Paul Loup Sulitzer
Tiền! Niềm vui sướng
Người dịch: Phương Hà, Thái Vũ
Phần III - Những người ở Bahamas
1
Ngày 26 tháng 9, đúng hai mươi hai tháng sau khi bị Alfred
Morf áp giải ra khỏi London, tôi đến đến Nassau. Kể từ chuyến tháng hai vừa rồi,
chuyến gặp Catherine, đây là chuyến thứ hai.
Ở Nassau, tôi gặp gã Thổ, cô Ute, bảy tám ả cởi truồng đầy sức
quyến rũ và tất cả. Gã Thổ hôn tôi (lên má), Ute hôn tôi (lên môi). Ôm hôn tất
cả. Chàng béo nũng nịu:
- Cậu đến thật đúng lúc. Bọn mình từ Hampstead đến được năm
sáu ngày rồi. Chắc cậu thấy tức cười, nhưng quả thật những cây cọ này, ánh nắng
này làm bọn mình chán ứ tận cổ. Hampstead khoái hơn. Với lại ở chỗ khỉ ho cò
gáy mà muốn theo dõi trường đua Longchamp hay Epsom, có lẽ phải tậu riêng một vệ
tinh cá nhân.
Gã Thổ nổi lềnh bềnh như con cá nhà táng ngủ trưa trong chiếc
bể bơi gã thuê mướn cho thời gian lưu lại đây - cùng với ngôi nhà bốn chục
phòng liền với bể bơi.
- Mình đã chứng kiến cậu hành hạ Landau như thế nào. Ác thật,
suýt nữa thì mình thấy thương hại nó.
Tôi chỉ nói: “Ha! ha!”. Gã Thổ bật cười. Tôi bảo.
- Cậu nhiều tình thương vừa bằng con cá sấu.
- Cá sấu thì có gì xấu? Thôi được, bọn con gái xéo hết ngay
để người ta bàn chuyện nghiêm chỉnh. Bắt đầu chứ Franzy?
- Đừng gọi mình là Franzy.
- Ute chả gọi thế là gì?
- Cậu không phải Ute.
- Ừ, chỉ nhìn cũng biết. Bàn chứ?
- Thì bàn. Cậu gặp Lavater chưa?
Đôi mắt đen dịu dàng như nhung của gã Thổ nhìn tôi.
- Gặp rồi. Tay rất thông minh. Ranh ma là khác. Giống hệt
mình, nói thế là đủ. Gã nói hết với mình, tất cả những gì mình cần biết, theo
gã. Cậu muốn biết ý kiến của mình không?
- Không cần.
- Hai cậu sẽ bị đòn đau. Kế hoạch của các cậu thật điên rồ.
Không một chút hy vọng...
- Cậu chịu chơi không?
- Thì tớ đang ở đây thôi.
- Zarra đâu?
- Tại đây, không xa. Đầy vệ sĩ mang khí giới, trang phục chỉnh
tề. Mắt trợn trừng trợn trạc, dữ tợn.
- Cậu nói với hắn chưa?
- Trên điện thoại, rồi đến tận nhà tuy sợ dúm đít. Hắn nhận
gặp cậu.
Tôi ngắm thân hình đồ sộ đẹp tuyệt trần của Ute đang nằm ngửa
trên thành bể bơi cách chỗ chúng tôi hai mét. Gã Thổ cười khẽ:
- Thích không?
Tôi lắc đầu, nhìn giữa hai gò vú, thấy Ute nháy mắt với tôi:
- Được chứ anh bạn?
- Được lắm Ute.
- Franz này, - gã Thổ tiếp. - Cho qua thôi. Cậu khùng mất rồi.
Bản thân tay Zarra đã nguy hiểm. Những thằng sau lưng hắn còn nguy hiểm hơn. Đừng
đùa với chúng.
* * *
Bên tay phải: Robert Zarra.
Ngay từ đầu, là một tay kinh doanh tiền tệ khá vững. Khi tới
đích, đã thành tên đạo chích lớn nhất của mọi thời đại. Những tên đút túi được
hai trăm triệu đôla như hắn không có nhiều. Một cách công khai và hoàn toàn
không bị trừng phạt.
Sự việc bắt đầu năm 1958 ở Geneva. Một gã người New York gốc
Ấn Độ đến sinh cơ lập nghiệp bên hồ Léman với kế hoạch nhận tiền gửi của binh
sĩ Mỹ đồn trú ở Châu Âu - do đó họ được những phụ cấp khá hậu - đưa về Mỹ đầu
tư. “Khi về nước các bạn sẽ giàu có, đừng làm giàu cho bọn điếm bên này”. Nghe
xuôi tai, ăn khách. Đến năm 1966 gã New York gốc Ấn Độ đã quản lý sáu trăm triệu
franc Thụy Sĩ. Tiền gửi tiếp tục ùa tới. Hễ thị trường chứng khoán New York có
khuynh hướng tăng giá thì cổ phiếu của công ty đầu tư cũng tăng giá theo vì giá
cổ phiếu này là giá bình quân của các cổ phiếu Mỹ mà công ty nắm dưới danh
nghĩa các binh sĩ Mỹ. Khi đó, gã New York Ấn Độ phất to. Nhưng đến khi thị trường
chứng khoán bắt đầu xuống giá thì công việc cũng bắt đầu xấu đi; nó trở nên tồi
tệ khi các chi phí kinh doanh vượt quá khoản tiền hoa hồng nhận được từ các cổ
đông mới. Đã thế, các ngân hàng Thụy Sĩ cũng không khoái anh chàng gốc Ấn này,
chẳng bao lâu sau anh ta bắt đầu thấy khó làm ăn. Anh trao tay “đứa bé” (theo
tiếng lóng trong ngành) cho người khác. Người ấy là Robert Zarra.
Khi Zarra tiếp nhận ngôi kế vị, công ty đầu tư vẫn có cơ cứu
được. Có lẽ lúc đầu Zarra cũng nghĩ đến chuyện đó, nhưng chắc không lâu. Gã
nghĩ ra cách hay hơn: Nói một cách hình tượng thì gã nhét vào vali số hai trăm triệu
đôla tồn quỹ và đánh bài chuồn. Hoa Kỳ ngạc nhiên, coi đó là chuyện xấu xa, kết
án vắng mặt Robert Zarra hai mươi năm tù. Gã cóc sợ. Gã đã tìm sẵn chỗ dung
thân ở quần đảo Bahamas, chính xác hơn là Nassau, chính xác hơn nữa là Paradise
Island, xưa kia là hòn đảo nhỏ về sau nối liền với Nassau bằng chiếc cầu thu tiền
vãng lai. Ở đây nhan nhản sòng đỏ đen, một số nằm trong tay thành thạo của
Mafia Bắc Mỹ. Zarra thừa biết điều đó (cũng như tất cả mọi người) và kế hoạch của
gã cũng đơn giản thôi: Tiêm một phần số hai trăm triệu đôla vào nền kinh tế
Mafia, để mua sự che chở và giúp đỡ mọi mặt, khỏi bị ganh ghét, bị các loại cảnh
sát rình rập, qua mặt được cả hải quan, biên phòng, thuế vụ, ngân hàng, đội
quân cứu thế... tất cả những kẻ săn tìm gã, mơ tóm được gã, và vì từ Nassau đến
bờ biển Florida không xa mấy, nên tất cả những kẻ đó đều như đứng ở bên kia đường
mà tức tối nhòm gã qua những chiếc ống nhòm. Tóm lại: Zarra ở tay phải tôi.
Bên trái là John Hovius, chính thức quê ở Buenos Aires, trên
lý thuyết là người có quốc tịch Argentina, và James Donaldson, chính thức và thật
sự là công dân Anh quê ở Glasgow hoặc gần đấy. Chúng được đánh số Năm và Sáu
trên danh sách của tôi. Sai, đáng lẽ phải xếp hai đứa đồng hạng. Có một điều khẳng
định dứt khoát về hai tên này: Nếu là chuyện xảy ra như vậy với Landau, có thể
tôi còn tạm có đôi tí ân hận về những điều đã gây nên. Còn với hai tên này, khi
biết chúng đã tự sát tôi vẫn nằm ngủ với lương tâm hoàn toàn yên ổn.
Cả hai đều đã từng là cộng tác viên đắc lực của bố tôi. Hồ
sơ của chúng đang ở trước mắt, tôi đọc lại do thói quen hơn là do cần thiết vì
tôi thuộc làu từng dòng một, có thể đọc thuộc lòng như đọc thơ ngụ ngôn. Năm 1946
gặp bố tôi, Hovius tròn hai mươi mốt tuổi. Bố tôi để ý khi hắn còn giữ chân tiếp
khách trong một khách sạn Paris. Lúc ấy hắn đã nói được tám thứ tiếng, thuộc
làu giá cả trên thị trường chứng khoán từ sau thế chiến. Bố tôi thuyết phục hắn
bỏ kỹ nghệ khách sạn, gửi hắn sang Thụy Sĩ rồi sang Hoa Kỳ, đài thọ mọi chi
tiêu của hắn trong hai năm liền, với điều kiện duy nhất: Hắn phải học kinh
doanh rồi về làm phó cho bố tôi. Thỏa thuận được thực hiện. Sáu năm sau, năm
1951, Hovius được giao trách nhiệm trông coi các công việc quan trọng của nhóm
Cimballi bên Châu Mỹ La Tinh, lương lậu gấp năm lần số tiền lương nếu hắn được
làm giám đốc khách sạn George. Khi bố tôi qua đời, bằng một trò ảo thuật tài
tình, hắn dường như không bao giờ gặp Andrea Cimballi, thậm chí không biết đến
cả tên ông và trở thành người nắm bốn mươi phần trăm cổ phần của các công ty Nam
Mỹ.
Bốn chục phần trăm trong tay Hovius, hai chục phần trăm
trong tay ngân hàng tư nhân Martin Yahl, phần thứ ba của chiếc gatô Mỹ La Tinh
rơi vào tay James Donaldson. Một gã người Scotland, luật gia có nòi. Dáng điệu
luật gia Scotland đậm đặc đến mức nó thành thứ đồ ngụy trang. Tôi nắm nhiều tấm
ảnh chụp hắn: Bắt tay Ugo Banzer nhà độc tài Bolivia, khoác tay tướng
Stroessner, Godoy đảng viên đảng dân chủ Paraguay khá nổi tiếng. Nhìn bên
ngoài, đó là Abraham Lincoln trừ nụ cười, khiến người ta kính nể và tin cậy
thay cho buồn cười. Bố tôi tin đến mức biến hắn thành cánh tay phải, trao cho hắn
một bản sao chứng thư ủy quyền để nếu chẳng may gặp nguy biến hắn có thể minh
chứng: Bố tôi là chủ nhân đích thực và duy nhất của tập đoàn Curacao. Gã
Scotland trung thực đã thiêu hủy hết mọi thứ giấy tờ được giao phó, đút tiền phần
được chia. Hắn không chỉ là kẻ nghe theo lời xúc xiểm phản bội của Martin Yahl
mà có lẽ còn là kẻ đã khơi mào sự phản bội đó. Hắn không hề áy náy khi đồng lõa
với nó, đã chiếm đoạt nhiều của cải và quyền lực đến nỗi, theo lời Lavater, sớm
muộn hắn sẽ dược Nữ Hoàng phong tước. Nhục thay kẻ có Ác Ý!
Vậy bên trái tôi là Hovius, Donaldson và bên phải Zarra, giữa
với chúng là tôi.
* * *
Sau nhiều đêm thức trắng nghiền ngẫm báo cáo của các nhân
viên điều tra do Lavater hối thúc viết ra, tôi trình bày với anh ta ý định tôi
rút ra từ các báo cáo này. Anh ta nhún vai: “Không ổn” - “Ok, vậy anh nghĩ hộ
cái khác đi”. Hai chúng tôi gần như cãi nhau. Nhưng lúc đó, trong lòng tôi cơn
say dữ dội và vui vẻ ở đường Old Brompton bùng lên mãnh liệt hơn bao giờ hết.
Hơn nữa, không chỉ có riêng đòi hỏi thỏa mãn hận thù và căm ghét mà còn có đòi
hỏi tự khẳng định mình. Một đòi hỏi đơn giản, bây giờ tôi mới nhận ra.
Tôi hỏi Lavater:
- Anh tin chắc vào những điều ta đã nắm được?
- Dám đánh cuộc. Nhưng chỉ dựa vào đó mà đẩy cho một bên là
Zarra và bên kia là Hovius và Donaldson choảng nhau! Chúng không biết nhau, trừ
Donaldson và Zarra chắc đã có lần gặp nhau.
- Chúng sẽ choảng nhau. Tôi đảm bảo chúng nó sẽ nện lên đầu
nhau.
- Còn do các sự kiện chính trị chúng ta cần có xảy ra hay
không.
- Đây chính là dấu hỏi cuối cùng đối với chúng ta: Ngày xảy
ra sự kiện ta mong muốn. Nhưng nhất định sẽ có.
Tôi vuốt ve ông Phật huyền thạch.
2
Những ngày tháng chín, trước khi tôi khởi hành đi Nassau là
những ngày sôi động, phấn khích và đôi lúc tuyệt vời. Sôi động, bữa bán đấu giá
nhà máy bia Landau lần thứ hai, tôi mua được rồi bán lại cho bọn lái bia. Phấn
khích vì trận đánh này biểu thị sự kết thúc với độ chính xác toán học, rất đúng
thời hạn, của kế hoạch nghĩ ra từ một năm trước. Những ngày tuyệt vời vì một lí
do rất giản dị tên là Catherine.
Cuối cùng cô cũng trở về từ Hy Lạp, từ cuộc thăm viếng Hoa Kỳ,
từ những chuyến đi lang thang đây đó. Và hôm được hai con cú già gọt khoai tây ở
Fournac báo ngày nàng hạ cánh xuống Roissy, tôi đi thẳng ra chực sẵn ở sân bay,
kéo theo ban nhạc Caribe duy nhất đang có mặt ở Paris, tự tay cùng với vài vai
phụ giương cao tấm biểu ngữ kẻ dòng chữ: “Anh Đây! Catherine!”.
Tôi đã ít nhiều thành công, đặc biệt trước mắt gia đình nàng
mà tôi mới khám phá lần đầu tiên: Bà mẹ, ông bố dượng. Ông nhìn tôi bằng cặp mắt
gườm gườm.
- Tôi thấy những trò này, - ông “Bố Dượng Vợ Tương Lai” nhận
xét, - nó trẻ con, lố bịch, nhục mạ làm sao, nói tóm tắt là không đúng chỗ.
- Không sao, - tôi đáp, - tuy thế bố vẫn còn rất dễ mến.
Không để ông kịp chống cự, tôi bất thình lình ôm hôn bố.
Thoáng có mùi thơm Sherry.
- Và hơi nghiện ngập, nhỉ!
Câu đó dội nước lạnh. Catherine trừng mắt, nhưng rõ ràng cô
đang cố nín cười. Mẹ cô cũng trợn mắt nhìn tôi với vẻ tò mò thích thú.
Catherine kể chuyện tôi cho mẹ nghe, và chẳng hay tôi có còn ở Hong Kong nữa
không?
- Tôi đang dọn nhà. Chẳng hay tôi có được vinh dự mời ông bà
và cô đi ăn trưa hay không ạ?
Không, “Bố Dượng Vợ Tương Lai” không nhận, không muốn nghe
nói tới chuyện đó. Thế ăn tối ạ? Cũng không. Mai cũng không. Những ngày sau
cũng không nốt.
Tôi hỏi:
- Mười lăm năm nữa liệu bố có rỗi rãi không ạ?
Ông ta sắp trả lời “không”, tôi biết thế, nhưng bà mẹ đã
chen vào: “Sao tôi không đến ăn trưa tại nhà họ vào thứ năm tuần sau?”. Lúc ấy
tôi mới khám phá ra rằng họ ở quận VII, rằng “Bố Dượng Vợ Tương Lai” tên là
Jeffries, đã cưới bà “Mẹ Vợ Tương Lai” làm vợ kế, rằng họ có một ngôi nhà phía
sau phố Invalides, rằng họ có trong tay không ít tiền, cả hai phía, cả mọi
phía. Điều này thì tôi đã đoán biết: Không thể đi nghỉ ở nhà bạn Suzie Kendall
tận Bahamas nếu trong ví không có chút ít tiền lẻ.
Trong bữa ăn. “Bố Dượng Vợ Tương Lai” vẫn còn cằn nhằn tôi
vài câu; ông ta là dân Anh, hơi thiên về rượu Porto nhưng thực ra không đến nỗi
khó chơi như ấn tượng ban đầu. Thậm chí còn tỏ ra tế nhị, khi Catherine viện cớ
đi chải đầu để tiễn chân tôi và biến vào nơi tận cùng sâu thẳm của ngôi nhà mười
hai phòng thì ông cũng khéo léo biến mất.
- Tôi gọi anh là Franz được chứ?
Hai mẹ con Catherine không chỉ giống nhau ở đôi mắt. Không cần
gì nhiều để có thể coi hai mẹ con như một tuy họ chênh lệch nhau hai chục tuổi.
- Anh Franz, tôi đã nói rằng Catherine có cho chúng tôi biết
về anh. Nó còn ít tuổi.
- Con biết.
- Anh cũng vậy.
- Con biết.
- Nó bảo anh mải mê rượt đuổi một cái gì đó. Tiền à?
May, tôi có tờ giấy trong người, rất tình cờ thôi. Vì đúng bữa
đó là bữa tôi cho chuyển khoản toàn bộ số tiền tôi có từ ngân hàng Thụy Sĩ sang
một ngân hàng khác đặt trụ sở ở Nassau. Tôi rút tờ giấy trong túi chìa ra trước
mặt bà Jeffries, trước là bà Varles. “Bốn triệu một trăm ngàn đôla”.
- Thưa bà, con đâu cần rượt đuổi đồng tiền.
Bà ta đọc tờ giấy, không tin ở mắt mình.
- Anh được thừa kế?
- Không ạ.
- Anh kiếm ra? Đây là tiền của anh thật?
- Tiền của con. Kiếm từng xu một. Không một ai trên thế giới
này có bất cứ lí do nào đưa con vào ngồi tù.
Im lặng.
- Lạy chúa!
Bà ta thốt lên. Bà đứng dậy, đi qua trước mặt tôi, nhẹ nhàng
ấn vai tôi bắt ngồi yên khi tôi định đứng lên theo. Bà đến đứng một lúc nơi cửa
sổ nhìn xuống đại lộ Ségur, tôi thì rất ngạc nhiên ngồi nhìn bà. Rồi bà trở lại
ngồi xuống ghế.
- Anh... Đúng là anh vẫn còn quá trẻ tuy có từng ấy của cải.
Liệu tôi có giúp gì được cho anh chăng?
Cách đặt câu hỏi làm tôi bối rối, tôi không tin chắc mình đã
hiểu thật đúng.
- Catherine nói đúng đấy. Anh đang đuổi theo một cái gì khó
nắm bắt. Xin hãy cẩn thận!
Tôi hơi sững sờ nhìn bà. Vừa vặn Catherine bước vào, chúng
tôi cùng ra đi. Những ngày sau đó chúng tôi không rời nhau nửa bước, rồi nàng
tiễn chân tôi lên máy bay đi Nassau, không mang theo biểu ngữ.
* * *
Tôi rời Nassau lúc độ mười hai giờ, trả hai đôla tiền qua cầu
để sang đảo Thiên Đường.
Gã Thổ không thổi phồng chút nào: Robertrt Zarra nằm giữa một
hệ thống bảo vệ thật khác thường. Trên đường tới chỗ hắn, sau khi vượt qua vòng
ngoài tôi còn bị chặn lại hai lần, để khám xét và kiểm tra căn cước. Hắn sợ cái
gì? Một sư đoàn lính thủy đánh bộ chắc?
Một gã có vẻ ngoài dễ chịu, lịch thiệp, nhìn tôi với vẻ hơi
tò mò.
- Anh Thổ Nhĩ Kì kể với tôi nhiều điều tốt về anh.
- Anh còn chưa biết hết
đâu.
Hắn ngập ngừng, hơi lúng túng trước vẻ cười cợt của tôi, hoặc
một cái gì đó tương tự.
- Cimballi là tên thật?
- Không có gì đáng nghi hoặc.
- Người Ý?
- Pháp.
- Nhưng gốc Ý!
Nếu điều đó làm hắn thích. Tôi đáp:
- Đúng, bố tôi, gia đình bố tôi đều người xứ Florence.
Tôi nhìn quanh. Chỉ riêng trong khoảng gần bể bơi đã có bốn
tên vệ sĩ võ trang, súng ngắn to đùng gài trong bao đeo ngực, máy bộ đàm. Tôi
đã thấy có đến sáu tên ngoài vườn, không kể những tên chặn ở cửa, trên lầu một
ít ra có hai tên cầm súng trường lắp kính ngắm.
Zarra tủm tỉm cười.
- Anh chẳng có gì phải sợ.
- Tôi sợ cho bọn chúng. Hãy tưởng tượng khi tôi nổi cơn lên.
Còn hơi sớm để dùng daikiri, tôi muốn dùng nước cam tươi.
Họ mang tới chiếc cốc, nước đá, nước cam vắt đựng trong bình
lớn bằng bạc.
- Tôi nghe anh đây, - Zarra nói.
Hắn nghe tôi mười phút liền không hề ngắt lời, không hỏi
han, không tỏ ra quan tâm lắm, nhưng cứ nhìn tôi chằm chằm ngay cả lúc hắn châm
xì gà. Mỗi khi nhìn bàn tay hắn cử động tôi lại thấy có cái gì đó làm tôi bứt rứt,
mãi sau mới nhận ra là khi cử động mắt hắn không bao giờ nhìn vào ngón tay,
chúng hoạt động như thể chúng hoàn toàn độc lập với hắn.
Tôi dừng lời.
Im lặng.
Hắn rút xì gà, nhìn theo làn khói, rồi mới hỏi:
- Ai điều hành cái công ty mà anh căm ghét?
- John Hovius và James Donaldson.
- Tôi quen biết sơ sơ Donaldson.
- Tôi biết. Chúng tôi đã kiểm tra, cách đây ba năm ông gặp hắn
ở London. Chúng tôi muốn xác minh xem ngộ nhỡ ông có những quyền lợi chung với
hắn hoặc với Hovius. Nhưng không có. Đề phòng ông báo trước cho chúng biết việc
tôi đang chuẩn bị đánh chúng, chúng sẽ thoát khỏi tay tôi mãi mãi.
Hắn mỉm cười:
- Anh nắm tình hình rất chắc.
- Tôi tới đây không phải với hai tay không?
Đưa mắt liếc qua, tôi bỗng thấy bọn vệ sĩ đã chuẩn bị, tay nắm
chặt báng súng, mắt soi mói. Trong vài giây tôi gần như cảm thấy sắp xảy ra tàn
sát đến nơi. Nhưng không có gì hết, bọn canh gác đâu lại về đấy, im lìm trong
tư thế lúc đầu như những con chó săn đứng rình mồi.
Zarra không buồn quay đầu lại:
- Cố nhiên không trả lời được. Tôi cần suy nghĩ, bàn với bạn
bè. Anh ở đây bao lâu?
- Cần bao lâu ở bấy lâu. Tôi trọ tại khách sạn Britannia
Beach.
- Cho tôi ba ngày. Sẽ liên lạc với anh.
Tôi đồng ý và ra về, lần lượt đi qua từng phòng tuyến một,
có bọn thân binh lẵng nhẵng theo sau như thể tôi là nhà thuyết khách mang đến một
lệnh đòi. Tôi thầm nghĩ: Như vậy có bõ công xoay hai trăm triệu đôla không?
* * *
Bahamas gồm có vài trăm hòn đảo lớn nhỏ. Nhóm đảo Bimini là
nhóm gần bờ biển bang Florida của Hoa Kỳ nhất, cách tám chục kilomètres. Ponce
Léon, người Tây Ban Nha, đã tìm ra Florida cho rằng con suối huyền thoại cải
lão hoàn đồng chảy trên đảo này. Thực tế hơn, đây là thiên đường của người đánh
cá vì có dòng nước ấm Gulf Stream chảy qua. Hemingway đã từng đến đây uống rượu,
sáng tác “Ông Già Và Biển Cả”.
- Anh đã câu cá kiếm bao giờ chưa?
- Chưa hề câu một con sardine nào.
Tôi ngồi đằng lái chiếc du thuyền, trong chiếc ghế bành tựa
như ghế thợ chữa răng, Robertrt Zarra ngồi bên cạnh cũng trong một chiếc ghế kiểu
ấy. Họ đã trang bị cho chúng tôi cần câu hoặc một thứ tương tự, đại loại là đồ
câu cá.
- May ra anh vớ được chú cá kiếm. Biết đâu? Hoặc một con nhồng,
một con marlin trắng, con cá cờ, con wahoo, con cá vua, con ngừ, thậm chí có
khi con cá voi xanh khổng lồ.
- Thôi đừng kể hết bảng món ăn làm gì, tôi chỉ cần thực đơn
kê món cá cơm là đủ. Và đặc biệt cần tóm được con Scotland tên là Donaldson và
con Argentina tên Hovius.
- Việc riêng à?
- Đúng như ông vừa nói.
Zarra châm xì gà, đặt cần câu xuống ra vẻ buồn bực.
- Tôi xin trả lời: Thuận lợi. Chúng tôi chấp nhận đề nghị của
anh. Với điều kiện anh chịu tăng gấp đôi vốn đầu tư.
- Tội làm gì có đủ tiền.
- Đấy là việc của anh.
- Kiếm đâu ra hai triệu đôla?
Hắn đưa tôi đôi găng:
- Đeo vào, như thế tốt hơn, ít nhất cũng bên tay trái.
Bàn công chuyện với hắn chẳng khác gì thuyết phục tấm thảm
chùi chân trở thành máy tính điện tử. Tôi đeo găng, vừa đúng lúc có tiếng kêu
thét. Chẳng cần quay lại tôi cũng thấy điều đang xẩy ra: Hai chiếc thuyền cao tốc
từ sau dãy đảo Cat Cay vọt ra lao vào chúng tôi với tốc độ không thể tưởng được.
Mũi xuồng rẽ làn nước tím vọt cao trùm lấp thân xuồng chúng đến cách chúng tôi
chỉ còn chín trăm mét. Trên chiếc du thuyền tôi đang ngồi, sự xuất hiện những
chiếc xuồng cao tốc kia nếu không gây nên cơn hốt hoảng chí ít cũng khiến cho
hoạt động bỗng sôi nổi hẳn lên. Không kịp kêu lên một cách ngốc nghếch “cái gì
vậy?” hoặc một câu pha trò ngớ ngẩn nào, tôi đã bị nhấc khỏi chiếc ghế chữa
răng, khiêng đi, nhét xuống ngăn tiếp khách toàn da vàng hung hung và gỗ dán. Cả
Zarra cũng chịu chung số phận như tôi nhưng tỏ ra phớt tỉnh. Hắn vừa hút hơi xì
gà đầu tiên ở ghế chữa răng trên boong bây giờ đang rít hơi thứ hai trên tràng
kỉ dưới tàu. Những tiếng vang trầm đục nổi lên, như có thợ lặn mặc đồ lặn đang
nhảy trên boong thẳng giữa đầu chúng tôi. Động cơ chiếc du thuyền chạy hết cỡ
và theo tôi ước đoán thì chúng tôi đang chạy trốn với tốc độ sao băng.
- Thú vị nhỉ? - Zarra hỏi tôi.
- Đang tận hưởng đây. Chúng bắn vào ta thật sao?
- Sợ như thế. Champagne?
Một gã bồi da đen mở chai Dom Perignon.
- Bọn cớm Mỹ, - Zarra giải thích. - Hoặc bọn biên phòng, hoặc
FBI hay CIA, bọn biệt kích Texas, lũ Thú Rừng hay bọn giáo phái Tái Giáng Sinh
Ngày Thứ Bảy, gì gì nữa ai biết được. Hai lần đi là một lần bị. Càng tốt, ở đây
rất nhiều trò tiêu khiển.
Hắn cạn li champagne.
- Ta bàn đến đâu rồi Cimballi? À, chúng tôi chấp nhận anh
góp hai triệu. Một triệu trả trước. Tóm tắt lý thuyết của anh như sau: Công ty
mà anh định hại có nhiều quyền lợi trong một nước Mỹ La Tinh. Nó gắn liền với
nhà cầm quyền đương nhiệm ở đấy nên lấn lướt nhiều công ty địch thủ của Mĩ. Đó
là sự kiện. Bây giờ nói đến giả thiết của anh: Anh cho rằng sớm muộn chính phủ
này sẽ đổ, kể cả trong giới quan chức cũng như các giới khác có liên hệ với
tôi. Đúng không?
- Đúng.
- Tốt. Anh muốn rằng nhân cuộc lật đổ này, nếu nó xảy ra,
không những bọn anh định hại sẽ bị tống khứ khỏi Mỹ La Tinh mà còn bị thua lỗ nặng
nề tối đa về tài chính. Đúng không?
- Đúng.
- Ý muốn của anh đại loại là: Các giới chức Mĩ ta vừa nói đến
sẽ thực hiện một cuộc đình công của lái xe tải chẳng hạn, nhằm làm rối loạn nền
kinh tế của nước đó, cuộc đình công này đặc biệt làm hại cho tập đoàn mà anh định
đánh đổ, đúng không?
Im lặng trở lại trên mặt biển. Du thuyền chạy chậm lại, theo
tốc độ trung bình.
- Đúng.
- Và để đạt mục tiêu ấy, anh sẵn sàng góp hai triệu đôla vào
cuộc thập tự chinh tạm gọi là chống cộng này?
Chưa bao giờ bằng lúc này tôi cảm thấy dự định của mình là
điên rồ đến thế. Nhưng tôi vẫn nói:
- Nếu tôi kiếm ra một triệu đôla nữa...
Robert Zarra tủm tỉm:
- Anh sẽ kiếm ra, tôi tin chắc như vậy. Anh đang hợp tác với
những người rất tôn trọng lời cam kết, đặc biệt những cam kết của bạn hàng của
họ. Bây giờ, vì ta đã thỏa thuận rồi, xin nói lời cuối cùng, tất nhiên chúng
tôi không đảm bảo sẽ khởi động đúng vào ngày nào.
- Tôi sẽ đợi đến lúc thích hợp.
Hắn nhìn tôi vẻ ngạc nhiên.
- Anh biết Santiago bên Chile?
Tôi lắc đầu:
- Không.
* * *
Bữa đặt chân đến Nassau, việc đầu tiên tôi quan tâm là tới ngay
ngân hàng đã nhập quĩ số tiền một trăm triệu của ông Hak và bốn mươi triệu tiền
lời trong vụ đầu cơ vàng. Thực hiện ý muốn của ông Hak tôi yêu cầu chuyển ngay
một trăm triệu đó cho một ngân hàng Philippine. Việc đó đã làm xong. Còn lại bốn
mươi hai triệu vẫn nằm đây, và trong lúc này tôi chưa biết nên làm gì với
chúng.
Chỉ thị của ông Hak rất rõ ràng: Trong thời hạn ngắn nhất
tôi phải chuyển số một trăm triệu tiền vốn ban đầu sang Philippine, chắc để ông
ta tiện thu hồi và trả về đúng chỗ của chúng. Và điểm này tôi không biết gì
thêm và có lẽ đến bây giờ một trăm triệu này vẫn nằm trong tài khoản Manila.
Trong thời gian đầu ông Hak muốn tôi mang khoản mà ông ta gọi là tiền lãi sang
một nước Mỹ La Tinh. Ông ta nhắm nước Argentina, nhưng tôi đòi gặp nhau ở
Nassau. Thấy vậy ông ta bảo: “Ừ, thì đi Nassau. Anh vào khách sạn Britannia
Beach, sẽ có người đến liên lạc”. Người đó là ai? Tôi ở Nassau một tuần nay rồi
mà vẫn chưa thấy đến.
Chỉ thấy ngày lại ngày trôi qua chậm rì rì. Ngày 3 tháng mười
tôi nhận được cú điện thoại nhưng là của Marc Lavater.
- Kì quá, Marc, mới bốn giờ sáng.
- Rất tiếc. Tôi cần hỏi tin tức.
- Tôi đã gặp hắn, chúng đồng ý!
Im lặng.
- Vậy là êm rồi đó, - mãi Lavater mới nói. - Thế bao giờ sẽ
xẩy ra?
- Chúng chưa biết lúc nào.
- Tôi sẽ đi New York gặp một người liên quan. Vù đi
Manhattan một chuyến được không?
- Có thể.
- Tôi sẽ ở Saint Régis từ mùng 8, trong ba ngày, cố đến gặp
tôi.
Khốn nỗi tôi còn vướng cái hẹn “có người đến liên lạc”.
Nhưng chẳng lẽ cứ ngồi đây hàng tháng hàng năm chờ sứ giả của ông Hak có thể tới,
mà cũng có thể không tới. Tôi nhớ lại xác chết bị ai đó ném cho cá mập ăn. Ngộ
nhỡ mọi liên hệ giữa ông Hak, giữa những người thay ông ta nhận tiền lãi với
tôi đã bị cắt đứt vĩnh viễn? Hơn nữa, đặt giả thiết là họ đã thịt hết cả bọn rồi,
họ bắt đầu nhằm vào tôi?
Dòng mồ hôi lạnh bất chợt chạy dọc sống lưng.
- Franz đâu?
- Tôi đang tính. Đồng ý, chiều mùng 10 tôi sẽ có mặt.
- Ta sẽ cùng ăn tối.
Tôi đợi. Bốn ngày nữa qua đi, huyết áp của tôi ngày càng
tăng. Tôi sẵn sàng đi khỏi Nassau, dù “người ta” có tiếp xúc hay không. Tôi đã
nghĩ đến việc chỉ dẫn lộ trình cho ngân hàng để họ có thể liên lạc với tôi,
nhưng làm như vậy đòi hỏi phải thiết lập mạng thông tin phức tạp giữa ngân hàng
với khách sạn Britannia Beach là nơi hẹn gặp. Hơn nữa, làm thế sẽ gần như chấm
dứt kiểu hoạt động giấu tay của tôi từ hai năm nay. Không biết nên xử sự ra
sao!
Gã Thổ, Ute và đoàn vũ nữ Ấn Độ trần truồng đã rời Bahamas về
London. Ngày mùng 8, gã gọi điện, nói là để hỏi thăm tôi. Tôi cam đoan là tôi rất
sung sức, lời cam đoan quá đỗi lạc quan; mọi thứ đều lộn nhèo trong đầu tôi:
Catherine dửng dưng khước từ tất cả các lời mời, nỗi băn khoăn bồn chồn vì phải
chờ đợi cuộc gặp không thấy đến, sự cô đơn triệt để, sự bực tức với chính mình
vì đã nhảy vào cuộc phiêu lưu rồ dại với Zarrra và chiến hữu Mafia và những tên
nào nữa trong hội của hắn, chỉ có Chúa mới biết hết.
Ngày mùng 9 tôi giữ chỗ trên chuyến bay đi New York. Quyết định
rồi: Phải đi. Tôi để lại chỉ dẫn cho ngân hàng đang giữ số tiền trên bốn mươi
hai triệu đôla và cho khách sạn Britannia Beach. Họ sẽ nhận tất cả các cú điện
thoại gọi cho tôi và ngày nào tôi cũng gọi cho họ vào lúc tám giờ tối dù lúc đó
tôi đang ở phương nào. Giải pháp quái quỉ, nhưng biết làm cách nào hơn?
Hai cô gái Mỹ đang chờ lấy chồng thấy tôi cô đơn bèn mở cuộc
vây hãm; tôi chống cự kịch liệt, và đêm mùng 9 trong lúc bộ ba ăn tối thì có
người đến báo: Một bác sĩ điên đòi gặp tôi.
- Ai?
- Bác sĩ điên.
- Gọi máy trên phòng tôi.
Tôi đóng chặt cửa phòng. Sau những tiếng lách cách thông thường
của tổng đài, lập tức có tiếng rú lạnh gáy trong ống nghe vừa đặt vào tai. Tiếp
đó, tiếng kêu cứu, tiếng nổ liên thanh của súng máy, cuối cùng là tiếng rên của
nạn nhân giãy chết.
Và giọng nói trong tiếng cười khẩy:
- Bác sĩ Điên Manchu quái gở, tên đồng phạm kiêm anh em họ của
hắn đây. Bạn Flantz táng kín vù thân êu có hỏe hôn?
Tôi nhắm nghiền mắt vì tức giận. Nếu túm được chúng nó ở đây
tôi sẽ bóp cổ chết ngay đứ đừ.
- Bọn khốn kiếp, sao không gọi sớm hơn?
- Chúng tôi ở San Francisco, bận tìm chỗ ở hết ngày. Hình
như anh mang cho chúng tôi ít tiền xài?
* * *
Ngày 10 tôi gặp Lavater ở New York.
- Anh đến đi.
- Chỉ làm có mỗi việc ấy thôi.
Chúng tôi ngồi kín trong một quán rượu của Ý, có món bánh hỏi
kinh người. Marc Lavater nói ra ý xin lỗi: “Mười lăm năm trước còn khủng khiếp
hơn nhiều”. Đáng lẽ anh nên tới New York luôn.
- Những người anh đã gặp ra sao?
- Im lặng, mồm khâu kín mít. Tối mật, tuyệt mật đấy. Chỉ có
mấy tờ Tạp Chí Thời Báo, Bưu Điện Washington, và vài ba trăm nhà báo được biết,
ngoài giám đốc CIA. Đủ biết tin này mật đến mức nào. Họ cho Allende sống nhiều
nhất một năm nữa. Và sẽ lợi dụng cuộc đình công của lái xe tải. Ý định điên rồ
của cậu đang thành hình.
- “Họ” là ai?
- Đọc báo thì biết: CIA, ITT, bọn Mafia, tất cả mọi người, một
hội đông đúc. Không thể kể hết.
- Thôi đừng làm trò hề nữa, Marc.
- Mình không có ý định làm anh hề đâu, không muốn làm. Muốn
nôn thì có, mà không phải vì món bánh hỏi Ý này. Muốn nôn vì chuyện sắp xẩy ra
bên Chile làm mình buồn nôn, thế thôi. Này, hay ta đi chén nơi khác?
- Tôi đã cam kết với Zarra, không thể lùi bước. Không thể
lùi bước trước bọn này.
- Việc gì phải rút lui? Dù có thể rút lui được! Không có lí do
gì để lui. Anh lợi dụng một tình thế chứ không tự mình tạo ra nó. Không có anh
nhúng vào, sự việc vẫn diễn biến đúng như thế. Thôi, chuồn, tôi buồn nôn thật rồi.
“Khách sạn Ý xinh xinh và rất ngon” do anh ta giới thiệu này
cách Statler Hilton không xa. Chúng tôi đi xuyên qua đại sảnh của khách sạn ra
quảng trường Madison nơi một cảnh sát cưỡi ngựa đang kiểm soát những khán giả đến
xem trò gì đó không biết. Marc và tôi cuốc bộ về hướng quảng trường Times trên
vỉa hè đang vắng người đầy đe dọa. Bỗng Marc thình lình hỏi tôi:
- Sao không cưới đi?
- Ai?
- Catherine Varles.
- Tưởng anh không biết cô ấy.
- Tôi trông thấy hai anh chị rồi, ở Régine. Và quen mẹ cô ta
nữa.
Lúc này đường phố của Manhattan hoàn toàn vắng vẻ, trừ vài
nhóm hippi và người da đen rải rác. Cảm giác không an toàn. Đáng lẽ nên đi
taxi.
- Không cưới, đơn giản vì cô ta không ưng, Cô bảo: “Chưa cưới
bây giờ. Sẽ cưới khi nào tôi hết chạy theo, theo cái mà tôi chạy theo”.
Đã tới quảng trường Times. Từ đây lại đi tiếp đến Saint
Régine, tuy chẳng ai bàn với ai, tuồng như giữa hai chúng tôi có sự thách đố
xem ai sẽ chùn bước trước tiên. Thật là một thành phố quái gở: Đi bộ ngoài đường
sau tám giờ tối mà như dấn thân vào một cuộc phiêu lưu đầy mạo hiểm.
* * *
Hôm sau tôi bay đi San Francisco.
Tại phi trường San Francisco, một cảnh sát viên cao chừng hai
mét rưỡi, đứng bên hai khúc dồi xám phình to gớm chết trong chiếc áo thụng kiểu
Mao, đội mũ đỏ màu tôm luộc, đuôi sam dài quét đất. Hai khúc dồi có thể nói là
bơm căng khí helium vồ lấy đầu gối tôi hôn hít, quì lạy, hôn bàn chân bàn tay
tôi, rít lên thé thé, với vẻ tôn sùng cuống quít gần như điên loạn. Chúng có vẻ
là những gián điệp của Bắc Kinh, đeo kính đen. Viên cảnh sát hai mét rưỡi
giương mắt kinh ngạc nhìn tôi:
- Bạn anh đây?
- Tôi muốn dạy chúng nó. Chính tôi cho chúng ăn miếng đường
đầu tiên. Lại đây, quì xuống.
Hai khúc dồi cùng tôi trèo lên chiếc Rolls Royce. Tôi hỏi:
- Cần phải làm trò xiếc này à?
- Li và Liu khốn khổ êu mến chào Flantz táng kín chúc mừng
ngài tến San Francisco. - Li hoặc Liu đáp.
- Thiệt muốn xem cái mặt ngài ở Nassau, cái hôm gọi điện cho
ngài. - Liu hoặc Li tiếp lời.
Chúng có căn nhà gỗ xinh đẹp trên đồi Telegraph xây cất từ
sau vụ động đất hồi đầu thế kỉ. Hai bên là hai xưởng vẽ; tiếp đến xưởng một nhà
điêu khắc chuyên tạc những ngón tay áp út bên tay trái. Thoạt tiên anh ta nặn một
ngón áp út cỡ bình thường, theo mẫu ngón tay anh ta, bán cho một người ở Texas
lấy một trăm đôla (bán ngón nặn chứ không phải ngón tay thật); tiếp đó bán một
ngón lấy năm ngàn đôla, ngón này dài đến ba mét, và đang nặn một một ngón dài
chín mét được nhiều viện bảo tàng nghệ thuật tranh cướp, trả giá đến một trăm
ngàn đôla. Phía trước căn nhà Li và Liu là nhà một nữ văn sĩ sống giữa một đàn
chó; đối diện là ba diễn viên và một đoàn balet đang ôn tập, khi chúng tôi đến
nơi Li và Liu giới thiệu tôi với mọi người rồi dẫn tôi vào nhà. Nhà có ba lầu,
đồ đạc rất sang; trên lầu ba có cửa kính đồ sộ nhìn ra vịnh San Francisco, từ
Golden Gate đến vịnh Bridge, tầm nhìn có thể phóng đến tận Sausalito. Từ phía
sau kia có thể nhìn thấy phố Tàu Chinatown.
- Tuyệt. Thuê hay tậu?
- Thuê trước tậu sau, mới được ba ngày nay, sau khi nhận được
tiền.
Tôi ngắm kĩ Golden Gate, chỉ sau vài giây sương mù từ đâu
kéo tới đã nhanh chóng bao phủ toàn bộ cấu trúc của nó. Quay lại phía sau: Li
và Liu đã cởi bỏ chiếc áo hợp với chiếc Rolls, bỏ hết những gối độn làm chúng
béo phệ. Lúc này cả hai đứa đã trở lại thon thả, nhanh nhẹn và tủm tỉm cười
nhìn tôi.
- Mừng, rất mừng là được gặp lại hai chú hề. Cứ tưởng ngoẻo
cả rồi.
- Chúng tôi cũng rất mừng.
- Sao không nói từ trước là số tiền này của hai cậu? Có đúng
của hai cậu thật chứ?
- Thật. Của hai đứa.
Đây là một trong những lần hiếm hoi tôi thấy hai cậu tỏ ra
nghiêm chỉnh. Họ giải thích cho tôi điều tôi đã ít nhiều đoán ra: Ông Hak là -
hoặc trước đây đã là - chú của hai cậu, và cả ba người đã thỏa thuận đi khỏi
Hong Kong; Li và Liu thì chỉ đơn giản nghĩ rằng sẽ đi làm thứ điện ảnh khác chứ
không làm phim máu me nữa và sẽ sang Mỹ làm. Khi báo cho ông Hak biết họ sắp ra
đi, họ ngạc nhiên thấy ông Hak tuyên bố ông cũng sắp lên đường. Ông tỏ ra bí hiểm,
dặn dò hai cháu có đến một ngàn lẻ một điều, khó hiểu, chỉ mang máng là có chuyện
gì đó nghiêm trọng. Tất nhiên họ đã nghĩ có chuyện không bình thường nhưng
không biết rõ. Chú Hak dặn: Đừng đi thẳng một mạch sang California, nên qua đường
Châu Âu, ví dụ Paris hoặc London, đề phòng có kẻ bám theo. “Chúng tôi không hiểu
nổi, nhưng chú Hak không thích bàn cãi”. Họ tuân theo đúng lệnh, còn thấy thích
thú vì phải vâng lời ông chú nữa kia, họ chơi trò gián điệp bị săn đuổi qua nửa
vòng trái đất với nhiệt tình rất cao. Họ đổ bộ lên New York và nhận được lệnh
không đi Los Angeles là đích cuối cùng của họ mà phải rẽ sang San Francisco.
Chú Hak sẽ tới gặp ở đây. Nhưng không thấy chú đến.
Tôi kể chuyện về ngôi nhà bỏ hoang trên vùng Đất Mới, nhưng
không đả động gì tới bữa tiệc của cá mập. Li và Liu không đến nỗi khùng như vẻ
bên ngoài. “Cả Ching cũng biến mất? - Không có dấu vết gì nữa - Thế là nguy rồi”.
Theo lời họ yêu cầu, tôi kể đến đầu đuôi vụ buôn vàng.
- Khả năng chuyển đổi là cái gì?
Hai cậu trợn tròn mắt nhìn tôi, đối với người Tàu trợn tròn
mắt không dễ. Vậy là chú Hak đã “vay” một trăm triệu đôla, dùng làm vốn đầu cơ,
với ý định sẽ hoàn lại đủ sau khi làm ăn xong.
- Vậy thì chú có trộm cắp gì đâu, vì chú có ý hoàn lại, có
khi đã hoàn đủ rồi cũng nên.
- Việc ông ta làm không hợp pháp, vả lại không biết ông đã
trả lại tiền chưa.
- Thế anh, sao anh không thu hồi chỗ tiền ấy về, số một trăm
triệu đang nằm bên Philippine?
- Tôi đã chuyển hết vào một tài khoản khác, không thuộc quyền
tôi sử dụng. Mà cũng không muốn được quyền sử dụng chúng. Đống tiền này cháy
tay.
Hai cậu tán thành. Ngập ngừng hỏi:
- Theo anh, bây giờ chúng tôi đi Los Angeles được chứ?
Tôi làm sao biết? Tôi hoàn toàn không hay điều gì đã xảy ra
với ông Hak, lí do đã khiến ai đó bắt Li và Liu đi Bắc California mà không được
về Nam California.
Li và Liu nói:
- Phải ở lại đây ít lâu. Chúng tôi nghe nói có người đang
nghĩ tới cuốn phim khoa học viễn tưởng lớn, về cuộc chiến trên các vì sao thì
phải, người ấy đang ở trong vùng này. Có thể làm việc với anh ta được.
Hai cậu nắm trong tay bốn mươi hai lẻ vài triệu đôla, thừa sức
sống an nhàn không cần làm việc, còn có thể tự mình làm ra phim nữa. Nhưng hình
như họ chưa ý thức được khả năng ấy, cũng có khi vì họ cho rằng khoản tiền này
của ông Hak chứ không phải của họ. Đó là chuyện của hai cậu. Chuyện của tôi lại
khác. Khi Li và Liu gọi điện bảo họ chờ tôi và bốn mươi hai lẻ vài triệu đôla của
họ ở San Francisco, tôi rất đỗi ngạc nhiên, còn họ thì ngạc nhiên vì thấy tôi ngạc
nhiên. Tôi trả lời một cách chung chung, tuy không xa sự thật là mấy, rằng tôi
yêu nhất San Francisco trong tất cả các thành phố Mỹ, trừ New York.
Nhưng lí do thật sự là vì Sydney Lamm, tên số sáu trong bản
danh sách đang ở đây. Từ khuôn cửa kính trên lầu ba căn nhà hai cậu bạn, tôi
phát hiện ra hắn nằm trong tầm súng của tôi. Theo nghĩa đen và nghĩa bóng.
3
Văn phòng của hắn ở California cách không xa Transamerica
Building, nhà riêng rất đẹp có sân thượng nhìn khắp bốn phía, trông ra phố
Lombard rất ngộ nghĩnh: Đường lát gạch ngoằn ngoèo như con hổ mang say lịm tụt
xuống cái dốc bốn mươi độ.
Tôi đã gặp mặt hắn ta, nguy cơ bị hắn nhận mặt không đáng kể:
Hồi ấy tôi mới lên tám, ngày hôm đó là 27 tháng tám, năm 1956. Hắn đến St.
Tropez tìm bố tôi, đã gặp ông, chuyện trò rất lâu, đúng một ngày trước hôm ông
qua đời. Cuộc viếng thăm này khắc sâu vào kí ức tôi một cảnh tượng đặc biệt chú
ý. Trên kia tôi đã kể rằng La Capila, ngôi nhà của bố tôi tại St. Tropez, nơi
tôi ra đời, nơi bố tôi ra đi, xây theo hình chữ U, mở ra bãi biển Pampelone.
Phòng bố tôi ngồi làm việc ở nhánh chữ U khi ta quay nhìn ra biển. Ngày 27
tháng tám, tên Lamm ngồi trong vườn này với bố tôi vào buổi xế trưa, còn tôi
đang ở ngoài vườn sau khi đi tắm ở bể bơi hay biển về. Tôi đi trước mẹ tôi chừng
mươi mét, bà vừa đi vừa chuyện trò với một bà bạn. Đúng lúc ấy, tiếng nói trong
phòng bỗng vang to, bố tôi gào lên, điều xưa nay hầu như chưa bao giờ xảy ra.
Tôi nhớ như in: “Đây không phải sơ suất! Đây là ăn cắp! Tôi sẽ hỏi thăm anh
ngay khi có dịp thuận tiện”.
Hôm sau bố tôi qua đời, chưa kịp hỏi thăm Sydney Lamm. Tôi
đã yêu cầu các điều tra viên do Lavater tuyển mộ tìm xem mười lăm năm trước
đây, Lamm đã làm điều gì đó khiến bố tôi lên án hắn. Họ chẳng tìm được gì. Mọi
dấu vết đã bị Lamm xoá sạch với sự đồng lõa của hai tên được ủy thác là Yahl và
ông bác chó đểu. Chúng lại còn bao che cho Lamm, mua sự im lặng của hắn. Xét đến
cùng, đó cũng là một cách đảm bảo hắn không bao giờ hé răng, không bao giờ đã động
đến tên tuổi Andrea Cimballi.
Đã thế, tôi cũng sẽ đi đến cùng, không cần đắn đo. Tôi dám
chắc tên Lamm đã phản bội bố tôi hai lần chứ không phải một vì nó đã có lần định
đánh cắp của bố tôi ngay khi ông còn sống. Thế là đủ, những cái khác không đáng
đếm xỉa đến, tôi đâu phải là quan tòa mà cần có bằng chứng.
Chẳng cần phải có trí tưởng tượng phong phú lắm mới nghĩ ra:
Hắn chỉ là tên bịp bợm, một con bạc tháu cáy, dễ dàng chấp nhận những rủi ro
điên rồ nhất. Hắn có thói ngây ngô đến cùng cực của con bạc khát nước, của bọn
bất lương, luôn tin vào vận may nhất định sẽ đến, luôn bận rộn tìm cách chơi xỏ
nạn nhân càng nhiều càng tốt nên không nghĩ rằng chính chúng cũng có thể trở
thành nạn nhân.
Vậy nên tôi đã lập một mẹo để sau này sẽ thực hiện. Những dự
định liên quan đến Hovius và Donaldson ngày càng phát triển lên, sự chậm trễ có
thể xảy ra trong việc thực hiện chúng, sự có mặt của Li và Liu ở San Francisco,
món gia tài hai cậu nắm giữ, tình bạn giữa chúng tôi, tính ưa thích cảnh tượng
li kì của họ... tất cả những cái đó thúc đẩy tôi sửa lại chiến lược đặt ra lúc
đầu. Tôi dự tính một cuộc hành quyết nhanh gọn, có thể nói là có tính chất toán
học theo mô hình hành quyết Landau. Do có sự tham gia của hai gã mắt một mí
ngây ngô, cuộc hành quyết sẽ diễn ra như một vở hài kịch.
Tôi mất sáu tuần để sắp đặt mọi cái đâu vào đấy.
* * *
Vào khoảng cuối thời hạn này, tức là vào đầu tháng chạp,
chuông điện thoại reo vang trong các văn phòng lộng lẫy tôi thuê ở khu trung
tâm Embarcadero. Li và Liu đã nặn cho tôi một cái mẽ hợp với văn phòng (do
chính tay hai cậu trang trí choáng lộn đến phát ngợp): May đo vài bộ đồ bằng thứ
hàng rất bõ công đi tìm kiếm, thắt chiếc cravate sặc sỡ như gào lên, đeo chiếc
nhẫn nạm kim cương to đùng bên ngón trỏ tay trái. Trông tôi giống như anh chàng
bán thảm chuyển thành anh bán đồ may sẵn. Điện thoại reo, cô thư kí của tôi cầm
máy và sau vài câu dông dài thường lệ, người gọi máy nói rõ lai lịch:
- Tên tôi chắc không có ý nghĩa gì đối với ông: Sydney Lamm.
- Vâng đúng thế. Rất tiếc.
- Thưa ông Joseph Benharoun… ông là người Pháp?
- Vâng.
Tôi cố gắng hết mức để nặn ra cái tôi cho là giọng người
Pháp ở Algeria, thật nặng.
- Giọng ông không có chút gì của địa phương. Thưa ông
Benharoun, theo tôi nghĩ chúng ta nên gặp nhau. Tôi kinh doanh ngành bất động sản
nhưng không chuyên nghiệp, rất gián tiếp thôi.
Tôi đáp lời: Nếu chương trình làm việc còn có chỗ thu xếp
tôi rất sung sướng được quen biết hắn, điều đó có thể làm tôi vui phát điên, và
khi được biết văn phòng của hắn - Ôi, một sự trùng hợp kì diệu - ở cách văn
phòng của tôi có mấy bước chân thì thực sự thấy khoái vô biên. Hắn bảo: “Để tôi
nhảy sang”. Hắn nhảy sang, hai người đối mặt.
Tôi có thể nhận mặt hắn mặc dầu mười lăm năm đã qua. Có thể.
Bảnh trai, mảnh dẻ, lịch sự, trang phục hoàn hảo, cao hơn tôi mười lăm phân,
không thiếu vẻ duyên dáng. Nhưng tôi biết hắn chỉ là một con bạc khát nước, tôi
có thể nhận ngay ra chân tướng hắn ngay cả khi không biết rõ lai lịch hắn, chỉ
bằng một cái gì đó trong cặp mắt hắn.
- Còn trẻ thế mà đã kinh doanh giỏi.
Tôi xúc động. Tôi vờ làm ra vẻ khiêm tốn, nghiêm nghị, tự
tin. Bắt đầu thao thao về những dự án sắp thực hiện, về quan niệm sống, đưa ra
nhiều dẫn chứng về những mưu mô xảo quyệt, về sự tinh ranh quỉ quái, về sức làm
việc phi thường của tôi; tôi ba lần gọi cô thư kí đến nhận mệnh lệnh vô ích...
Tóm lại, tôi cố hết sức làm hắn có ấn tượng tôi chỉ là một thằng ngốc ít tuổi
mà huênh hoang, cù lần và dễ khiến, chỉ có giá nhờ món gia tài ông bác để lại,
ông ta giàu sụ trên lưng bọn “dê con” bên Algeria.
Hắn ngồi nghe với thái độ kiên nhẫn khoan dung và hài lòng,
pha lẫn một thoáng mỉa mai khi cặp mắt lướt qua chiếc nhẫn kim cương. Hắn rất
thành công khi giả bộ khen ngợi cái hắn gọi là món rượu punch của tôi thết. Và
lại còn tỏ ra không thua kém, gào lên bài “Hoa Kỳ, đất nước của tự do kinh
doanh” tuy mắt vẫn liếc ngang theo dõi xem tôi có thực sự xuẩn ngốc như vẻ bên
ngoài không. Cuối cùng hắn đề cặp đến lí do gặp tôi.
- Bạn Joe thân mến, tôi gọi anh là Joe được chứ? Joe thân mến,
tình cờ bữa kia tôi vừa đi một vòng trên con đường Tamalpais. Một nơi xưa nay
tôi vẫn yêu thích.
Tôi nhìn hắn, không động đậy, vẻ con nhà nghề. Cần biết rằng
thành phố San Francisco xây dựng trên một bán đảo, đầu nhọn hơi chếch lên
phương Bắc. Đối diện là một bán đảo khác, Marin Peninsula, hai mỏm của bán đảo
cách nhau một kilomètres rưỡi. Mũi Tamalpais nằm trên đảo Marin Peninsula phía
sau Sausalito là khu dân cư đầu tiên ta gặp khi từ phía San Francisco vượt qua
Golden Gate.
- Anh Joe, tôi coi Sausalito và cả vùng dưới chân núi
Tamalpais là quê hương thời thơ ấu của tôi. Gắn bó vì những tình cảm thân
thương. Hồi tôi còn bé, ông bố khốn khổ của tôi có ngôi nhà lớn dưới gốc cây
séquoias, tôi ra đùa nghịch trên bãi cát trắng ở Stinson Beach. Cũng có khi tôi
trèo lên sườn Tamalpais ngắm xuống Thái Bình Dương và dãy Nevada.
Tôi nghiêm trang gật đầu. Dĩ nhiên tôi nhớ kĩ tất cả mọi yếu
tố của tập hồ sơ Lamm. Tên thật của hắn là Sygmunt Lammerski, đẻ ở Chicago, sau
khi ở trại cải tạo suốt thời trai trẻ ra, hắn làm nghề bán máy hút bụi, phiếu bảo
hiểm, bán sức trai cho các bà nạ dòng trước khi phất lên trong ngành bất động sản
rồi gian lận, bị bố tôi bắt quả tang. Cơ sở dựng nên gia sản hiện tại của hắn
có lẽ là khoản hai trăm năm chục ngàn đôla do Martin Yahl trao cho mùa thu
1956. Nhưng tôi vẫn giả ngây giả ngọng.
Hắn nói tiếp:
- Vậy là hôm kia, nhân lúc tình cờ đi hành hương qua chốn
quê cũ thời thơ ấu, tôi được vợ chồng Lopez vốn là bạn cũ cho biết chuyện đã xảy
ra.
Hắn vỗ trán.
- Tôi không tin ở tai mình! Không thể tin được! Tôi gọi cho
Becknall luật sư của gia đình Elbert và buộc phải thừa nhận: Đây là sự thật.
- Cái gì là sự thật?
Lamm giơ cả hai tay lên trời:
- Lạy chúa! Tôi đòi mua mảnh đất
này từ nhiều tháng nay. Nhiều tháng ư, không, từ nhiều năm nay. Bỗng nhiên anh
nhảy bổ tới San Francisco nơi anh chẳng quen biết ai, và ngay từ lần mặc cả đầu
tiên, họ đã bán ngay cho anh cái họ vẫn từ chối không bán cho tôi. Anh có thừa
nhận chuyện đó là điên tiết không?
Tôi ra vẻ trang nghiêm, lạnh nhạt:
- Có lẽ vì tôi trả giá cao hơn.
Hắn nhìn tôi, đi đi lại lại, tỏ vẻ
cố nén cơn giận đang trào sôi khó chế ngự, đóng kịch rất tài, tôi gần như tin
là thật. Hắn lại ngồi xuống.
- Joe, anh bao nhiêu tuổi? Hăm
hai, hăm ba? Xin đừng chấp điều tôi sắp nói đây. Bản thân tôi thật tình không
phải là dân chuyên nghiệp làm cai đầu dài trong xây cất, đó chỉ là thứ tiêu khiển
thôi, gia tài thừa kế của ông cụ bà cụ thừa sức cho tôi sống không cần làm việc.
Nhưng xin được nói với anh thế này. Anh trả sáu trăm ngàn đôla để mua mảnh đất
rộng năm lăm hécta. Một số tiền khá lớn, ngay đối với tôi.
Lần này tôi làm ra vẻ bị xúc phạm:
- Tôi có những phương tiện dồi
dào.
Hắn mỉm cười khoan dung:
- Nào Joe, San Francisco là thành
phố của tôi. Tình cờ người giám đốc ngân hàng nơi anh gửi tiền lại là bạn chí cốt
của tôi, quả đất chật hẹp mà. Nên tôi biết số tiền sáu trăm ngàn đồng ấy là
toàn bộ gia sản của anh. Ô, tôi thừa biết anh mua mảnh đất ấy để làm gì. Anh
cho rằng: Nó chỉ cách San Francisco có hơn ba chục kilomètres, lại trông ra
phong cảnh tuyệt vời của Thái Bình Dương, của dãy Nevađa, của Santa Cruz và Vịnh
Francisco, với những đại thụ séquoias cao tám chục mét, tóm lại, với tất cả các
con chủ bài ấy, anh sẽ thực hiện được một áp phe hết sức ngon lành mà chỉ cần
chia lô mảnh đất ấy ra, bán lại từng mảnh vụn.
- Dù sao, tôi đã mua được nó,
không phải anh.
Với nụ cười mê hồn loại nhất:
- Đúng là đáng lẽ tôi phải theo
dõi sát sao hơn. Làm ăn kiểu tài tử bất lợi thế đấy. Nhưng anh cũng đã gặp may,
Becknall chỉ mới rao bán mảnh đất có mười hai giờ trước khi anh tới đây. Nhưng
đó chưa phải là điều quan trọng đâu anh bạn! Có hai điều rất cơ bản mà anh
không biết.
- Gia đình Elbert ban nãy anh nói
tới là ai vậy? Tôi có giao dịch với họ đâu.
Hắn reo mừng thắng trận:
- Đấy, đấy, chính đấy là điều cơ bản
thứ nhất tôi định nói với bạn. Bạn bị chúng bịp rồi, bạn Joe ạ! Bạn mua đất của
một công ty vô danh đóng ở Bahamas, loại công ty ma mãnh không ai biết có những
gì đằng sau lưng chúng, và chúng đã lừa được anh: Anh trả sáu trăm ngàn tậu mảnh
đất chúng vừa mua của gia đình Elbert bốn trăm năm chục ngàn cách đây mới có ba
tuần. Nói cách khác, chúng đã móc túi anh lấy mất một trăm năm trục ngàn đôla.
Tình thế buộc tôi trước hết phải
ra vẻ choáng váng, sau đó thì hằn học. Tôi hằn học nói:
- Thì việc gì đến anh?
- Bình tĩnh, Joe. - Lamm nói với vẻ
hiền từ. - Nếu không tin anh thử hỏi Becknall xem, đó là người tử tế số một
trên thế giới đấy. Tệ hại hơn nữa là điều cơ bản thứ hai này: Không thể xây cất
gì trên khoảnh đất ấy. Hoặc hầu như không thể. Tôi biết thế từ lâu rồi, xin đừng
quên là tôi chơi ở đấy từ tấm bé. Cái công ty Bahamas... Tên người đứng bán là
gì?
- Hai người: Koski và Sasplan.
- Không quen. (Tôi nghĩ thầm: Có gì
đáng ngạc nhiên! Trái lại, nếu hắn quen, tôi mới thật sự kinh ngạc).
- Tôi không quen, nhưng chắc chắn
đó là thằng đại bịp. Không thể chia lô bán đất vùng Tamalpais. Đất này chỉ săn
thỏ rừng thì được, hoặc dành cho những người yêu cảnh thiên nhiên loại như...
Và em gái mày nữa! Tôi vẫn nhập
vai đang đóng, lần lượt tỏ ra không tin, hoài nghi, lưỡng lự, lo lắng và cuối
cùng, đau buồn.
- Tôi cũng ngao ngán thật tình, vô
cùng ngao ngán, - Lamm nói với vẻ thành thật xứng đáng được tặng giải Oscar ở
Hollywood.
Tôi diễn vai kẻ sắp chết đuối cố
bám lấy cọng rơm.
- Anh vừa nói không thể xây cất,
hoặc hầu như không thể xây cất được là ý thế nào?
Hắn gật gù, hệt một ông bố độ lượng
khi nghe thằng con thú nhận tội ngông cuồng.
- Anh thật dại dột trong vụ này. Nếu
anh chịu đọc thật kĩ bản hợp đồng mà hai tên đốn mạt nọ... tên là gì ấy nhỉ?
- Koski và Sasplan.
-... mà hai tên đốn mạt nọ đưa cho
anh kí, anh sẽ thấy là theo di chúc của Dwight Elbert, chỉ được phép xây cất
trên mảnh đất này sau ngày 31 tháng chạp 1975. Đó là một quy định hợp pháp. Anh
mua, tất nhiên anh thừa nhận trên thực tế nghĩa vụ phải chấp hành. Anh có hiểu
tại sao mảnh đất Elbert cho đến nay chưa bán? Ai dại gì đầu tư hàng trăm ngàn
đôla vào mảnh đất sau nhiều năm mới được phép xây cất?
Im lặng. Tôi cố hết sức mình để
tái mặt. Không dễ. Đã thế tôi lại đang buồn cười, đang muốn phá lên cười như
điên.
- Vậy đó... vậy đó! - Lamm thở dài.
Hắn đứng dậy vỗ vai tôi:
- Cả hai chúng ta đều phạm sai lầm
Joe ạ! Ngay khi biết chuyện tôi định báo cho anh. Nghề đầu nậu xây cất này cho
thấy có những trường hợp đáng buồn, những kẻ vô liêm sỉ, nên tôi chỉ làm kiểu
tài tử đứng đằng xa. Nhưng không phải ai cũng giống ai. Anh đã biết văn phòng của
tôi. Đây là địa chỉ riêng. Hãy bỏ ra vài ngày làm dịu bớt nỗi thất vọng đang
xâu xé lòng anh, rồi gọi cho tôi. Có thể từ nay đến lúc ấy tôi sẽ nghĩ ra cách
giúp đỡ anh. Tôi quen biết rất nhiều ở đây, thành phố này là của tôi, thành phố
thời thơ ấu. Nào, hứa đi! Điện cho tôi chứ? Trong ba ngày nữa. Tôi sẽ giúp anh
có chỗ đứng dưới ánh mặt trời. Hoa Kỳ là như thế đấy anh bạn trẻ, vĩ đại và hào
phóng...
Chúng tôi bắt tay nhau. Hắn ra đi.
Tôi cho cô thư kí nghỉ: “Tôi muốn ngồi một mình”, cổ nghẹn lại, mặt tái xám,
tôi báo cô bằng giọng ồm ồm ảo não.
Hai người vừa đi khỏi, tôi phá lên
cười, mở chiếc cửa vẫn khóa chặt thông sang các phòng bên, mời Li và Liu và nhà
điêu khắc Koski chuyên nặn ngón tay áp út và họa sĩ Sasplan và một số bạn nữa
và cả đoàn balet vào phòng tôi.
Mở cuộc nhảy điệu Châu Phi tung trời.
* * *
Sydney Lamm là tên nói dối tồi tệ
số một. Chẳng hạn, hắn đã thổi phồng lòng tử tế của Becknall. Tay này được Li
và Liu giao ước cho quản lí bốn mươi lẻ vài triệu đôla kèm theo những khoản bổng
ngoại hậu hĩ, đã vui lòng nhận kể cho Lamm nghe nhiều tin vịt kếch xù. Lamm rõ
ràng đã bịa ra những kỉ niệm về thời thơ ấu, về gia tài bố mẹ hắn, về tính chất
không chuyên nghiệp trong kinh doanh xây cất; thực ra hắn là dân nhà nghề, tuy
hồi ấy chưa đến nỗi khó khăn lắm nhưng vẫn tham gia kinh doanh trên hai lĩnh vực
khác, những hoạt động kinh doanh lành mạnh được tài trợ dồi dào. Hắn có khá nhiều
tiền trong tay. Theo ước lượng của nhóm chuyên viên do Lavater thuê, hắn trị
giá khoảng một triệu rưỡi đôla.
Hắn còn dối trá khi bảo tôi rằng mảnh
đất ấy do một công ty Bahamas mua của gia đình Elbert với giá bốn trăm năm chục
ngàn. Tôi biết rõ, vì công ty Bahamas chính là tôi. Công ty này - theo lệ, tôi
không chính thức ra mặt - chỉ trả có hai trăm năm chục ngàn thôi. Và công ty
bán lại cho thằng ngốc Joseph Benharoun vẫn là tôi, với giá sáu trăm ngàn đôla,
điểm này hắn nói đúng.
Từ đó, có thể đặt câu hỏi: Tại sao
Lamm tìm cách giảm bớt số lãi do công ty Bahamas thu được, tại sao hắn nói có một
trăm năm chục ngàn trong khi sự thật là ba trăm năm chục ngàn đôla? (Tuy đây chỉ
là tiền lãi giả, vì tôi bán lại đất cho chính tôi).
Nói dối để làm gì? Để khỏi làm cái
gã ngốc ngếch Benharoun này đau khổ hơn? Hay vì Lamm đang muốn mua lại cho bản
thân hắn? Ai cũng biết: Một anh chàng kinh doanh xây cất đã có những động cơ
tình cảm mãnh liệt nhất trần đời cũng không thể bỏ ra sáu trăm ngàn để mua mảnh
đất đáng giá không quá hai trăm ngàn đôla. Lamm cũng biết chứ. Hắn còn biết: Nếu
hắn cố tình nhét điều đó vào mồm Benharoun thì ngay thằng ngốc Benharoun này
cũng không chịu nuốt. Nhưng nếu làm Benharoun tin rằng mảnh đất ấy đáng giá bốn
hoặc năm trăm ngàn đôla, Benharoun sẽ không ngạc nhiên khi thấy con người tốt bụng
Sidney Lamm với tấm lòng vàng, với số gia tài kha khá thừa kế của bố mẹ, với những
kỉ niệm ấu thơ và ý thức bảo tồn sinh thái... nhận mua lại với giá năm trăm hoặc
năm trăm năm chục ngàn đôla để góp phần giảm nhẹ sự thua lỗ của anh bạn
Benharoun đáng thương.
Trong thực tế, mọi chuyện đều diễn
biến theo đúng kế hoạch đã định.
* * *
Trước tiên cần tìm được đất. Tất cả
các nhà kinh doanh bất động sản thoạt đầu chỉ cho tôi tìm ở vùng thung lũng
Napa, phía Bắc vịnh San Francisco. Vùng này chuyên trồng nho, không hợp với ý
tôi. Sau đó họ hướng tôi (thực ra không phải tôi mà Koski và Sasplan, tôi chỉ
là tài xế không tên tuổi của hai vị này) đi xem nhiều khoảnh đất ở mạn Nam. Vừa
biết đến mảnh ở Tamalpais với điều khoản kì quặc trong chúc thư, tôi quyết định
luôn. Sáng ý.
Tôi mua miếng đất qua trung gian của
công ty Bahamas do họa sĩ và nhà điêu khắc đại diện (dĩ nhiên họ là những nhà bảo
vệ sinh thái, nên thoạt nhìn và càng nhìn càng thấy rõ họ phản đối mọi sự chia
lô xây cất). Mua xong, tôi bán lại cho tôi với giá sáu trăm ngàn đôla, tôi trả
ngay cho tôi bằng tiền mặt. Lấy trong số sáu trăm tám chục ngàn đôla ở tài khoản
của Benharoun tại ngân hàng con con do một bạn của Lamm giữ ghế giám đốc - chi
tiết này do các điều tra viên của Lavater cho biết - Sau khi rút sáu trăm ngàn
đôla ra, hơn một chút vì phải trả lệ phí và tiền công cho ông Becknall, tôi
than thở với giám đốc ngân hàng, thổ lộ những lo lắng và niềm hi vọng của tôi,
với niềm tin sớm muộn những điều tâm sự này sẽ đến tai Lamm.
Thế là hắn gọi điện cho tôi. Kết
thúc màn thứ nhất.
Màn thứ hai bắt đầu hơi sớm một
chút vì có hai gã Tàu được coi là từ Sài Gòn tới San Francisco. Họ không giấu
diếm: Sang Mỹ, tới California để kinh doanh về nhà đất và nhiều ngành khác. Họ
cho biết: Được sự ủy quyền của nhiều đồng hương và đồng bào ở Việt Nam, ở
Campuchia đang rất lo ngại trước sức tiến công của quân đội Bắc Việt. Họ đã gặp
nhiều người kinh doanh nhà đất ở Los Angeles, ở Nam California, nhưng giá cả
làm họ mất vía. Có lẽ ở mạn Bắc rẻ hơn, họ nghĩ vậy. Tình cờ họ gặp một người,
người này cũng do tình cờ nốt, mách họ đến tìm Lamm đang ấp ủ một dự định. Toàn
là sự tình cờ cả thôi, nhưng tôi đã mất vào đây hai chục ngàn đôla lót tay,
nhưng thôi, cho qua chuyện này.
Hai anh Tàu bảo Lamm:
- Chúng tôi tìm mua đất ở San
Francisco vì đây là thành phố có sáu chục ngàn người Hoa, chỉ riêng ở
Chinatown. Mua để vài năm nữa, chưa làm ngay được, sẽ xây dựng hẳn một thành phố
Tàu xinh xinh, người Tàu ở chung với nhau cùng vợ con gia quyến, tất nhiên vẫn
trong vòng luật pháp của Tổ Quốc thứ hai nhưng giữ vững được những truyền thống
tập tục của chúng tôi. Dự án của chúng tôi là dự án dài hạn. Chúng tôi còn ở lại
Việt Nam và Campuchia chừng nào còn ở lại đấy được, Hi vọng còn nhiều năm nữa...
(Xin chú ý: Đây là một chiếc lò xo
trong cái bẫy nhử tên Lamm: khoảnh đất Tamalpais không được phép xây cất trước
tháng giêng 1976, còn phải đợi bốn năm!).
Lamm hỏi: “Khả năng của các anh?”.
Thực ra hắn đã biết khá rõ, - cả Becknall lẫn tay kinh doanh nhà đất nọ là người
theo lệnh tôi đã dắt mối cho hai cậu Tàu đến gặp hắn, - đều cung cấp cho hắn
khá đầy đủ tin tức rồi. Câu trả lời của Li và Liu, à quên, xin lỗi, của hai anh
Tàu từ Đông Dương sang: “Có thể mua hai triệu đôla đất đai, nếu có...”.
Lamm bí mật điều tra, cuộc điều
tra làm hắn tin tưởng hai anh Tàu thực sự có khả năng: Họ đã gửi vào nhiều ngân
hàng San Francisco khoảng hai chục triệu đôla, và đã thực sự tung vốn vào một số
nơi, ngoài ngôi nhà trên đồi Telegraph, họ còn mua một ngôi nhà ở Oakland và những
nhà kho đồ sộ ở Berkeley (xin lưu ý: Mua thật sự, tuy không dính dấp đến bản
thân tôi và kế hoạch đánh Lamm của tôi, mà vì Li và Liu trông cậy vào số vốn bốn
mươi hai triệu của các cậu, lại muốn làm ăn lớn về điện ảnh nên đã tậu để an cư
lạc nghiệp. Tôi chỉ tận dụng các sự kiện này thôi, không có vai trò gì trong
đó).
Một tuần sau Lamm và Becknall cùng
ăn tối. Lamm gợi chuyện về dự định của bọn Tàu đang tìm mua đất. Theo lời căn dặn
trước, Becknall thốt lên:
- Thật ngu ngốc! Sao anh không bảo
tôi hai tuần trước! Mấy anh bạn Sài Gòn này lại không vội xây cất mới tuyệt chứ!
Tiếc thật!
- Sao mà tiếc?
- Vì anh chậm mất rồi. Tôi có mảnh
đất rất thích hợp ở Tamalpais, nhưng có người vừa mua rồi.
- Ai vậy?
- Một cậu người Pháp khá thộn
nhưng lại tự cho mình là nhà kinh doanh lớn, một gã Joseph Benharoun nào đó.
Anh mà trông thấy chiếc nhẫn tức cười của hắn đeo trên tay thì... Và những chiếc
Cravate!
Theo tính toán, Lam sẽ tìm cách tiếp
xúc với chàng trai ngu ngốc tên là Joseph Benharoun.
Kết thúc màn hai.
* * *
Màn ba khởi sự bằng cú điện thoại
thứ hai ngày 14.
- Ông Sidney Lamm? Joe Benharoun
đây!
Im lặng. Tuồng như hắn đã quên mất
tên tôi, như thể tôi ở xa tâm trí hắn hàng trăm dặm, tuy tôi biết chắc trong
sáu ngày qua hắn bồn chồn mong đợi tôi gọi tới vì Li và Liu thúc giục cho đi
xem mảnh đất Tamalpais, hai cậu còn dọa nếu hắn không thiết tha với họ, họ sẽ tới
một công ty nhà đất khác hỏi mua sáu mươi hécta ở Vịnh Half Moon: “Không đắt
đâu ông Lamm, chỉ suýt soát một triệu năm trăm ngàn đôla thôi”.
- A, anh Joe thân mến, khỏe không
anh?
- Tôi cần gặp anh. Hôm nay? Hay
mai?
Giọng tôi nghẹn ngào chưa từng có.
- Hôm nay không được sao? Thật vậy
ư?
Đầu dây đằng kia, tên khốn kiếp
trình diễn một cảnh phim tuyệt đẹp: “Sáng nay tôi không rảnh, hẹn hò chật cứng,
anh biết thế là thế nào rồi đấy. Ồ, tiếc quá bữa trưa cũng bận rồi, bữa tối phải
dự với ông thị trưởng, khổ quá, cả ngày mai nữa, nhưng để xem nào, nếu gấp quá...
Ồ, tôi sẽ gọi lại cho anh sau...”.
Hai mươi phút sau hắn gọi lại, giọng
quyến rũ chảy nước: “May thật anh Joe, tôi gỡ được rồi, mời anh đi thưởng thức
vài món hải sản với tôi ở Aliotto, vì Scoma nó đóng cửa buổi trưa...”.
Hai người gặp nhau trước phong cảnh
hữu tình của Fisherman và Golden Gate vương vấn dải sương mù với tiền cảnh là
đàn cua trên đĩa. Đáp lại thịnh tình của hắn, tôi cũng khoản đãi hắn bằng tiết
mục tôi đã chuẩn bị sẵn: Vừa lên mặt nhà kinh doanh đầy tự tin, bỗng chốc lại
có vẻ mặt một chú nhóc người Pháp chán chường với những tham vọng của chính
mình, đáng thương hại. Trong lúc đang nói, một điều gì đó đã xảy ra trong tôi:
Tôi chợt thấy chính tên này đột ngột hiện ra trong kí ức, thò bộ mặt trắng bệch
ra ngoài văn phòng bố tôi ở St. Tropez, đi vòng quanh nhà dưới các rặng thông để
lên xe. Sau khi ném một cái nhìn hung bạo lúc đi ngang qua tôi. Chính tên này
đã giết bố tôi, hoặc đã tiếp tay giết bố tôi, rồi sau đó lại phản bội ông lần
thứ hai. Trong năm sáu giây đồng hồ lòng căm thù làm tôi choáng váng, người tôi
run lên, đến nỗi tên Lamm nhận thấy sự xúc động đó, nhưng may mắn là hắn đổ tại
những nguyên nhân khác.
- Trong người khó chịu phải không
Joe?
Tôi uống ngụm nước, thái dương đầm
đìa mồ hôi.
- Chắc những ngày vừa qua rất căng
thẳng đối với Joe?
Chúng ta bỏ qua các chi tiết. Hắn
nói: “Thời gian gần đây tôi quá bận nên không có thì giờ nghiền ngẫm vấn đề của
anh...”. Vấn đề gì? Dĩ nhiên hắn biết rõ cảnh ngộ gay go của tôi: Sáu trăm ngàn
đôla nằm chết trong mấy năm nữa. “Anh mắc kẹt rồi anh bạn nhỏ thân mến! Nói ra
thật buồn, nhưng nó là như thế. Tuy vậy, vì những lí do anh đã biết...”.
Tóm lại, vì những lí do tình cảm, và cũng vì món gia tài ông
bố để lại cho phép hắn có thể gánh chịu đồng vốn nằm chết bốn năm không sinh lợi,
hắn thuận mua lại giúp tôi mảnh đất Tamalpais.
- Năm trăm ngàn Joe. Tôi không trả hơn được. Tính tài tử và
tình yêu thiên nhiên cũng có giới hạn.
Tôi làm mặt giận đứng phắt dậy ra về.
Hai giờ sau hắn lại gọi về văn phòng tôi ở Embarcadero. Sau
đây bạn đọc sẽ biết vì sao hắn vội vã đến thế.
- Mẹ kiếp, anh làm sao vậy Joe?
Lần thứ hai trong ngày chúng tôi gặp lại nhau, lần này trong
tiệm rượu phố California.
- Anh Joe này, tôi nghĩ kĩ rồi. Tôi định lập mẹo với anh
nhưng không thành, anh ranh ma hơn tôi tưởng. Thôi, xin lỗi nhé. Thực ra, đó là
vì tôi đã nghĩ đến chuyện bốn năm nữa bán lại cho ai đó là mình cũng kiếm được
chút đỉnh, không nhiều lắm, nhưng cũng được tí tí. Nhưng thôi, mình làm chuyện
này đâu phải vì đồng tiền. Hết giận chưa?
Hắn mỉm cười, nước da rám nắng, rất lịch thiệp, quyến rũ, đặc
vẻ dân San Francisco trong phim.
- Sáu trăm ngàn đôla vậy. Giá anh đã mua.
Tôi dỗi:
- Sáu trăm mười ngàn? Ít ra tôi cũng kiếm được vài đồng.
Hắn cau mày, trong khoảnh khắc ấy tôi đâm hoảng, nghĩ bụng
có lẽ mình đã đi quá xa. Nhưng hắn bỗng cười phá lên:
- Đồng ý, cậu bé người Pháp quỉ quyệt!
Ngay hôm đó, ngày thứ ba 15, chúng tôi kí hợp đồng, hắn trả
tiền ngay: Năm trăm năm chục ngàn đôla lĩnh ở công ty Panama (do tôi dựng lên để
dùng trong vụ này) và sáu chục ngàn tiền mặt. “Anh đòi tiền mặt làm gì?”. Tôi
lúng búng giải thích về ông chú bên Algeria, về công nợ... Hắn đã được ngân
hàng chung của chúng tôi tiết lộ rằng tài khoản Benharoun đã gần cạn kiệt, nên
hắn cho rằng tôi định mánh mung gì đó và bị thất bại. Hắn càng vững tin tôi chẳng
qua chỉ là một thằng ngu có nòi.
Xin nói riêng với bạn đọc: Tôi vừa bán cho hắn mảnh đất chưa
được phép xây cất với giá sáu trăm mười ngàn đôla, sau khi đứng tên công ty
Bahamas của tôi mua với giá có hai trăm năm chục ngàn. Kết quả đã khá đẹp,
nhưng cuộc giao đấu mới chỉ bắt đầu.
Và để đánh dấu màn thứ ba này, tôi để hắn trả tiền rượu.
* * *
Màn thứ tư đã bắt đầu. Tính theo thứ tự thời gian, nó bắt đầu
trước cả màn vừa rồi, theo một cách nào đó. Bữa ăn trưa ở tiệm Aliotto giữa tôi
và Lamm diễn ra ngày thứ ba. Từ thứ tư trước, tức là một tuần trước đó, hai cậu
Li và Liu núp dưới danh nghĩa Hoa Kiều từ Sài Gòn sang đã thúc Lamm cho đi xem
đất ráo riết đến nỗi hắn đành nhượng bộ. Hắn đánh xe riêng chở họ đi, hai cậu
thộn giả vờ nói thứ tiếng Anh giả cầy khủng khiếp, nói với nhau phần lớn bằng
tiếng Tàu. Nói là đến xem đất, nhưng họ xem ra xem, đi ngang đi dọc trong mấy
giờ liền, nhảy cẫng lên vui vẻ như hai con chó Fox lùn. Tuyệt vời, đúng thứ
chúng tôi đang cần, họ bảo Lamm như vậy khi lưỡi tên này còn đang thè dài ra vì
phải chạy theo hai cậu. Rồi nói tiếp với vẻ ngây thơ không thể tưởng tượng được:
“Xin tiết lộ để ông biết: Chúng tôi đã quyết định mua mảnh đất ở vịnh Half
Moon, chiều nay là kí xong. Nhưng món hàng của ông hấp dẫn hơn. Đồng ý mua.
Nhưng không mua với giá ông đưa ra. Hai triệu, quá đắt. Chỉ một triệu hai trăm
ngàn thôi, không hơn”.
Tất cả bằng thứ tiếng Anh lủng củng, do hai cậu thộn thả sức
pha chế theo kiểu cách hết sức độc đáo, chỉ có Chúa mới biết họ có bịa quá mức
hay không.
Xin ghi nhận cái cách họ lái câu chuyện tới vấn đề giá cả
sang nhượng. Trong thực tế Lamm chưa lần nào đặt giá. Còn hai cậu thì hết sức
tránh hỏi về giá cả. Chỉ có một lần nói đến tiền, đó là Lamm hỏi về khả năng của
khách hàng, Li và Liu trả lời: “Hai triệu đôla”. Đến hôm nay, sau khi xem đất,
hai cậu giả bộ coi giá đó do Lam đặt ra từ trước. Trong lúc chuẩn bị kế hoạch,
Li và Liu tỏ ý không thể có sự hiểu lầm như thế được nhưng tôi bảo: “Cứ thử
xem, có mất gì đâu!”.
Sự thật thì khi nghe nói con số một triệu hai trăm ngàn,
Lamm đứng trước ba hướng giải quyết. Hắn có thể cãi là chưa hề nói đến tiền
nong, bây giờ bàn bạc tính toán với nhau xem - một nhà kinh doanh tử tế (chà,
chà...) sẽ xử sự như vậy - hắn có thể nín thinh coi sự hiểu lầm kia là của trời
cho, hắn có thể vật nài đòi thêm, vốn là một tên gan lì tướng quân và vô đạo đức,
tuy làm đầu nậu trong ngành xây dựng, hắn chọn hướng thứ ba.
- Không thể dưới triệu rưỡi.
Sau này Li và Liu kể lại: Lúc đó hai cậu giả bộ bàn cãi với
nhau bằng tiếng Tàu, kéo dài không dứt cốt để nuôi câu chuyện và nhất là để
tránh khỏi phá lên cười như điên, họ đọc cho nhau nghe bài thơ từ thế kỉ XVI
thuật lại những nỗi gian truân xé lòng của một nữ nhân vật bị bọn người rồng
săn đuổi. Mãi mới nói được:
- Ngã giá một triệu năm trăm ngàn. Nhưng với điều kiện ông
chịu phi tổn làm đường và rào xung quanh đám đất.
- Đồng ý! - Lamm ngỡ mình nghe lầm và tự nhủ vận may kì diệu
lâu nay vẫn tin tưởng và mong đợi cuối cùng đã đến.
- Chúng tôi muốn có bức tường xây quanh và bốn cửa ra vào.
Phải ghi tất cả vào hợp đồng!
Được thôi, không được phép xây cất trên đó, nhưng chẳng có
điều khoản nào cấm đoán việc quây rào.
- Đồng ý! - Lamm nhận lời.
Sự ưng thuận trị giá chín mươi lăm ngàn đôla, Li và Liu đòi
làm những chiếc cửa đồ sộ có rồng chầu theo mẫu họ đã có sẵn - sự trùng hợp thật
lạ - và hàng đàn rồng trên tường rào cao trăm mét, cứ mỗi trăm mét rào phải có
một con rồng. Lúc ấy Lamm chưa hiểu ý nghĩa của chi tiết này. Hắn đang lo nghĩ
đến chuyện khác: Hắn đang bận bán mảnh đất chưa do hắn làm chủ sở hữu, tuy đã hứa
nhưng Benharoun, vẫn chưa gọi lại, và chuyện này diễn ra ngày thứ tư trong khi
phải đến thứ ba tuần sau hắn mới mua được đất từ tay Benharoun. Nên hắn thấy lo
lắng bồn chồn, và sẽ tỏ ra vội vã khi bàn tính chuyện sang nhượng với tôi.
Hắn hỏi hai cậu Tàu:
- Các anh định bữa nào ký hợp đồng?
- Lất nhanh, chúng tôi phải ti Sài Ghềnh lất nhanh tể thăm
ông pà êu quí.
Lamm tủm tỉm. Hắn đã quen với thói nhào lộn này rồi, đã chứng
kiến nhiều cuộc như thế. Việc của hắn bây giờ là thật nhanh chóng tìm gặp tên
ngu si đần độn Benharoun, mua lại mảnh đất kia với giá hời. Vả lại, chính tên
ngu si đần độn này sắp gọi đến ngay đây.
Chẳng may cho hắn: Benharoun biến đi đâu mất trong sáu ngày
liền và chỉ xuất hiện vào thứ ba tuần tới. Lúc này Lamm chưa biết điều đó. Hắn
đưa hai cậu Tàu trở về San Francisco. Hai cậu thộn đòi hắn phải sớm khởi công
làm đường xây tường. Lúc đầu Lamm khước từ: “Tôi không thể xuất khoản tiền như
thế mà không có đảm bảo. Ngộ nhỡ các anh không mua nữa?”. Họ thỏa thuận Li và
Liu trả trước một trăm năm chục ngàn đôla, Lamm trao bản cam kết bán đất rút gọn,
chỉ ghi tọa độ mảnh đất thuộc sở hữu chủ Elbert tại Tamalpais. “Có điều là”,
hai cậu Tàu nói ngọng nghịu khó hiểu, “chúng tôi phải lên đường ngay thứ hai tuần
tới, ngày 14, nên nhất thiết phải hoàn tất giấy tờ trước ngày đó”. - “Thời hạn
quá gấp!”, Lam nằn nì - “Người chủ mảnh đất vịnh Half Moon sẵn sàng kí ngay bây
giờ”, các chàng Con Trời đáp lại. Lamm phải nhượng bộ, chắc mẩm sẽ giật được của
tôi trước kì hạn đó. Nhưng hắn sẽ không làm được chuyện này vì như bạn đọc đã
biết, tôi chỉ xuất hiện với cái tên Benharoun, vào ngày hôm sau. Tuy nhiên lúc
này vì sợ hỏng ăn nên trong ngày thứ hai, 14, hắn đã kí bản cam kết bán đất, nhận
một trăm bốn lăm ngàn đôla và do đó phải thực hiện cái công trình rào chắn theo
đòi hỏi bên mua. Và tất nhiên, vì không thể bán trong ngày 14 một thứ không thuộc
quyền sở hữu, hắn viện cớ giờ kí kết quá muộn nên để ngày lấn sang thứ ba, 15.
Dưới danh nghĩa công ty Panama tôi kí bán đất cho tên Lamm
ngày thứ ba, 15. Ngày hôm sau 16 tôi tới Sacramento thủ phủ và nơi đóng các cơ
quan chính quyền bang California với chiếc cặp đựng sáu chục ngàn tiền mặt của
hắn đưa. Các sấp bạc vẫn còn nguyên băng bảo đảm mang dấu ngân hàng của hắn.
Trước khi rời San Francisco tôi đã hoàn tất mọi thủ tục giải
thể công ty Panama, toàn bộ khoản có của công ty gồm năm trăm sáu chục ngàn
đôla tiền bán đất được chuyển vào một tài khoản đánh số ở Bahamas.
Chiều thứ tư, 16, tôi gửi sáu chục ngàn tiền mặt vào tài khoản
của người ở đây tôi gọi là gã Sacramento. Trên thực tế tôi không tự mình đi mở
tài khoản, nhường vinh dự đó cho bạn Sasplan; nhân dịp này anh ta chưng một đôi
kính đen và một bộ ria giả. Trong lúc bốc lên anh ta còn định dán thêm một túm
râu nhưng tôi phản đối: Vốn dĩ bộ mặt anh ta đã có vẻ tướng cướp rồi, thêm vào
sợ người ta tưởng anh vào cướp ngân hàng.
Ngay từ tối thứ hai 14, Li và Liu đã rời San Francisco đi
Tokyo có việc riêng. Chi tiết về ngày giờ lên đường của họ rất quan trọng. Trên
máy bay hãng Pan Am, mọi người đều chú ý đến họ: Phi hành đoàn chẳng mấy khi có
dịp chở trên đôi cánh của mình những hành khách ngồi ghế hạng nhất, có hai người
nhưng mua những mười hai chỗ chỉ để được thoải mái chơi cờ trên chiếc bàn cờ mỗi
cạnh dài hai mét; bàn tháo rời ra được, quân cờ điều khiển từ xa.
Đến Tokyo hai cậu có ngay những cuộc gặp gỡ làm việc. Cũng
là chi tiết rất quan trọng. Cộng vào với hành tung lạ mắt trên chiếc máy bay. Tất
cả đều chứng minh không thể bàn cãi gì được rằng ngày thứ ba, 15, hai cậu không
hề có mặt ở San Francisco nên không thể đặt bút kí vào bản cam kết bán đất, do
đó bản cam kết này đã bị đề ngày lấn sang hôm sau, vì vậy nó không hợp pháp.
Li và Liu sẽ ở xa San Francisco trong nhiều tuần lễ vì những
công việc hoàn toàn riêng của họ. Tuy nhiên, qua tay những người được ủy quyền,
họ vẫn không ngừng gây sức ép buộc tên Lamm phải thực hiện đầy đủ và nhanh
chóng các công trình qui định trong bản cam kết đã kí.
Công trình sẽ hoàn tất ngày 21 tháng chạp.
* * *
Trong những ngày đầu tháng chạp ấy, tôi trọ ở đây, thuê
phòng trong khách sạn Fairmont dưới tên thật hẳn hoi: Cimballi. Tại đây, trên
những đỉnh cao uy nghiêm của Nob Hill, tôi gặp người tên là gã Sacramento. Cuộc
đấu không dễ dàng, và nếu không dựa vào hoạt động có hiệu quả của các điều tra
viên do đồng nghiệp của Marc Lavater cung cấp.
- Anh định dọa tôi chắc?
- Mới cách đây vài hôm anh vừa nhận sáu chục ngàn đôla. Số
tiền vừa do Sydney Lamm rút ở ngân hàng của hắn ra hôm trước.
Nhân vật cỡ bự này sửng sốt, chối, rất thành thực vì chưa biết
có tiền đổ vào tài khoản của mình. Tôi dí vào mũi hắn tờ biên lai ghi nhận số
tiền mặt và nhiều giấy tờ khác tuy không có mấy ý nghĩa nhưng ít ra cũng chứng
minh hắn có tài sản đánh số tại một ngân hàng Thụy Sĩ và một nữa ở ngân hàng
Nassau. Dù không thuyết phục được cũng làm hắn dịu giọng.
Tôi nói:
- Chỉ yêu cầu anh nghe tôi.
- Anh muốn tôi phải làm gì?
- Trước tiên, xin nhận cho một trăm ngàn đôla của tôi đưa
cho anh xài đỡ, tùy anh thích phương tiện chi trả nào cũng xong. Một. Hai là: Gửi
trả lại Sydney Lamm số tiền gã cả gan gửi cho anh. Ba: Anh làm việc đó công
khai, làm thật rùm beng náo loạn lên cho. Bốn: Cũng làm rùm beng như thế để
thiên hạ biết rằng tên khốn kiếp kia định mua anh nhằm để anh can thiệp vào miếng
đất Tamalpais, đòi quyền xây cất trên đó. Năm: Anh vận động thật mạnh mẽ, có hiệu
quả và hết sức công khai đòi chính quyền tuyên bố: Vĩnh viễn không được xây cất
trên miếng đất Elbert ở Tamalpais, biểu tượng thiêng liêng cho di sản quốc gia
về sinh thái của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Nhân tiện xin nói luôn, làm như thế
anh sẽ tỏ ra là con người liêm khiết, trở thành vệ sĩ của thiên nhiên, người
chiến sĩ đấu tranh quyết liệt chống tham nhũng và sẽ rất có lợi cho sự nghiệp
chính trị của anh. Thêm vào đó, được nhận một trăm ngàn đôla trong bí mật hoàn
toàn. “Dân chủ muôn năm”.
Tin này vừa được phơi bày trên trang nhất các tờ báo, tốp luật
sư được Li và Liu giao trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của họ lập tức nhảy vào vũ
hội: Phát đơn kiện Lamm tội lừa đảo bằng nhiều thủ đoạn: Không báo cho khách
hàng biết việc cấm xây cất (tờ cam kết bán đất rút gọn không ghi điều này), nhất
là đã bán từ thứ hai ngày 14 mảnh đất mãi đến 15 mới mua về tay mình, là một việc
sai trái. Tình thế của Lamm trở nên hết sức bi đát khi người ta phát hiện, gã
có tên là Benharoun bán mảnh đất cho hắn với giá sáu trăm ngàn đôla theo lời hắn
khai thực ra không hề tồn tại: Các phiếu đăng kí nhập cảnh không hề có vết tích
của gã. Càng nguy ngập hơn khi có một tay nhà báo có ác ý, kì thực anh ta nhận
được cú điện thoại của một kẻ nặc danh - đây là lần tham gia tốn ít tiền nhất của
tôi - gợi ý rằng cả công ty Bahamas đã mua đất lần đầu lẫn công ty Panama đã đứng
ra mua lại rồi bán cho Lamm với giá sáu trăm ngàn đôla đều là những công ty do
Lamm dựng nên. Sao lại không? Cả hai công ty đều bị giải thể chẳng còn lại dấu
vết. Tay phóng viên còn đế thêm: Xét đến cùng, đó chẳng qua chỉ là thủ đoạn tên
khốn kiếp Lamm thực hiện để trấn lột mấy chú Tàu khốn khổ, nạn nhân của cộng sản
Việt Nam. Lamm đã tìm cách đẩy cho họ mảnh đất lấy một triệu rưỡi đôla, mới mua
cách đây chưa đầy hai tháng mất có hai trăm năm chục ngàn!
Quân bip bợm! Gã Sacramento thấy ngày bầu cử đến gần - Lúc
nào mà chẳng có ngày bầu cử sắp đến - bèn ra sức bắn phá kịch liệt. Gã hoạt động
đến là giỏi. Tôi cũng không chịu kém, đến tận thực địa Tamalpais lâu nay chỉ mới
ngó qua. Thiên nhiên ở đây đẹp thực sự, thật đáng căm giận kẻ nào dám xây cất tại
đây bất cứ cái gì làm hỏng mất vẻ đẹp đó. Tôi moi được một cụ già và một con
chó chăn giữ ba bốn chú cừu. Tôi làm những việc cần thiết: Cả người và chó, và
cừu đều lên truyền hình, “đấy, những sinh mạng mà cuộc sống bị họ đe dọa! đấy,
những kẻ đang bị bọn Sydney Lamm tiến công!”. Tôi bỏ tiền thuê phát sóng, và nặn
ra nước mắt của nửa số dân California.
Tất cả những cái đó khiến Sydney Lamm khốn đốn. Mặc dầu hai
cậu Tàu tỏ ra độ lượng - không phải vì tình thương mà vì Li và Liu chưa hề đặt
chân đến Sài Gòn bao giờ nên không muốn được thăm hỏi nhiều - nên đã rút đơn kiện
với điều kiện tên Lamm chịu hoàn trả một trăm năm lăm ngàn đôla cộng với khoản
bồi thường cũng bằng chừng ấy nữa. Gã Sacramento cũng chấp nhận hòa giải, với
hai trăm ngàn đôla cho vào quĩ trẻ em tật nguyền và các quĩ từ thiện khác. Lamm
thoát nạn, chỉ phải chịu xử phạt về nguyên tắc. Nhưng cũng chết dở: Hắn mất
trong vụ này độ một triệu một trăm ngàn đôla theo ước tính của tôi. Tôi kiếm được
có hai trăm ngàn. Vì phải chịu quá nhiều phí tổn.
Dù sao Lamm vẫn còn mảnh đất Tamalpais. Hắn vẫn là chủ nhân.
Và vẫn còn quyền lợi được đến ngắm nghía hàng trăm con rồng chầu, một đàn rồng
thật sự ghê tởm!
Phần việc còn lại do gã Sacramento ra tay. Gã cao giọng
tuyên bố:
“Không được xây cất trên miếng đất này trong năm trăm năm nữa!”.
Giọng gã run lên trong cơn phẫn nộ tràn trề đạo đức, gã, “Người Liêm Khiết”
không ai mua chuộc nổi!
4
Tôi đã thỏa thuận với Robert Zarra giữ liên lạc thường
xuyên. Hắn đòi tôi phải có cách nào để khi cần hắn có thể gặp ngay được, tuy điều
đó có thể sau nhiều tháng nữa mới xảy ra. Cuối cùng chúng tôi ấn định một số
máy ở Las Vegas, thỉnh thoảng tôi sẽ gọi tới đấy báo chỗ đang ở và thời gian ở
đó.
Đã qua nhiều tuần, thậm chí nhiều tháng kể từ khi tôi gặp
Zarra ở Nassau trong một buổi đi câu cá sôi động. Tưởng việc này đã bị chôn
vùi, tôi đánh dấu chữ thập cạnh số tiền một triệu đôla đáng lẽ hắn phải trả cho
tôi. Nhưng tôi đã làm khởi động một trình tự khắc nghiệt. Trong những ngày đầu
tháng chạp ở khách sạn Fairmont trên đồi Nob Hill, bữa tôi vừa mới bàn cãi với
gã Sacramento xong thì điện thoại reo, giọng người lạ:
- Người bạn câu cá với anh ở Bimini nhờ tôi gọi cho anh. Anh
còn nhớ người đó không?
- Nhớ.
- Anh ta hỏi anh có tạt qua Las Vegas được không?
- Bao giờ?
- Càng sớm càng tốt. Chỉ mất độ vài tiếng thôi.
Tôi nghĩ rất nhanh. Đợi làm gì nữa?
- Mai.
- Sẽ giữ cho anh dãy phòng ở khách sạn Caesar.
Ít nhất họ cũng tỏ ra chu đáo. Tôi đến Las Vegas vào khoảng
trưa, mọi việc xảy ra tuồng như họ mắc camera theo dõi tôi ngay cả trong buồng
tắm: Tôi vừa bước ra khỏi gương sen khoác chiếc áo choàng lên vai đã thấy họ
kéo đến. Ba người, nhưng chỉ một gã ra lời khoảng ba lăm tuổi, giòng giống La
Tinh, ria tóc được tỉa tót bảnh bao, vai rộng nhưng không cao hơn tôi mấy. Có
thể tên gã là Capone hoặc Palermo, ở đây tôi gọi là Ximenez.
- Thưa ông Cimballi, công việc của chúng tôi là tổ chức và
duy trì những cuộc bãi công tự phát và hợp pháp của người lao động. Hiện chúng
tôi đang hoạt động và xúc tiến mạnh ở Nam Mỹ. Chúng tôi được biết ông rất quan
tâm đến công việc của chúng tôi.
Gã có cặp mắt đen, tròn, khít nhau nhìn chằm chằm không động
đậy trông rất lạ, gây ấn tượng mạnh. Nhắc lại lời gã như vừa rồi thật ra tôi
làm thay đổi tính cách gã. Trong thực tế gã hóm hỉnh như cái cối xay rau. Nếu
vô phúc tôi cắt ngang giữa chừng câu gã đang nói, gã liền nói lại từ đầu với
thái độ nghiêm trang chết người. Rõ ràng gã được người ta sai đến báo cáo với
tôi để làm tôi vững tin rằng một triệu đôla tôi đã đưa và triệu nữa tôi còn phải
nộp không bị tiêu phí vô ích. Và giải thích cho tôi hiểu tại sao, như thế nào,
trong những hoàn cảnh mà gã và bọn tay chân sẽ tập trung cố gắng nhằm phá các mối
lợi của nhóm Hovius và Donaldson ở Chile. Gã nắm được bản danh sách tổng hợp tất
cả các mối lợi đó, không bỏ sót một nhà máy, một chiếc xe tải, thậm chí một máy
chữ nào của chúng.
Nhân tiện cần nói rõ: Nhờ vậy tôi đánh giá rõ hơn mức độ
thâm nhập vào Chile của Hovius, và tên cộng tác viên người Scotland. Bắt đầu từ
một phát kiến của Hovius, một nhân vật lạ lùng người Áo Hung mang quốc tịch
Argentina. Tuy hắn rất thân thiết với các chiến hữu trong nước và hầu hết các
nhà độc tài Châu Mỹ La Tinh nhưng lại hãnh diện được là bạn thân của Castro và
thời niên thiếu của Guevara, những điều mà Lavater báo cáo là cần phải xác
minh. Hình như hắn tin chắc một ngày kia “Chủ nghĩa đế quốc Mỹ” sẽ lùi bước, bắt
chước cách nói của Castro. Và làm mọi người tin như hắn rằng, ví dụ ở Chile, có
đến ba phần tư các công ty vô danh thực ra là của một nhóm duy nhất gồm ngân hàng
Rockefeller, ITT, ngân hàng Edwards, ngân hàng Nam Mỹ và ngân hàng chỉ có trên
lý thuyết của Chile; và làm mọi người tin thêm rằng lợi nhuận do các công ty Bắc
Mỹ như Bethlehem Steel, Anaconda Copper thu được ở Chile nhiều gấp bốn lần tổng
sản lượng quốc dân của nước này. Hovius tự coi là sứ giả thực hiện nền kinh tế
thống nhất của toàn Châu Mỹ La Tinh do hắn làm trung tâm, nhằm phục vụ lợi ích
của hắn, tất nhiên là làm thiệt hại bọn Bắc Mỹ, về lập trường chính trị hắn
cũng khuynh chủ nghĩa xã hội như Robinson Crusoe, còn mụ vợ người Chile lại
thiên tả, điều thật tức cười khi biết rằng mụ đang trị vì độ hai chục đầy tớ.
- Trong lúc này, - Ximenez nói, - chúng tôi có ý để họ yên,
cốt cho họ tin tưởng. Rồi bất thình lình giáng đòn xuống, làm nổi bùng một cuộc
bãi công làm họ tê liệt hoàn toàn. Và cuộc bãi công kéo dài, kéo dài...
Hovius dám chấp nhận rủi ro, lạ hơn nữa là đã kéo theo được
Donaldson. Hắn cho rằng với việc Salvador Allende lên nắm chính quyền, một kỉ
nguyên mới sắp bắt đầu, đã có dấu hiệu một đợt triều dâng sẽ đưa hắn cặp bến. Hắn
cùng với Donaldson bỏ vào đất nước bị xâu xé này đến ba chục triệu đôla, theo ước
tính của tôi và Lavater. Tuy không tán thành việc tôi nhờ đến tay Mafia; cùng với
CIA là kẻ chủ mưu những cuộc bãi công ở Chile, nhưng Lavater nhất trí với tôi
trong đánh giá tình hình: “Cả Hovius và Donaldson đều đã lún rất sâu. Tuy vậy
chúng vẫn còn có khả năng rút được chân ra, dù bị thua thiệt rất nhiều tiền
nhưng vẫn thoát ra khỏi trận ẩu đả mà không bị đổ vỡ hết. Trò chơi nhằm giữ chân
chúng một thời gian đầu bên Chile bằng cách nhử cho chúng lầm tưởng có thể đứng
vững bên đó dù cho vật đổi sao dời. Đến một lúc nào đó chúng sẽ nhúng sâu đến nổi
không thể bỏ cuộc được nữa. Lúc ấy chúng chỉ còn nước hoặc thắng hoặc chết, lâm
vào cảnh bỏ thương vương tội, chúng sẽ buộc phải quẳng thêm vốn vào. Không có
cách nào khác. Nhưng của cải không phải thứ bất tận trong tay chúng. Cùng lắm.
Hovius có thể thuyết phục Yahl can thiệp, nhưng tôi không tin chắc điều đó có
thể xảy ra. Vì Yahl thính nhạy hơn ai hết sẽ đánh hơi thấy ngay tình thế nguy
ngập. Và sẽ không ngần ngại bỏ rơi những kẻ cộng tác với hắn. Hắn không phải
con người đa cảm.
- Này Franz, có lẽ sự can thiệp của anh trong vụ này chỉ có
ý nghĩa tượng trưng. Nhưng biết đâu đấy! Có khi đó lại là cú kết liễu, là giọt
nước làm tràn bình nước.
Ximenez chăm chú nhìn tôi, tôi bỗng nhận ra hắn đã ngừng nói
được mấy giây rồi.
- Điều tôi đòi hỏi là các anh phải hành động như thế nào đó
để chúng bị sa lầy đến tận cổ không có đường nào thoát. Phải giăng bẫy theo hướng
đó.
Cặp mắt đen tròn chằm chằm đáng ngại dán vào tôi với vẻ sửng
sốt lạnh băng:
- Thưa ông, đó chính là điều tôi vừa nói là sẽ làm bằng được.
* * *
Vài ngày nữa đến lễ Noel. Đột nhiên ý nghĩ phải ở lại một
mình tại California, vắng Li và Liu làm tôi không chịu nổi. Việc xử tên Lamm
đang tiến hành theo đúng dự tính, bẫy đã giương sẵn và sắp sập rồi, tôi có thể
rời đi nơi khác, vả lại cuộc gặp vừa rồi tại khách sạn Caesar ở Las Vegas vẫn
đang đè nặng tâm trí, nó làm tôi mệt đừ như sắp ốm.
Ngày 20 tháng chạp tôi trở về Paris, viếng thăm trước tiên
ngôi nhà trên đại lộ Ségur. Chỉ thấy ông “Bố Dượng Vợ Tương Lai” ở nhà một
mình. Mẹ con cô Catherine không có mặt ở Paris. Ở đâu? Ông ta ngập ngừng không
cho biết, chắc bị nghẹn lời vì thấy tôi đáng phục và đáng yêu quá đỗi.
“Catherine vừa mới tròn mười tám tuổi. Hãy để nó yên!”. Nàng ở đâu? Tranh luận
một lúc, dàn hòa với nhau, cuối cùng ông mới chịu hở ra là hai mẹ con sang
Maroc tới Marrakech mừng lễ Giáng Sinh, chính ông cũng sang đó sau vài ba ngày
nữa. Tôi nhảy lên chuyến bay đầu tiên, xuyên qua bầu trời cuối năm xám xịt lạnh
lẽo không chịu lấy đi giùm tôi khối u sầu đè nặng trong lòng. Tôi gặp lại
Catherine và bà mẹ trong bộ áo tắm, cả hai đều xinh đẹp như nhau giữa khung cảnh
tuyệt diệu vùng La Mamounia.
Bố dượng em, ông xã bà, đã tha thiết vật nài tôi dự tối
réveillon với bà và cô. Nhưng hình như ông lại khẩn khoản vật nài tôi đừng tới.
Ông đã lấy thân mình cản bước tôi vượt qua được trở ngại. Xin tiết lộ điều bí mật
này: Tôi vô cùng sung sướng bội phần được gặp bà và cô. Thật may cho tôi quá,
tình cờ sao lại qua Marrakech ngày hôm nay trên đường từ Bourg Bresse đi Sioux
Falls.
Tôi có mang theo quà biếu. “Mẹ Vợ Tương Lai” được món đồ
chơi bằng sứ, vùng Amsterdam, năm 1771; “Mẹ Vợ” thích chí vì bà chơi sưu tập đồ
cổ, xác định đó là một Oude Loosdrecht hoặc một thứ đại loại như vậy. Bà mắng
tôi: Thằng khùng, món quà này quá đẹp. Rồi ôm hôn tôi như thể là mẹ tôi, làm dậy
trong tôi một cảm giác không bình thường.
Mới ngày 21 tháng chạp “Bố Dượng Vợ Tương Lai” lại không có ở
đây, trừ khi ông ta đã cải trang thành lạc đà binh để rình tôi, nên chúng tôi
kéo nhau đi một vòng sang bên kia dãy Atlas, theo hướng chính nam về phía sa mạc,
thăm Ouarzazate và Tineghir. Khách sạn ở Tineghir có hàng hiên rất rộng nhìn ra
cảnh ốc đảo, cảnh hoàng hôn tuyệt vời. Tối hôm tới đây, bà mẹ thu xếp để hai
người ở đấy với nhau vài phút. Bà nói:
- Tôi có chuyện nói với anh, không gấp gì nhưng vì anh hiện
ra rồi biến mất nhanh đến nỗi tôi không tin mình có kịp thì giờ nói trọn câu với
anh, nên phải nói ngay, về việc Martin Yahl. Anh Franz này, tình cờ tôi quen biết
Yahl từ lâu rồi. Tôi biết vì sao anh ghét lão, biết rõ hơn anh tưởng cơ, nhưng
nó không phải là chính. Cái chính là điều này: Cách đây chưa lâu, vợ chồng tôi dự
một bữa ăn tối có Yahl cùng ăn. Trong câu chuyện có nhắc đến tên anh hoặc gia
đình anh. Tôi nhanh chân sút ngay một cú dưới gầm bàn, cú sút có thể giúp đội
tuyển Pháp thắng đội tuyển xứ Wales trong giải Năm Quốc Gia. Ông nhà tôi trông
thế nhưng không đến nỗi quá ngu, ngồi im re, tuy ông cũng cảm thấy rõ như tôi:
Lão Yahl căm anh lắm, căm như con bệnh tâm thần hoang tưởng ấy, cũng như anh tỏ
ra căm ghét lão ta. Tôi không thích thế, tình hình này làm tôi sợ. Tôi muốn nói
với anh hai điều; điều thứ nhất, anh phải cẩn thận, một người như Yahl là địch
thủ đáng gờm đấy, điều thứ hai liên quan đến Catherine và anh. Tôi cũng mong muốn
anh cưới Catherine làm vợ, nó không phản đối đâu, trái lại là khác. Nhưng hai mẹ
con thống nhất với nhau: Chưa cưới bây giờ, chừng nào anh vẫn còn trong tình trạng
này.
* * *
Tháng giêng tôi trở lại San Francisco. Vụ tên khốn kiếp
Sidney Lamm, tên đần độn vô liêm sỉ kết thúc trong mùa xuân này.
Thời gian trôi qua, tôi chẳng làm được việc gì ra hồn. Li và
Liu khám phá được một đạo diễn trẻ họ coi là bậc thiên tài đang mơ làm bộ phim
siêu vĩ đại, diễn tả cuộc chiến tranh trên các vì sao giữa những thế giới tưởng
tượng trong tương lai huyền thoại với những cảnh trí quá sức tưởng tượng và những
nhân vật làm khán giả ngủ gật. Dự án này làm hai cậu thộn mê mệt.
- Các cậu đã có lần nói với mình về một trò giông giống thế
này rồi thôi?
- Có, nhưng bây giờ sẽ thực hiện. Chúng tôi sẽ đầu tư.
Họ bỏ vốn khắp nơi, nhất là bên Nhật nơi họ tiếp xúc với một
xí nghiệp điện ảnh đang dự định làm nhiều bộ phim hoạt hình cho các buổi phát
sóng dành cho thiếu nhi của đài truyền hình. Đầu tư vào sản xuất robot ở đây và
ở khắp nơi, vì đây là Li và Liu. Ngôi nhà ở đồi Telegraph, kho hàng ở Berkeley
đầy tràn robot. “Anh Franz đến làm ăn với chúng tôi”. Tôi cân nhắc, cuối cùng từ
chối, tôi không làm ăn được với robot.
Thời gian qua đi, tôi càng thấy căng thẳng, băn khoăn, gần
như lo lắng. Đến Las Vegas thêm hai lần nữa, nghe báo cáo kết quả của việc bỏ vốn
như nghe hãng quảng cáo báo cáo với khách hàng. Những kẻ thuyết trình với tôi
luôn thay đổi lời lẽ nhưng cảm tưởng của tôi vẫn thế: Hiệu quả chỉ là con số
không lạnh lẽo, chúng thích thú coi thường thằng cha tài tử là tôi; và càng
ngày tôi càng thấy rõ hơn là mình đã lao đầu vào cuộc phiêu lưu trong đó mình tỏ
ra bất lực, nó vượt quá khả năng của tôi, khác lạ với sở thích của tôi, vì cuối
cùng khi kết thúc tôi sẽ trở thành nạn nhân theo cách này hoặc cách khác. Nhưng
không thể lùi lại được nữa. Thật điên rồ!
Những kẻ tiếp chuyện tôi cam đoan mọi sự điều tốt đẹp,
“trong khung cảnh nền kinh tế của nước này đang suy thoái”, nhóm đang “bị tôi
hãm hại” thật sự phải bị động lao theo một chiến lược được đặt ra với tác dụng
nhấn chìm ngày càng nhiều vốn liếng của chúng.
- Thưa ông Cimballi, số vốn đó dù lớn đến đâu cũng sẽ mất
tiêu hết, đảm bảo như vậy. Chuyện này sẽ làm chúng mất rất nhiều tiền.
Họ nhấn mạnh: Sẽ thực hiện đầy đủ lời cam kết của Robert
Zarra, người đại diện của họ. Ngụ ý: Này Cimballi, hãy thực hiện đúng lời cam kết
của anh, chúng tớ không chịu để anh quịt đâu!
Tôi không nghi ngờ điều đó.
* * *
Mùa xuân, Sidney Lamm vào tù, tôi rời San Francisco, đi
Bahamas. Ở đấy cũng theo dõi được mọi diễn biến bên Chile không kém ở bất cứ
đâu. Để giết thì giờ, tôi buôn bán qua quýt, làm quen dần với cơ chế thị trường
chứng khoán, đổi mark lấy đôla, mua franc Thụy Sĩ bán đồng yên, mua florin bán
đôla hoặc vàng, cứ thế quay vòng liên tục. Cũng hay hay, và có lãi, chẳng nhiều
lắm nhưng cũng đủ trả tiền trọ và vé máy bay.
Robert Zarra đã đi khỏi Nassau. Vòng tay che chở của bọn
Mafia không đủ chắc, hắn đã quá lộ mặt, cảnh sát Mỹ bắt đầu để ý. Hắn chỉ huy một
đội quân riêng đông đến mấy trăm tên đến đóng bản doanh trong một dinh cơ rộng
như một vương quốc nằm giữa một nước cộng hòa Trung Mỹ, ở đó thế lực tài chính
và sức mạnh quân đội của hắn cân bằng với quyền lực vị nguyên thủ quốc gia là một
người còn ít băn khoăn về đạo đức hơn cả hắn. Chẳng bao lâu sau, cơ quan CIA vốn
không hay thù vặt đến liên lạc với hắn, nhắc cho hắn nhớ mình là người Mỹ nên
có bổn phận giúp đỡ tổ quốc bằng cách dựng lên ở đất nước đến ngụ cư một tấm lá
chắn chống cộng thật vững.
Zarra yêu nước như quỉ sứ, nhận lời ngay, tận dụng triệt để ảnh
hưởng của gã, đánh đổi lấy những chuyến công du bí mật về nước Mỹ.
Mọi chuyện đều tốt đẹp và sẽ kết thúc tốt đẹp trong câu chuyện
thần tiên kì diệu này.
* * *
Tôi đi nhiều nơi, về cả London đến đặt những bông hồng lên nấm
mộ trong nghĩa trang Brompton. Về Mombasa và được Joachim, Chandra đón tiếp nồng
hậu làm tôi ấm lòng giữa lúc cô đơn này. Joachim đã nhượng lại dịch vụ cho thuê
xe hơi do tôi để cho, “nhưng mình sống khá lắm”, anh ta nói, người đung đưa từ
cẳng nọ sang cẳng kia. Tôi còn được biết anh ta đã trở thành lễ sinh (tội nghiệp
cho chúng ta) bên cạnh những gã Kikuyu to bằng hai quả chuối. Anh ta đưa tôi đi
săn dạo trong ba ngày liền, nhưng cương quyết từ chối không nhận của tôi một xu
nào. Tôi cũng đến thăm Chandra vẫn đang điều hành rất chặt chẽ theo kiểu Ấn Độ
công việc đổi tiền chợ đen của anh ta, cũng tức là của tôi nữa. Anh làm những
con tính theo thuật toán Einsteinien để xác định phần của tôi trong lợi nhuận.
- Đây là tiền của Ông Chủ Nhỏ.
- Thế Joachim? Không còn xu nào dính túi, đúng không?
Chandra công nhận: Giá Joachim chịu để cho anh ta giúp một
tay trong việc quản trị, nhưng tôi chẳng lạ gì Joachim phải không? Ngốc nghếch
trong làm ăn cũng như trong cuộc sống.
- Chandra này, mình không cần chỗ tiền này. Đưa cho Joachim,
nhưng đừng đưa cả một lần, chỉ đưa mỗi tháng ba trăm đôla chẳng hạn.
Tám ngày sau, tôi lại đến khách sạn Caesars ở Las Vegas gặp
Ximenez mắt kền kền.
- Thưa ông Cimballi, tôi đến báo tin: Sắp kết thúc đến nơi.
Chắc ông đã đọc tin, ở thủ đô đã ban hành tình trạng khẩn cấp, đã có một cuộc nổi
dậy của quân đội tuy chưa đáng kể, nguyên thủ quốc gia đòi được toàn quyền hành
động nhưng không được chấp thuận. Mọi việc đang diễn ra rất đúng.
Có lẽ câu kết đã khiến tôi nổi giận, hoặc thái độ dương
dương tự đắc của hắn, hoặc ý nghĩ mình chẳng còn gì đáng để mất nữa, dù thế nào
đi nữa tôi cũng trả lời hắn:
- Tôi không thể trả tiền một việc chưa làm. Tôi công nhận bọn
nó đã bị thua thiệt và đang tiếp tục thua thiệt nhiều tiền bạc ở Chile trong mấy
tháng gần đây. Điều tôi nghi ngờ là phải chăng những tổn thất này là hậu quả cuộc
tiến công trực diện mà tôi trả tiền? Thật ra chúng chỉ là nạn nhân của tình
hình chung.
Ánh nhìn đen nháy xuyên qua tôi.
- Tôi chỉ trả tiền nếu đáng trả. Tôi muốn Hovius và
Donaldson mất hết, đến chiếc sơmi cuối cùng.
- Nếu có cách nào hiệu nghiệm.
Tôi bất giác cười:
- Có. Có một cách.
Vừa trình bày vừa phát triển ý kiến:
- Hovius và Donaldson cùng phe lũ đã đầu tư nhiều chục triệu,
có lẽ bốn mươi triệu đôla, chúng đã mất một số kha khá, có thể hơn một chút...
Sẽ còn bãi công nữa. Thợ mỏ vẫn đang bãi công. Và một cuộc vận động lớn đang...
Chúng còn sẽ mất thêm tiền nữa, tôi công nhận. Mất cho đến ngày chúng rút ra.
Chúng sẽ nghèo đi nhưng chưa đến nỗi khánh kiệt. Mà tôi thì muốn chúng bị khánh
kiệt. Tôi trả tiền cho sự khánh kiệt ấy, không thì thôi.
Hắn vẫn nhìn tôi, rất thản nhiên:
- Cách đó như thế nào?
- Hãy tiếp xúc với Hovius, anh, hoặc một đại diện của nhóm sắp
làm đảo chính. Hé cho Hovius thấy khả năng “La Tinh hóa” nền kinh tế tương lai
của Chile, đó là món hắn ưa thích, là khả năng để tên hợp tác với hắn và nhất
là hắn ta, người Argentina, có thể ở lại Chile sau khi thay đổi chế độ, và do
đó mà có thể lấy lại nhiều hơn số tiền đã bỏ ra.
- Ông đổi cho cái gì?
- Mười triệu đôla trả cho nhóm đảo chính hoặc cho anh. Đó là
chuyện của các anh.
Im lặng. Trong phòng có ba tên đương đầu với tôi, tôi thầm
mong trên mặt mình không lộ ra một nét nào của nỗi sợ hãi kinh khiếp đang dày
vò tôi.
- Chính quyền mới lên sẽ không giữ lời hứa, thế chứ gì, -
Ximenez hỏi.
Tôi cố bình tĩnh chịu đựng cái nhìn của hắn không nao núng,
và cũng không trả lời. Vả lại hắn cũng không đặt hẳn một câu hỏi. Có thể nói, hắn
suy nghĩ thành lời. Cuối cùng hắn nói:
- Tôi biết Hovius. Nó là một thằng dám liều mạng.
Lại im lặng kéo dài. Cặp mắt kền kền trùm lên người tôi và lần
đầu tiên tôi không thấy trong đó có ánh khinh bỉ từ nãy vẫn le lói.
- Tôi nhận được lệnh phải hoàn toàn thỏa mãn ông, - cuối
cùng Ximenez kết luận.
* * *
Tình hình diễn biến rất lẹ.
Ngày 25 tháng Bảy nổ ra cuộc bãi công khổng lồ của lái xe tải
và lái xe công cộng toàn lãnh thổ Chile, hai ngày sau sĩ quan tùy tùng của
Salvador Allende bị giết hại, sau đó là một loạt sức ép, phá hoại, đe dọa kéo
dài suốt nửa tháng Bảy, cả tháng Tám sang đầu tháng Chín.
Allende bị giết.
Tôi không vui khi nhận được tin cái chết này. Dù bằng cách
nào đó, tôi hoàn toàn không dính líu chút nào.
Tôi càng không vui trước cái chết của Hovius, trong chừng mực
nó là hậu quả vô tình của các hoạt động của tôi. Hắn chết mười ngày sau khi Tổng
thống Allende bị giết hại, sau khi tất cả các nhà máy, đồn điền của nhóm hắn bị
tịch thu và giao về tay người khác, không có bồi thường. Hắn không chết ở Chile
mà ở Argentina, lộn cổ từ lầu chín xuống đất. Có thể hắn tự sát.
Một buổi sáng kia tôi còn nằm trên giường tại khách sạn
Britannia Beach ở Nassau thì bị dựng dậy. Hai gã còn trẻ, sạch sẽ, có dáng những
luật sư trẻ, quan trọng, thông minh và rất tự tin.
- Chúng tôi tới để thanh toán các khoản tiền ông đã hứa trả,
qua một hợp đồng miệng.
Bản “hợp đồng miệng” không làm chúng tỏ ra bối rối chút nào.
Tôi thừa nhận ngay:
- Số tiền là một triệu đôla.
Chúng cũng đã gật đầu như tôi, rất lịch sự:
- Thưa ông Cimballi, ông tính lầm rồi đấy, ông đã đòi khách
hàng của chúng tôi cấp thêm nhiều dịch vụ phụ với tiền công là ba triệu đôla.
Tôi nhìn chúng rồi nói:
- Cho tôi một giờ.
Một giờ sau tôi trả xong hết. Rõ ràng chúng nắm rất vững khả
năng của tôi, tính rất đúng số tiền tối đa tôi có thể xì ra. Mặc cả với chúng
thì cũng như cãi với biển thôi, chỉ khác ở chỗ: Không bao giờ biển đẩy được anh
rơi từ lầu chín xuống đất.
Hovius chết, Donaldson khánh kiệt hoặc gần như thế, theo tôi
nắm được chứng cớ: Martin Yahl cũng bị lây một ít vì lão nắm hai mươi phần trăm
cổ phiếu của nhóm này bằng những thủ đoạn che giấu thường lệ, tôi cũng khánh kiệt
chỉ còn trong tay độ một phần mười số tiền đã có. Bản tổng kết là như vậy.
Bản tổng kết không có gì đáng tự hào.
* * *
Tháng mười này ở New York trời nắng ấm, ban ngày tôi tản bộ
trong công viên Manhattan, “khu làm ăn”, như con chó lạc giữa đám đông chen
chúc dưới vực sâu mà thành vực là mặt tiền của các ngân hàng siêu cường. Tôi mở
một tài khoản ở La Chase, để có được niềm vui là khách của ngân hàng này dù chỉ
là trên lý thuyết, Tôi buồn vẩn vơ, lúc này ngày nào trong tuần cũng là ngày Thứ
Sáu Đen của tôi, phố Wall hiện ra trước mắt đúng như trong thực tế: Một cái ngõ
hẻm bẩn phát khiếp. Sáng nào tôi cũng tự nhủ: Phải thử làm một cái gì, tận dụng
đồng vốn cuối cùng để hoặc mở quán ăn hoặc khởi xướng một tôn giáo mới để thu
tiền đóng góp và quà biếu, lại được miễn thuế vì mình đã thành một đức Chúa Trời.
Bất cứ cái gì.
Tinh trạng này kéo dài.
Bỗng nhiên. Có những ý tưởng ta cảm thấy trước, cảm thấy nó
đang đến gần tựa như nhìn thấy người kỵ sĩ từ tận cùng thảo nguyên mênh mông
đang tiến về phía ta... Nói nôm na mánh khóe, có những ý tưởng nó vãi rắm vào mặt
ta.
Tôi thơ thẩn trong làng Greenwich, đi từ ghế này sang ngồi
ghế khác trên quảng trường Washington, ngắm xem các con sóc đen lạ mắt. Trước
đó tôi đã đảo qua theo lệ hàng ngày đến Sở Hối Đoái New York và thấy rõ mình
đang hoặc gần đang trở thành thằng ăn mày đến nơi.
Vũ khúc Cimballi chỉ còn là điệu valse chậm.
* * *
Hắn tên là David Sussman. Hắn tự giới thiệu là họa sĩ và thực
tế cũng họa sĩ bằng tôi, chỉ hơn ở chỗ hắn phân biệt được các màu. Hai người
chuyện vãn tào lao. Hắn mời tôi một vại bia trong quán rượu đường Hoa Kỳ, tôi
trả tiền một vại cho hắn ở khu người Puerto Rico, hắn đáp lễ lại ở dốc Macy và
tôi hoàn lại hắn ở phố 58.
Thế là sự việc mốc nối vào nhau theo một cơ chế liên hệ kỳ cục
khó lường trước. David hay Léonard cười bảo tôi: “If you’re looking for a job,
nếu anh đang tìm việc làm thì đừng dại tìm đến tôi, tôi đang ở Vùng Đình Đốn”.
Tôi hỏi Vùng Đình Đốn là cái gì, hỏi cho phải phép thôi chứ tôi cóc cần biết.
Anh ta giải thích và thế là ý tưởng vụt hiện ra. Lúc ấy, thực sự ý đó đã đột ngột
bùng nổ trong đầu tôi.
Chỉ ma quỉ mới biết
trước được rằng nhờ ý đó mà tôi sẽ vớ được không dưới sáu mươi lăm triệu đôla,
và sau bao năm chờ đợi được vinh dự mặt đối mặt - mans a mans - với đích thân Đấng
Tối Cao Ngân hàng Martin Yahl.
-------------
Còn tiếp...
-------------
Còn tiếp...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét