Người Đàn Ông Mang Tên Ove
Tác giả: Fredrik Backman
Người dịch: Hoàng Anh
NXB Trẻ - Năm xuất bản 8-2017
11
ANH CHÀNG KHÔNG THỂ MỞ CỬA SỔ MÀ KHÔNG NGÃ KHỎI THANG
Sáu giờ kém mười lăm phút sáng, đợt tuyết đầu tiên của năm tựa
như một tấm chăn lạnh trùm lên những dãy nhà ngái ngủ. Ove lấy áo khoác từ trên
móc xuống và ra ngoài để đi tuần tra như mọi ngày. Nửa ngạc nhiên nửa bất bình,
ông trông thấy con mèo đang ngồi trên tuyết bên ngoài cửa. Có vẻ như nó đã ngồi
đó cả đêm.
Ông dập cửa thật mạnh để đuổi con mèo đi. Nhưng hình như nó
không biết sợ là gì. Thay vì bỏ chạy, nó chỉ ngồi trên tuyết và thè lưỡi liếm bụng,
hoàn toàn vô lo. Ove không thích thái độ đó nơi một con mèo. Ông lắc đầu, dạng
chân đứng trước mặt nó. Con mèo liếc nhanh ông một cái tỏ vẻ không thèm chấp, rồi
lại tiếp tục liếm láp. Ove vung tay dọa nó. Con mèo không buồn nhúc nhích.
- Đây là đất của tao! - Ông thốt lên.
Thấy con mèo vẫn trơ ra, Ove hết kiên nhẫn, và với một động
tác nhanh nhẹn, ông sút một chiếc giày gỗ về phía nó. Không thể nói rằng đó là
một hành động vô ý được. Vợ ông chắc sẽ nổi giận nếu chứng kiến chuyện này, tất
nhiên rồi.
Nhưng chuyện đó không có gì quan trọng, bởi vì con mèo không
buồn nhúc nhích dù chỉ một sợi ria mép. Chiếc giày lượn một đường vòng cung mềm
mại và chệch mục tiêu khoảng một mét rưỡi về bên trái, đập vào tường lán trước
khi đáp xuống mặt tuyết. Con mèo uể oải nhìn chiếc giày, rồi nhìn ông. Cuối
cùng nó đứng dậy, đi vòng qua góc tường của lán cất dụng cụ, mất hút.
Chân mang tất, Ove bước lên tuyết để nhặt lại chiếc giày.
Ông trừng mắt với nó như thể nó nên biết xấu hổ vì đã không nhắm trúng đích.
Sau đó ông trấn tĩnh lại và bắt đầu chuyến đi tuần. Việc ông sẽ chết ngày hôm
nay không có nghĩa là bọn phá hoại sẽ được tự do hành động.
Lúc quay về, ông băng qua tuyết và mở cửa lán dụng cụ. Bên
trong lán có mùi xăng và ẩm mốc đặc trưng. Ông bước qua mấy cái lốp xe mùa hè của
chiếc Saab và dẹp hộp đựng tua vít các cỡ sang một bên. Ông len lỏi tiến đến chỗ
bàn thợ, thận trọng tránh làm đổ hũ xăng trắng mà ông dùng để ngâm cọ sơn. Nhấc
chiếc ghế làm vườn và lò nướng sang một bên, gạt cờ lê chữ thập ra, Ove cầm lấy
cái xẻng xúc tuyết. Ông ướm thử trọng lượng của nó trong tay mình, rồi im lặng
xem xét nó.
Lúc Ove cầm xẻng bước ra khỏi lán, con mèo đã lại ngồi trên
mặt tuyết, ngay phía ngoài nhà. Ông trố mắt nhìn, ngạc nhiên vì sự táo tợn của
nó. Bộ lông của nó đang rỏ nước ròng ròng. Hay đúng hơn là phần còn lại của bộ
lông. Con vật có nhiều mảng da trơ trụi hơn là lông lá. Nó cũng có một vết sẹo
dài chạy từ một bên mắt xuống mũi. Nếu một con mèo có chín mạng thì con mèo này
phải dùng hết bảy, tám mạng rồi cũng nên.
- Biến đi. - Ông thốt lên.
Con mèo quan sát ông già như thể nó đang ngồi ở phía người
tuyển dụng của chiếc bàn phỏng vấn xin việc.
Tay nắm chặt xẻng, ông Ove xúc một ít tuyết và hất về phía
con mèo. Nó lập tức nhảy tránh và giận dữ lườm ông. Nó khạc ra một ít tuyết
trong lúc phun phì phì, rồi quay người bước đi, một lần nữa khuất dạng phía sau
góc lán của ông.
Ove bắt tay vào làm việc. Ông mất mười lăm phút để dọn quang
một lối đi từ ngôi nhà tới chỗ cái lán. Ông làm việc một cách cẩn thận. Những
nhát xẻng thẳng thớm tạo ra gờ tuyết đều đặn. Ngày nay người ta không xúc tuyết
như thế nữa. Họ chỉ dọn bừa một lối đi bằng máy thổi tuyết và những thứ tương tự.
Làm như ở đời chẳng có gì quan trọng hơn việc dấn tới trước bằng mọi cách.
Sau khi làm xong, ông tựa người vào chiếc xẻng cắm trong đống
tuyết cạnh lối đi, quan sát mặt trời mọc lên trên những ngôi nhà say ngủ. Ông
đã thức gần như suốt đêm để nghĩ cách chết. Thậm chí ông còn vẽ một số sơ đồ để
so sánh giữa nhiều phương pháp. Sau khi cẩn thận cân nhắc ưu khuyết, ông đi đến
kết luận rằng cách ông sẽ làm hôm nay là cái dở tệ nhất trong các lựa chọn thay
thế. Nói thực lòng, ông không thích việc để cho động cơ chiếc Saab tiếp tục
tiêu thụ xăng vô ích sau khi ông chết đi, nhưng đó là một yếu tố mà ông buộc phải
chấp nhận nếu muốn xong việc.
Ove cất xẻng trong lán dụng cụ và quay trở vào nhà. Ông lại
khoác bộ com-lê màu xanh biển lên người. Nó sẽ bị vấy bẩn và ám mùi sau khi mọi
chuyện kết thúc, nhưng ông đã quyết định là vợ ông phải chấp nhận điều đó, ít
nhất là lúc ông tới được chỗ bà.
Ove ăn sáng trong lúc nghe đài, rồi rửa sạch các thứ và lau
khô mặt quầy bếp. Ông đi một vòng quanh nhà để kiểm tra những chiếc máy sưởi, tắt
hết đèn đóm, rút dây máy pha cà phê. Khoác áo choàng bên ngoài áo vest, ông xỏ
giày và đi vào lán dụng cụ một lần nữa để lấy một cái ống nhựa dài cuộn tròn.
Ông khóa cửa lán và cửa nhà, vặn thử cả hai cái nắm cửa ba lần. Sau đó ông đi
xuôi theo con đường nằm giữa hai dãy nhà.
Một chiếc Skoda trắng từ bên trái chạy tới làm ông giật mình
suýt ngã vào đống tuyết cạnh lán dụng cụ. Ông đuổi theo chiếc xe, nắm đấm giơ
cao.
- Có biết đọc không hả đồ ngu! - Ove gào lên.
Tài xế chiếc xe, một người đàn ông mảnh dẻ với điếu thuốc
trên tay, dường như đã nghe thấy câu nói đó. Khi chiếc Skoda dừng lại bên cạnh
nhà để xe đạp, ánh mắt họ giao nhau qua lớp kính cửa sổ xe. Người đàn ông nhìn
thẳng vào mắt Ove và quay cửa kính xuống, lông mày nhướng lên, thản nhiên như
không.
- Các phương tiện có động cơ bị cấm đi vào đây! - Ông Ove nhắc
nhở và chỉ về phía biển báo.
Nói đoạn ông tiến đến chỗ chiếc Skoda, hai tay co lại thành
nắm đấm.
Người lái xe thò cánh tay trái qua cửa sổ và hờ hững vẩy tàn
điếu thuốc đang hút. Đôi mắt xanh của anh ta không hề dao động. Anh ta quan sát
ông như người ta nhìn một con thú phía sau hàng rào. Tránh gây hấn và hoàn toàn
dửng dưng. Làm như ông là một vết bẩn mà anh ta có thể tống tiễn bằng một cái
giẻ ướt.
- Có biết đ… - Ông Ove vừa nói vừa tiến lại gần, nhưng người
lái xe đã quay kính lên.
Ông hét toáng với chiếc Skoda, nhưng người tài xế phớt lờ.
Thậm chí anh ta không rồ ga tháo chạy, mà chỉ cho xe lăn bánh về phía cái nhà để
xe rồi ra đường cái, như thể thái độ của ông chẳng liên quan gì đến mình.
Ove đứng chôn chân tại chỗ, điên máu đến mức hai nắm tay run
lẩy bẩy. Sau khi chiếc Skoda mất hút, ông quay người đi theo hướng ngược lại giữa
hai dãy nhà, suýt vấp chân vì vội vã. Phía trước cửa ngôi nhà của Rune và
Anita, nơi chiếc Skoda rõ ràng đã dừng bánh, trên mặt đất còn sờ sờ hai đầu lọc
thuốc lá. Ông nhặt chúng lên như thể đó là manh mối của một vụ án nghiêm trọng.
- Chào anh, Ove. - Giọng nói của Anita vang lên một cách rụt
rè phía sau lưng ông.
Ông quay về phía bà. Anita đang đứng trên thềm nhà, quấn
mình trong một chiếc áo len xám. Chiếc áo tựa hồ muốn níu giữ cơ thể của bà như
đôi bàn tay nắm chặt một bánh xà phòng ướt.
- Vâng, chào chị. - Ông Ove đáp.
- Anh ta là người của hội đồng thành phố. - Anita vừa nói vừa
hất đầu về hướng chiếc Skoda đã đi.
- Xe cộ bị cấm lưu thông vào khu này. - Ông nói.
Bà gật đầu một cách rụt rè.
- Anh ta nói mình có phép đặc biệt của hội đồng thành phố.
- Hắn ta chẳng có cái quái g…. - Ove hét lên, nhưng miệng
ông ngậm lại nửa chừng.
Đôi môi của Anita đang run lên.
- Họ muốn đưa Rune đi.
Ove gật đầu không đáp. Tay ông vẫn đang cầm cái ống nhựa.
Ông đút nắm tay còn lại vào trong túi quần. Trong một thoáng ông định nói gì
đó, nhưng rồi chỉ cụp mắt xuống, quay gót bỏ đi. Đi được vài mét ông mới nhận
ra trong túi mình có hai đầu lọc thuốc lá, nhưng đã quá muộn để xử lý chúng.
Cây sậy tóc vàng đang đứng trên đường. Con chó đần độn của
cô ta cất tiếng sủa điên cuồng ngay khi trông thấy Ove. Cánh cửa ngôi nhà phía
sau lưng họ đang mở, nên ông đoán họ đang đứng đợi kẻ có tên là Anders. Trong
mõm của con chó có một nắm lông, còn chủ nhân của nó thì nhăn nhở cười thỏa
mãn. Ove nhìn cô ta khi đi ngang qua. Cây sậy tóc vàng không ngoảnh đi mà còn
cười rộng miệng hơn, như thể nụ cười đó được dành cho ông.
Lúc đi tới giữa ngôi nhà của mình và nhà của anh chàng cò
hương, ông Ove trông thấy anh ta đang đứng trên ngưỡng cửa.
- Chào bác! - Anh lên tiếng một cách hồn nhiên.
Ông trông thấy cái thang của mình đang dựa vào tường nhà của
anh ta. Rõ ràng hôm nay anh chàng dậy sớm, ít nhất cũng là sớm so với chuẩn của
một chuyên gia công nghệ thông tin. Ove có thể nhận ra một con dao ăn đầu tù bằng
bạc trong tay anh ta. Nhiều khả năng nó sẽ được sử dụng để cạy cánh cửa sổ trên
gác bị kẹt. Chân của chiếc thang mà anh ta sắp trèo lên được dựng vào một đụn
tuyết dày.
- Chúc bác một ngày tốt lành!
- Ờ, ờ. - Ông đáp lại mà không buồn quay mặt khi đi ngang
qua.
Con chó tiếp tục sủa như điên trước cửa nhà Anders. Ove
loáng thoáng thấy chủ nhân của nó tiếp tục đứng cười nhăn nhở, mắt nhìn về hướng
ông. Chuyện đó làm ông khó chịu. Ông không rõ vì sao, nhưng ông cảm thấy khó chịu
tận xương tủy.
Khi tiếp tục đi qua nhà cất xe đạp và tới bãi đỗ xe, ông miễn
cưỡng tự thừa nhận là mình đang ngó quanh tìm con mèo, nhưng không thấy nó đâu
cả.
Sau khi mở cửa nhà để xe của mình, Ove mở khóa chiếc Saab rồi
đứng im, hai tay đút túi quần trong đâu đó chừng nửa tiếng đồng hồ. Ông không
rõ vì sao mình lại làm chuyện này, chỉ biết rằng nó đòi hỏi một sự im lặng
trang nghiêm trước khi được tiến hành.
Ông cân nhắc xem nước sơn của chiếc xe có bị bẩn quá nhiều
sau khi mọi chuyện xong xuôi hay không. Chắc là có. Thật đáng tiếc và đáng xấu
hổ, nhưng đành vậy thôi chứ biết làm sao bây giờ. Ông đá vào lốp xe để kiểm
tra. Chúng ổn cả. Ít nhất cho ba mùa đông nữa, theo ước tính của ông. Nó làm
ông nhớ ngay đến lá thư trong túi áo. Ove rút thư ra để kiểm tra xem mình có để
lại lời dặn dò nào về vụ lốp xe đi mùa hè hay chưa. May mắn là rồi. Nó được viết
trong mục “Chiếc Saab + phụ kiện”. Dòng chữ “lốp mùa hè để trong lán” được kèm
theo những hướng dẫn rõ ràng mà ngay cả một anh khờ bẩm sinh cũng có thể tìm được
nơi cất bộ bu lông bánh xe trong cốp. Ove nhét lá thư vào phong bì và cất nó
vào túi trong áo vest trở lại.
Ông ngoái đầu ra sau để quan sát bãi đỗ xe. Dĩ nhiên ông
không thèm bận lòng vì con mèo vớ vẩn đó. Ông chỉ hi vọng không có chuyện gì xảy
ra với nó, nếu không vợ ông sẽ mắng ông một trận, chắc chắn là thế. Ông chỉ
không muốn cãi cọ vì con mèo đó. Có vậy thôi.
Tiếng còi hụ của một chiếc xe cứu thương vang lên từ đằng
xa, nhưng Ove gần như không nhận thấy. Ông ngồi vào ghế lái, khởi động máy rồi
hạ kính cửa sau xuống một chút. Tiếp đó, ông bước ra đóng cửa nhà để xe, gắn đoạn
ống nhựa vào ống xả của chiếc Saab. Ông quan sát luồng khí thải chầm chậm tuôn
ra từ miệng đoạn ống nhựa, rồi luồn nó qua cửa sau của chiếc Saab. Ông lại ngồi
vào trong xe, đóng cửa lại, chỉnh hai gương chiếu hậu, bật radio, vặn núm dò tới
rồi lui một chút. Ngả người ra lưng ghế, ông nhắm mắt lại, cảm nhận lượng khí
thải lấp đầy từng chút một không gian trong nhà để xe và trong buồng phổi của
mình.
Lẽ ra mọi chuyện đã không như thế này. Họ đã làm việc, trả nợ,
đóng thuế và làm những gì nên làm. Lập gia đình. Bên nhau cả trong những lúc
thuận lợi lẫn khó khăn, cho đến khi cái chết chia lìa, có phải họ đã nhất trí với
nhau như vậy không? Ông vẫn còn nhớ rất rõ. Đáng lẽ bà không phải là người chết
trước. Cái chết ở đây được ngầm hiểu là của ông chứ nhỉ! Không phải vậy sao?
Ove nghe thấy tiếng đập cửa. Ông mặc kệ nó và vuốt phẳng nếp
li quần, quan sát mình trong gương chiếu hậu. Ông tự hỏi liệu mình có nên thắt
một chiếc cà vạt. Bà luôn thích ông thắt cà vạt và xem ông như người đàn ông đẹp
trai nhất trên đời khi ông làm thế. Ông tự hỏi liệu bà có thèm để mắt đến ông
khi ông đoàn tụ với bà trong tư thế của một kẻ thất nghiệp và khoác trên người
bộ com-lê bẩn hay không. Liệu bà có coi ông là một lão ngốc không thể giữ nổi
công việc của mình do khái niệm máy tính không nằm trong từ điển của ông? Liệu
bà có nhìn ông theo cái cách bà vẫn làm, như một người có thể nương tựa? Một
người dám nhận trách nhiệm và sửa được máy sưởi khi cần. Liệu bà có còn thương
yêu ông nhiều như trước không, khi giờ đây ông chỉ là một lão già vô tích sự?
Những cú đập cửa lại vang lên một cách gấp gáp. Ove cau có
nhìn nó. Lại thêm vài cú đập nữa. Ông thở dài ngao ngán.
- Đủ rồi! - Ove quát to, rồi mở cánh cửa chiếc Saab mạnh đến
nỗi làm đoạn ống nhựa văng ra khỏi cửa sau và rơi xuống sàn. Những bụm khói thải
tuôn tràn ra mọi hướng.
Cô nàng ngoại quốc bầu bí rõ ràng đã học được rằng mình
không nên đứng quá gần cánh cửa khi ông Ove là người ra mở. Nhưng lần này cô vẫn
không tránh khỏi bị nó đập vào mặt, vì ông mở cửa quá mạnh.
Trông thấy cô, ông sững người. Cô đưa tay bịt mũi và nhìn
ông với vẻ mặt của một người vừa mới bị cánh cửa nhà để xe giáng thẳng vào mặt.
Khói xe mù mịt tuôn ra, tạo thành một đám mây dày độc hại bao phủ gần nửa bãi đỗ
xe.
- Tôi… cô phải… cô phải để ý khi cửa mở chứ…
- Bác đang làm gì thế này? - Cô nàng hỏi ngay, mắt nhìn chiếc
Saab đang nổ máy và chỗ khí thải tuôn ra từ miệng cái ống nhựa dưới sàn.
- Tôi á? Tôi chẳng làm gì cả. - Ông bực bội đáp, vẻ mặt nom
như chỉ chực đóng cửa lại.
Những giọt chất lỏng màu đỏ xuất hiện nơi mũi cô nàng. Một
tay che mặt, tay kia cô vẫy vẫy ông.
- Cháu cần đi nhờ xe tới bệnh viện. - Cô nói và ngửa đầu ra
sau.
Ông Ove hoang mang ra mặt.
- Gì cơ? Cô bình tĩnh lại đi. Chỉ là máu mũi thôi mà.
Cô văng tục bằng thứ ngôn ngữ mà ông đoán là tiếng Ba Tư, đồng
thời đưa hai ngón tay kẹp chặt sống mũi. Rồi cô lắc đầu quầy quậy, làm những giọt
máu bắn đầy chiếc áo khoác của mình.
- Không phải vì vụ máu mũi!
Ove càng hoang mang tợn. Ông đút hai tay vào túi.
- Không phải thì thôi.
Cô thở hắt ra.
- Anh Patrick bị ngã từ trên thang xuống.
Cô ngửa đầu ra sau để cầm máu nên ông Ove thấy mình nói chuyện
với một chiếc cằm.
- Patrick là ai? - Ông hỏi chiếc cằm.
- Chồng cháu. - Chiếc cằm đáp.
- Anh chàng cò hương à? - Ông hỏi lại.
- Chính xác. - Chiếc cằm xác nhận.
- Và cậu ta bị ngã từ trên chiếc thang xuống? - Ông hỏi lại
cho rõ.
- Vâng. Khi anh ấy mở cửa sổ.
- Ờ, cũng chẳng có gì ngạc nhiên. Tôi đã dự liệu chuyện đó
ngay từ đầu…
Chiếc cằm biến mất, nhường chỗ cho đôi mắt nâu. Trông chúng
không hài lòng chút nào.
- Bác định tranh luận với cháu về chuyện này đấy à?
Ông Ove gãi đầu, hơi bối rối.
- Không, không… nhưng cô không tự mình lái xe được sao?
Trong cái hộp diêm Nhật mà vợ chồng cô lái đến đây hôm nọ ấy? - Ông cố phản
kháng.
- Cháu không có bằng lái xe. - Cô đáp và chùi vệt máu ở môi.
- Cô nói vậy là sao? - Ông hỏi lại như thể câu nói của cô
nàng bầu bí chẳng có ý nghĩa gì cả.
Một lần nữa cô thở hắt ra.
- Này bác, cháu không có bằng lái xe thì có vấn đề gì không?
- Cô bao nhiêu tuổi rồi? - Ông tò mò hỏi lại.
- Ba mươi ạ.
- Ba mươi? Thế mà không có bằng lái xe? Cô bị làm sao à?
Cô nàng rên lên, một tay bít mũi, tay kia búng tanh tách trước
mắt ông.
- Tập trung vào chuyện chính đi bác! Bệnh viện… Bác cần phải
đưa bọn cháu đi bệnh viện.
Ông tỏ ý phản đối.
- Bọn cháu? Cô phải gọi xe cứu thương khi cái người mà cô lấy
làm chồng kia không thể mở cửa sổ mà không ngã khỏi thang…
- Cháu gọi rồi mà! Người ta đã đưa chồng cháu đi bệnh viện rồi.
Nhưng trên xe không có chỗ cho cháu. Và do tuyết, tất cả mọi chiếc taxi trong
thành phố đều bận khách, trong khi xe buýt mắc kẹt ở khắp nơi.
Những tia máu nhỏ đang chảy xuống một bên má của cô nàng bầu
bí. Ông nghiến răng mạnh đến nỗi chúng kêu kèn kẹt.
- Đừng có đặt niềm tin vào mấy cái xe buýt chết tiệt đó. Bọn
tài xế toàn là những đứa say xỉn tối ngày. - Ông lẩm bẩm trong khi hạ cằm như
thể muốn giấu lời nói của mình vào cổ áo.
Có thể cô đã nhận ra vẻ mặt của ông biến sắc khi nghe nhắc tới
hai chữ “xe buýt”. Mà cũng có thể không. Dù sao thì cô cũng gật đầu, tưởng như
xác nhận chuyện đó.
- Vâng, thế nên bác mới phải cho bọn cháu đi nhờ xe.
Ove thu hết can đảm để trỏ tay vào cô nàng một cách đe dọa.
Nhưng ông cảm thấy nó không đủ sức thuyết phục như ông mong đợi.
- Phải là phải thế nào? Xe tôi không phải là phương tiện vận
chuyển công cộng!
Nhưng cô nàng bầu bí chỉ bóp mũi mạnh hơn và gật gù, tựa như
không hề nghe thấy câu ông vừa nói. Tay còn lại của cô chỉ vào trong nhà để xe,
về phía đoạn ống nhựa đang phả những đám khói ngày một dày đặc trên mặt sàn.
- Cháu không có thời gian tranh cãi với bác nữa. Bác chuẩn bị
lên đường nhé. Cháu sẽ đi gọi bọn trẻ.
- BỌN TRẺ? - Ove lớn tiếng hỏi lại, nhưng không nhận được
câu trả lời.
Cô nàng bầu bí đã lạch bạch bỏ đi về phía các dãy nhà trên
đôi chân quá nhỏ so với cái bụng bầu, khuất dạng sau góc tường của nhà cất xe đạp.
Ove đứng nguyên tại chỗ, như thể chờ đợi ai đó đuổi theo cô
ta và bảo rằng ông chưa nói hết. Nhưng không có ai làm chuyện đó cả. Ông chống
hai nắm tay vào thắt lưng và liếc nhìn cái ống nhựa dưới sàn. Ông hoàn toàn
không chịu trách nhiệm nếu ai đó không thể đứng nổi trên cái thang mà họ mượn của
ông. Nhưng đương nhiên Ove vẫn nghĩ đến điều mà vợ ông sẽ bảo ông làm trong
hoàn cảnh này, nếu bà có mặt ở đây. Và nó quá hiển nhiên rồi, ông buồn rầu nhận
ra.
Cuối cùng, ông tiến lại chỗ chiếc xe và dùng chân đá văng
cái ống nhựa ra khỏi ống xả. Ông ngồi vào xe, kiểm tra gương chiếu hậu, sang số
rồi đưa xe ra ngoài. Không phải ông bận tâm đến việc cô nàng nước ngoài kia có
đến được bệnh viện hay không. Chẳng qua ông biết mình sẽ bị vợ mắng mỏ không tiếc
lời nếu như việc cuối cùng ông làm trong đời là làm chảy máu mũi một phụ nữ
mang bầu rồi từ chối chở cô ta đi bệnh viện.
Và vì đằng nào chỗ xăng này cũng sẽ bị dùng hết, ông hoàn
toàn có thể đưa cô ta đến đó rồi quay về. Có lẽ khi đó cô ta sẽ để mình yên,
Ove nghĩ bụng.
Nhưng ông đã nhầm.
12
(NGÀY TRƯỚC)
CÁI NGÀY ÔNG CHÁN NGÁN TẤT CẢ
Người ta hay nói ông và vợ giống như ban đêm và ban ngày. Dĩ
nhiên ông thừa hiểu mình là ban đêm. Chuyện đó với ông chẳng thành vấn đề. Ngược
lại, vợ ông luôn tỏ ra thích thú nếu nghe người ta nói như thế, bởi lẽ khi đó
bà có thể khúc khích cười và bảo người ta so sánh ông với ban đêm chỉ vì ông
keo kiệt đến nỗi không muốn bật mặt trời lên.
Ông không bao giờ hiểu được vì sao bà chọn ông. Bà toàn yêu
những thứ trừu tượng như âm nhạc, sách vở và những từ ngữ xa lạ. Ông chỉ thích
những gì cụ thể. Ông thích những chiếc tua vít và cái lọc dầu. Ông đi qua cuộc
đời với hai bàn tay đút túi. Trong khi bà nhún nhảy.
“Anh chỉ cần một tia sáng để xua tan bóng tối?”. Có lần bà
đã nói với ông như thế khi ông hỏi vì sao bà lúc nào cũng tươi tỉnh.
Trong một cuốn sách của bà, hình như một thầy tu tên là
Francis đã viết như vậy.
“Anh không lừa được em đâu, cưng à”, bà nói với một nụ cười
mỉm tinh nghịch và ngả vào vòng tay đồ sộ của ông. “Anh nhảy nhót mừng rỡ trong
bụng khi không bị ai quan sát. Và em luôn yêu anh vì điều đó. Cho dù anh có
thích nó hay không?”
Ove không hiểu lắm hàm ý của bà. Ông chưa bao giờ là người
thích khiêu vũ. Nó có vẻ quá ngẫu nhiên và làm ông nhức đầu. Ông thích những đường
thẳng và các quyết định rõ ràng. Cũng vì thế mà ông luôn thích toán. Với toán học,
chỉ có đáp án đúng hoặc sai. Không giống như những môn học phù phiếm khác mà
người ta nhồi nhét cho ông ở trường, những môn mà “bạn phải bảo vệ luận điểm của
mình”. Như thể đó là cách để chốt lại các cuộc tranh luận: ai nhiều chữ hơn,
người ấy thắng. Ove chỉ muốn cái gì đúng là đúng, cái gì sai là sai.
Ove thừa biết nhiều người cho rằng ông chỉ là một lão già dở
hơi khó chịu không tin tưởng ở con người. Nhưng nói nào ngay, chuyện đó cũng vì
người ta không bao giờ cho ông cơ hội để nghĩ khác đi.
Bởi lẽ đến một lúc nào đó trong đời, một người đàn ông phải
quyết định anh ta sẽ trở thành loại người nào: loại người tử tế chấp nhận để
người khác đè đầu cưỡi cổ, hoặc ngược lại.
Ove ngủ trong chiếc Saab sau vụ hỏa hoạn. Sáng đầu tiên, anh
cố dọn dẹp giữa đống tro bụi và tàn tích của đám cháy. Buổi sáng thứ hai, anh buộc
phải chấp nhận rằng chuyện đó sẽ không đi đến đâu. Ngôi nhà đã mất, và cùng với
nó là mọi công sức anh đã đổ vào đó.
Vào buổi sáng ngày thứ ba, hai người đàn ông mặc cùng kiểu
áo sơ mi trắng như ông đội trưởng đội cứu hỏa xuất hiện. Họ đứng trước cổng nhà
Ove, rõ ràng không mảy may xúc động với cảnh điêu tàn trước mắt. Họ không nói
tên, cũng không nhắc đến tên cơ quan công quyền mà họ đại diện. Làm như họ là
hai con robot được một con tàu vũ trụ thả xuống vậy.
- Chúng tôi đã nhiều lần gửi thư cho anh. - Một trong hai
chiếc áo sơ mi lên tiếng, tay giơ ra một xấp giấy tờ.
- Rất nhiều thư. - Chiếc áo thứ hai đế thêm, tay hí hoáy ghi
chép vào một cuốn sổ.
- Anh không bao giờ hồi đáp. - Người thứ nhất nói với giọng
mà người ta dùng để quở mắng một chú cún.
Ove chỉ đứng im, thách thức.
- Rất không may, chuyện này. - Người thứ hai nói, hất đầu về
nơi từng là nhà của Ove.
Anh gật đầu.
- Đội cứu hỏa cho biết nguyên nhân của nó là một sự cố vô hại
về điện. - Người thứ nhất nói với giọng đều đều và chỉ vào một tờ giấy trên
tay.
Ove những muốn phản đối việc ông ta dùng hai chữ “vô hại”.
- Chúng tôi đã gửi thư cho anh. - Người thứ hai vung vẩy cuốn
sổ. - Địa giới hành chính của khu vực này đang được vẽ lại.
- Mảnh đất nơi ngôi nhà của anh tọa lạc sẽ được quy hoạch
thành những dự án xây dựng mới.
- Mảnh đất nơi ngôi nhà của anh từng tọa lạc. - Đồng nghiệp
của ông ta chỉnh lại.
- Hội đồng thành phố sẵn sàng mua lại mảnh đất của anh với
giá thị trường. - Người đầu tiên cho biết.
- Tức là giá thị trường của đất không có công trình xây dựng.
- Người kia giải thích.
Ove cầm lấy chỗ giấy tờ và bắt đầu xem xét.
- Anh không có nhiều lựa chọn đâu. - Người đầu tiên nói.
- Quyền lựa chọn cũng không nằm trong tay anh. - Người còn lại
bồi thêm.
Người thứ nhất sốt ruột gõ gõ cây bút và chỉ vào dòng chữ ở
cuối tờ giấy, nơi ký tên của người bán đất.
Ove đứng trước cổng nhà mình, im lặng đọc tờ giấy. Anh cảm
thấy một cơn đau trong ngực, nhưng phải mất một lúc rất, rất lâu mới hiểu ra nó
là gì.
Sự căm thù.
Anh căm thù những người đàn ông mặc áo trắng kia. Ove không
nhớ trước đó có từng căm thù ai bao giờ hay chưa, nhưng lúc này nó giống như một
quả cầu lửa trong anh. Bố mẹ anh đã mua căn nhà này. Anh đã lớn lên ở đây, bước
những bước đầu đời ở đây. Và trong khu vườn này bố đã dạy anh mọi thứ cần biết
về động cơ của chiếc Saab. Thế nhưng sau tất cả, một người của chính quyền
thành phố đã quyết định xây một thứ gì khác tại đây. Một người đàn ông có khuôn
mặt tròn đã bán bảo hiểm lừa đảo. Một người mặc áo sơ mi trắng đã ngăn anh dập
lửa, và giờ đây hai người mặc áo trắng khác đến đề nghị một mức “giá thị trường”.
Nhưng Ove thật sự không còn lựa chọn. Dù anh có đứng đó đến
khi mặt trời ló dạng hoàn toàn thì cũng chẳng làm thay đổi được tình hình. Vậy
nên anh ký tên vào tờ giấy. Trong lúc bàn tay còn lại co thành nắm đấm trong
túi quần.
Ove đi khỏi mảnh đất nơi từng có ngôi nhà của bố mẹ mà không
hề ngoảnh lại. Anh thuê một căn phòng nhỏ trong phố từ một bà già, và ngồi cả
ngày trong đó, ngán ngẩm nhìn bức tường. Đến tối, anh đi làm vệ sinh các toa
tàu. Sáng hôm sau, thay vì sử dụng phòng thay đồ thường lệ, anh và những người
công nhân khác được gọi về trụ sở chính để nhận quần áo làm việc mới.
Khi Ove đang đi trên hành lang thì chạm mặt Tom. Đó là lần đầu
tiên hai người nhìn thấy nhau kể từ vụ ăn trộm tiền trên toa tàu. Một người đỡ
chai mặt hơn Tom chắc đã tránh không nhìn vào mắt Ove, hoặc vờ như biến cố đó
chưa bao giờ xảy ra. Nhưng Tom là một kẻ chai mặt.
- A, thằng ăn cắp đây rồi! - Tom la lớn và nở nụ cười thách
thức.
Ove không đáp. Anh tìm cách đi qua, nhưng bị nhận một cú
thúc cùi chỏ từ một trong số các nhân viên đàn em của Tom. Anh ngước lên nhìn.
Thằng nhóc đó đang mỉm cười ngạo nghễ.
- Mọi người cẩn thận tiền nong nhé, ở đây có một thằng ăn cắp
đấy! - Tom nói to đến mức giọng nói của hắn vang vọng khắp hành lang.
Một tay Ove nắm chặt chồng quần áo của mình, tay kia co lại
thành nắm đấm trong túi quần. Anh bước vào phòng thay đồ trống không, cởi bộ quần
áo bảo hộ cũ, tháo chiếc đồng hồ móp méo của bố và đặt nó xuống băng ghế. Khi anh
quay người đi sang phòng tắm thì Tom xuất hiện trên ngưỡng cửa.
- Bọn tao đã nghe được về đám cháy. - Hắn nói.
Ove nhận ra Tom không chờ nghe anh đáp lại.
- Bố mày chắc phải tự hào lắm! Thậm chí ông ta cũng không vô
dụng đến mức làm cháy trụi ngôi nhà của mình! - Tom nói với theo Ove khi anh bước
vào buồng tắm.
Ove nghe thấy tiếng đám công nhân trẻ cười ha hả với nhau.
Anh nhắm mắt, tì trán vào tường, để cho dòng nước nóng chảy qua người mình. Anh
cứ đứng như thế trong hơn hai mươi phút. Đó là lần anh tắm lâu nhất.
Lúc Ove quay ra, chiếc đồng hồ của bố đã biến mất. Anh lục
tung đống quần áo trên băng ghế, tìm kiếm dưới sàn, rà soát các tủ đựng đồ.
Đến một lúc nào đó trong đời, một người đàn ông phải quyết định
anh ta sẽ trở thành loại người nào. Loại người tử tế chấp nhận để người khác đè
đầu cưỡi cổ, hoặc ngược lại.
Có thể là do Tom đã đổ thừa cho anh vụ trộm tiền trên tàu.
Có thể là do vụ hỏa hoạn, tay nhân viên bán bảo hiểm lừa đảo, hoặc những gã mặc
áo sơ mi trắng. Hoặc cũng có thể là mọi việc trở nên quá sức chịu đựng với anh.
Lúc ấy giống như có ai đó đã tháo một cái cầu chì trong đầu Ove. Mọi thứ trong
mắt anh tối hẳn đi. Ove bước ra khỏi phòng thay đồ, người vẫn trần như nhộng và
nước còn nhỏ ròng ròng trên những khối cơ bắp gồng cứng. Anh đi hết hành lang,
tới phòng thay đồ của các quản đốc, đá tung cửa, và lách qua đám đàn ông kinh
ngạc trong đó. Tom đang đứng tỉa râu trước một tấm gương ở cuối phòng. Ove nắm
lấy vai hắn ta và gào lên lớn đến nỗi làm các vách tường ốp kim loại rung rinh.
- Trả cái đồng hồ cho tôi!
Với vẻ mặt bề trên, Tom nhìn xuống khuôn mặt của Ove. Thân
hình đen trũi của hắn trùm lên anh như một bóng ma đe dọa.
- Tao không có…
- TRẢ NÓ ĐÂY! - Ove cắt ngang khi Tom chưa nói hết câu với một
giọng mạnh mẽ đến độ những người đàn ông khác cũng phải dạt ra xa.
Chỉ một giây sau đó, áo khoác của Tom đã bị giật phăng với một
lực mạnh tới nỗi hắn ta thậm chí không nghĩ đến việc phản kháng. Hắn chỉ đứng
đó như một đứa trẻ bị phạt, trong lúc Ove lôi chiếc đồng hồ của mình ra từ
trong túi áo.
Rồi Ove đánh Tom. Chỉ một cú duy nhất. Như vậy cũng đủ để hắn
đổ gục xuống như một bao bột. Khi cơ thể nặng nề của hắn chạm sàn thì Ove đã
quay gót bỏ đi rồi.
Mọi người đàn ông đều có một thời điểm quyết định anh ta sẽ
trở thành loại người như thế nào. Và nếu không biết chuyện, bạn sẽ không hiểu
được anh ta. Tom được đưa tới bệnh viện. Người ta liên tục hỏi hắn ta về chuyện
đã xảy ra, nhưng Tom chỉ hấp háy mắt và lẩm bẩm nói là mình bị trượt chân. Lạ một
điều là tất cả những người có mặt tại phòng thay đồ bỗng dưng không thể nhớ được
sự việc đã xảy ra.
Đó là lần cuối Ove gặp Tom. Và anh cũng quyết định rằng đó
là lần cuối anh để cho người ta chơi xỏ mình.
Ove tiếp tục làm lao công ca tối, nhưng không đi làm ở công
trường xây dựng nữa. Anh không còn căn nhà nào để cải tạo, và dù sao thì những
người thợ xây cũng không còn gì để truyền dạy cho anh nữa. Hôm chia tay, họ tặng
anh một thùng đồ nghề. Lần này là những dụng cụ mới tinh. “Tặng nhóc. Để xây thứ
gì đó bền vững”, họ đã viết như vậy trên mảnh giấy đính kèm.
Ove không có việc gì phải dùng đến thùng đồ nghề, nên anh
xách nó đi vơ vẩn trong vài ngày, cho đến khi bà già chủ nhà động lòng thương
đi tìm những thứ quanh nhà cho anh sửa chữa. Cả hai nhờ vậy cũng được bình an
phần nào.
Cuối năm đó, Ove đăng ký nghĩa vụ quân sự. Anh đạt điểm số
cao nhất có thể trong mọi bài kiểm tra thể lực. Người sĩ quan tuyển quân rất
quý mến chàng trai ít nói và khỏe như gấu, ông ta bảo anh nên cân nhắc việc trở
thành người lính chuyên nghiệp. Ove thấy đó là một ý hay. Người lính được mặc
quân phục và tuân theo các mệnh lệnh. Tất cả đều biết chuyện mình làm. Ai cũng
có phận sự. Ove cảm thấy mình có thể làm một anh lính giỏi. Lúc đi xuống cầu
thang để đi khám sức khỏe bắt buộc, lần đầu tiên sau nhiều năm anh cảm thấy nhẹ
nhõm trong lồng ngực. Dường như anh đã tìm được một mục đích sống. Một mục
tiêu. Một con đường để đi.
Niềm vui của anh kéo dài không quá mười phút.
Người sĩ quan tuyển quân đã thông báo với anh rằng việc khám
sức khỏe chỉ mang tính thủ tục. Nhưng khi chiếc ống nghe chạm vào ngực Ove, người
bác sĩ nghe thấy một âm thanh lẽ ra không nên có. Họ gửi anh tới chỗ một bác sĩ
trong thành phố. Một tuần lễ sau, người ta thông báo rằng tim anh bị một dị tật
bẩm sinh hiếm gặp, và được miễn trừ nghĩa vụ quân sự. Ove gọi điện và viết thư
phản đối. Anh đi khám ba bác sĩ khác với hi vọng đó chỉ là sai sót trong chẩn
đoán, nhưng hoài công.
“Quy định là quy định”, người đàn ông mặc sơ mi trắng trong
văn phòng tuyển quân đã nói như thế vào lần cuối cùng Ove tới để khiếu nại. Anh
thất vọng đến nỗi không buồn đợi xe buýt mà đi thẳng tới ga xe lửa. Lúc ngồi
trên sân ga, anh cảm thấy chưa bao giờ chán nản như vậy kể từ khi bố mất.
Vài tháng sau, anh sẽ đi cùng người phụ nữ mà định mệnh dành
cho anh trên cùng sân ga ấy, nhưng lúc này anh chưa hề có ý niệm gì về chuyện
đó.
Ove quay lại với công việc dọn dẹp trên các chuyến tàu, và
trầm lặng hơn bao giờ hết. Bà chủ nhà ngán ngẩm bộ mặt ủ dột của anh đến nỗi phải
thu xếp cho anh thuê một gara gần đó. Theo bà thì xét cho cùng anh còn có chiếc
xe để mày mò, nên biết đâu chuyện đó có thể làm anh khuây khỏa.
Sáng hôm sau, Ove tháo rời từng mảnh chiếc Saab của mình
trong gara. Anh lau chùi từng bộ phận rồi lắp chúng lại với nhau để xem mình có
làm được hay không. Và cũng để có việc mà làm. Sau khi lắp ráp xong, anh bán
chiếc Saab với một mức giá có lãi và mua một chiếc Saab mới hơn, dù vẫn là đời
93. Việc đầu tiên anh làm là tháo rời nó. Để xem mình có làm được hay không. Và
anh đã làm được.
Cuộc sống của anh trôi qua như thế, chậm rãi và đều đặn. Thế
rồi vào một buổi sáng, anh trông thấy cô. Cô có mái tóc nâu, đôi mắt xanh, đi
giày đỏ và có một cái kẹp tóc lớn màu vàng trên đầu.
Và cuộc sống của Ove không còn bình lặng nữa.
------------
Còn tiếp.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét