Ernest Thompson Seton
Dịch giả: Lê Thùy
Dương
1
Tôi gặp con sói Winnipeg lần đầu tiên nhân trận bão tuyết
lớn năm 1882. Khoảng giữa tháng Ba tôi đi xe lửa từ St. Paul hi vọng sau một
ngày đêm sẽ đến được Winnipeg. Nhưng ông vua Gió đã quyết định khác và gửi cho
trái đất một trận bão tuyết khủng khiếp. Tuyết cứ trút xuống hết giờ nọ qua giờ
kia một cách kiên nhẫn, mãnh liệt. Tôi chưa từng thấy một trận bão tuyết lớn như
thế bao giờ. Bốn bề chìm ngập trong tuyết, đâu đâu cũng chỉ những tuyết là
tuyết, tuyết xoay tròn, phóng vùn vụt, châm chích, quật, cắn vào người. Và
chiếc đầu máy xe lửa khổng lồ thở hồng hộc lên mà vẫn cứ buộc phải dừng lại
theo mệnh lệnh của những tinh thể xốp như bông không lấy gì làm trong sạch đó.
Những đống tuyết chắn trên đường chúng tôi đi bắt nhiều
người khỏe mạnh trong chúng tôi phải cầm lấy xẻng, và một giờ đồng hồ sau con
tàu của chúng tôi nhích khỏi chỗ chỉ để lại vấp vào đống tuyết tiếp theo mà
thôi. Công việc thật khó nhọc: chúng tôi cứ hết ngày này sang ngày khác, đêm nọ
đến đêm kia, khi thì rúc vào trong các đống tuyết, lúc lại chui ra khỏi tuyết,
trong khi đó tuyết vẫn cứ tiếp tục đổ xuống và quay tròn trong không trung.
“Còn cách Emerson hai mươi hai giờ nữa” - nhân viên phục vụ
trên tàu nói vậy, nhưng phải mất hai tuần lễ chúng tôi mới tới được Emerson với
những cánh rừng dương ngăn bão tuyết rất tốt của nó. Từ đó trở đi con tàu đã
chạy nhanh được. Rừng dương ngày càng trở nên rậm rạp rồi chuyển thành những
cánh rừng lớn trải dài hàng dặm, lác đác đó đây mới có những khoảng trống.
Đã đến gần vùng ngoại vi phía đông thành phố Winnipeg, tàu
của chúng tôi chạy chậm ngang qua một con đường xuyên qua rừng không lớn lắm,
rộng chừng năm chục bước chân, nằm gần St. Boniface, và tôi đã được chứng kiến
một cảnh tượng xảy ra trên con đường đó khiến cho tôi xúc động mãnh liệt.
Trên quãng rừng trống có tụ tập một bầy chó đông đảo, cả to
cả nhỏ, vừa có chó vàng, chó trắng và cả chó mực nữa, chúng đứng sát nhau thành
vòng tròn, lúc chồm lên phía trước, khi lại lùi về ở phía sau. Một con chó vàng
nằm gục xuống tuyết ở bên cạnh đó, còn ở phía ngoài vòng là một con chó mực đen
to, lúc nào cũng đứng đằng sau lũ chó mà chồm lên và sủa. Đứng ở giữa vòng vây là
một con sói lớn, hung dữ - trung tâm và nguyên nhân của toàn bộ câu chuyện.
Con sói ư? Không, tôi thấy nó như một con sư tử. Nó đứng đó
đơn độc, kiên cường và bình tĩnh, lông gáy xù hết lên. Nó đứng dạng chân vững
chãi, lúc nhìn phía này, lúc trông phía khác vẻ sẵn sàng nghênh chiến bất kì sự
tấn công từ hướng nào tới. Môi nó hơi trễ xuống trông như đang cười gằn khinh
bỉ, tuy rằng có lẽ đó chỉ là nó nhe răng trong cuộc đánh nhau thông thường.
Dưới sự chỉ huy của con chó na ná như sói - một sự chỉ huy mà con chó ấy nên
lấy làm xấu hổ, bầy chó đã xông vào con sói đến lần thứ hai mươi rồi thì phải.
Nhưng con thú xám cao to xoay ngang xoay dọc hai hàm răng dữ tợn nghiến ken
két. Con sói không hề rít, tru hay sủa. Trong lúc ở hàng ngũ kẻ thù của nó
không phải chỉ có một con chó kêu la trước khi chết để rồi sau đó cả bọn lại
lao vào nó thì nó vẫn như trước: bất động, bình tĩnh, nguyên vẹn và khinh thị.
Bây giờ tôi lại mong mỏi con tàu vướng tuyết biết bao! Trong
thâm tâm tôi tha thiết đến với con sói. Tôi muốn tới giúp đỡ nó. Nhưng quãng
rừng trống phủ tuyết trắng đã vụt qua, bị những thân cây dương che khuất và
chúng tôi đã đi xa.
Tất cả những điều tôi trông thấy ấy thật là quá ít ỏi. Nhưng
vài ngày sau tôi biết là mình đã may mắn được chứng kiến một cảnh tượng hiếm
gặp: tôi đã trông thấy giữa ban ngày một sinh vật nổi tiếng nhất - đó là con
sói Winnipeg không hơn không kém.
Số phận của nó thật kì lạ: đó là một con sói thích thành phố
hơn rừng cây, thờ ơ đi ngang qua lũ cừu nhưng lại hạ sát chó và lúc nào cũng
chỉ săn mồi một mình.
Khi kể lại câu chuyện mặt trái cuộc đời của nó như người ta
đã nói vậy, tôi xin nói đến những sự kiện trong cuộc đời nó như nói về một cư
dân địa phương nổi tiếng nào đó. Ấy thế mà nhiều người dân ở thành phố này lại
không nghe nói đến nó. Chẳng hạn như một chủ tiệm giàu có sống ở một đường phố
chính chỉ biết rằng nó có tồn tại trên đời vào ngày mà cuộc tàn sát lần cuối đã
xảy ra và cái xác con sói to lớn được chở đến cho người nhồi rơm các con thú
tên là Garou. Ở đây người ta lấy da con sói đó nhồi một con thú để đem đi
Chicago triển lãm, nhưng đáng tiếc là con thú nhồi đó về sau cũng mất năm 1896
khi ngôi trường ở địa phương bị cháy.
2
Có một lần, vào tháng Sáu năm 1880 anh chàng nhạc sĩ vĩ cầm
Fiddler Paul, một anh chàng thất nghiệp đẹp trai thích đi săn để giải trí hơn
là lao động, vác súng lùng sục trong cánh rừng ven bờ con sông Đỏ. Anh ta trông
thấy một con sói nhảy ra khỏi một cái hố ở gần mương xói liền bắn cầu may và đã
giết chết nó. Anh ta thả chó đi tìm xem có còn con sói lớn nào nữa không, và
cũng tự mình len lỏi khắp đó đây. Anh ta vừa ngạc nhiên vừa vui mừng khi tìm
thấy tám con sói con. Chín giải thưởng với mỗi giải mười đôla? Như thế là được
bao nhiêu nhỉ? Chắc chắn là cả một cơ nghiệp rồi. Gã dùng cái gậy và với sự
giúp sức của con chó, giết chết lũ sói con, chỉ bớt lại một con vì mê tín rằng
nếu giết hết cả lứa thì sẽ gặp điều không may. Và Paul lột da chẩm đầu của con
sói cái cũng như của bầy con sói con rồi quay trở về thành phố, dắt theo con
sói con còn sống.
Gã chủ quán rượu Hogan, người đã nhanh chóng chuyển những
đồng đôla mà Paul được nhận thành tài sản của gã, về sau cũng nhận luôn cả con
sói con. Con thú nhỏ bị xích lại và nuôi lớn, nhưng không phải vì thế mà nó
không phát triển hàm răng và bộ ngực đến mức chẳng một con chó nào trong thành
phố dám sánh với nó cả. Người ta xích nó ở trong sân để làm trò giải trí cho
khách, chủ yếu là cho lũ chó vây đánh con sói bị xích. Con sói trẻ đã nhiều lần
bị cắn gần chết nhưng lần nào nó cũng khỏe lại và cứ mỗi tháng thì con số những
chó muốn tranh tài với nó lại cứ mỗi ít đi. Cuộc sống của nó rất nặng nề. Tia
sáng hân hoan duy nhất là tình bạn nảy sinh giữa nó và chú bé Jim, đứa con trai
của người chủ quán rượu.
Jim là một thằng ranh bướng bỉnh, biết giữ ý kiến riêng. Nó
yêu thích con sói từ khi con này cắn chết con chó đã cắn nó. Từ đó nó bắt đầu
cho con sói ăn và vuốt ve con vật. Và con sói cũng để cho thằng bé được giở đủ
mọi trò suồng sã với mình, điều mà con thú không cho phép bất cứ người khác nào
được sử dụng với nó.
Ông bố của Jim không phải là một ông bố mẫu mực. Lão thường
nuông chiều đứa con trai, nhưng ngay sau đó lại có thể nổi giận và đánh đập tàn
nhẫn nó chỉ vì những chuyện không đâu. Chẳng bao lâu Jim hiểu rằng nó bị đòn
không phải do công việc mà do nó phải chịu đựng dưới một bàn tay bực bội. Vì
vậy nó đã lẩn trốn đúng lúc vào nơi đáng tin cậy và chẳng sợ gì nữa. Một bữa nó
chạy trốn ông bố bằng cách nhào vào cái cũi sói. Vị khách lông xám bị kích động
đã láo xược quay ra phía cửa cũi nhe hai hàm răng trắng nhởn ra như để nói một
cách rất rõ ràng với ông bố rằng: “Chớ có đụng đến thằng bé!”.
Lão chủ quán thiếu chút nữa thì bắn con sói nhưng lại sợ
giết nhầm thằng con trai nên đành để chúng nó yên. Và chỉ nửa giờ đồng hồ sau
lão đã cười về câu chuyện vừa xảy ra rồi. Từ đó trở đi thằng bé Jim cứ phạm
phải một lỗi nhỏ nào cũng chạy ngay đến cái cũi sói, và có khi chỉ cần thấy nó
ẩn náu đằng sau lưng kẻ tù nhân khắc nghiệt kia là có thể đoán ngay ra rằng nó
đã phạm lỗi gì đó rồi.
Hogan là người keo kiệt. Vì vậy lão thuê một người Trung Hoa
bán hàng ở quầy mà lão có thể trả công rẻ mạt. Đó là một con người hiền lành,
nhút nhát mà anh chàng kéo vĩ cầm Paul tự cho phép mình không phải ngại ngùng
điều gì cả. Một bữa thấy anh chàng Trung Hoa có một mình ở quán rượu. Paul lúc
đó đã ngà ngà say rồi lại muốn uống chịu. Nhưng Tống Linh vâng theo lời dặn của
chủ từ chối không bán chịu cho gã. Paul nhảy xổ về phía quầy rượu, định trả thù
sự nhục mạ đó. Anh chàng người Trung Hoa có thể đã bị nện nhừ tử nếu không có Jim
khéo léo ngáng một cái gậy dài dưới chân Paul. Anh chàng kéo vĩ cầm ngã sóng
soài và gã vừa đứng dậy vừa chửi rủa, dọa sẽ giết chết Jim. Nhưng Jim đã lợi
dụng cái cửa ở gần đó chạy đến nấp ngay bên cũi sói.
Paul trông thấy thằng bé có kẻ bảo vệ liền với một cái gậy
dài và đứng từ xa mà đánh con sói. Con thú xám giật sợi xích chống cự lại những
cú đánh vô hồi kì trận và ngoạm lấy cái gậy. Nhưng nó đã gặp khó khăn. Đột
nhiên Paul nhận thấy, Jim vừa không ngừng nói lầm bầm vừa lúi húi với cái cổ dề
ở con sói và con sói sắp được thả ra ngay lập tức - thực ra chính con sói cứ
kéo căng sợi xích nên nó chỉ ngăn cản không cho cái cổ dề tuột ra dễ dàng.
Cái ý nghĩ phải một mình mặt đối mặt với con quái vật đang
điên cuồng ở trong sân làm cho anh chàng Paul gan dạ run bắn người lên.
Gã nghe thấy giọng nói thiết tha của Jim:
- Ráng chịu một chút xíu nữa thôi, sói bé bỏng ơi, dịch lại
một chút nữa thôi nào, rồi mày sẽ ăn gỏi gã ta. Nào, dịch lại đi, dịch lại đi!
Cừ lắm!
Chỉ thế cũng đủ để gã nghệ sĩ vĩ cầm ba chân bốn cẳng bỏ
chạy và không quên đóng tất cả các cửa mà gã vừa bỏ lại phía sau.
Tình bạn giữa Jim và con vật nó yêu quý càng được tăng thêm.
Con sói càng lớn thêm thì nó càng căm ghét chó và những người sặc hơi rượu
mạnh. Nhưng tình yêu của nó đối với Jim và tất cả những đứa trẻ khác cũng ngày
càng phát triển.
3
Thời kì đó, vào khoảng mùa thu năm 1881, các chủ trại trong
vùng than phiền rất nhiều về việc lũ sói sinh sôi nảy nở nhanh và tiêu diệt
nhiều gia súc. Bả độc và cạm bẫy đều bất lực, vì thế khi ở câu lạc bộ Winnipeg
xuất hiện một khách du lịch quý phái người Đức thông báo rằng ông ta có những
con chó có khả năng một thời gian ngắn diệt hết sói trong vùng thì ta dễ dàng
hiểu rằng lời tuyên bố của ông ta đã làm mọi người xôn xao như thế nào. Bởi vì
các chủ trại đều là những người rất ham săn bắn, và ý kiến dùng đàn chó săn sói
để giải thoát khỏi sự tấn công của lũ sói quả là một ý kiến kì lạ đối với họ.
Ông khách người Đức dẫn đến hai con chó Đan Mạch tuyệt diệu:
một con trắng, một con vàng nhạt đốm đen. Mỗi con chó to bự này đều nặng khoảng
hai trăm pound. Chúng có bắp thịt nở nang trông như những con hổ, và mọi người
đều sẵn lòng tin lời ông khách người Đức rằng, chỉ một con chó này cũng thừa đủ
sức đánh thắng dễ dàng con sói lớn nhất. Ông người Đức mới mô tả cho họ nghe
cách thức săn:
- Chỉ cần cho chó thấy dấu vết của sói thế là chúng nó chạy
đi tìm mồi ngay, dù cho có phải tìm suốt cả ngày chúng cũng không bỏ. Không có
gì làm cho chúng lạc hướng được. Dù cho sói ẩn nấp hay chạy loanh quanh thì chúng
cũng tìm ra sói mau lẹ. Sói chỉ vừa bỏ chạy một cái là con chó vàng ngoạm ngay
được ngang sườn và quật cho một nhát như thế này này, - vị khách người Đức vừa
nói ném tung một mẩu bánh mì lên, - và sói chưa kịp rơi tới đất thì con chó
trắng đã lại đớp ngay lấy đầu nó còn con chó vàng thì tóm lấy đuôi con sói và
thế là nó bị xé xác làm đôi.
Tất cả những điều đó dường như đều rất thực. Ai cũng muốn
cho chó thử bắt tay vào việc. Dân cố cựu thì khuyên đi săn sói ở rừng
Assiniboine và những thợ săn liền vội vàng tổ chức đi thăm dò ở đó. Nhưng sau
khi tìm kiếm sói một cách vô ích trong ba ngày liền và họ đã sắp sửa bãi bỏ
cuộc săn thì có một người nào đó nhắc nhở rằng, lão chủ quán rượu Hogan có một
con sói xích trong sân có thể mua rẻ được, và tuy con sói đó mới có một năm
tuổi nhưng hoàn toàn thích hợp để thử năng lực của lũ chó.
Giá tiền bán con sói đã tăng vọt khi lão chủ quán biết rằng
kẻ được mình nuôi sẽ dùng vào công việc quan trọng như thế nào. Ngoài ra còn
vấn đề “lương tâm không cho phép” lão bán con chó. Nhưng khi những người đi săn
trả tiền đầy đủ thì lương tâm cũng thôi không ngăn cản lão nữa.
Sau đó lão chủ quán sai thằng nhỏ Jim đi công chuyện đến nhà
bà nó, còn con sói thì đem lùa vào một cái thùng đóng đinh chặt đặt lên xe ngựa
chở tới đồng cỏ trống.
Người ta đuổi con sói ra khỏi thùng không khó khăn gì. Đầu
tiên nó sợ sệt và cau có. Nó không chịu cắn mà chỉ tìm chỗ trốn. Và sau nó bị
những tiếng la hét và huýt sáo làm cho hoảng hốt và cuối cùng khi hiểu rằng
được thả tự do thì con sói phi nước kiệu về hướng nam.
Đúng lúc đó người ta thả chó ra và chúng sủa điên cuồng lao
ngay theo sói. Mọi người vui vẻ cười nói chạy theo sau hai con chó. Ngay từ đầu
đã thấy rõ là con sói chẳng thoát nổi tai họa. Lũ chó nhanh nhẹn hơn hẳn nó.
Con chó trắng chạy nhanh chẳng kém gì một con chó săn chân dài. Anh chàng người
Đức khoái trá reo vang khi trông thấy con chó yêu thích của gã chạy trên đồng
cỏ mỗi lúc một gần con sói.
Nhiều người đề nghị đánh cá rằng lũ chó sẽ thắng, nhưng điều
đó rõ ràng đến nỗi chẳng ai nhận đánh cá như thế cả - người ta chỉ đồng ý đánh
cá là con chó nào sẽ hạ được sói mà thôi. Con sói trẻ bây giờ đã chạy hết sức
nhưng con chó trắng đã nhanh chóng đuổi kịp nó.
- Bây giờ xin các ngài hãy xem, - anh chàng người Đức kêu to,
- con sói này sẽ bay tung lên trời như thế nào nhé!
Một phút sau, con sói và con chó đã gặp nhau nhưng cả hai
lại rời ngay nhau ra. Chẳng có con nào bay tung lên trời cả, mà con chó trắng
lại ngã lăn ra đất với một vết thương khủng khiếp ở vai đến nỗi nếu không chết thì
cũng trở thành vô dụng. Mười phút sau con chó thứ hai là con đốm văng đi, mồm
há hốc. Cuộc giáp chiến diễn ra nhanh chóng đến nỗi không ai hiểu được nó xảy
ra như thế nào, giống y như cuộc chiến thứ nhất vậy. Hai con vật chỉ hơi xáp
vào gần nhau chút xíu. Con thú xám chạy tạt sang một bên. Thế mà con chó đốm đã
giật bắn người lên và một bên sườn đẫm máu rồi.
Con chó bị mọi người thúc giục lại lao vào cuộc chiến, nhưng
đã nhận được một vết thương thứ hai dạy khôn cho một cách triệt để.
Lúc đó gã người hầu của anh chàng người Đức đã đến kịp thời
cùng với bốn con chó to lớn. Người ta thả cho chó xông vào con sói và những
người đi săn cầm đoản côn và thòng lọng chạy theo sau định kết liễu nó cho
xong. Đúng lúc đó một chú bé cưỡi ngựa phóng qua bình nguyên tới nơi. Chú bé xô
đẩy len lách qua vòng người xúm quanh con sói, rồi dùng hai tay ôm lấy cổ con
thú. Chú bé gọi nó là “sói thân yêu”, “sói bé bỏng thân thương”, còn con sói
thì liếm mặt chú bé và ve vẩy đuôi. Rồi chú bé quay bộ mặt đầm đìa nước mắt về
phía đám đông và bắt đầu nói... Nhưng thôi tốt hơn hết là đừng nhắc lại những
điều chú đã nói. Chú bé mới lên chín đã rất thô tục bởi vì chú lớn lên ở nơi
một quán rượu xoàng xĩnh và đã tiếp thu một cách có kết quả những lời ăn tiếng
nói thô tục nghe thấy ở đây.
Chú bé chửi rủa cả đám đông và từng người một, kể cả bố đẻ
của chú.
Một người lớn mà dám buông ra những lời chửi rủa thô bỉ như
vậy thì có lẽ không thoát được sự trừng trị nghiêm khắc. Nhưng có thể làm gì
được một đứa trẻ con? Và cuối cùng những người đi săn đã làm một việc tốt hơn
cả; họ cười phá lên - không phải là tự cười mình vì dĩ nhiên là không ai thích
tự cười mình cả, - không, tất cả mọi người chẳng trừ một ai đều cười anh chàng
người Đức có những con chó trứ danh phải chịu thua con sói trẻ.
Lúc đó Jim mới thọc bàn tay bẩn thỉu đẫm nước mắt vào túi áo
lục lọi trong đám sỏi và kẹo lẫn với thuốc lá, diêm quẹt, tiền xu và những thứ
linh tinh khác ở đây, để móc ra một khúc dây nhỏ và buộc vào cổ con sói thành
một thứ dây dắt chó. Sau đó, nó vẫn vừa nức nở khóc vừa nhảy lên ngựa phóng về
nhà, tay dắt theo con sói sau khi đã ném vào mặt vị quý tộc người Đức một câu
từ biệt hăm dọa.
- Chỉ cần thuê hai xu là ta cũng sẵn sàng suỵt cho nó cắn
lão toi mạng!
4
Đến đầu mùa đông Jim lâm bệnh.
Con sói không trông thấy người bạn của nó nên cứ rền rĩ tru
lên ở ngoài sân. Cuối cùng do người bệnh van nài người ta cho sói vào trong
buồng người ốm. Và con chó rừng to lớn - bởi vì sói chẳng qua là một loại chó
rừng - nằm túc trực một cách tin cậy bên giường bạn nó.
Căn bệnh lúc đầu tưởng không nặng, và mọi người đều sửng sốt
khi bệnh đột nhiên chuyển xấu và trước ngày Giáng Sinh ba hôm thì Jim qua đời.
Con sói khóc thằng bé chân thành hơn tất cả mọi người. Con
thú xám to lớn cất tiếng tru thảm thiết đáp lại tiếng chuông nhà thờ rung lên
trong đêm trước đêm Giáng Sinh khi làm lễ chôn cất thằng bé. Nó quay trở lại
sân sau của quán rượu ngay, nhưng khi người ta vừa mới định xích nó lại thì nó
đã nhảy qua hàng rào và đi mất.
Cũng vào mùa đông năm ấy lão Renaud chuyên đặt bẫy thú cùng
với cô con gái xinh xắn Ninette đến ở một căn lều bằng gỗ gần sông. Lão chưa
bao giờ nghe nói đến thằng bé Jim và rất ngạc nhiên khi thấy nhiều vết chân sói
trên hai bờ sông gần thành phố này.
Lão già lắng nghe một cách tò mò và nghi ngờ những câu
chuyện mà những người làm công ở Công ty Vịnh Hudson kể về con sói đến ở tại
vùng này, nó đôi khi thâm nhập cả vào tận thành phố và đặc biệt rất hay lui tới
cánh rừng nhỏ ở bên cạnh nhà thờ ở ngoại ô St. Boniface.
Đêm trước đêm Giáng Sinh, khi chuông nhà thờ vừa rung lên
như để cầu nguyện cho Jim thì ở trong rừng đã nghe thấy một tiếng tru thê thảm
khiến cho lão Renaud phải tin là câu chuyện có thực. Lão biết tất cả những bài
ca của sói: lời kêu gọi sự giúp đỡ, bài ca tình yêu, tiếng tru đơn côi và lời
thách thức cục cằn. Đây là tiếng tru đơn côi.
Lão già bước xuống sông và lên tiếng đáp lại tiếng tru. Một
cái bóng mờ mờ tách khỏi cánh rừng xa, bước đi trên băng tới chỗ con người ngồi
yên như khúc gỗ trên một khúc gỗ. Cái bóng đến gần người ấy, lượn vòng quanh và
vươn mũi đánh hơi. Thế là mắt nó lóe lên những tia sáng hung dữ, nó gầm gừ như
một con chó đang cơn tức giận, và quay ngược trở lại rồi biến mất vào bóng đêm.
Như vậy là Renaud và nhờ lão mà nhiều thị dân cũng biết là
một con sói xám to lớn, “to gấp ba cái con sói ngày xưa bị xích ở quán rượu của
Hogan” vẫn thường đi lang thang trên đường phố của thành phố. Con sói là nỗi
khủng khiếp của lũ chó, cứ gặp cơ hội là giết chết chúng, và thậm chí người ta
còn nói rằng nó đã ăn thịt không phải chỉ một người say rượu đi lang thang ở
ngoại ô, tuy rằng điều này còn chưa có bằng chứng đích xác.
Đấy, con sói Winnipeg mà tôi đã trông thấy ở cánh rừng đầy
tuyết là ai. Tôi đã định giúp nó và tưởng tượng ra rằng nó gặp tình thế thật
khó khăn. Nhưng điều tôi biết về sau này đã thay đổi ấn tượng ban đầu của tôi.
Tôi không biết cuộc chiến tôi trông thấy đã kết thúc như thế nào, nhưng biết
rằng người ta đã trông thấy nó nhiều lần sau đó và không phải chỉ có một con
chó đã mất tích.
Chưa bao giờ có một con sói nào sống kì lạ như thế. Trong
khi nó có khả năng chạy vào rừng và đồng cỏ thế mà nó cứ ưa thích cuộc sống đầy
phong ba bão táp ở nơi thành phố - hằng ngày kề cận với cái chết, hằng ngày
thực hiện những chiến công phi thường. Căm ghét con người và khinh bỉ lũ chó,
hằng ngày nó bị những bầy chó rượt đuổi và nó đã giết chết những con chó tấn
công một mình nó. Nó dọa dẫm những người say rượu, chạy trốn những người mang
súng, nó nghiên cứu các cạm bẫy và bả độc - nghiên cứu như thế nào thì không
thể nói được, nhưng chắc chắn là có nghiên cứu bởi vì nó đã nhiều lần khinh bỉ
đi ngang qua những miếng thịt đánh thuốc độc.
Không có đường phố nào ở Winnipeg mà nó không tới, không một
người cảnh sát nào mà không trông thấy cái bóng nó chạy thoáng qua trong ánh sáng
mờ mờ những buổi bình minh; không có con chó nào lại không run rẩy khiếp sợ khi
ngọn gió tráo trở mang đến cho nó tin tức kẻ địch thủ cũ đang đến gần. Nó khao
khát chiến tranh và toàn thể thế giới là kẻ thù của nó. Nhưng không có một
trường hợp nào con sói làm mếch lòng bọn trẻ con cả.
5
Ninette sinh ra ở hoang mạc. Mẹ cô là một thổ dân người da
đỏ. Cô thừa hưởng cặp mắt xám của ông bố người Noman và bây giờ cô đã là một cô
gái xinh đẹp mười sáu tuổi, một hoa khôi của cả vùng. Có thể cô sẽ trở thành vợ
của bất kì một nhà giàu có nào và sẽ là một vị hôn thê đàng hoàng trong vùng,
nhưng trái tim cô lại lựa chọn Fiddler Paul. Là một chàng trai lực lưỡng, một
tay khiêu vũ táo tợn và một nhạc sĩ vĩ cầm có hạng, Paul nhận lời mời tới tất
cả các buổi chè chén và là một tay tổ rượu hư hỏng. Lão Renaud đã hành động
đúng khi đuổi gã ra khỏi nhà lúc gã đến dạm hỏi cô con gái lão. Nhưng cách làm
đó chẳng đạt được kết quả gì cả.
Tuy ngoan ngoãn dễ bảo trong tất cả các việc khác nhưng
Ninette không muốn dứt tình bỏ người bạn lòng đã lựa chọn. Thế là sau khi ông
bố từ chối, một ngày khác cô đã hẹn Paul tới gặp cô trong cánh rừng bên sông.
Trong khi lội trong tuyết sâu đến nơi hẹn hò Ninette để ý thấy có một con chó
xám to lớn đi theo cô. Con vật tỏ thái độ hoàn toàn thân thiện với cô, và cô bé
(bởi vì cô cũng chỉ mới là một cô bé mới lớn mà thôi) chẳng sợ hãi gì cả. Nhưng
khi cô đến gần chỗ Paul đang đợi cô thì con chó to lớn tiến lên trước và gầm gừ
một cách hung dữ. Paul nhìn kĩ và nhận ra con thú là một con sói lớn, thế là gã
ù té chạy như một tên hèn nhát tồi tệ. Về sau gã nói rằng gã chạy đi lấy khẩu
súng. Có lẽ gã quên mất chỗ để khẩu súng bởi vì gã đã leo tót lên cây ở phía
sau khẩu súng. Trong khi đó thì Ninette chạy trên băng trở về nhà để báo cho
những người quen biết là Paul đang lâm nguy. Chàng kị sĩ can trường không tìm
thấy khẩu súng ở trên cây đã dùng tay làm một ngọn lao buộc con dao nhọn của
mình vào một đầu và lừa thế phóng vào đầu làm con sói bị một vết thương khủng
khiếp. Con thú rống lên ghê rợn nhưng nó đi khỏi chỗ đó một quãng và tỏ rõ
quyết tâm chờ cho đến khi con người tuột xuống đất. Nhưng đám người đến gần đã
khiến cho nó thay đổi quyết định và bỏ đi.
Anh chàng nhạc sĩ vĩ cầm giải thích hành vi của mình với
Ninette dễ dàng hơn với những người khác: cô gái vẫn yêu gã như trước. Nhưng bố
cô gái biểu thị thái độ khinh bỉ tuyệt đối với gã đến mức hai người quyết định
sẽ lén làm lễ cưới sau khi Paul giao thuê xong chuyến hàng bưu chính bằng xe
trượt do chó kéo từ đồn Garry đi đến Alexander trở về. Gã tự coi mình là một
người điều khiển xe chó có kinh nghiệm bởi vì gã nghiêm khắc đến tàn nhẫn.
Sáng sớm, uống xong cốc rượu mừng lên đường, Paul sảng khoái
cho xe trượt xuôi theo con sông. Ba con chó to lớn, khỏe mạnh như những con bê
và hung dữ như lũ tướng cướp kéo chiếc xe trượt như bay trên mặt băng. Chúng
chạy như ngựa phi ngang qua căn lều của Renaud ở phía bờ sông, và Paul vừa chạy
theo sau xe vừa quất roi đen đét và vẫy tay với Ninette đang đứng bên đường.
Chẳng bao lâu chiếc xe với những con chó hung dữ và gã đánh
xe say rượu đã khuất sau khúc quanh của dòng sông, vả từ đấy về sau chẳng còn
ai trông thấy anh chàng nhạc sĩ vĩ cầm nữa.
Những người tìm kiếm lần theo dấu vết. Họ tìm được trên
tuyết những bọc hàng mà Paul chở theo; xa hơn nữa lại thấy những mảnh gãy của
chiếc xe trượt; và ở gần chỗ các bọc hàng thì tìm thấy những mảnh quần áo của
anh chàng kéo đàn.
Rõ ràng là những con chó đã cắn chết và ăn thịt người đánh
xe.
Người chủ chó rất bối rối về cái tin này. Ông ta có thể phải
trả giá cho những con chó của mình. Ông ta không tin người khác và quyết định
đích thân kiểm tra lại sự việc. Renaud được cử đi theo ông ta và họ chưa đi quá
nơi bất hạnh đến ba dặm thì lão già bẫy thú đã trông thấy những vết chân rất
lớn đi từ bờ sông phía đông sang bờ phía tây theo đằng sau cái xe. Lão quay lại
nói với người chủ chó bằng một thứ tiếng Anh giả cầy:
- Một con sói lớn đã chạy theo xe trượt.
Thế là họ đi theo dấu chân sang bờ phía tây. Chạy qua rừng
Kildonan thì con sói chuyển từ nước đại sang đi bước một, nó thôi không đuổi
theo xe nữa và đã đi về phía rừng. Nhưng Paul đã đánh rơi tại đây một vật gì đó
- có thể là bọc hàng. Con sói ngửi vật quẳng đi và biết rằng trong xe trượt có
anh chàng Paul say rượu đã từng đâm toạc đầu nó hồi nào.
Vết chân con sói chạy theo xe kéo dài trên băng một dặm
đường. Vết chân người bây giờ đã mất, bởi vì người đã nhảy lên xe và thúc chó.
Gã đã cắt dây buộc hàng để cho xe được nhẹ. Vì thế mà các bọc hàng mới văng
tung tóe trên tuyết.
Lũ chó mới phi nhanh làm sao dưới những cái quất roi! Con
dao của Paul văng trên tuyết. Có thể gã đã đánh rơi con dao trong khi cố chống
cự lại con sói... Từ đây dấu vết con sói mất, nhưng chiếc xe vẫn chạy như tên
bắn đi xa hơn: con sói đã nhảy vào trong xe. Lũ chó khiếp hãi chạy nhanh hơn, nhưng
con sói đã bay từ phía sau vào chiếc xe. Một phút sau mọi việc đều kết thúc.
Người và sói lăn từ xe xuống. Vết chân sói lại xuất hiện trên bờ phía đông con
sông và biến nhanh chóng vào rừng. Chiếc xe chạy sang bờ bên trái một dặm nữa
thì va vào rễ cây và vỡ tung.
Tuyết đã kể lại cho lão Renaud biết là lũ chó bị rối tung
trong bộ đồ thắng đã đánh lộn nhau đến khi làm đứt được dây thắng rồi sau đó
chúng tìm thấy xác của gã đánh xe thường hành hạ chúng và chúng đã chén thịt
gã.
Sự việc chẳng có gì tốt đẹp cả, nhưng dù sao lũ chó cũng
khỏi bị buộc tội giết người. Dĩ nhiên trách nhiệm trút cả vào con sói, và lão
Renaud sau khi đã hết kinh hoàng thì thở phào nhẹ nhõm:
- Đó là con sói Winnipeg. Nó đã cứu con gái tôi khỏi rơi vào
tay gã Paul. Nó luôn luôn tốt với trẻ con.
6
Cái chết của Paul là nguyên cớ để người ta quyết định tổ
chức một cuộc săn lớn quyết liệt, dự định vào ngày lễ Giáng Sinh, đúng hai năm
sau ngày thằng bé Jim qua đời. Người ta đã huy động chó của cả vùng vào cuộc
săn. Có cả ba con chó Laica đã kéo cỗ xe của Paul, - người chủ chó cho là cần
phải có mặt chúng, - có cả những con chó nhà, chó săn và cả một đàn chó thường
không phải chó nòi. Sáng nào người ta cũng tiến hành những cuộc tìm kiếm vô ích
trong các rừng cây ở phía đông ngoại ô St. Boniface. Nhưng có tin điện thoại
báo cho biết thấy dấu chân sói ở rừng Assiniboine, về phía tây thành phố, và
một giờ sau các người đi săn đã lao theo vết chân nóng hổi của con sói
Winnipeg.
Họ mang theo: một đàn chó, một đội kị sĩ, một đám đàn ông và
trẻ con đi chân. Con sói không sợ chó nhưng nó biết rằng con người có những vũ
khí đáng sợ. Nó chạy về phía rừng cây Assiniboine
tối sẫm, nhưng những người đi săn đã ở đầy thung lũng và họ đuổi ngay con sói
để buộc nó phải quay trở lại. Nó lao nhanh dọc khe mương Colony Creek và nhờ
thế tránh thoát những viên đạn bắn vào nó. Nó chạy thêm một đoạn nữa đến một
hàng rào dây thép gai và nhảy vượt qua rào, tránh thoát kịp thời những người
cưỡi ngựa, nhưng vẫn cứ phải chạy dưới rãnh như trước để tránh đạn. Lũ chó đã
chạy đến gần nó. Có lẽ nó mơ ước mặt đối mặt với chúng, mặc dù có tới bốn mươi
hoặc năm mươi con chó chọi với một mình nó. Bây giờ lũ chúng đã vây quanh nó
rồi nhưng chưa con nào dám quyết định tiến đến sát gần nó. Một con chó săn chân
dài gầy gầy hi vọng ở tài nhanh nhẹn của mình đã nhảy tới bên, nhưng con sói đã
nhe răng đớp cho một miếng làm nó ngã nhào. Các kị sĩ phóng ngựa theo đường
vòng nhưng bây giờ cuộc săn đã ở gần thành phố rồi. Đã có nhiều người và chó
chạy lại để tham gia việc vây bắt.
Con sói quay lại chỗ lò sát sinh của thành phố, một nơi nó
biết tường tận, và người ta cũng thôi không bắn nữa vì sợ bắn nhầm phải chó, vả
chăng cũng quá gần nhà ở rồi. Lũ chó xúm xít quanh con sói làm cho nó không thể
chạy xa hơn được. Nó nhìn quanh để tìm cách bảo vệ phía sau lưng trong cuộc
chiến cuối cùng, và sau khi trông thấy một cây cầu gỗ nhỏ bắc ngang qua một cái
rãnh ở đường phố thì chạy tới ẩn nấp dưới cầu. Người ta liền phá gãy cây cầu.
Con sói bèn nhảy ra ngoài, và khi biết rằng sắp sửa phải chết thì nó liền sẵn
sàng đón nhận cái chết nhưng vẫn mong muốn tỏ ra xứng đáng với phút cuối cùng
này. Và tại nơi đây, lần đầu tiên dưới ánh sáng ban ngày mọi người có dịp nhìn
rõ nó. Nó đấy, con sói huyền thoại ở Winnipeg ,
kẻ hành hình chó kì lạ, cái thứ tiếng nói không thân thích ruột thịt của rừng
cây St. Boniface!
7
Cuối cùng sau ba năm dài chiến đấu nó đứng đây một mình chọi
với bốn mươi con chó được những con người mang súng hỗ trợ. Nhưng nó bước ra
đối mặt với kẻ thù can trường chẳng kém gì cái ngày tôi trông thấy nó lần đầu
tiên ở cánh rừng mùa đông năm xưa. Môi nó vẫn hơi trễ xuống bĩu ra như khinh
thị, bắp thịt bên hông nó hơi căng lên chút ít, cặp mắt xanh hơi pha vàng của
nó vẫn lóe sáng như trước. Lũ chó sát cánh bên nhau. Cầm đầu chúng không phải
là những con chó laica to lớn, - chúng vẫn chưa quên cuộc gặp gỡ nó lần trước,
- mà là một con chó Bulldog chưa bao giờ từng ra khỏi các phố xá trong thành
phố. Đã nghe thấy nhiều tiếng chân bước rậm rịch. Lũ chó gầm gừ khàn khàn. Con
sói nhe hàm răng đỏ lòm ra, lũ chó tránh dạt ra tứ phía, và con sói vẫn đứng
yên đơn độc. Nó đã sẵn sàng bước vào trận đánh, cái tên cướp già hung dữ và
khỏe ấy. Ba lần lũ chó xông vào nó và cả ba lần đều bị đánh lui. Những chiến
binh chó dũng cảm nhất đã nằm gục xung quanh. Con chó Bulldog chết đầu tiên.
Những con chó được kinh nghiệm dạy khôn bây giờ đã chùn bước, sợ sệt, còn con
sói vẫn chưa tỏ ra có chút nào mệt mỏi. Sau một phút chờ đợi nóng vội, nó tiến
lên phía trước vài bước nhưng than ôi chỉ để tạo cơ hội cho một xạ thủ đã đợi
sẵn từ lâu? Ba phát súng nổ vang, và con sói tinh ranh bị hạ sát đã nằm vật
trên tuyết, kết thúc con đường chiến đấu của nó.
Ai là người nhìn thấu được tâm hồn con sói? Ai là người nói
được cho chúng ta biết nó đã nghĩ gì? Tại sao nó cứ ở lại sống gần nơi thành
phố để mà chịu đựng biết bao nhiêu đau khổ. Bởi vì xung quanh đấy là những rừng
cây rậm rạp và thức ăn ở đâu cũng dồi dào. Chưa chắc là nó bị nỗi khao khát trả
thù giữ chân lại ở nơi đó: không có con vật nào phung phí cả cuộc đời vào việc
trả thù - cái tình cảm xấu xa đó chỉ riêng con người mới có mà thôi. Loài vật
khát khao sự yên tĩnh.
Như vậy là chỉ còn có một sợi dây xích cột chặt được nó vào
thành phố, và sợi dây xích đó là cái uy lực vĩ đại nhất trên thế giới, là thứ
sức mạnh ghê gớm nhất trên trái đất này - đó là tình yêu.
Con sói không còn nữa. Thậm chí cái xác nhồi của nó cũng đã
cháy rồi nhưng người gác nhà thờ ở St. Boniface đến tận ngày nay vẫn khẳng định
rằng vào đêm trước lễ Giáng Sinh khi chuông nhà thờ vừa gióng giả là đã nghe
thấy có tiếng sói tru đáp lại một cách ai oán, ghê rợn từ nghĩa trang trong
rừng bên cạnh nơi chôn thằng bé Jim, là sinh vật duy nhất dạy cho con sói biết
yêu thương.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét