để đi thăm bố.
Một giờ sau, mọi người về đến nhà để xe của ông Ove. Anh
chàng tội nghiệp với một tay và một chân bó bột phải ở lại bệnh viện vài ngày,
ông được vợ anh ta thông báo như vậy. Khi nghe đến đó, ông đã phải cắn chặt môi
để khỏi bật cười, và cảm thấy cô cũng làm như vậy. Chiếc Saab vẫn nồng nặc mùi
khói khi ông thu gom mấy tờ giấy báo trên nệm ghế.
- Bác Ove này, bác có chắc là không cần cháu trả tiền phạt đỗ
xe không đấy? - Parvaneh hỏi.
- Xe này của cô à?
- Không.
- Vậy thì cô không phải trả. - Ông đáp.
- Nhưng cháu cảm thấy đây là lỗi của cháu.
- Cô không phải là người đề ra việc phạt vạ, mà là hội đồng
thành phố. Do đó đây là lỗi của họ. - Ông nói rồi đóng cửa xe. - Và của mấy tay
cảnh sát giả cầy ở bệnh viện.
Giọng điệu của Ove cho thấy ông vẫn còn ấm ức vì bị buộc phải
ngồi yên trên băng ghế đó cho tới khi mấy mẹ con Parvaneh quay lại và họ đi về
nhà. Làm như ông là người không đủ tin cậy để được phép đi lại tự do trong cái
bệnh viện đó vậy.
Parvaneh trầm ngâm nhìn ông hồi lâu. Quá mệt mỏi vì phải chờ
đợi, cô bé bảy tuổi đã bắt đầu đi về nhà. Còn cô bé ba tuổi thì nhìn ông Ove với
một nụ cười rạng rỡ.
- Ông vui mà! - Cô bé tuyên bố.
Ông nhìn cô bé và đút tay vào túi quần.
- Ừ. Hóa ra cháu cũng không đến nỗi nào.
Cô bé gật đầu lia lịa. Parvaneh nhìn ông Ove, rồi quan sát
đoạn ống nhựa dưới sàn, và lại nhìn ông với ánh mắt hơi lo lắng.
- Cháu cần bác cất giúp cái thang… - Cô nói trong lúc suy
nghĩ.
Ove đá vào lớp nhựa đường.
- Với lại cháu cũng có một cái máy sưởi bị hỏng. - Cô thêm
vào, như thể chợt nghĩ ra. - Nếu bác ngó qua nó một chút thì tốt quá ạ. Anh
Patrick không làm được những chuyện như thế, bác biết rồi đấy. - Nói đoạn cô nắm
tay con gái.
Ove chậm rãi gật đầu.
- Ờ, lẽ ra tôi nên biết chuyện đó.
Parvaneh gật gù, rồi thình lình nở một nụ cười hài lòng.
- Bác không thể để hai đứa bé gái bị chết cóng đêm nay, đúng
không? Nhất là sau khi chúng đã chứng kiến bác đánh một anh hề?
Ông quắc mắt lườm cô. Thầm cân nhắc trong lòng, ông phải thừa
nhận rằng mình không thể để cho hai đứa trẻ bị chết cóng chỉ vì người bố ăn hại
của chúng không thể mở cửa sổ mà không ngã khỏi thang. Vợ ông sẽ mắng ông một
trận ra trò nếu như ông đến thế giới bên kia với tư cách là một kẻ giết hại trẻ
con.
Thế là ông nhặt đoạn ống dưới sàn lên, cuộn lại rồi treo nó
vào một cái móc. Ông khóa chiếc Saab, đóng cửa nhà để xe, vặn tay nắm ba lần để
bảo đảm nó đã đóng chặt. Sau đó ông đi lấy đồ nghề trong lán.
Ngày mai ông sẽ có thừa thời gian để tìm đến cái chết.
14
(NGÀY TRƯỚC)
CÔ GÁI TRÊN TÀU
Cô gái có một chiếc ghim cài áo bằng vàng trên váy, trên đó
phản chiếu đầy mê hoặc ánh nắng xuyên qua cửa sổ toa tàu. Lúc này là sáu rưỡi
sáng. Ove vừa mới xong ca làm việc và đang định bắt chuyến tàu ngược lại để về
nhà. Nhưng rồi anh trông thấy cô trên sân ga với mái tóc nâu vàng, đôi mắt xanh
và nụ cười rạng rỡ. Thế là anh leo trở lên chuyến tàu đi ra ngoại ô. Ove chưa
bao giờ hành động một cách tự phát như vậy trước đó. Nhưng khi anh nhìn thấy cô
gái ấy, dường như có gì đó trong anh đã trật đường ray.
Ove đã thuyết phục một trong những người lái tàu cho anh mượn
bộ quần áo thường nhật của ông ấy để trông anh không giống bộ dạng của một người
quét dọn trên tàu, trước khi tiến đến ngồi bên cạnh Sonja. Đó là quyết định
khôn ngoan nhất trong đời anh.
Anh không biết sẽ phải nói gì, nhưng chỉ vừa mới ngồi vào chỗ
thì Sonja đã vui vẻ quay sang mỉm cười ấm áp và cất lời chào. Anh cũng chào đáp
lại mà không để lộ sơ hở nào. Khi trông thấy Ove nhìn vào chồng sách nằm trên
đùi mình, Sonja khẽ nghiêng chúng để anh có thể đọc được tựa sách. Anh chỉ hiểu
được khoảng phân nửa số từ trên đó.
- Anh thích đọc sách à? - Sonja hào hứng hỏi anh.
Ove lắc đầu với một chút tự ti, nhưng không vì thế mà Sonja
mất hứng. Cô mỉm cười đáp rằng mình yêu sách hơn bất cứ thứ gì, rồi bắt đầu nói
về từng cuốn một trong chồng sách nằm trên đùi. Và Ove cũng nhận ra anh muốn
nghe Sonja kể về những thứ mình yêu thích trong suốt phần đời còn lại.
Anh chưa bao giờ nghe thấy thứ gì hay ho như giọng nói của
cô. Sonja lúc nào cũng như thể sắp bật cười khúc khích. Và khi cô cười, âm
thanh phát ra giống nhất tiếng của bọt rượu sâm banh nếu chúng biết cười thành
tiếng. Anh không biết mình nên nói gì để tránh tỏ ra thiếu giáo dục và ngu ngốc,
nhưng hình như chuyện đó không phức tạp như anh tưởng.
Sonja thích nói chuyện, trong khi Ove thích im lặng. Người
ta nói nồi nào úp vung nấy quả là đúng.
Nhiều năm về sau, Sonja tiết lộ với Ove là cô thấy anh rất kỳ
quặc khi anh đến ngồi cạnh cô trên toa tàu đó. Đường đột và thô vụng. Nhưng đôi
vai của anh rất rộng, và hai cánh tay anh lực lưỡng đến nỗi làm căng cả lớp vải
áo. Và anh có đôi mắt hiền lành. Anh lắng nghe khi cô nói chuyện, và cô thích
làm anh mỉm cười. Dù sao thì hành trình đi học nhàm chán cũng trở nên thú vị
khi có ai đó làm bạn đồng hành.
Hồi đó Sonja đang học sư phạm và hằng ngày cô phải đi tàu hỏa
khoảng vài dặm, đổi sang một chuyến tàu khác, rồi bắt xe buýt. Tóm lại, nó là một
hành trình dài một tiếng rưỡi theo hướng ngược lại với hướng đi của Ove. Chỉ
khi họ cùng nhau băng qua sân ga trong lần đầu tiên ấy cô mới hỏi anh làm nghề
gì. Và Ove nhận ra mình đang ở cách năm cây số so với doanh trại quân đội mà lẽ
ra anh đã được gia nhập nếu không có vấn đề tim mạch, nên câu trả lời bật ra
trước khi anh kịp cân nhắc:
- Anh đi nghĩa vụ quân sự ở đằng kia. - Anh đáp và khoát tay
chỉ.
- Thế thì có thể chúng ta sẽ gặp lại nhau trên chuyến tàu trở
về. Em sẽ về lúc năm giờ chiều.
Ove không nghĩ được gì để nói. Anh biết người ta không thể rời
doanh trại lúc năm giờ chiều để về nhà, nhưng Sonja rõ ràng không biết điều đó.
Thế nên anh chỉ nhún vai. Rồi cô lên xe buýt và đi mất.
Tình thế của Ove lúc đó thật là trớ trêu về nhiều mặt, nhưng
biết làm sao bây giờ? Anh quay gót và tìm một bảng chỉ đường tới trung tâm của
làng đại học nằm cách nhà mình hai tiếng đi xe, rồi bắt đầu lên đường. Bốn mươi
lăm phút sau, anh hỏi được hiệu may duy nhất trong vùng, và sau khi tìm thấy
nó, anh lúng túng bước vào trong để hỏi xem liệu người ta có là quần áo không,
và mất bao lâu để làm chuyện đó. “Mười phút thôi, không hơn”, người ta nói với
anh như vậy.
- Vậy thì tôi sẽ quay lại lúc bốn giờ chiều. - Ove đáp và bước
ra ngoài.
Anh lững thững quay lại ga xe lửa, nằm xuống một băng ghế
trong sảnh đợi. Lúc ba giờ mười lăm phút, anh lên đường quay trở lại hiệu may,
nhờ họ là giúp áo sơ mi và quần dài trong khi mình ngồi đợi trong buồng vệ sinh
của nhân viên. Sau đó, anh đi bộ trở về nhà ga và cùng Sonja bắt chuyến tàu
quay về ga xuất phát của cô. Từ chỗ đó, anh lại đi thêm nửa tiếng nữa để về đến
ga của mình. Ove lặp lại toàn bộ quy trình vào ngày hôm sau và ngày hôm sau nữa.
Đến ngày tiếp theo thì nhân viên quầy vé ở nhà ga đến nói với Ove là anh không
thể ngủ vạ vật ở đó như một kẻ lang thang được. Ove hiểu điều đó nhưng anh phân
trần rằng mình phải đợi một cô gái. Nghe đến đó, người nhân viên gật đầu thông
cảm và thu xếp cho anh ngủ trong phòng để hành lý thất lạc. Ngay cả những người
bán vé ở nhà ga cũng hiểu thế nào là tình yêu.
Ove làm như thường ngày trong ba tháng liền. Cuối cùng Sonja
tỏ ra sốt ruột vì chưa bao giờ được mời đi ăn tối và cô ngỏ lời luôn:
- Ngày mai em sẽ đợi ở đây lúc tám giờ tối. Em muốn anh mặc
com-lê và đưa em đi ăn tối. - Cô nói một cách dứt khoát lúc bước xuống tàu vào
một tối thứ Sáu.
Và Ove tuân lệnh.
Người ta chưa bao giờ hỏi ông sống như thế nào trước khi gặp
bà. Nhưng nếu ai đó hỏi, Ove sẽ đáp rằng mình chưa từng sống.
Vào tối thứ Bảy, Ove khoác lên người bộ com-lê cũ màu nâu của
bố. Nó hơi chật ở vai. Rồi anh nấu hai chiếc xúc xích và bảy củ khoai tây tại
góc bếp nhỏ trong phòng mình, trước khi đi một vòng quanh nhà để siết vài con ốc
theo yêu cầu của bà chủ.
- Cậu sắp đi gặp ai đó à? - Bà hỏi với giọng hài lòng khi thấy
Ove bước xuống cầu thang. Bà chưa bao giờ thấy anh mặc com-lê.
Ove lầm lì gật đầu.
- Vâng ạ. - Ove đáp nhẹ như hơi thở.
Bà chủ nhà gật đầu và hình như cố che giấu một nụ cười mỉm.
- Hẳn là một người rất đặc biệt thì cậu mới ăn mặc như thế
này. - Bà nói.
Ove hít một hơi và gật đầu. Khi anh ra đến cửa, bà gọi với
theo từ trong bếp.
- Mua hoa nhé, Ove!
Anh bối rối quay lại nhìn bà chủ nhà.
- Có thể cô ấy sẽ thích hoa. - Bà nhấn mạnh.
Ove hắng giọng rồi khép cửa lại.
Hơn mười lăm phút sau, anh đã đứng đợi cô tại ga tàu trong bộ
com-lê chật căng và đôi giày mới đánh bóng. Anh hơi nghi ngại những người đi muộn.
“Nếu không thể trông cậy vào sự đúng giờ của người khác thì bạn cũng không nên
tin tưởng họ trong những chuyện quan trọng hơn”, Ove đã từng tự nhủ với mình
như thế khi các đồng nghiệp của anh ung dung đi làm muộn ba, bốn phút, làm như
chuyện đó không hề quan trọng. Cứ như thể công việc vẫn nằm đó chờ họ mỗi sáng.
Do vậy, Ove trải qua mười lăm phút đứng đợi ở ga tàu trong một
sự bực bội nhẹ. Sau đó, sự bực bội trở thành lo lắng, và rồi anh cho rằng Sonja
chỉ giễu cợt mình khi ngỏ ý muốn hẹn hò. Anh chưa bao giờ cảm thấy ngớ ngẩn đến
thế trong đời. Dĩ nhiên cô không muốn đi ăn tối với anh, sao anh lại có thể để
cho mình ảo tưởng đến thế? Sự nhục nhã dâng lên trong anh như một dòng nham thạch,
và anh chỉ muốn quẳng bó hoa vào cái thùng rác gần đó trước khi đi thẳng không
buồn ngoảnh lại.
Về sau, anh không thể lý giải nổi vì sao mình ở lại. Có lẽ
là vì anh cảm thấy một cuộc hẹn dù có thế nào cũng vẫn là một cuộc hẹn. Và có
thể còn có lý do khác nữa. Một thứ gì đó khó diễn giải hơn. Lúc đó anh không hề
biết, tất nhiên rồi, nhưng anh sẽ còn phải đợi Sonja nhiều lần đến nỗi bố anh hẳn
phải lác mắt nếu biết được. Và khi rốt cuộc cô gái cũng xuất hiện trong một bộ
váy dài in hoa mặc cùng một chiếc áo cardigan đỏ thắm khiến Ove dồn trọng lượng
cơ thể từ chân phải sang chân trái, anh nhận ra việc cô không thể đúng giờ cũng
không quan trọng lắm.
Người phụ nữ ở quầy bán hoa đã hỏi Ove về loại hoa anh cần.
Anh đáp rằng đó là một câu hỏi rất ngớ ngẩn. Nói cho cùng, chị ta là người bán
hoa, còn anh là người mua chúng, chứ không phải ngược lại. Chị ta tỏ ra hơi bực
bội, nhưng rồi hỏi thêm là người nhận có yêu thích màu nào không? “Màu hồng”,
anh đã quả quyết như thế, dù không biết chắc.
Và thế là Sonja có dịp đứng trước nhà ga trong chiếc áo đỏ
thắm đến độ làm mọi thứ nhợt nhạt hẳn đi, hai tay sung sướng ôm bó hoa của anh
trước ngực.
- Hoa rất đẹp. - Cô nói, và nở nụ cười chân thành khiến anh
chỉ biết cụp mắt xuống đất và đá đá mấy hòn sỏi.
Ove không sành sỏi khoản ăn uống nhà hàng cho lắm. Anh chưa
bao giờ hiểu được tại sao người ta phải tốn tiền đi ăn ở ngoài trong khi có thể
ăn tại nhà. Anh không quan tâm lắm đến những bộ đồ ăn nổi bật và kiểu nấu nướng
cầu kỳ. Anh cũng biết mình không giỏi ăn nói. Dù sao thì anh cũng đã ăn trước ở
nhà, nên anh sẵn lòng để cho Sonja gọi những món cô thích trong thực đơn, còn
mình thì chọn món rẻ nhất. Ít ra nếu cô hỏi anh chuyện gì đó thì anh cũng không
bị bận nhai thức ăn đầy miệng. Với anh đó là một kế hoạch hay.
Trong khi Sonja gọi món, người bồi bàn mỉm cười một cách ý
nhị. Ove thừa biết anh ta và những vị khách khác trong nhà hàng nghĩ gì khi hai
người bước vào. Cô ấy quá tuyệt vời so với anh. Và Ove cảm thấy mình thật dở
hơi. Chủ yếu là vì anh hoàn toàn đồng ý với bọn họ.
Với phong thái hoạt bát, Sonja kể cho anh nghe về việc học của
mình, về những quyển sách, những bộ phim mà cô đã xem. Khi cô nhìn Ove, lần đầu
tiên trong đời anh có cảm giác như mình là người đàn ông duy nhất trên trái đất.
Và anh đủ chính trực để nhận ra rằng sẽ rất sai trái nếu mình cứ tiếp tục nói dối.
Thế nên anh hắng giọng, thu hết can đảm và thú nhận toàn bộ sự thực với cô. Rằng
anh không hề đi nghĩa vụ quân sự, rằng anh chỉ là một anh chàng lao công trên
tàu có một quả tim bị dị tật bẩm sinh và đã nói dối chỉ vì quá thích được đi
tàu cùng cô. Anh đoán đây là lần ăn tối duy nhất giữa hai người và cho rằng một
kẻ dối trá như mình không đáng được ngồi cùng bàn với cô. Khi Ove nói xong, anh
đặt khăn ăn lên bàn và lôi ví ra để trả tiền.
- Anh xin lỗi. - Ove lí nhí với vẻ mặt xấu hổ, rồi đá đá cái
chân ghế trước khi hạ giọng nói thêm, nhỏ đến mức gần như cô không thể nghe được.
- Anh chỉ muốn biết cảm giác sẽ như thế nào khi được em nhìn mà thôi.
Lúc Ove đứng dậy, Sonja vươn tay qua bàn và giữ tay anh lại.
- Em chưa bao giờ nghe thấy anh nói nhiều đến thế. - Cô mỉm
cười.
Anh lí nhí đáp rằng điều đó không thay đổi được sự thật. Anh
là kẻ dối trá. Khi Sonja yêu cầu Ove ngồi xuống, anh làm theo và thu mình trên
chiếc ghế. Trái với sự chờ đợi của anh, Sonja không nổi giận. Cô bật cười. Sau
đó cô nói rằng mình cũng không khó khăn lắm trong việc đoán ra anh không hề đi
nghĩa vụ quân sự, vì anh chưa bao giờ mặc quân phục.
- Với lại ai cũng biết là lính tráng không được phép về nhà
vào các ngày trong tuần.
Anh không có được sự kín đáo của một điệp viên Nga, theo nhận
xét của Sonja. Cô đã đi đến kết luận rằng anh có lý do để làm thế. Và cô thích
cách anh lắng nghe cô nói. Cách anh làm cô cười. Và những cái đó, theo cô là
quá đủ rồi.
Kế đến, cô hỏi Ove về công việc anh thực sự muốn làm nếu được
lựa chọn. Không cần suy nghĩ, anh đáp ngay rằng mình muốn xây nhà. Thiết kế và
xây dựng chúng. Tính toán sao cho chúng đứng vững. Trái với sự chờ đợi của anh,
Sonja không bật cười. Cô nổi giận.
- Vậy tại sao anh không làm? - Cô hỏi.
Anh không có câu trả lời thỏa đáng cho câu hỏi đó. Sáng thứ
Hai tiếp theo, Sonja đến nhà Ove cùng với tờ rơi quảng cáo một khóa đào tạo kỹ
sư từ xa. Bà chủ nhà tỏ ra khá choáng khi thấy cô gái trẻ đẹp bước lên cầu thang
trên đôi chân đầy tự tin. Sau này bà đã vỗ vai Ove và bảo rằng vụ mua hoa đúng
là một khoản đầu tư đúng đắn. Anh không thể không đồng tình với bà.
Khi Ove bước vào phòng, Sonja đang ngồi trên giường. Anh đứng
trên ngưỡng cửa, hai tay đút túi, mặt cau lại. Cô nhìn anh và bật cười.
- Bây giờ chúng mình là một cặp được chưa anh nhỉ?
- À, ừ - Anh ngập ngừng đáp. - Anh nghĩ là được.
Mọi chuyện đơn giản vậy thôi.
Sonja đưa tờ rơi cho Ove. Đó là một khóa học hai năm, và hóa
ra khoảng thời gian mà anh đã dành cho việc học hỏi những người thợ xây đã
không uổng phí. Có thể Ove không có đầu óc để học theo cách truyền thống, nhưng
anh hiểu được các con số và những ngôi nhà. Điều đó giúp anh tiến xa. Anh vượt
qua một kỳ thi sau sáu tháng học. Rồi một kỳ thi khác. Và một kỳ thi khác nữa.
Sau đó, anh vào làm trong một văn phòng kiến trúc đô thị và ở lại đó hơn một phần
ba thế kỷ. Anh làm việc hăng say, không bao giờ nghỉ ốm, trả nợ, đóng thuế, thực
hiện các nghĩa vụ của mình. Anh mua một ngôi nhà nhỏ hai tầng ở một khu dân cư
mới hình thành bên cạnh một khu rừng. Sonja muốn làm đám cưới, nên Ove đã hỏi
cưới cô, Sonja muốn có con, anh cũng không phản đối chuyện đó. Và những đứa trẻ
nên được lớn lên trong một khu phố, cùng với những đứa trẻ khác.
Gần bốn mươi năm sau, khu rừng quanh đó đã hoàn toàn biến mất.
Thế chỗ của nó là những ngôi nhà khác. Và một ngày nọ, khi Sonja nằm trên giường
bệnh, bà đã nắm tay ông và nói rằng ông không cần phải lo lắng. Mọi chuyện sẽ ổn.
Nói thì dễ lắm, ông nghĩ bụng, trong lòng trào dâng nỗi đau buồn và phẫn nộ.
Nhưng Sonja chỉ thì thào: “Mọi chuyện rồi sẽ ổn, anh yêu”, rồi dịch tay mình
sát vào cánh tay ông. Bà nhẹ nhàng ấn ngón trỏ vào lòng bàn tay của ông, nhắm mắt
và lìa đời.
Ông đã ngồi đó nắm tay bà trong nhiều giờ, cho đến khi nhân
viên y tế vào phòng. Với giọng nói ôn tồn và động thái thận trọng, họ giải
thích với ông rằng họ phải đưa thi thể của bà đi. Ove đứng lên khỏi ghế, gật đầu,
rồi đi tới nhà xác để làm các thủ tục. Bà được chôn cất vào một ngày Chủ nhật.
Ông đi làm ngay ngày thứ Hai.
Nếu có ai hỏi, ông sẽ đáp rằng ông chưa từng sống trước khi
được sống cùng bà. Và sau khi bà ra đi cũng thế.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét