Người Đàn Ông Mang Tên Ove
Tác giả: Fredrik Backman
Người dịch: Hoàng Anh
NXB Trẻ - Năm xuất bản 8-2017
23
(NGÀY TRƯỚC)
CHIẾC XE KHÁCH KHÔNG BAO GIỜ ĐẾN ĐÍCH
“Ai cũng cần phải biết họ đang nỗ lực vì điều gì”, người ta
vẫn nói như thế. Hay ít nhất đó là điều Sonja từng đọc thành tiếng cho Ove nghe
từ một trong những cuốn sách của cô. Anh không nhớ là cuốn nào nữa, vì cô có rất
nhiều sách. Ở Tây Ban Nha, Sonja đã mua cả túi sách, dù không nói được ngôn ngữ
này. “Em sẽ học trong lúc đọc sách”, cô bảo thế. Cứ như thể đó là một cách hiển
nhiên để học ngoại ngữ. Ove nói với cô rằng anh thà tự suy nghĩ còn hơn là đọc
xem những kẻ dở hơi khác có gì trong đầu. Đáp lại, cô chỉ mỉm cười và vuốt má
anh.
Ove mang những túi hành lý to quá mức cần thiết của Sonja ra
xe khách. Anh nghe thấy mùi rượu khi đi ngang qua chỗ người tài xế, nhưng cho rằng
đó là phong tục của Tây Ban Nha và không có ý kiến gì. Anh đang ngồi trên ghế
lúc Sonja đưa tay anh chạm vào bụng cô, và đó là lần đầu tiên, cũng là lần cuối
cùng anh cảm thấy đứa bé cử động. Anh đứng dậy và đi vào buồng vệ sinh. Lúc Ove
đi được nửa đường, chiếc xe bỗng chao nghiêng, va quẹt với dải phân cách ở tim
đường, rồi mọi thứ chợt im lặng trong một khoảnh khắc. Giống như thời gian hít
một hơi thật sâu. Tiếp đó là tiếng kính vỡ rào rào. Tiếng kim loại tàn nhẫn
nghiến ken két. Tiếng rầm rầm dữ dội của những chiếc ô tô đâm vào đuôi xe
khách.
Và những tiếng la hét. Ove sẽ không bao giờ quên được chúng.
Anh chỉ nhớ mình bị ngã sấp bụng. Anh hốt hoảng nhìn quanh tìm Sonja giữa những
thân người ngổn ngang, nhưng không thấy cô đâu cả. Anh nhào tới trước, bị
thương vì những mảnh kính vỡ rơi như mưa từ trên đầu, nhưng dường như một con
thú hoang lồng lộn đã níu anh lại và đè anh xuống sàn, gây thêm cho anh cảm
giác nhục nhã khó tả bên cạnh nỗi kinh hoàng. Cảm giác bất lực hoàn toàn đó sẽ
theo đuổi anh hàng đêm trong suốt phần đời còn lại.
Cho đến khi một y tá nhất quyết bắt anh đi tắm và thay quần
áo, ở đâu họ cũng nhìn Ove với ánh mắt thương cảm và chia buồn cùng anh. Một
bác sĩ đến gặp anh và nói với một giọng lãnh đạm, giảng giải rằng “anh nên chuẩn
bị tinh thần cho việc cô ấy sẽ không tỉnh lại”. Ove đã ném tay bác sĩ đó qua cửa,
không cần biết cánh cửa đó đang được khóa.
- Cô ấy chưa chết. - Anh gào lên trong hành lang. - Đừng cư
xử như thể cô ấy đã chết rồi!
Không nhân viên bệnh viện nào dám lặp lại sai lầm đó nữa.
Vào ngày thứ mười, khi cơn mưa ập vào cửa sổ và radio thông
báo về một trận bão tồi tệ nhất trong nhiều thập kỷ qua, Sonja mở he hé mắt. Bắt
gặp Ove đang nhìn mình, cô luồn bàn tay vào bàn tay anh, và co ngón tay lại
trong lòng bàn tay của anh.
Rồi cô thiếp đi và ngủ trọn đêm. Khi Sonja tỉnh dậy, các y
tá muốn trò chuyện với cô, nhưng Ove cương quyết cho rằng anh phải là người làm
điều đó. Rồi anh kể với cô mọi chuyện bằng một giọng bình tĩnh, vừa kể vừa xoa
nắn đôi bàn tay cô như thể chúng đang rất, rất lạnh. Anh kể với cô về gã tài xế
có mùi rượu và chiếc xe khách lao vào dải phân cách trên đường khi vụ tai nạn xảy
ra. Và mùi cao su khét lẹt. Về những tiếng ồn đinh tai.
Và về một đứa trẻ không bao giờ chào đời.
Sonja bật khóc. Những giọt nước mắt không thể xoa dịu, một
tiếng kêu ai oán nguyên sơ ngắt quãng bởi những tiếng gào thét, tất cả giằng xé
họ đến tận cùng tâm khảm. Thời gian, nỗi buồn và sự phẫn nộ hòa quyện với nhau
trong bóng tối vô cùng. Ove biết anh sẽ không bao giờ tha thứ cho mình vì đã đứng
lên khỏi ghế đúng vào thời khắc ấy và không thể bảo vệ vợ con. Anh biết nỗi đau
này sẽ kéo dài mãi mãi.
Nhưng Sonja sẽ không còn là Sonja nếu cô để cho bóng tối chiến
thắng. Do vậy, vào một buổi sáng không rõ là thứ bao nhiêu kể từ ngày xảy ra
tai nạn, cô tuyên bố một cách ngắn gọn rằng mình muốn bắt đầu tập vật lý trị liệu.
Khi Ove nhìn cô với nét mặt như thể xương sống của chính anh đang gào thét tựa
một con thú bị tra tấn mỗi lúc cô di chuyển, Sonja chỉ dịu dàng ngả đầu vào ngực
anh và thì thào: “Chúng ta có thể cố gắng để sống hoặc để chết, anh à. Chúng ta
phải bước tiếp”.
Và mọi chuyện đã diễn ra như thế.
Trong những tháng tiếp theo, khi đã quay về Thụy Điển, Ove
đi gặp một số lượng không đếm xuể những người đàn ông mặc áo sơ mi trắng. Họ ngồi
sau những cái bàn giấy làm bằng gỗ sáng màu tại văn phòng của nhiều cấp chính
quyền, và rõ ràng họ có một quỹ thời gian vô tận để hướng dẫn anh các tài liệu
phải nộp vì những lý do khác nhau, nhưng lại không rảnh để thảo luận về những
biện pháp cần có nhằm giúp cho Sonja khỏe lên.
Một nữ công chức đã được điều động đến bệnh viện để giải
thích một cách nhiệt tình rằng Sonja có thể có được một chỗ tại “một trung tâm
dành cho những người có cùng hoàn cảnh như cô”. Cô ta nói gì đó đại loại rằng
“những khó khăn của cuộc sống hằng ngày” có thể “rất nặng nề” đối với Ove. Cô
ta không tin rằng anh còn muốn tiếp tục sống với vợ. “Trong tình trạng hiện tại”,
cô ta cứ liên tục nhắc lại như vậy cùng những cái hất đầu kín đáo về phía giường
bệnh. Cứ như thể Sonja không hiện diện trong phòng.
Lần này thì Ove không quên mở cửa khi ném cô ta ra khỏi
phòng.
- Nơi duy nhất mà chúng tôi sẽ đến là nhà của chúng tôi! Đó
là nơi chúng tôi SỐNG! - Anh gầm lên với cô ta, và trong cơn thịnh nộ anh đã
ném một chiếc giày của Sonja ra khỏi phòng.
Sau đó Ove đã phải đi hỏi mấy cô y tá suýt bị ném trúng xem
họ có biết chiếc giày đã biến đi đâu hay không. Chuyện đó dĩ nhiên càng khiến
anh tức giận hơn. Đó là lần đầu tiên anh nghe thấy Sonja cười kể từ vụ tai nạn.
Nó tuôn tràn một cách không thể dừng được như thể cô đã bị cơn cười của mình hạ
nốc ao. Cô cứ cười, cười, cười mãi, khiến cho những thanh âm nảy tưng tưng trên
tường và sàn, thách thức các định luật thời gian và không gian. Nó làm cho Ove
cảm thấy như anh đang từ từ vươn lên khỏi đống đổ nát của một ngôi nhà bị sập
sau trận động đất. Quả tim anh lại có đủ không gian để đập trở lại.
Ove về nhà và sửa lại toàn bộ, phá bỏ quầy bếp cũ để làm một
cái mới, thấp hơn. Anh thậm chí còn tìm được một lò nướng thích hợp. Anh sửa đổi
các khung cửa và lắp đặt đường dốc cho mọi căn phòng. Một ngày sau khi được ra
viện, Sonja quay lại với khóa sư phạm. Mùa xuân kế tiếp, cô thi tốt nghiệp. Một
mẩu quảng cáo trên báo cho biết người ta đang tuyển một giáo viên tại ngôi trường
tai tiếng nhất của thành phố, nơi có những lứa học sinh mà không một giáo viên
có trình độ và đầu óc suy nghĩ bình thường nào muốn đối mặt. Đó là trước khi
người ta khám phá hội chứng rối loạn tăng động giảm chú ý. “Các em học sinh này
vô vọng rồi”, thầy hiệu trưởng đã nhã nhặn giải thích như thế trong buổi phỏng
vấn tuyển dụng. “Đây không phải là nhà trường, mà là nhà giữ trẻ”. Có lẽ Sonja
hiểu được ngụ ý của câu nói đó. Vị trí còn khuyết chỉ thu hút được một ứng viên
duy nhất là Sonja, và cô đã thành công khi cho bọn trẻ đọc Shakespeare.
Cùng thời gian đó, Ove thường xuyên cảm thấy phẫn nộ đến nỗi
thỉnh thoảng Sonja phải yêu cầu anh đi ra ngoài để anh khỏi đập đồ. Cô cực kỳ
đau đớn khi thấy đôi vai anh trĩu nặng với khao khát phá hủy. Tiêu diệt gã tài
xế xe khách. Làm cỏ văn phòng du lịch. Đập tan dải phân cách trên con đường đó.
Hỏa thiêu bọn sản xuất rượu. Tất cả mọi thứ và tất cả mọi người. Đấm tới tấp
cho đến khi mọi gã khốn trên đời biến sạch. Anh chỉ muốn làm điều đó. Anh xả mọi
bực dọc của mình trong lán cất dụng cụ, trong nhà để xe, trong những chuyến tuần
tra. Nhưng đó chưa phải là tất cả. Anh trút giận vào các lá thư. Anh viết cho
chính phủ Tây Ban Nha, các cấp chính quyền Thụy Điển, cảnh sát, tòa án. Nhưng
không ai nhận trách nhiệm. Không ai bận tâm. Họ trả lời bằng cách dẫn ra các
văn bản luật hoặc chỉ sang một cơ quan công quyền khác. Họ viện đủ các lý lẽ.
Khi hội đồng thành phố từ chối xây một con dốc cho cầu thang ngôi trường mà
Sonja đi dạy, Ove đã viết đơn thư suốt mấy tháng trời. Anh tìm cách kiện họ.
Anh nhấn chìm họ với sự uất hận của một người cha mất con.
Nhưng ở khắp mọi nơi, không sớm thì muộn, Ove đều bị chặn lại
bởi những người đàn ông mặc áo sơ mi trắng có vẻ mặt lạnh lùng và trịch thượng.
Không thể đấu lại họ. Họ không chỉ có sự hậu thuẫn của nhà nước, họ chính là
nhà nước. Những lá đơn bị bác cho đến cái cuối cùng, cuộc chiến chấm dứt vì những
chiếc áo trắng đã quyết định như thế. Và Ove không bao giờ tha thứ cho bọn họ về
chuyện đó.
Sonja đã chứng kiến tất cả. Cô hiểu điều gì làm anh đau. Thế
nên cô để mặc anh giận dữ, để cho cơn thịnh nộ được xả ra ở đâu đó, theo cách
nào đó. Nhưng vào một buổi chiều tối tháng Năm, khi tiết trời hứa hẹn một mùa
hè sắp tới, Sonja lăn xe tới chỗ Ove, để lại hai vệt bánh lờ mờ trên lớp ván
sàn. Anh đang ngồi bên bàn bếp viết một lá thư khiếu nại. Cô tước chiếc bút khỏi
tay Ove, đặt tay mình vào đó, và ấn ngón tay vào lòng bàn tay thô ráp của anh.
Cô dịu dàng áp trán vào ngực anh.
- Đủ rồi anh ạ. Không đơn thư khiếu nại gì nữa. Chúng chiếm
hết không gian sống của chúng ta rồi.
Cô ngước mặt lên, nhẹ nhàng vuốt má anh và mỉm cười.
- Như vậy là đủ rồi, anh yêu à.
Và thế là chuyện đó chấm dứt.
Sáng hôm sau, Ove thức giấc lúc bình minh, lái xe đưa Sonja
đến trường, và tự tay xây con dốc dành cho xe lăn mà hội đồng thành phố đã từ
chối tài trợ. Kể từ đó, trong chừng mực mà ông nhớ được, tối nào Sonja cũng về
nhà với ngọn lửa trong đôi mắt và kể ông nghe về những học sinh của mình. Những
đứa trẻ được cảnh sát áp giải đến giao cho nhà trường, nhưng khi ra về, chúng
có thể đọc những vần thơ bốn trăm năm tuổi. Những đứa trẻ khiến bà khóc, cười
và ca hát cho đến khi giọng nói của bà làm rung rinh tấm trần của ngôi nhà nhỏ.
Ove chưa bao giờ hiểu được ngọn ngành câu chuyện về những đứa
trẻ cá biệt đó, nhưng ông rất cảm kích vì những điều mà chúng làm cho Sonja.
Ai cũng cần phải biết họ đang nỗ lực vì điều gì, người ta vẫn
nói như thế. Và bà đã nỗ lực vì những điều tốt. Vì những đứa con mà bà không
bao giờ có được. Còn Ove, ông nỗ lực vì bà.
Bởi lẽ đó là điều duy nhất trên trái đất này mà ông thực sự
biết làm.
24
CÔ BÉ THÍCH VẼ BẰNG MÀU SÁP
Chiếc Saab chở nhiều người đến nỗi ông Ove cứ liên tục nhìn
kim xăng trên đường từ bệnh viện quay về, như thể ông sợ nó sắp nhảy nhót trêu
ngươi mình. Qua gương chiếu hậu, ông trông thấy Parvaneh vô tư đưa cho cô bé ba
tuổi giấy và sáp màu.
- Con bé có nhất thiết phải vẽ trên xe không vậy? - Ông thốt
lên.
- Hay bác muốn nó tăng động và bắt đầu nghĩ cách tháo tung nệm
ghế? - Cô đáp với giọng thản nhiên.
Ove không nói nữa. Ông chỉ quan sát cô bé con qua gương chiếu
hậu. Con bé dứ dứ cây bút sáp màu tím trước mặt con mèo đang ngồi trong lòng mẹ
mình và nói:
- Vẽ đi-i-i-i!
Con mèo nhìn đứa trẻ với ánh mắt cảnh giác cao độ, rõ ràng
nó không muốn trở thành tấm giấy vẽ.
Patrick ngồi giữa họ, cố vặn vẹo thu xếp một tư thế thoải
mái cho cái chân bó bột được anh gác trên chỗ gác tay của hàng ghế trước, Chuyện
đó không dễ dàng, vì anh phải cố hết sức để không làm xê dịch mấy tờ báo mà ông
Ove đã đặt trên ghế ngồi của anh và lót dưới cái chân bó bột.
Cô bé ba tuổi đánh rơi một cây bút sáp. Nó lăn vào gầm của
ghế trước, nơi Jimmy đang ngồi. Trong một động tác xứng đáng là một màn uốn dẻo
đối với người có thân hình to béo như Jimmy, cậu ta đã xoay xở nhặt được cây
bút lên từ tấm thảm dưới chân. Jimmy xem xét nó trong giây lát, rồi mỉm cười và
quay sang vẽ lên lớp bột bó của Patrick một cái mặt cười. Cô bé con ré lên
thích thú khi chứng kiến chuyện đó.
- Cả cậu cũng bắt đầu gây sự hả? - Ông Ove nói.
- Cũng đẹp mà, ông không thấy vậy sao? - Jimmy nhăn nhở cười
và giơ tay lên đánh đập tay với ông.
Ove đảo mắt.
- Xin lỗi ông, tôi hơi quá đà. - Jimmy nói và xịu mặt, đưa
trả cây bút sáp cho Parvaneh.
Một tiếng reng vang lên từ trong túi áo của cậu béo. Jimmy
lôi ra một cái điện thoại to như bàn tay người lớn và lúi húi bấm phím.
- Con mèo của ai thế? - Patrick cất tiếng hỏi.
- Của ông Ove ạ! - Cô bé con trả lời chắc như đinh đóng cột.
- Không phải. - Ove chỉnh ngay.
Ông thấy Parvaneh cười chọc quê mình qua gương chiếu hậu.
- Phải mà. - Cô nói.
- Không phải! - Ông đáp.
Parvaneh bật cười. Patrick ngơ ngác không hiểu chuyện gì. Cô
nàng bầu bí vỗ nhẹ đầu gối anh.
- Anh đừng nghe lời bác Ove. Đây hoàn toàn là con mèo của
bác ấy.
- Nó là một con mèo hoang chết tiệt. Chấm hết. - Ông Ove đáp
trả.
Con mèo ngẩng đầu cố tìm hiểu xem chuyện nhặng xị này là thế
nào, rồi quyết định rằng nó không việc gì phải quan tâm và lại rúc vào lòng
Parvaneh. Hay đúng hơn là vào cái bụng bầu của cô.
- Thế nó không bị tống khứ đi đâu đó à? - Patrick thắc mắc
trong lúc xem xét con mèo.
Con mèo hơi ngóc đầu dậy và rít lên với anh chàng thay cho
câu trả lời.
- Anh nói vậy nghĩa là sao? - Ove hỏi.
- À thì… tới một trung tâm tiếp nhận chó mèo hoang hay gì
đó…
Patrick còn chưa nói hết câu thì ông Ove đã gạt ngang:
- Sẽ không có chuyện đó.
Đến đây thì chủ đề về con mèo kết thúc. Patrick cố không tỏ
ra ngạc nhiên. Parvaneh thì cố nén cười. Nhưng cả hai đều không thành công cho
lắm.
- Chúng ta có thể dừng ở đâu đó để kiếm thứ gì bỏ bụng được
không ạ? - Jimmy vừa nói vừa chỉnh lại lưng ghế, làm chiếc Saab rung lên.
Ông Ove quan sát nhóm người quanh mình như thể ông vừa bị bắt
cóc và đưa tới một thế giới song song. Trong một thoáng ông đã nghĩ tới việc
lao xe ra khỏi con đường, nhưng rồi ông nhận ra kịch bản tồi tệ nhất là tất cả
bọn họ sẽ đi cùng ông sang thế giới bên kia. Nghĩ đến đó, ông giảm tốc độ và nới
rộng khoảng cách giữa xe mình với chiếc xe chạy phía trước.
- Xi! - Cô bé ba tuổi bỗng ré lên.
- Chúng ta dừng xe được không bác? Nasanin cần đi tè. -
Parvaneh vội nói với âm lượng khiến người ta tin rằng băng ghế sau của chiếc
Saab cách xa ghế lái cả trăm mét.
- Phải rồi! Chúng ta có thể tranh thủ thời gian đó để ăn. -
Jimmy gật gù.
- Được đấy. Tôi cũng đang cần đi vệ sinh đây. - Parvaneh
nói.
- Tiệm McDonald’s có nhà vệ sinh đó. - Jimmy loan báo.
- McDonald’s được đấy, chúng ta ghé vào đó đi. - Parvaneh đồng
tình.
- Không, chúng ta sẽ không dừng lại. - Ông Ove nói với giọng
cương quyết.
Parvaneh liếc ông một cái qua gương chiếu hậu. Ông quắc mắt
đáp trả.
Mười phút sau ông đã ngồi trong xe chờ mọi người phía bên
ngoài tiệm McDonald’s. Ngay cả con mèo cũng đi theo họ. Quân phản trắc!
Parvaneh bước ra và gõ vào kính cửa sổ phía ông đang ngồi.
- Bác có chắc là không cần gì cả không đấy? - Cô nhẹ nhàng hỏi
ông.
Ove gật đầu. Cô tỏ ra hơi thất vọng. Ông quay kính xe lên.
Cô đi vòng qua chiếc xe và ngồi phắt vào ghế phụ lái.
- Cảm ơn bác đã dừng xe. - Cô mỉm cười.
- Ờ, không có gì.
Parvaneh lôi khoai tây chiên ra xơi. Ông Ove chồm tới và lót
thêm vài tờ giấy báo trước bụng cô nàng. Cô bật cười. Ông chẳng hiểu gì cả.
- Cháu cần bác giúp một chuyện. - Cô đột ngột nói.
Ove tỏ ra không mấy hào hứng.
- Cháu cần bác giúp cháu qua được kỳ thi lấy bằng lái.
- Cô nói gì kia? - Ông hỏi lại, như thể sợ mình nghe lầm.
Parvaneh nhún vai đáp:
- Patrick sẽ phải bó bột nhiều tháng trời. Cháu cần phải lấy
được bằng lái để có thể chở mấy đứa nhỏ. Cháu nghĩ bác có thể dạy cháu một
chút.
Ove lúng túng đến nỗi ông quên mất mình cần phải tỏ ra bực bội.
- Nói vậy nghĩa là cô không có bằng lái?
- Dạ.
- Tức là đó không phải trò đùa?
- Dạ.
- Cô bị tước bằng à?
- Không hề. Cháu chưa bao giờ có bằng lái cả.
Bộ não của ông Ove dường như cần một chút thời gian để tiêu
hóa toàn bộ dữ liệu mà ông cảm thấy vô cùng khó tin này.
- Nghề nghiệp của cô là gì? - Ông hỏi.
- Chuyện đó thì liên quan gì ở đây ạ?
- Liên quan chứ.
- Cháu làm môi giới nhà đất.
Ông gật đầu.
- Và cô không có bằng lái?
- Dạ.
Ông lắc đầu quầy quậy, như thể đó là đỉnh cao của sự vô
trách nhiệm. Parvaneh lại nở nụ cười trêu chọc trên môi. Cô vo tròn cái túi giấy
đựng khoai, rồi mở cửa xe.
- Ta nhìn sự việc theo cách này nhé: bác có thực sự muốn ai
đó dạy cháu lái xe trong khu dân cư hay không?
Nói đoạn cô bước xuống xe và đi về phía thùng rác. Ove không
nói gì. Ông chỉ hừ mũi.
Jimmy xuất hiện trước cửa tiệm.
- Tôi ăn trong xe được không? - Cậu hỏi trong lúc nhai một
miếng gà.
Lúc đầu Ove định bảo là không, nhưng rồi ông nhận ra cứ cái
đà này họ sẽ không bao giờ lên đường được. Thế là ông trải thêm giấy báo trên
ghế và dưới sàn.
- Cậu lên xe đi, để chúng ta còn đi về. - Ông làu bàu và vẫy
tay gọi Jimmy.
Jimmy nhanh chóng gật đầu. Điện thoại của cậu ta lại phát ra
một tiếng reng.
- Và ngắt ngay cái tiếng đó. Chiếc xe này không phải là bàn
pinball.
- Xin lỗi ông, e-mail công việc cứ dồn dập không lúc nào
ngưng. - Jimmy đáp trong lúc cầm thức ăn bằng một tay và lục tìm điện thoại
trong túi bằng tay kia.
- Thế cậu làm công việc gì? - Ove hỏi.
- Tôi làm ứng dụng cho iPhone. - Jimmy hào hứng đáp.
Ông không biết hỏi gì thêm.
Những người ngồi trên xe khá im lặng trong hành trình mười
phút đi về nhà. Ông Ove đưa xe vào bãi đỗ của khu phố, dừng lại bên cạnh nhà cất
xe đạp, trả số về mo mà không tắt máy, rồi nhìn mọi người với ánh mắt đầy ngụ
ý.
- Không sao đâu bác. Patrick có thể chống nạng đi từ đây về
nhà. - Parvaneh nói với sự mỉa mai không giấu giếm trong giọng điệu.
- Ôtô không được phép chạy vào trong khu dân cư. - Ove đáp.
Không hề phàn nàn, Patrick đưa bản thân và cái chân bó bột
ra khỏi băng ghế sau xe, trong lúc Jimmy lách người chui qua cửa trước với chiếc
áo thun dính đầy mỡ gà.
Parvaneh bế cô bé ba tuổi ra ngoài rồi đặt con xuống đất. Cô
bé vẫy vẫy thứ gì đó, miệng bi bô.
Parvaneh gật đầu, rồi quay lại chỗ chiếc xe và chồm người
qua cửa trước đưa cho ông Ove một tờ giấy.
- Cái gì đây? - Ông hỏi, không mảy may nhúc nhích.
- Bức tranh của Nasanin ạ.
- Tôi phải làm gì với nó?
- Con bé vẽ bác đấy. - Parvaneh đáp, rồi ấn tờ giấy vào tay
Ove.
Ông miễn cưỡng nhìn nó. Bức tranh toàn những nét gạch và
xoáy tròn.
- Đây là Jimmy, đây là con mèo, đây là Patrick và cháu. Còn
đây là bác. - Parvaneh giải thích.
Khi nói câu cuối, cô chỉ vào một hình người ở giữa tờ giấy.
Tất cả những hình vẽ khác đều có màu đen, riêng hình người ở giữa là một sự
bùng nổ thực sự về màu sắc. Nó là một mớ hỗn độn các màu vàng, đỏ, xanh dương,
xanh lá, cam và tím.
- Bác là điều thú vị nhất mà con bé từng biết. Đó là lý do
nó luôn vẽ bác bằng sáp màu.
Ông Ove phải mất vài giây mới định thần và hỏi với theo:
- Cô nói “luôn” là sao?
Nhưng lúc đó tất cả mọi người đã vào trong nhà cả rồi.
Con mèo leo từ phía sau ra và chễm chệ ngồi lên đó. Ông đưa
chiếc Saab vào trong nhà để xe và đóng cửa lại. Ông cho xe về mo mà không tắt
máy, cảm nhận làn khói thải từ từ lấp đầy nhà để xe và liếc nhìn cái ống nhựa
treo trên vách. Trong vài phút, ông chỉ nghe thấy tiếng thở của con mèo và tiếng
rì rì của động cơ. Chuyện này sẽ rất dễ dàng, ông chỉ việc ngồi đó và chờ đợi
điều không tránh khỏi. Nó là thứ duy nhất hợp lý. Ông nhớ bà nhiều đến nỗi có
những lúc ông không thể chịu nổi việc sống tiếp trong thân xác của mình. Nó sẽ
là thứ duy nhất hợp lý, việc ngồi đây cho đến khi làn khói xe ru ông và con mèo
vào giấc ngủ ngàn thu.
Rồi ông nhìn sang con mèo. Và ông tắt động cơ.
Sáng hôm sau, họ thức dậy lúc sáu giờ kém mười lăm. Người uống
cà phê, còn mèo thì ăn cá ngừ hộp. Sau khi kết thúc chuyến tuần tra, ông Ove cẩn
thận dọn tuyết trước cửa nhà mình. Lúc xong việc, ông đứng bên ngoài cửa lán, tựa
người vào chiếc xẻng, và đưa mắt nhìn dãy nhà.
Rồi ông băng qua đường và bắt đầu dọn tuyết phía trước những
ngôi nhà khác.
-----------
Còn tiếp.
-----------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét