Ernest Thompson Seton
Dịch giả: Lê Thùy Dương
Cuộc đời thứ nhất
1
- Thịt đây! Thi ị i t đ â â y! - Tiếng rao nghe vang lanh
lảnh trên ngõ hẻm Scrimper.
Tất cả lũ mèo của vùng xung quanh đều chạy đến khi có tiếng
rao đó. Nhưng lũ chó thì quay lưng lại với vẻ thờ ơ khinh thị.
- Thịt đây! Thịt đâây! - Tiếng rao mỗi lúc một to hơn.
Cuối cùng, một người đầu tóc rối bù, bẩn thỉu, đẩy một cái
xe ba gác đi tới. Lũ mèo từ tứ phía chạy xô đến, kêu gào như lắp lại tiếng rao
hàng của lão. Cứ đi được chừng năm chục bước, khi số mèo đã tập hợp đủ thì lão
lại dừng xe. Lão rút từ ngăn kéo ra một cái que xiên thịt nướng, đầy những
miếng gan nướng thơm phức. Lão dùng một cái que dài gạt lần lượt những miếng
gan đó ra khỏi xiên. Mỗi con mèo ngoạm lấy một miếng, tai cụp lại, mắt gườm
gườm, rồi vừa gừ gừ chạy đi, tha miếng mồi đến nơi ẩn nấp tin cậy.
- Th-ịt đâ-âyi Th-ịt đâ-ây!
Ngày càng có nhiều kẻ được nuôi dưỡng đến nhận khẩu phần của
chúng. Lão bán gan nướng biết rất rõ tất cả lũ chúng. Đây là con mèo cọp của
Castiglione, đây là con mèo mun của Jones, đây là con mèo lông đồi mồi của
Pralitsky, đây là con mèo trắng của Danton. Kia là con mèo nòi Angora của
Blenkinshoff. Còn con mèo vàng già Billy leo lên chiếc xe ba gác là con mèo của
Sawyer, một con người tráo trở vô liêm sỉ mà không người nào chưa từng chịu
thiệt với hắn cả. Phải ghi nhớ từng con mèo của từng người. Con mèo đang chạy
tới là của một người chủ vẫn trả đều đặn mười xu một tuần lễ. Nhưng đây lại là
một con khác được trả tiền không chắc chắn lắm. Còn đây là con mèo của John
Washee nó được nhận một miếng gan nhỏ hơn vì John còn nợ tiền. Lũ mèo có trang điểm
những cái vòng cổ và nơ thắt của gã chủ quán rượu thì được thêm một ít gan nữa
vì chủ của chúng khá hào phóng. Con mèo của gã thu thuế cũng hạnh phúc không
kém, mặc dầu gã ta không cho mà lại thu tiền của lão. Một con mèo đen có cái
mũi đốm trắng chạy lại với vẻ tin cậy, nhưng - than ôi? - nó bị xua đuổi một
cách tàn nhẫn. Con vật khốn khổ không hiểu đã có chuyện gì. Nó vẫn nhận phần
gan trong nhiều tháng ròng cơ mà. Tại sao bây giờ lại có sự thay đổi tàn khốc
đó? Nhưng người bán gan thì biết rõ sự việc: chủ con mèo thôi không trả tiền
lão nữa. Lão chẳng có sách vở gì cả mà chỉ dựa vào trí nhớ, nhưng lão chẳng bao
giờ nhớ nhầm.
Những con mèo không được kể trong bản liệt kê của giới quý
phái đều đứng ở phía xa xa chờ đợi, hít hít cái mùi thơm mê hồn và hi vọng xảy
ra một sự ngẫu nhiên hạnh phúc. Trong số những kẻ ăn bám đó có một con mèo cư
trú ở khu nhà ổ chuột, không nhà cửa, sinh sống bằng những thứ thượng đế ban
cho, nên gầy guộc và bẩn thỉu. Có thể dễ dàng đoán ra được rằng có một gia đình
đói khát đang chờ đợi nó ở một xó xỉnh tối tăm nào đó. Một con mắt của nó theo
dõi chiếc xe ba gác còn con mắt kia thì canh chừng xem con chó có rình rập mình
hay không. Hàng chục con mèo hạnh phúc nhận xong phần gan hằng ngày của mình đã
đi xa rồi, nhưng nó vẫn chẳng có chút hi vọng gì được ăn bữa sáng. Nhưng kìa,
một con mèo đen to, cũng không nhà cửa như nó, đã nhảy xổ vào một con mèo được
nuôi để cướp lấy miếng mồi. Con mèo nạn nhân nhả miếng thịt xuống để chuẩn bị
chiến đấu. Trong khi chúng mải đánh nhau, con mèo hoang xám chộp ngay lấy miếng
gan và biến mất.
Nó trườn bên dưới một cái cửa con hàng giậu, nhảy qua một
hàng rào phía sau rồi ngồi xuống đánh chén hết miếng gan. Nó liếm mép, vẻ hài
lòng và đi vòng vèo về phía một bãi đổ rác, tại đó gia đình nó đang chờ đợi ở
đáy một cái thùng đựng bánh quy cũ. Đột nhiên nó nghe thấy có tiếng mèo kêu
thảm thiết. Nó chạy bổ về phía đàn con và trông thấy con mèo đen to đang thản
nhiên ăn thịt các con nó. Con mèo kia lớn gấp đôi nó, nhưng nó nhảy xổ vào kẻ
phạm tội bị bắt quả tang với vẻ dữ tợn đến nỗi y phải quay người bỏ chạy. Trong
đám mèo con chỉ còn sót lại mỗi một con mèo xám nhỏ giống mẹ nhưng có những vệt
đen ở lưng và có mấy chấm trắng ở mũi, tai và chót đuôi.
Mấy ngày đầu mèo mẹ đau đớn vô cùng. Nhưng rồi nỗi đau đớn
của nó cũng nguôi dần và nó dồn hết cả tình thương yêu và sự chăm sóc vào đứa
con còn sống sót. Con mèo đen đã ăn thịt lũ con nó dĩ nhiên không làm một công
việc tốt lành, nhưng vô tình nó đã làm ơn cho cả con mèo mẹ lẫn đứa con của nó:
nuôi một con mèo con dễ dàng hơn nuôi nhiều con. Mèo mẹ vẫn tiếp tục tìm kiếm
thức ăn hằng ngày. Kiếm chác được ở chỗ người bán gan thì hiếm có dịp nhưng ở
các thùng rác thì luôn luôn có vỏ khoai có thể làm dịu được cơn đói.
Một bữa ban đêm mèo mẹ ngửi thấy một mùi kì diệu. Mùi đó đưa
đến từ con sông East River ở cuối ngõ hẻm. Nó dẫn con mèo tới một căn nhà, rồi
lại dẫn từ đó đến một bến tàu. Nhưng đột nhiên nó nghe thấy tiếng gầm gừ và nó
hiểu rằng con chó ở xưởng đóng tàu, kẻ thù cũ của nó đã chặn mất đường chạy
rồi. Không thể lựa chọn gì nữa nó nhảy luôn xuống con tàu, nơi có mùi cá kì
diệu bốc ra. Con chó ở lại trên bờ, và đến sáng khi con tàu chở cá nhổ neo thì
con mèo bắt buộc phải rời bến cùng với tàu, và chẳng ai còn trông thấy nó nữa.
2
Con mèo hoang con chờ đợi mẹ một cách vô ích. Buổi sáng đến
rồi đi qua. Mèo con rất đói. Trước lúc trời tối nó đi tìm thức ăn. Nó bò ra
khỏi thùng bánh và bới đống rác, đánh hơi tất cả mọi thứ gì tưởng chừng có thể
ăn được nhưng không tìm được thứ gì cả. Cuối cùng nó lần đến những bậc thang gỗ
dẫn tới gian hàng ở tầng hầm của một người bán chim là anh chàng người Nhật tên
gọi Malee. Cánh cửa khép hờ. Mèo con lọt vào cả một thế giới những mùi hăng hắc
kì lạ. Nó trông thấy vô số những con vật sống bị nhốt trong những cái lồng.
Một gã đa đen ngồi trên một cái thùng đặt ở trong góc nhà.
Gã da đen nhận ra con vật lạ mặt bé nhỏ và tò mò theo dõi nó. Mèo con đi ngang
qua một vài cái lồng nhốt thỏ, không để ý gì đến chúng cả. Nhưng nó đã đến gần
một cái lồng đan thưa, trong nhốt một con cáo. Vị phu nhân quyền quý có cái
đuôi bông này đang ở góc lồng xa nhất. Nó nằm dán chặt xuống sàn nhà. Mắt nó
nảy lửa. Mèo con tiến lại gần, đánh hơi rồi thò đầu vào trong lồng và lại đánh
hơi. Sau đó nó bò tới chiếc bát đựng thức ăn nhưng đúng lúc đó thì con cáo vẫn
rình đợi đã vồ ngay lấy nó. Mèo con sợ hãi kêu: “meo!”, và nó bị con cáo lắc
mạnh một cái, rồi có lẽ đã bị con này quật chết ngay nếu như gã da đen không
can thiệp kịp thời. Gã không có vũ khí mà cũng không thể chui vào trong lồng
được, nhưng gã phóng một tia nước bọt quyết liệt vào mõm con cáo đến mức nó nhả
ngay mèo con ra và lủi vào một góc lồng, mắt nhấp nháy vẻ sợ hãi.
Gã da đen lôi con mèo con ra khỏi lồng. Cú quật làm nó sợ
hết hồn. Mèo con không việc gì nhưng nó mụ cả người ra. Nó quay cuồng, lảo đảo
một lúc tại chỗ rồi sau mới lại hồn. Vài phút sau nó đã kêu gừ gừ trên đầu gối
gã da đen. Lúc này anh chàng bán chim Malee, người Nhật đã quay trở về gian
hàng. Malee hoàn toàn không phải sinh ở Nhật Bản mà ra đời ở vùng ngoại ô
London. Nhưng anh ta có cặp mắt nhỏ, xếch trên khuôn mặt tròn và cái mũi tẹt,
khiến cho mọi người quên cái tên thực của anh ta mà cứ gọi là anh chàng người
Nhật. Anh ta không hà khắc với lũ chim và thú mà anh ta buôn bán. Anh ta chỉ
tuân theo sự lời lãi của bản thân và biết mình phải làm gì. Anh ta không cần
con mèo con hoang. Gã da đen cho mèo con ăn thỏa thích rồi mang nó đến một phố
xa và thả nó vào một cái sân kho chứa đồ sắt ở đấy.
3
Một bữa ăn no hoàn toàn đủ cho hai - ba ngày. Con mèo con
được ăn nhiều rất vui vẻ, phấn chấn. Nó bới các đống rác, tò mò nhìn những cái
lồng chim yến treo ở các cửa sổ không thể với tới được, rồi ngó qua hàng rào,
và trông thấy một con chó to thì len lén lùi lại, tìm một chỗ trốn ở ngoài nắng
và nằm đó ngủ cả giờ đồng hồ.
Một tiếng gừ gừ khe khẽ đánh thức nó dậy. Đứng trước mặt nó
là một con mèo đen to có đôi mắt xanh lè. Ở một bên má nó có vết sẹo trắng và
một cái tai nó bị rách. Cái nhìn của nó không chút thân thiện. Tai nó cụp sát
đầu, đuôi hơi giật giật còn cổ họng thì khe khẽ gừ gừ. Mèo con hồn nhiên tiến
lại gặp nó. Nó không biết đó là kẻ đã giết chết anh em nó. Con mèo đen quệt mõm
vào một cái cột rồi chầm chậm quay đi một cách bình tĩnh và biến mất. Mèo con
chỉ còn trông thấy cái chót đuôi giật giật của nó mà thôi. Mèo con chẳng bao
giờ biết được rằng nó đã gần kề cái chết cũng y như giây phút nó liều mạng bước
vào trong chiếc lồng cáo vậy.
Đến chiều mèo con thấy đói. Nó nghiên cứu cẩn thận cái dòng
không khí dài vô hình và đa dạng có tên gọi là gió. Sau khi lựa chọn một hướng
gió đáng quan tâm nhất, nó đi ngược chiều gió thổi và đánh hơi. Ở góc sân có
một hố rác mà nó tìm được ở đó một chút thức ăn. Nó uống nước đã đời ở một cái
xô đựng nước đặt dưới vòi máy. Suốt đêm nó cần cù nghiên cứu cái sân. Ngày hôm
sau nó cũng ngủ ngon lành ngoài nắng y như ngày hôm trước.
Thời gian cứ thế trôi đi.
Có khi mèo con tìm được trong hố rác cả một bữa ăn, có khi
lại chẳng tìm được thứ gì. Một lần nó bắt gặp con mèo đen to ở đấy, nhưng nó đã
thận trọng tránh xa trước khi con này phát hiện ra nó. Cái xô nước hầu như lúc
nào cũng ở nguyên một chỗ, và khi người ta mang nó đi thì ở trên nền đá bên
dưới vòi nước còn lại những hũm nước đục ngầu. Nhưng cái hố rác cực kì bấp
bênh. Có lần suốt ba ngày mèo con không tìm được thứ gì ăn được ở đó cả. Mèo
con liền khảo sát cái hàng rào và tìm được một lỗ hổng nhỏ chui ra ngoài đường
phố. Nó chưa kịp nhìn quanh thì đột nhiên có một vật gì đó nhảy xổ vào nó và
làm ồn lên: một con chó to lớn nhảy thẳng vào nó. Mèo con chỉ vừa kịp lùi trở
lại chui qua lỗ hàng rào về sân. Nó đói kinh khủng. May mắn thay nó tìm được
một ít vỏ khoai làm dịu đi cái đói đau thắt ruột. Buổi sáng nó không thể nào
ngủ được đành phải đi kiếm mồi.
Trong sân lũ chim sẻ đang ríu rít kêu. Trước đây chúng vẫn
đến sân này, nhưng bây giờ mèo con nhìn chúng bằng con mắt khác. Cái đói ghê
gớm kích thích bản năng ác thú của nó. Bây giờ chim sẻ là mồi săn, là thức ăn.
Mèo con bò sát đất và rón rén đến gần lũ chim sẻ. Nó thử làm nhiều lần nhưng
đều thất bại: lũ chim sẻ nhanh nhẹn hơn nó và bao giờ cũng bay đi kịp thời.
Cuối cùng nó hiểu rằng, chim sẻ tuy là thức ăn nhưng là thứ thức ăn không với
tới được.
Đến ngày thứ năm trong cơn vận đen ấy con mèo hoang con lại
ra phố, hi vọng có cái gì ăn được. Khi nó đi khỏi cái khe hở ở hàng rào được
một khoảng cách xa thì nó bị một vài đứa trẻ lấy gạch ném. Nó bỏ chạy. Một con
chó đuổi theo nó. Tình cảnh kẻ chạy trốn tuyệt vọng. Nhưng đột nhiên nó trông
thấy một hàng lan can sắt kiểu cổ ở mặt trước một ngôi nhà bèn luồn qua khe hở,
giữa các thanh lan can và vừa kịp thoát khỏi con chó. Ở cửa sổ phía trên của
ngôi nhà xuất hiện một người đàn bà lên tiếng gọi con chó. Bà ta ném cho kẻ
khốn khổ một miếng thịt và mèo con ăn ngon lành như chưa bao giờ từng được ăn.
Sau đó nó ẩn nấp vào dưới mái ngôi nhà và ở đó cho đến khi đêm tối mang lại sự
yên tĩnh, lúc đó nó len lén đi trở về cái sân của mình.
Cuộc sống như thế kéo dài hai tháng. Mèo con lớn lên, bồi bổ
được thêm sức lực và đã nghiên cứu được rõ tất cả khu vực xung quanh. Nó đã làm
quen với đường phố Downey nơi mà sáng nào cũng xuất hiện một dãy thùng rác và
căn cứ vào đó có thể phán đoán về cư dân của những căn nhà trong phố. Tòa nhà
lớn đối với nó là cái kho chứa những thùng rác luôn luôn có những miếng cá còn
nguyên vứt bỏ. Nó cũng làm quen nhanh chóng với người bán gan và gia nhập vào
bầy đàn mèo len lén không có ai trả tiền ăn cho. Nó cũng gặp cả con chó ở xưởng
đóng tàu cũng như những con chó đáng sợ khác. Nó biết rõ chúng sẽ đem lại cho
nó điều gì và học cách chạy trốn khỏi chúng.
Thật may mắn cho nó chẳng bao lâu nó đã phát minh ra một
cách kiếm ăn mới. Có lẽ nhiều con mèo đã tụ tập một cách hi vọng hão huyền xung
quanh những cái thùng đựng sữa bí hiểm sáng nào cũng xếp đầy trên ngưỡng cửa và
bậu cửa sổ của người bán sữa. Một bữa, do ngẫu nhiên may mắn con mèo con của
chúng ta gặp một chiếc thùng có nắp đậy bị vỡ. Nó đã học được cách nâng cái nắp
ấy và cả một lô cái nắp thùng sữa khác lên và uống sữa thỏa thích. Dĩ nhiên nó
không thể mở được các nắp thùng ra nhưng nó đã nhiều lần vớ được những cái thùng
có nắp đậy không kĩ. Chú mèo con của chúng ta sốt sắng đi tìm những cái thùng
như thế. Nó đã từng bước nghiên cứu tất cả khu phố của nó. Nó đi mỗi ngày một
xa hơn và cuối cùng lại rơi vào giữa đám thùng nhỏ và lồng thú ở sân sau ngôi
hàng của người bán chim.
Cái sân của kho chứa đồ sắt bao giờ cũng xa lạ đối với nó,
nhưng cái sân sau ngôi hàng này thì gợi ngay cho nó một tình cảm đối với vật sở
hữu riêng tư và nó công phẫn khi thấy có một con mèo lạ xuất hiện ở đấy. Nó
tiến đến lần kẻ ngụ cư với vẻ đe dọa. Tình thế đã căng thẳng đến độ chúng gầm
gừ và phun phì phì thì một xô nước từ cửa sổ phía trên đổ ào xuống làm nguội
lạnh ý chí quyết chiến của chúng. Chúng nhảy dạt đi mỗi đứa một phía: con mèo
lạ chạy qua hàng rào, còn con mèo hoang con thì nhảy vào chiếc thùng bánh cũ
nơi nó đã mở mắt chào đời. Cái sân sau này thân thiết với nó một cách khác
thường và nó lại định cư ở đó. Thức ăn ở sân này vẫn ít như trước, và lại hoàn
toàn không có nước, nhưng những con chuột ngon lành thường đến thăm nó. Nhờ
những con chuột này mà con mèo con của chúng ta tìm được bạn.
4
Đến lúc ấy mèo con đã trở thành một con mèo trưởng thành đẹp
đẽ có mầu lông hổ. Bộ lông xám tươi của nó điểm những vệt đen và bốn cái chấm
trắng ở mũi, đuôi và hai tai đã làm cho nó có vẻ duyên dáng lạ thường. Mặc dầu
nó rất khéo tìm kiếm thức ăn nhưng nó vẫn có lần phải nhịn đói vài ngày, và nó
lại tiến hành săn chim sẻ một cách không kết quả. Nó hoàn toàn cô đơn.
Một lần vào tháng Tám khi con mèo đang nằm sưởi nắng thì nó
trông thấy một con mèo đen to tiến thẳng lại phía nó. Nó nhận ra ngay con này
qua cái tai rách liền bước thụt lùi về phía cái thùng của mình và nấp vào trong
đó. Con mèo đen thận trọng tiến lên phía trước, nhẹ nhàng nhảy từ tường lên cái
kho chứa củi ở cuối sân và sắp sửa băng qua mái nhà kho thì một con mèo vàng
tươi nhô ra đột ngột trước mặt nó. Con mèo đen gầm gừ nhìn chằm chằm vào nó,
con mèo vàng cũng gầm gừ đáp lại. Đuôi chúng quất qua quất lại một cách giận
dữ. Họng chúng gầm gừ và khìn khịt một cách kiên quyết. Chúng tiến sát lại gần
nhau, tai cụp xuống, bắp thịt căng thẳng.
“Miao ao-ao!” - con mèo đen lên tiếng.
“Ngào-ào-ào!” - một giọng trầm đầy đe dọa trả lời.
“Miao-ao-ao-ao!” - con mèo đen cất tiếng và tiến thêm bốn
inch lại gần.
“Miao-ao-ao!” - con mèo vàng trả lời. Nó ưỡn thẳng hết thân
người ra, tiến lên với vẻ cực kì đường bệ - “Miao-ao!” - Và nó lại tiến lên,
cái đuôi quật sang bên mạnh mẽ.
“Miaoao-ao!” - con mèo đen cất cao giọng thét lên và lui
bước một phần tám inch trước một kẻ đối địch có bộ ngực nở kiên cường.
Các cửa sổ ở xung quanh đều mở toang và nghe thấy tiếng
người nói lao xao nhưng cuộc cãi lộn giữa hai con mèo vẫn tiếp tục.
“Miao-ao-ao?” - con mèo vàng cũng cất cao giọng thét lên,
ngang với giọng cất cao của con mèo đen – “Miao!” - Và nó lại tiến lên phía
trước.
Bây giờ mũi chúng chỉ cách nhau chừng ba inch. Chúng đứng
đối mặt nhau, cả hai đều sẵn sàng quấn lấy nhau nhưng còn chờ cho kẻ thù bắt
đầu đánh trước. Chúng đứng yên lặng đến ba phút, mắt hau háu nhìn nhau, bất
động như hóa đá, chỉ có chót đuôi là hơi động đậy.
Con mèo vàng lại bắt đầu lên tiếng:
“Miao-ao-ao!” - giọng trầm trầm.
“Ngao-ao-ao!” - con mèo đen rít lên, định dùng tiếng thét
của nó làm cho kẻ thù sợ hãi, nhưng đồng thời chính nó lại lùi lại một phần sáu
inch.
Con mèo vàng tiến thêm lên nửa inch. Bây giờ tai chúng đã
chạm vào nhau. Lại tiến thêm một bước nữa và mũi chúng cơ hồ sắp chạm nhau.
“Miao-ao-ao!” - con mèo vàng gầm lên.
“Nga-a-a-a-a-ao!” - con mèo đen thét lên và lùi thêm một
phần ba mươi hai inch.
Con mèo vàng tiến lên và nhảy xổ vào kẻ địch.
Ôi, chúng nhào lăn, cào cấu nhau mới ghê gớm làm sao? Chúng
cắn xé nhau, vật lộn nhau mới dữ dội làm sao! Con mèo vàng chiếm ưu thế rõ
ràng.
Chúng ngã lộn tùng phèo qua đầu nhau, khi thì con này nằm ở
trên, khi lại là con khác, và thường thường là con mèo vàng đè lên trên con mèo
đen, chúng lăn tròn mỗi lúc một xa hơn cho đến khi tuột khỏi mái nhà trước
tiếng reo vui thích của những người xem tụ tập ở các cửa sổ. Thậm chí trong lúc
chúng rơi xuống sân mà chúng vẫn còn tiếp tục cào cấu nhau. Con mèo vàng cào
đau nhiều hơn.
Khi chúng rơi đến đất thì con mèo vàng đè ở phía trên. Và
khi đến phút cuối cùng chúng rời nhau ra thì con nào cũng được ăn đòn thỏa
thích, nhất là con mèo đen. Nó nhảy lên bờ tường, người ròng ròng máu, mồm gầm
gừ và biến mất trong tiếng loan tin từ cửa sổ này qua cửa sổ khác là con vàng
Billy đã nện cho con đen Nig đến nơi đến chốn.
Có thể con mèo vàng tươi là một gã thám tử tài ba, mà cũng
có thể ả mèo hoang trốn không được kĩ, nhưng gã ta đã tìm thấy ả ở giữa đống
thùng và cô ả cũng không bỏ chạy nữa. Không cái gì chinh phục trái tim con cái
tốt hơn chiến thắng trên chiến trường. Gã mèo vàng và ả mèo xám kết bạn với
nhau nhanh chóng. Chúng không kết bạn để chia sẻ cuộc sống và thức ăn - đó
không phải là tập quán của loài mèo - chúng chỉ thừa nhận những quyền hạn bạn
bè đặc biệt đối với nhau mà thôi.
5
Tháng Chín đã qua và những ngày tháng Mười ngắn ngủi đã tới.
Trong chiếc thùng bánh cũ đã xảy ra một sự kiện quan trọng. Nếu như con vàng
Billy từ đâu đến đây thì nó sẽ trông thấy năm con mèo con đang nằm trong vòng
tay âu yếm của mẹ nó, cái con mèo hoang con bé nhỏ hồi nào. Đối với nó đấy là
giờ phút hạnh phúc. Nó đã tận hưởng một nỗi hân hoan tột đỉnh, nó âu yếm liếm
chúng đến nỗi có lẽ nó cũng tự ngạc nhiên về mình nếu như nó có khả năng phán
đoán.
Trong cuộc đời không mấy hạnh phúc của nó đã có một niềm vui
và nỗi lo toan cũng đến theo ngay lập tức. Bây giờ mọi sức lực của nó đều dồn
vào việc đi kiếm thức ăn. Lũ mèo con càng lớn thì nỗi lo toan càng tăng. Sau
một tháng rưỡi chúng đã bắt đầu bò ra khỏi cái thùng và bò đi khắp nơi hằng
ngày mỗi khi mẹ nó đi tìm ăn.
Ai cũng biết rõ những người nghèo khó thường gặp nhiều tai
họa hơn là may mắn. Lũ chó đã ba lần tấn công con mèo xám, còn gã da đen làm
công cho anh chàng người Nhật Malee thì thiếu chút nữa đã ném trúng hòn gạch
vào nó. Nhưng rồi sau đã đến lúc có một bước ngoặt. Ngay buổi sáng hôm sau nó
tìm được một cái thùng sữa không đậy nắp, rồi lại cướp giật được phần thức ăn
của một con mèo được nuôi nhờ lão bán gan và kiếm được cả một cái đầu cá lớn -
tất cả những việc đó xảy ra trong có hai giờ đồng hồ. Nó quay trở về nhà trong
tâm trạng bình tĩnh yên tâm, cái tâm trạng chỉ có khi dạ dày đầy ních, và đã
trông thấy ở trên sân một con vật nhỏ bé màu nâu. Con mèo cái nhớ lại những
chuyến săn mồi trước đây của nó. Nó đã cắn chết và ăn thịt nhiều con chuột
trong đời, và quyết đoán rằng có lẽ con vật lông nâu ấy là một con chuột to có
đuôi ngắn và đôi tai dài.
Nó rón rén đến gần con vật với vẻ thận trọng một cách không
cần thiết. Con thỏ nhỏ chỉ nhổm lên dường như tất cả những cái đó chỉ là trò
chơi thích thú mà thôi. Nó cũng không có ý định bỏ chạy và con mèo chộp được nó
chẳng khó khăn gì.
Vì con mèo không muốn ăn thịt nên nó tha con thỏ con về chỗ
cái thùng gỗ và thả nó vào đám mèo con. Con thỏ không bị đau gì cả. Nó hết sợ
ngay và sau khi thấy không thể nhảy ra khỏi cái thùng được thì nó liền sán lại
gần lũ mèo con. Và khi chúng bắt đầu bú ăn trưa thì nó cũng ghé vào cùng ăn
không chút ngại ngần. Con mèo cái ngẩn người ra. Bản năng săn bắt luôn thắng
mọi thứ bản năng khác, nhưng nó đang no nê và điều đó đã cứu thoát con thỏ. Bản
năng người mẹ trong con mèo của chúng ta trỗi dậy và nó đã cho con thỏ bú dòng
sữa của nó.
Con thỏ con trở thành một thành viên của gia đình mèo và
cũng được nuôi nấng, chăm sóc như lũ mèo con.
Đã hai tuần lễ trôi qua. Lũ mèo con nô đùa vui vẻ giữa đống
thùng những lúc vắng mẹ, và con thỏ con thì không thể nào bò ra ngoài được. Anh
chàng người Nhật Malee trông thấy lũ mèo con ở sân sau bèn sai gã da đen bắn
chết. Một buổi sáng đẹp trời, gã da đen vâng lệnh chủ mang khẩu súng hai mươi
hai inch ra thực hiện. Gã bắn hạ lần lượt từng con mèo con cho đến hết. Đột
nhiên trên bờ tường xuất hiện con mèo mẹ, mồm ngoạm chặt một con chuột. Gã da
đen cũng định bắn chết luôn cả nó, nhưng gã đã đổi ý khi trông thấy con chuột:
Loại mèo diệt chuột xứng đáng được sống.
Đó là con chuột đầu tiên mà con mèo của chúng ta nhân dịp
tóm được, nhưng nó đã cứu mèo thoát chết. Con mèo nhảy qua đống rác đến chỗ cái
thùng, nhưng nó ngạc nhiên không thấy con mèo con nào chạy tới theo tiếng gọi
cả. Còn con thỏ con thì không ăn thịt chuột. Mèo mẹ cho thỏ bú và chốc chốc lại
cất tiếng gọi con. Gã da đen nghe thấy tiếng mèo mẹ kêu liền len lén tới gần
cái thùng nhòm vào và gã vô cùng kinh ngạc khi trông thấy trong thùng có một
con mèo mẹ một con thỏ con sống và một con chuột chết.
Mèo mẹ ép tai sát vào đầu và càu nhàu. Gã da đen bỏ đi nhưng
một lát sau gã đã lấy một miếng ván úp chụp lên miệng thùng rồi áp giải tất cả
những cư dân trong đó, cả sống lẫn chết, trở về gian hàng nhốt chim ở tầng hầm.
- Xem này, ông chủ ơi, một chú thỏ con rơi vào đây này! Thế
mà ông cứ nghi oan cho tôi đã đánh cắp thỏ!
Mèo mẹ và thỏ con được nhốt vào một cái lồng sắt to và đã
được trưng bày hằng ngày như mẫu mực của gia đình hạnh phúc. Nhưng chẳng bao
lâu con thỏ con bị ốm và chết.
Mèo mẹ bị nhốt trong lồng chẳng cảm thấy lúc nào hạnh phúc.
Cho nó ăn uống thỏa thích nào có đáng là bao. Nó u sầu trong cảnh tù túng, và
có lẽ nó đã đấu tranh để giành lấy tự do hay là cái chết. Nhưng bất hạnh thay
cho nó, trong thời gian bị nhốt trong lồng bốn ngày nó đã được tắm rửa sạch sẽ
đến nỗi bộ lông của nó lộ rõ vẻ đẹp lộng lẫy và anh chàng người Nhật đã quyết
định giữ nó lại để nuôi.
Cuộc đời thứ hai
6
Anh chàng người Nhật Malee là người tinh ranh nhất trong đám
dân vùng ngoại ô London, đã từng có dịp buôn bán những con chim yến rẻ tiền ở
tầng hầm. Anh ta rất nghèo, và gã da đen sống với anh ta chỉ vì chàng lái buôn
London bằng lòng chia sẻ với gã nơi ăn chốn ngủ và nói chung đã đối xử với gã
bình đẳng, khác hẳn đại đa số dân Mỹ.
Anh chàng người Nhật tự coi mình là một người chính trực,
tuy rằng mọi người đều biết anh ta kiếm tiền bằng cách tàng trữ những con chó
và con mèo ăn trộm được. Anh ta sử dụng khoảng nửa tá chim yến chỉ để làm tấm
bình phong che đậy công việc kia mà thôi. Nhưng anh chàng người Nhật không buồn
phiền. “Rồi cậu xem, Sammy ạ, tớ sẽ đi chu du bốn phương trên chiếc xe ngựa
riêng của mình cho mà xem!”, - anh ta ưa thích nhắc lại như thế sau những công
việc mà anh ta cho là thành công. Anh ta cũng háo danh theo cách riêng của
mình, và muốn người ta coi mình là người hiểu biết rành rẽ công việc. Thậm chí
đã có lần anh ta đánh bạo đem mèo đến dự một cuộc triển lãm thượng lưu về mèo
và những vật nuôi được ưa chuộng do hội Knickerbocker tổ chức. Anh ta hành động
với ba mục đích khá là mơ hồ: một là việc đó thỏa mãn tính tự ái của anh ta,
hai là làm như thế anh ta có thể dự triển lãm không phải trả tiền, và ba là, “cậu
có biết không, cần phải nghiên cứu những con mèo quý nếu như đã quan tâm đến
vấn đề mèo”. Nhưng cuộc triển lãm là của giới thượng lưu, người ta chỉ nhận mèo
của những người có tên tuổi, và con mèo Angora nửa thuần chủng thảm hại đã bị
gửi trả về với một sự khinh thị.
Những cột báo duy nhất được anh chàng người Nhật chú ý là
những cột đăng tin thất lạc và tìm kiếm chó và mèo, nhưng dù sao thì anh ta
cũng đã cắt lấy và cất giữ một mẩu tin về “nuôi mèo để lấy lông”. Mẩu tin đó
được dán trên tường của gian hàng, và nó đã bắt buộc anh chàng người Nhật phải
tiến hành một cuộc thí nghiệm nghiêm túc trên con mèo hoang. Trước hết anh ta
chải lên bộ lông bẩn của con mèo một thứ thuốc đặc biệt để diệt bọ. Sau đó anh
ta tắm cho nó thật cẩn thận trong nước ấm có xà bông, bất kể con mèo kêu gào,
cào cắn thế nào. Con mèo rất tức giận. Nhưng sau đó cái lồng mèo được đem đặt
lại gần lò sưởi và con mèo thấy dễ chịu ngay, còn bộ lông của nó lại bông lên
và trở thành sạch sẽ, mềm mại một cách lạ thường. Anh chàng người Nhật và gã
giúp việc rất hài lòng. Nhưng đó chỉ mới là bước thứ nhất, còn phải tiếp tục
thí nghiệm nữa. “Muốn nâng cao chất lượng bộ lông, phương tiện có kết quả nhất
là cho ăn thức ăn nhiều chất dầu và thường xuyên tắm không khí lạnh”, - mẩu tin
trong báo nói vậy.
Mùa đông đã sắp tới rồi. Anh chàng người Nhật đem đặt cái
lồng mèo ra ngoài sân và chỉ che mưa, gió mà thôi, sau đó cho kẻ tù nhân của
mình ăn thật nhiều khô dầu và đầu cá
Chỉ sau một tuần lễ đã thấy khác hẳn. Con mèo mỗi ngày một
béo tốt và mượt mà hơn; nó chẳng làm việc gì khác ngoài việc tích trữ mỡ và
chăm chút bộ lông mà thôi. Chiếc lồng được giữ sạch sẽ, và thiên nhiên đã hưởng
ứng thời tiết lạnh và thức ăn nhiều chất dầu cho nên bộ lông con mèo cứ mỗi
ngày một thêm bông xốp và sáng nước hơn, và đến giữa mùa đông thì con mèo hoang
đã biến thành một con mèo đẹp đẽ hiếm có, với bộ lông mềm mại diệu kì điểm
những vệt đen mĩ lệ. Anh chàng người Nhật rất hài lòng với kết quả thí nghiệm
và liền mơ tưởng đến sự vinh quang chưa từng có. Tại sao lại không gửi con mèo
đến dự cuộc triển lãm sắp tổ chức nhỉ? Nhưng sau lần thất bại năm ngoái anh
chàng đã chín chắn hơn.
- Cậu thấy không, Sammy, - anh ta nói với gã da đen, - không
thể giới thiệu nó như một con mèo hoang được. Mà chúng ta phải chiều ý hội
Knickerbocker chứ. Trước hết cần có một cái tên hay. Tự cậu cũng hiểu là ở đây
cần có một cái gì đó “hoàng gia”, - không cái gì tác động đến các hội viên
Knickerbocker bằng một cái gì đó “hoàng gia” đâu. Chẳng hạn như Dick Hoàng gia
hoặc Sam Hoàng gia thì cậu bảo sao nào? Nhưng gượm đã nào, toàn là tên mèo đực
cả. Sammy, cậu nói đi, hòn đảo quê hương của cậu gọi là gì nhỉ?
- Quê tôi ở hòn đảo Analostan, thưa ngài.
- Hay quá! Con mèo Hoàng gia Analostan, mẹ kiếp! Con hoàng
gia Analostan duy nhất có phổ hệ tại toàn cuộc triển lãm. Thật quả là khôi hài!
Và cả hai người đều phá lên cười.
Chỉ còn phải lập một bản phổ hệ con mèo nữa là xong. Và hai
người bạn bắt tay ngay vào lập cho con mèo một bản phổ hệ ngụy tạo chi tiết.
Thế rồi một hôm vào lúc chiều tà, Sam diện một chiếc mũ lễ
đi thuê và mang con mèo cùng với bản phổ hệ của nó đến giao cho người chủ trì
triển lãm. Gã da đen đã thực hiện xuất sắc những điều dự tính. Gã đã từng có
thời làm nghề cắt tóc kiêm lang băm ở Đại lộ Sáu và khéo biết giữ vẻ đàng
hoàng, trang trọng hơn cả Malee. Có thể đó cũng là một trong những nguyên nhân
làm cho con mèo Hoàng gia Analostan được đón nhận một cách tôn kính tại cuộc
triển lãm mèo.
Anh chàng người Nhật rất tự hào về việc con mèo của y được
tham dự triển lãm: y cho rằng đó là biểu hiện sự tôn kính của giới thượng lưu
đối với một người bán hàng gốc London. Hôm khai mạc triển lãm y đến cổng và
sung sướng đến nghẹn thở khi trông thấy cả một biển xe ngựa và mũ lễ ở nơi đây.
Người gác cửa đưa mắt nhìn y với vẻ soi mói nhưng khi thấy tấm vé thì để cho y
đi qua vì có lẽ nghĩ rằng y là người giám mã của một vị quý tộc nào đó có mèo
tham dự triển lãm.
Trong gian phòng triển lãm, người ta trải những tấm thảm
nhung đằng trước những dãy dài lồng mèo. Anh chàng người Nhật thận trọng bước
trên lối đi bên cạnh, nhìn ngắm những con mèo thuộc đủ nòi khác nhau, đọc những
chữ ghi trên các băng màu xanh màu đỏ để tìm con mèo của mình, nhưng không dám
hỏi ai về nó cả và trong lòng cứ lo sợ về cái ý nghĩ rằng, giới thượng lưu sang
trọng hội họp ở đây sẽ nói gì nếu như họ biết y đã dám đùa cợt họ như thế nào.
Y đã trông thấy nhiều con vật được tặng giải thưởng, nhưng
không thể nào tìm thấy con mèo hoang của mình. Y len lỏi qua đám đông đứng đầy
trên con đường trung tâm nhưng vẫn không thấy con mèo. Anh chàng người Nhật
quyết đoán rằng đã có chuyện lầm lẫn xảy ra: có lẽ ban giám khảo cuối cùng đã
gạt không nhận con mèo. Cũng chẳng cần: y đã được nhận một tấm vé vào cửa và
bây giờ đã biết có thể đến đâu tìm kiếm những con mèo quý giá nòi Ba Tư và
Angora.
Ở lối đi trung tâm người ta trưng bày những con mèo loại ưu
tú. Rất nhiều người tụ tập xung quanh chúng. Dọc theo lối đi người ta chăng dây
và có hai cảnh sát viên đứng giữ trật tự. Anh chàng người Nhật len vào chính
giữa đám đông xô đẩy chen chúc. Người y quá thấp bé nên không thể nhìn qua vai
người khác được, và tuy rằng đám công chúng ăn mặc sang trọng giãn ra để tránh
bộ cánh tồi tàn của y nhưng y vẫn không làm sao lách đến gần cái lồng đặt ở
trung tâm được. Tuy nhiên qua những lời bình phẩm của các người xung quanh thì
y hiểu rằng chính ở đó trưng bày vật nổi bật nhất của cuộc triển lãm.
- Này, tuyệt trần không kìa? - Một người đàn bà cao lớn nói.
- Thật là kiều diễm? - Có người đáp lại.
- Phải qua hàng thế kỉ sống sành sỏi mới tạo ra được cặp mắt
biểu hiện sự lờ đờ như thế đấy.
- Có được cái tạo vật tuyệt diệu này thì thú vị biết mấy?
- Đàng hoàng biết bao! Điềm tĩnh biết bao?
- Người ta nói rằng, theo bản phổ hệ được sử liệu xác nhận
thì có lẽ nó bắt nguồn từ nòi mèo thời các hoàng đế Ai Cập đấy.
Và anh chàng người Nhật bé nhỏ, bẩn thỉu, nghèo nàn lấy làm
ngạc nhiên là mình đã dám cả gan gửi con mèo hoang đến với cái xã hội thanh nhã
như thế.
- Xin lỗi, thưa quý ngài! - Viên giám đốc cuộc triển lãm
lách qua đám đông tới. - Ở đây có vị họa sĩ của tờ “Tuần báo thể thao”, ông ta
được đặt vẽ một phác thảo về “viên ngọc bích” của cuộc triển lãm để công bố
ngay. Xin đề nghị quý ngài giãn ra một chú, được không ạ?... Thế thế, xin cảm
ơn.
- Ôi, ngài giám đốc, ngài có thể thuyết phục người ta bán
con vật tuyệt mĩ này chăng?
- Hừm, tôi không rõ có làm được không nữa. - viên giám đốc
trả lời. - Tôi được biết chủ nhân con mèo này là một người giàu có lớn và rất
cô độc; rất khó tiếp xúc. Nhưng dù sao, thưa ngài, tôi cũng sẽ thử thuyết phục.
Người quản gia của ông ta nói với tôi rằng khó lòng mà ông ta chịu đồng ý
nhường lại của báu của mình... Này ông bạn, ông chen đi đâu vậy? - Viên giám
đốc càu nhàu nói với một người ăn mặc tồi tàn đang có vẻ sốt ruột xô đẩy người
họa sĩ đến gần con vật quý phái.
Nhưng cái con người ăn mặc tồi tàn thì lại muốn biết bằng
bất cứ giá nào nơi trưng bày những con mèo quý giá. Anh ta liếc mắt nhìn cái
lồng và đọc tờ giấy dán ở đó tuyên cáo rằng, dải băng xanh và huy chương vàng
của cuộc triển lãm của Hội Knickerbocker được trao tặng cho con mèo Hoàng gia
Analostan thuần chủng, do nhà nuôi mèo nghiệp dư nổi tiếng N. Malee gửi tới
tham dự triển lãm, (Không bán). Anh chàng người Nhật sung sướng đến nghẹn thở
và nhìn kĩ lại. Đúng, rõ ràng là thế: con mèo hoang của y nằm đó trong một
chiếc lồng thếp vàng đặt trên một cái đệm nhung phủ lên một bục cao, xung quanh
có bốn cảnh sát viên đứng canh gác, con mèo ấy đang lim dim cặp mắt màu xanh,
bình thản khoe bộ lông xám nhạt điểm những vệt đen tuyền. Con mèo rất lãnh đạm.
Nó chẳng coi cái dư luận ồn ào xung quanh nó đáng giá một chút nào cả.
7
Anh chàng người Nhật Malee đứng ỳ hàng giờ ở gần bên cái
lồng, lắng nghe những lời tán tụng con mèo hoang của mình và say mê với niềm
vinh quang mà ngay nằm mơ y cũng không thể thấy được. Tuy nhiên y hiểu rằng,
thông minh hơn là phải giấu kín mình và trao quyền hành động cho người “quản
gia” của mình. Cuộc triển lãm đã mang ơn con mèo hoang nhờ ở toàn bộ kết quả
công việc của gã “quản gia” đó. Giá trị con mèo cứ tăng hằng ngày trước con mắt
người chủ của nó. Y không có khái niệm về chuyện người ta đôi khi trả những món
tiền như thế nào cho những con mèo và nghĩ rằng đã nói thách quá đáng khi “viên
quản gia” của y báo cho vị giám đốc triển lãm biết quyết định bán con Analostan
với giá một trăm đôla.
Và thế là con mèo hoang được dịp di chuyển từ cuộc triển lãm
về một biệt thự ở Đại lộ Năm. Ngay lập tức nó biểu lộ cái tính hoang dã khó
hiểu. Nhưng sự ghét vuốt ve của nó lại được lí giải như là tính ghê tởm sự
suồng sã của giới thượng lưu. Cái thói chạy vào giữa bàn ăn khi trông thấy chó
trong phòng thì được giải thích là ý muốn tránh sự tiếp xúc có tính chất xúc
phạm, mặc dầu là một ý muốn khó biện hộ. Việc đánh chén những con chim yến nuôi
thì được giải thích là thái độ chuyên chế từng nổi tiếng ở quê hương phương Đông
của con mèo. Nhưng thói quen quý phái mở nắp thùng đựng sữa của nó lại làm cho
mọi người thán phục nó. Thói không thích ngủ trong cái giỏ lót lụa và cứ thường
xuyên húc đầu vào kính cửa sổ chỉ chứng tỏ rằng cái giỏ chưa đủ đẹp và cửa kính
không được thông dụng ở cung điện quê hương nó. Việc thường xuyên vồ bắt nhưng
thất bại những con chim sẻ bay lượn trong cái sân sau có tường cao bao quanh
được coi là một bằng chứng quá đủ về tính chất thiếu thực tế của cách giáo dục
chốn cung đình, còn việc đến thăm thùng đựng rác thì chỉ là sự lẩn thẩn có thể
tha thứ được của nòi giống cao quý.
Người ta khoản đãi và vuốt ve con mèo nhưng nó không thấy
hạnh phúc. Con mèo buồn nhớ quê hương. Nó giật lắc cái băng xanh buộc cổ cho
đến khi băng tuột ra; nó húc đầu vào kính cửa sổ vì ngỡ đó là đường ra phố, nó
tránh người và chó bởi vì người và chó là kẻ thù cũ của nó. Nó ngồi rất lâu bên
cửa sổ, buồn rầu nhìn những mái nhà và những cái sân sau. Nó muốn quay trở về
cái sân sau của nó biết bao! Nhưng người ta theo dõi nó chặt chẽ và không bao
giờ để cho nó ra phố. Tuy vậy vào một buổi tối tháng Ba con Hoàng gia Analostan
chộp được thời cơ người ta mang những cái thùng rác ra ngoài sân, nó liền lách
qua cái cửa lớn và biến mất.
Chẳng nói làm gì về nỗi kinh hoàng đã xảy ra xung quanh
chuyện con mèo đi mất. Nhưng con mèo không biết và cũng không muốn biết những
chuyện đó. Nó chỉ nghĩ đến mỗi một việc làm thế nào mau chóng trở về tới nhà.
Sau nhiều cuộc phiêu lưu không đáng kể nó đã tới gần Đồi Gramercy Grange. Nhưng
rồi sau đó thì thế nào? Nó không về được nhà mà mặt khác lại mất nơi nuôi nấng
chắc chắn. Cái đói đã nhắc nhở nó nhưng bất chấp tất cả mọi chuyện, nó vẫn thấy
cực kì sung sướng.
Nó chờ đợi một thời gian, lẩn tránh trong một cái sân nhỏ ở
phía trước một ngôi nhà. Rồi một cơn gió dông dữ dội nổi lên, mang tin tức thân
thiết đến cho nó. Con người thì gọi cái tin tức đó là mùi tởm lợm đưa từ bến
cảng đến, nhưng đối với con mèo của chúng ta thì đó lại là tin tức hằng mong
đợi của quê hương. Nó phi nước đại theo con phố dài về hướng đông, cố bám theo
các hàng rào của các ngôi nhà, thỉnh thoảng lại đứng lịm tại chỗ như một pho
tượng và cuối cùng đã đến được bến cảng và bờ sông. Nhưng nó thấy nơi này lạ
hoắc. Có thể rẽ về hướng nam mà cũng có thể quặt lên hướng bắc. Một cái gì đó
buộc nó quanh về hướng nam, và sau hai giờ đi len lỏi qua lũ chó, những chiếc
xe ngựa và lũ mèo, qua những lối đi vòng vèo của vụng sông và những hàng rào
sắt, nó đã có mặt ở giữa những mùi quen thuộc. Mặt trời vẫn còn chưa lặn khi mà
con mèo mệt nhoài và tập tễnh trườn qua đúng cái khe hở cũ ở hàng giậu của gian
hàng chim - để chui vào đúng cái thùng bánh cũ, nơi nó đã mở mắt chào đời. Ôi,
giá mà cái gia đình quý phái ở Đại lộ Năm có thể trông thấy nó, hoàn cảnh “quê
hương phương Đông” của nó! Sau khi nghỉ đã đời nó lần đến cái thang dẫn xuống
tầng hầm nhốt chim tìm kiếm thức ăn. Cửa mở toang, và gã da đen xuất hiện trước
ngưỡng cửa. Gã ta kêu toáng lên với người chủ hàng bán chim:
- Lại đây, ông chủ ơi! Con Hoàng gia Analostan trở về nhà
đây này.
Khi anh chàng người Nhật bước ra cửa thì con mèo nhảy phóc
qua hàng giậu. Cả hai người đều cất giọng âu yếm gọi thật to: “Meo - meo! Mèo
tội nghiệp ơi! Lại đây nào, mèo ơi!”. Nhưng con mèo chẳng ưa gì họ và nó chạy
về nơi trú ngụ cũ của mình.
Con mèo Hoàng gia Analostan đã từng một lần là cả một kho
của đối với anh chàng Nhật Bản. Với một trăm đôla nhờ con mèo mà có y đã mua
được không ít những con vật nhốt trong lồng và mọi vật cần thiết khác. Vì vậy
việc tóm bắt “nương nương” mèo là một việc quan trọng đối với y. Y đã dùng một
miếng thịt bò thiu và nhiều miếng mồi rất cám dỗ khác để dụ con mèo, và cuối
cùng do quá đói nó đã bị một cái đầu cá to đặt trong một cái thùng có bẫy lôi
cuốn. Gã da đen giật sợi dây đóng sập cái nắp thùng xuống và một phút sau con mèo
Hoàng gia Analostan đã lại bị bắt đưa đến ở chung với những kẻ bị nhốt trong
căn nhà hầm. Trong lúc đó anh chàng người Nhật chăm chú đọc những bản cáo thị
đăng trên báo. Và y đã tìm thấy: “tặng thưởng 5 đôla” v...v... Ngay buổi tối
hôm đó, “viên quản gia” của ngài Malee đã có mặt tại tòa biệt thự ở Đại lộ Năm
cùng với con mèo thất lạc:
- Xin kính chào nhân danh ngài Malee, thưa quý ngài. Con mèo
Hoàng gia Analostan đã quay trở về với chủ cũ của nó, thưa quý ngài. Ngài Malee
rất sung sướng được trao trả ngài con mèo Hoàng gia Analostan, thưa quý ngài.
Dĩ nhiên không thể nói đến việc tặng thưởng ngài Malee,
nhưng “viên quản gia” đã làm cho người ta hiểu rằng y vui lòng nhận món tiền
thưởng đã hứa để “uống trà”.
Sau chuyện đó con mèo bị tăng cường giám sát. Nhưng đáng lẽ
thất vọng với cuộc sống đói khát trước đây và vui sướng với cái góc đầy đủ tiện
nghi mới thì nó lại trở nên càng ngày càng hoang dã hơn và dễ nổi nóng hơn.
8
Mùa xuân đã lao động hết sức trong phạm vi có thể làm được ở
thành phố New York. Lũ chim sẻ bẩn thỉu đánh lộn và vùng vẫy tắm bên các ống
máng xối ở các mái nhà. Lũ mèo đêm đêm kêu gào trên các mái nhà, và cái gia
đình ở Đại lộ Năm đã nghĩ đến chuyện đi về tòa biệt thự của họ ở ngoại ô. Họ
thu xếp công việc, khóa cửa nhà lại và đi khỏi New York năm mươi dặm, mang theo
con mèo đựng trong một cái giỏ.
- Đúng là cần phải làm như thế với nó, sự thay đổi không khí
và hoàn cảnh sẽ làm cho nó quên sự chia li với chủ cũ, và nó sẽ có hạnh phúc.
Chiếc giỏ được đặt trong xe chở hành lí. Các âm thanh và mùi
vị thoáng qua lọt tới cái giỏ biến mất ngay lập tức. Chiếc xe ngựa đã rẽ ngoặt.
Rồi sau lại nghe thấy nhiều tiếng chân bước về cái giỏ lại lắc lư. Một lúc dừng
xe ngắn ngủi, một chỗ rẽ nữa, rồi lại tiếng quất roi, tiếng vó ngựa lộp cộp, tiếng
huýt gió kéo dài, tiếng chuông leng keng, có mùi ngột ngạt, ghê tởm, mùi hôi
thối, độc địa, chết người. Tiếng ồn ào át cả tiếng kêu la của con mèo khốn khổ
- nó ngạt thở vì thiếu không khí. Và đột nhiên nó trông thấy ánh sáng chói
chang, và được thở hít không khí thỏa thuê. Sau đó nghe thấy tiếng người kêu
to: “Dỡ hành lí!”. Dĩ nhiên đối với con mèo đó chỉ là tiếng quát tháo vô nghĩa
của con người. Tiếng ồn ào dần dần im bặt.
Chẳng bao lâu lại thấy lúc lắc. Lại vô số những âm thanh và
va xóc nhưng không phải ngửi mùi hôi thối độc địa. Tiếng gầm gào điếc tai gia
tăng. Và đây là cái mùi dễ chịu của bến cảng. Lại xô đẩy, quát tháo, tiếng ken
két, rồi lại những chỗ dừng chân, lại tiếng roi quất, tiếng vó ngựa lộp cộp,
tiếng la mắng, những cái lúc lắc. Rồi lại những mùi mới, lại xô đẩy mạnh và
yếu, lại mùi khí, mùi khói, những cái lắc lư, tiếng chuông, tiếng la mắng, quát
tháo, ầm ầm. Và lại những mùi mới, tiếng lốp cốp mới, những cái lúc lắc mới,
tiếng ồn ào mới. Lại những mùi khác. Lại một chỗ dừng chân. Có những tia sáng
rọi qua cái nắp giỏ. Con mèo Hoàng gia lại được đặt vào xe ngựa chở hành lí.
Thêm một chỗ rẽ nữa, và bánh xe lại lăn lọc cọc trên đường. Có thêm một âm
thanh ghê sợ - tiếng chó sủa, rất gần, như sát bên tai. Người ta mở chiếc nắp
giỏ ra và con mèo hoang đã ở tòa biệt thự ngoại ô rồi.
Những người xung quanh đều tốt đến mức làm rầy con mèo. Ai
cũng muốn làm vừa lòng nó, nhưng không hiểu sao chẳng có ai thành công cả, trừ
bà làm bếp to béo mà con mèo làm quen ở nhà bếp. Người đàn bà ấy có cái mùi gợi
nhớ đến sự nghèo nàn, và con Hoàng gia Analostan tỏ thái độ thiện cảm ngay với
bà ta. Bà nấu bếp biết bà chủ sợ con mèo bỏ trốn nên đã hứa sẽ luyện cho nó
quen. Bà ta nhanh nhẹn tóm lấy vị thần linh không ai tới gần được ấy vào trong
chiếc tạp dề và làm một việc xúc phạm khủng khiếp là dùng mỡ lợn xoa vào chân
nó. Dĩ nhiên là con mèo nổi giận. Nhưng khi bà ta thả nó ra thì nó bắt đầu liếm
chân, mỡ lợn rất hợp khẩu vị nó. Nó liếm chân trong suốt cả giờ đồng hồ, và bà
nấu bếp đắc thắng tuyên bố rằng, “bây giờ chắc chắn nó sẽ ở lại”. Đúng là con
mèo đã ở lại, nhưng người ta đã phát hiện ra là nó có một sự ham mê khó hiểu và
bỉ ổi gần gũi căn bếp, bà nấu bếp và cái xô đựng rác.
Mặc dầu bà chủ buồn phiền về những sự gàn dở quý phái đó,
song bà cũng vui mừng khi trông thấy con mèo Hoàng gia Analostan hài lòng và tỏ
ra ngoan ngoãn hơn. Sau một vài tuần lễ con mèo được thả lỏng nhiều hơn. Người
ta bảo vệ nó khỏi mọi điều khó chịu nhỏ nhặt nhất. Lũ chó được dạy cách kính
trọng nó. Không một người lớn, một đứa trẻ nào ở vùng xung quanh dám ném đá vào
con mèo nổi tiếng có phổ hệ. Nó được cung cấp thức ăn thỏa thích nhưng nó vẫn
không thấy hạnh phúc. Nó mơ hồ ước muốn nhiều điều; tự bản thân nó cũng không
biết đó là những điều gì. Nó đã có tất cả mọi thứ, nhưng nó lại muốn những điều
khác. Nó được ăn uống nhiều nhưng sữa lại không có cái vị như thứ sữa mà nó có
thể uống và tợp bao nhiêu cũng được ở những cái thùng đựng sữa. Cần phải lấy
trộm được sữa ở cái thùng sắt tây khi bụng đói và khát, còn ở đây thì sữa không
có cái vị ngon như thế - không phải là thứ sữa đó, thế thôi.
Thực ra ở ngôi nhà này cũng có một cái sân sau rộng lớn
nhưng cái sân lại bị những cây hoa hồng đầu độc bầu không khí. Thậm chí những
con ngựa và con chó cũng bốc mùi chẳng ra đầu ra đũa gì cả. Cả khu vực này cứ
như một vùng hoang mạc, gồm toàn những vườn cây và đồng cỏ kinh tởm, chẳng có
một khu phố chung chỉ gồm những căn lều cỏ nát, chẳng có một cái ống khói nhà
máy chung. Tất cả những cái đó đối với nó mới đáng căm ghét làm sao! Trong toàn
bộ cái dinh cơ đáng sợ này chỉ có mỗi một bụi cây nhỏ ngát hương nằm khuất nẻo
ở một xó xỉnh. Con mèo vui thích bứt những cái lá cây ở đó và nằm lăn lộn trên
đám lá. Đó là nơi duy nhất dễ chịu trong dinh cơ này, bởi vì từ lúc nó ra đi
đến giờ nó chưa hề trông thấy một cái đầu cá thối, một cái thùng rác nào.
Nơi nghỉ mát đối với nó là một vùng đê tiện, quái gở. Chắc
hắn nó muốn chuồn ngay buổi tối đầu tiên nếu như nó được làm theo ý nó. Nhưng
mãi sau nhiều tuần lễ nó mới được thực hiện ý mình còn bây giờ thì nó kết bạn
với bà nấu bếp. Rồi đến cuối hè đã có một loạt sự kiện lại kích thích những bản
năng cũ trỗi dậy trong con mèo hoang.
Người ta mang từ bến cảng về ngôi biệt thự ở vùng quê một
kiện hàng lớn. Kiện hàng sặc sụa mùi hương mê hồn của bến cảng và của những túp
lều nghèo nàn, và cái quá khứ của con mèo lại hiện ra trước mắt nó một cách vô
cùng quyến rũ. Thế mà đến ngày hôm sau bà nấu bếp lại bị sa thải do những sự
hiểu lầm nào đó liên quan đến chính kiện hàng kia. Sau khi bà ta đi rồi con mèo
hoàn toàn cô độc. Đúng tối hôm đó đứa con trai bé của bà chủ, một đứa trẻ Hoa
Kỳ tồi tệ chẳng chút tôn trọng dòng máu hoàng gia đã nghĩ ra cái trò buộc một
chiếc hộp sắt tây vào đuôi con mèo quý tộc - chắc chắn rằng đây là một trong
những ý định hay ho, tốt đẹp nhất của thằng bé. Nhưng con mèo đã đáp lại sự
suồng sã đó bằng một cái vả tay được vũ trang năm móng sắc như năm chiếc lưỡi
câu. Tiếng kêu rống lên của nước Hoa Kỳ bị xúc phạm làm cho bà mẹ Hoa Kỳ nổi
trận lôi đình. Con mèo chẳng biết nhờ sự thần kì nào mà tránh được quyển sách
do bàn tay khéo léo hoàn toàn đàn bà ném vào nó và lập tức bỏ chạy. Dĩ nhiên là
nó chạy lên phía trên. Con chuột khi chạy trốn thì rúc xuống phía dưới, con chó
thì chạy thẳng còn mèo thì chạy lên phía trên.
Nó nấp ở tầng sát mái nhà để tránh truy nã và chờ đêm xuống.
Thế rồi nó mò theo cầu thang xuống dưới nhà, dò dẫm hết cái cửa này đến cái cửa
khác cho tới khi tìm được một cánh cửa khép hờ thì lách ra ngoài và lao vào
bóng đêm đen của tháng Tám. Màu đen kịt như mực đối với mắt người thì chỉ là
màu xám đối với mắt nó. Kẻ trốn chạy len lỏi qua những bụi cây và bồn hoa gớm
ghiếc, vặt những cây cỏ khả ái trong vườn trước lúc chia tay và dũng cảm đi
ngược trở lại con đường người ta đã mang nó đi hồi mua xuân.
Nhưng làm sao tìm ra con đường mà nó chưa từng bao giờ trông
thấy? Mọi sinh vật đều được trang bị một thứ cảm xúc phương hướng. Cảm xúc này
ở con người rất yếu ớt và ở con ngựa thì rất mạnh. Ở mèo cảm xúc này cũng mạnh
mẽ, và kẻ đưa đường bí mật đó đã hướng dẫn kẻ trốn chạy đi về hướng tây. Sau
một giờ nó đã chạy được hai dặm và đến bờ sông Hudson. Khứu giác đã nhiều lần
giúp nó khẳng định rằng đã chọn đúng đường. Nó nhớ lại hết mùi nọ đến mùi kia,
chẳng khác gì một người khi đi qua một đường phố lạ rồi quên ngay mất nó nhưng
đến lúc thấy lại nó lần thứ hai thì bỗng nhiên nhớ lại một điều gì đó và tự nhủ
rằng: “Chà, có lần mình đã ở đây rồi mà!”. Như vậy người chỉ huy chủ yếu của
con mèo là cảm giác phương hướng. Cái mũi lúc nào cũng động viên nó: “Đúng rồi,
bây giờ thì đúng là mùa xuân năm ngoái chúng ta đã có đi qua đây”.
Dọc theo bờ sông có con đường sắt. Con mèo phải lựa chọn đi
lên hướng bắc hoặc đi xuống hướng nam. Cảm xúc phương hướng đã thầm bảo nó một
cách rành rọt: “Đi về hướng nam”, và con mèo bèn chạy theo con đường nằm giữa đường
xe lửa và dãy hàng rào.
Loài mèo có thể leo trèo rất nhanh nhẹn trên cây hoặc trên
hàng rào, nhưng trên đường bằng phẳng thì nước phi của chó chiếm vị trí đầu
bảng chứ không phải là sự nhảy nhót của mèo. Vì thế mặc dù đường đi bằng phẳng
mà con mèo cũng phải mất cả giờ đồng hồ mới đi xa khỏi những bụi hoa hồng đáng
ghê tởm được có hai dặm.
Nó mệt mỏi và đã bắt đầu đi hơi cà nhắc. Con vật khốn khổ
vừa định nghỉ xả hơi thì đột nhiên nghe thấy một tiếng chó sủa khủng khiếp ở
phía bên kia hàng rào. Con mèo sợ hãi lao về phía trước và dốc hết sức chạy
trên đường, và vừa chạy vừa nhìn quanh xem con chó có chui qua hàng rào ra
ngoài không. Không, vẫn không thấy con chó đâu cả! Nhưng con chó cứ nhảy chồm
chồm ngay bên cạnh nó mà gầm gừ một cách đinh tai váng óc rồi sau lại chuyển từ
gầm gừ thành tiếng gào thét, rống rít ghê rợn. Một luồng lửa chói lòa rọi tới.
Con mèo nhìn lên và trông thấy... không phải là con chó mà là một con quái vật
khổng lồ đen ngòm chỉ có một con mắt độc nhất đỏ lòm - con quái vật vừa chạy
vừa rú rít như cả một đàn mèo vậy. Con mèo cắm đầu cắm cổ chạy nhanh vun vút
nhưng nó vẫn chưa quyết định nhảy qua hàng rào. Nó cứ chạy, cứ lao đi... Nhưng
mọi sự đều vô ích: con quái vật đã đuổi kịp nó nhưng lại đánh trượt vào trong
bóng đêm và chạy ngang qua rồi mất hút vào không gian, trong khi con mèo vừa
thở dốc vừa nằm xoài ra trên mặt đất ở nơi cách tòa nhà gần hơn nửa dặm so với
lúc nó bắt đầu nghe thấy con chó khổng lồ lên tiếng.
Lần đầu tiên nó trông thấy con quái vật ghê rợn đó. Thực ra
nó đã nhận ra con quái đó qua mùi ngửi được. Nó đã gặp con quái vật đó khi nằm
trong chiếc giỏ đi đến nhà nghỉ. Nỗi sợ hãi con quái vật ấy đã giảm bớt hẳn vì
nó đã khẳng định được rằng những con quái đó rất vụng về và chẳng bao giờ bắt
được nó, chỉ cần nấp vào sát hàng rào là xong. Cho đến trước lúc trời sáng con
mèo còn gặp những con quái vật ấy một vài lần nữa nhưng nó chẳng làm sao cả.
Khi trời hửng sáng nó đến được khu vực những túp lều nghèo
nàn, và nó tìm được trong đống tro một chút đồ thừa tuyệt vời. Ngày hôm đó nó
đi ngang qua một tàu ngựa, ở đó có hai con chó và vô số trẻ con thiếu chút nữa
đã giết chết nó. Những căn nhà rách nát và những cái sân ở đây rất giống nơi
chôn rau cắt rốn của nó, nhưng nó không dừng lại ở đó. Niềm khát vọng xưa đã
lôi cuốn nó không sao cưỡng lại nổi, và đến khi hoàng hôn buông xuống thì nó
lại lên đường.
Suốt cả ngày lại có những con quái vật một mắt chạy ngang
qua nó. Nhưng bây giờ nó đã quen với chúng rồi và nó cứ tiếp tục chạy suốt đêm
chẳng chút sợ hãi gì. Ngày hôm sau nó chạy tới một kho thóc và bắt được chuột ở
đó; đêm đó tình hình xảy ra cũng gần giống như đêm trước, chỉ có khác là nó gặp
một con chó thực thụ chạy đuổi theo nó một quãng xa. Một vài lần nó đã chạy rẽ
sang những ngả đường khác xa, nhưng nó vẫn thường xuyên quay trở về hướng cũ.
Ban ngày nó mất nhiều thì giờ tìm kiếm thức ăn và lẩn tránh lũ chó và bọn trẻ
con, nhưng đêm đến thì nó lại tiếp tục lên đường. Con mèo khốn khổ đã bắt đầu
mệt mỏi nhưng nó vẫn cứ tiến về phía trước như cũ, đi hết dặm đường này đến dặm
đường khác, đi mãi về hướng nam. Lũ chó, bọn trẻ con những con quái vật, cái
đói... Rồi lại lũ chó, bọn trẻ con, những con quái vật, cái đói... Nhưng nó vẫn
chẳng đếm xỉa gì đến cả mà cứ tiến về phía trước, và cái mũi cứ chốc chốc lại
khích lệ nó: “Đây đúng là cái mùi chúng ta đã từng ngửi thấy mùa xuân vừa qua”.
9
Sau một tuần lễ, con mèo lấm lem đi tập tễnh, chẳng còn băng
đeo trên cổ, đã đến được cầu Harlem. Mặc dù cái cầu có một mùi tuyệt diệu nhưng
con mèo không thích cây cầu. Nó đi tới đi lui trên bờ sông đến tận nửa đêm mà
không tìm được phương tiện nào khác qua sông ngoài những cây cầu khác, và cũng
không biết được điều gì đáng quan tâm hơn rằng, bọn đàn ông cũng nguy hiểm y
như bọn trẻ con. Nó miễn cưỡng quay trở lại cầu Harlem. Mùi cây cầu khá quen
thuộc nhưng cái chính là khi con quái vật một mắt chạy qua cầu thì thấy nổi lên
cái tiếng rầm rầm đinh tai nhức óc mà nó đã từng nghe được trong cuộc phiêu lưu
hồi mùa xuân của nó.
Khi con mèo nhảy lên một thanh dầm cầu và chạy qua sông thì
bốn bề là bóng đêm yên tĩnh. Nó vừa mới đi được một phần ba cây cầu thì một con
quái vật một mắt hồng hộc xông vào từ phía bên kia cầu. Nó rất hoảng sợ nhưng
biết rằng con quái khổng lồ ấy vốn ngờ nghệch và mù dở nên nó bèn nhảy xuống
một thanh xà ở dưới thấp và nằm im lìm như chết. Con quái vật khổng lồ ngờ
nghệch rầm rầm chạy qua, và mọi việc có lẽ sẽ tốt đẹp nếu như đột nhiên nó
không quay ngược trở lại hoặc là một con quái vật khác giống như nó lại rầm rập
chạy qua trên lưng con mèo.
Con mèo điên đầu liền chạy về phía trước. Có thể nó cũng đã
tới được bờ sông quê hương nếu như từ đó không có một con quái vật mắt đỏ thứ
ba gầm gào lao vào phía nó. Nó cắm cổ chạy nhưng lại lọt vào giữa hai luồng
lửa. Nó chẳng kịp nghĩ ngợi gì được nữa mà chỉ hốt hoảng nhảy đại từ trên cầu
xuống. Nó cứ rơi, rơi, rơi mãi... ùm, oạp thế là nó rơi tõm xuống làn nước sâu
chưa lạnh cóng của thời tiết tháng Tám. Chà, thật đáng ghê tởm làm sao! Nó bơi
trên mặt nước vừa sặc sụa, vừa khạc nhổ, mà mắt vẫn cứ lấm lét nhìn quanh xem con
quái vật khổng lồ có rượt đuổi theo không. Nó bơi vào bờ. Nó chưa bao giờ được
học bơi, nhưng vẫn bơi được chỉ vì vị trí và sự cử động của con mèo trong lúc
bơi cũng như trong lúc đi mà thôi. Khi rơi xuống một nơi chẳng dễ chịu chút nào
với nó thì dĩ nhiên là nó đã thử đi và do đó mà bơi được vào bờ. Nhưng nó bơi
vào bờ sông bên nào? Tình yêu quê hương không bao giờ lầm lẫn; bờ sông duy nhất
đối với nó là bờ phía nam, gần nhà nó nhất. Con mèo ướt sũng leo lên bờ sông
đầy bùn và len lỏi qua những đống than và đống rác. Nó đen đúa, lấm lem chẳng
còn chút gì là con mèo hoàng gia nữa mà chỉ là một con mèo hoang tầm thường
nhất.
Sau khi đã hơi hoàn hồn một chút con mèo hoang hoàng gia lại
cảm thấy việc tắm sông đối với nó thật hữu ích. Nó thấy ấm người lên và ý thức
được niềm tự hào về chiến thắng đánh lừa được ba con quái vật khổng lồ. Mũi,
trí nhớ và cảm xúc phương hướng khuyên nhủ nó quay trở lại theo dấu cũ, nhưng
con đường đi thẳng đã nhan nhản lũ khổng lồ một mắt rồi và sự thận trọng bắt
buộc nó phải đi theo bờ sông nơi có cái mùi hôi thối gợi nó nhớ tới quê hương.
Thế là nó tránh xa những con đường ngầm đầy những đe dọa khủng khiếp không thể
diễn tả được.
Con mèo mất hơn ba ngày nghiên cứu những sự nguy hiểm khác
nhau của vùng bờ sông East River. Có lần nó đã phạm sai lầm là nhảy lên một
chiếc tàu thủy đi đến Long Island, nhưng nó đã quay trở lại ngay trên con tàu
chạy ngược trở lại đầu tiên. Cuối cùng đến đêm thứ ba thì nó đến được một nơi
quen thuộc mà nó đã có đi qua trong đêm lần nó trốn chạy thứ nhất. Nó đã biết
chính xác phải đi đâu và tìm đến được căn nhà mà nó đã từng lẩn tránh con chó.
Kẻ trốn chạy rảo bước; tim nó đập rộn ràng. Đi thêm vài bước nữa - thế là nó đã
lăn nhào được vào trong chiếc thùng nơi “phương Đông quê hương” tức là cái sân
sau của nó.
Chỉ cần đi thêm một khúc quanh nữa là nó sẽ trông thấy những
ngôi nhà quen thuộc.
Nhưng cái gì thế này? Tất cả những ngôi nhà đều đã biến mất.
Con mèo không còn tin ở mắt mình nữa, nhưng dù thế nào mặc lòng nó vẫn phải
tin. Ở nơi đây trước kia là những ngôi nhà tồi tàn xiêu vẹo nhưng nay thấy ngổn
ngang những gạch ngói, đồ thải bỏ và hố đào. Con mèo đi lang thang trên mảnh
đất bỏ trống. Qua màu sơn của cây cầu nó biết rằng đã về đến quê hương, rằng
người bán chim đã từng sống ở nơi đây, ở đây đã từng có một ngôi hàng cũ kĩ.
Nhưng tất cả những thứ đó đều biến mất hết tăm tích, mang theo cả đi mọi mùi
quen thuộc và trái tim con mèo khốn khổ đau thắt lại vì thất vọng. Tình yêu quê
hương là động lực chính của nó. Nó đã hi vọng tất cả trên cõi đời này để quay
trở về căn nhà mà nay không còn nữa, và lần đầu tiên trong đời trái tim bé nhỏ
dũng cảm của nó tràn đầy sự thất vọng ê chề. Nó đến những đống rác câm lặng và
chẳng tìm được cả niềm an ủi cũng như thức ăn.
Sự hoang tàn xâm chiếm vài dãy phố cho đến tận bờ sông. Đây
không phải là đám cháy: con mèo đã có lần trông thấy đám cháy và đã biết nó như
thế nào rồi. Có lẽ đây là kết quả công việc của cả một bầy quái vật mắt đỏ. Con
mèo không chút hoài nghi về cây cầu lớn vừa được dựng lên ở chính nơi này.
Trời hửng sáng nó đi tìm nơi nương náu. Một trong các dãy
phố lân cận còn giữ được gần như nguyên dạng ban đầu và con mèo hoàng gia
Analostan bèn đi tới đó. Nó đã biết rõ một số đường ra lối vào ở nơi ấy. Nhưng
sau khi đến được đó rồi thì nó kinh ngạc và đau buồn thấy có vô số mèo cũng bị
xua đuổi như nó khỏi chốn xưa. Bây giờ ở thùng rác nào cũng có vài ba con mèo
tìm ăn. Như thế có nghĩa là sẽ đói và con mèo của chúng ta sau vài ngày bắt
buộc phải tìm đến một ngôi nhà khác của nó ở Đại lộ Năm. Nó gặp ngôi nhà ấy cửa
đóng then cài và hoang vắng. Nó rình đón ở đó suốt ngày và đã gây chuyện xích
mích với một người cao lớn mặc bộ quần áo màu xanh. Thế là đến ngày hôm sau nó
lại quay trở về nơi ở nghèo nàn đầy rẫy những mèo của nó.
Đã hết tháng Chín, bước sang tháng Mười. Nhiều con mèo gầy
rạc đi vì đói, hoặc do yếu quá nên đã làm mồi cho những kẻ thù của chúng. Nhưng
con mèo của chúng ta nhờ cương nghị và trẻ trung nên vẫn còn sống.
Trong khi đó ở các dãy phố bị phá đã có những thay đổi lớn
lao. Những dãy phố ấy con mèo trông thấy lần đầu tiên vào ban đêm nên hoang
vắng; nhưng ban ngày thì chúng tấp nập những công nhân làm việc ồn ào. Đến cuối
tháng Mười nơi đây đã mọc lên một tòa nhà lớn, và con mèo hoang bị cái đói săn
đuổi một hôm đã len lén đến gần một cái xô mà một gã da đen vừa đem đặt ở ngoài
sân. Đáng tiếc đó không phải là một cái xô đựng rác mà lại là xô đựng nước lau
nhà - một sự việc mới mẻ ở nơi đây. Tuy nhiên bên cạnh nỗi thất vọng ê chề lại
có một điều gì đó an ủi: cái quai xô sặc sụa mùi một bàn tay quen thuộc. Trong
khi con mèo đang nghiên cứu cái xô thì gã da đen gác thang máy hiện ra trên
ngưỡng cửa. Mặc dầu gã mặc bộ đồng phục màu xanh song con mèo ngửi mùi đã nhận
ra gã và lùi ngay lại sang bên kia đường phố. Gã da đen không rời mắt khỏi con
mèo.
- Có phải con mèo hoàng gia Analostan không kìa!
Meo-meo-meo-eo! Lại đây nào, mèo ơi! Trông nó đói meo kìa!
Đói à! Đã vài tháng nay chưa có lần nào nó được ăn thỏa
thích. Gã da đen bước vào trong nhà và quay trở ra với một phần bữa ăn điểm tâm
riêng của y.
- Meo-meo-meo-eo!
Bữa ăn rất hấp dẫn nhưng con mèo có cơ sở để không tin vào
con người ấy. Cuối cùng gã da đen đặt miếng thịt lên mặt đường và quay trở về
của ngôi nhà. Con mèo hoang thận trọng len lén đến gần ngửi hít miếng thịt rồi
ngoạm lấy và chạy đi nhanh vun vút như một con hổ để đến nơi an toàn ăn hết
miếng mồi.
Cuộc đời thứ ba
10
Thế là bắt đầu một thời kì mới. Bây giờ mỗi khi con mèo quá
đói nó lại lần đến cửa ngôi nhà, và mỗi ngày mỗi cảm tình nồng nhiệt của nó đối
với gã da đen lại một tăng. Trước đây nó không hiểu con người ấy. Dường như gã
luôn luôn là kẻ thù của nó. Nhưng bây giờ dường như gã lại là bạn nó, người bạn
duy nhất trên cõi đời này.
Một lần nó gặp cả một tuần lễ hạnh phúc: được bảy bữa ăn no
nê trong bảy ngày liền. Và đúng sau bữa ăn thứ bảy nó quay trở về với một con
chuột chết, một con chuột thực thụ, thứ thức ăn để dành. Con mèo chưa lần nào
gặp một con chuột trưởng thành trong cả cuộc đời gian truân của nó nhưng nó vẫn
vồ mồi và kéo lê chuột theo với ý định cất đi để dành. Nó đi ngang qua phố đến
gần ngôi nhà mới thì kẻ thù cũ của nó là con chó ở xưởng đóng tàu nhảy xổ vào
nó và con mèo bèn lao về phía cái cửa ngôi nhà có người bạn của nó ở. Con mèo
vừa tới nơi đúng lúc gã da đen mở toang cánh cửa và một người ăn mặc sang trọng
bước ra. Cả hai đều trông thấy con mèo tha con chuột.
- Ô! Xem con mèo kìa!
- Vâng, thưa ngài, - gã da đen đáp lời. - Nó là con mèo của
tôi, thưa ngài. Nỗi đe dọa của lũ chuột, thưa ngài. chuột bị bắt gần sạch hết
rồi, thưa ngài, chính vì thế nên con mèo mới gầy gò đến thế ạ.
- Đừng để cho nó đói, - người ăn mặc sang trọng nói với dáng
vẻ một người chủ nhà, - anh có thể nuôi nó ăn đúng mức cần thiết không?
- Người bán gan vẫn đi qua đây hằng ngày, thưa ngài. Hai
mươi nhăm xu một tuần lễ, thưa ngài. - gã da đen nói và cho là mình có đủ quyền
tính thêm mười lăm xu cho sự sáng kiến của mình.
- Được thôi, tôi sẽ trả tiền.
11
- Th-ịt đâ-ây! Th-ịt đâ-ây! - Tiếng rao quyến rũ của lão già
bán gan đẩy chiếc xe ba gác trên ngõ hẻm Scrimper nghe vang vang, và lũ mèo lại
như trước kéo hàng bầy đàn ra chờ đợi phần ăn của chúng.
Cần phải nhớ mặt tất cả lũ mèo - cả mèo đen, mèo trắng, mèo
vàng, mèo xám - và điều chủ yếu là phải nhớ đúng chủ nuôi của chúng.
Chiếc xe đến góc ngôi nhà mới thì dừng lại, đây là nơi mà
những ngày trước đó nó không dừng lại.
- Nào, xéo ra nào, đồ hà tiện! - Lão bán gan quát lên và
vung chiếc xiên thần kì để mở đường cho một con mèo xám có đôi mắt xanh và cái
mũi trắng.
Phần nó là một miếng gan to nhất, bởi vì gã da đen đã chia
đôi phần lời với lão bán gan. Con mèo hoang tha phần ăn của mình đến dưới mái
ngôi nhà lớn dùng làm nơi trú ngụ của nó. Cuộc đời thứ tư đã mang lại cho nó
niềm hạnh phúc mà nó chưa từng bao giờ mơ ước có. Thoạt đầu mọi cái đều chống
lại nó, còn bây giờ thì chẳng có gì tốt hơn thế nữa. Chưa hẳn là nó đã khôn
ngoan ra hơn sau những chuyến viễn du, nhưng bây giờ nó đã biết rõ là nó muốn
điều gì và nhận được những gì nó muốn. Ước mơ chính đáng của cả cuộc đời nó đã
được thực hiện, bởi vì nó đã vồ được cả chim sẻ, không phải chỉ một con mà đến
hai con vào lúc nó rình ở bên cầu.
Nó không bắt chuột nữa nhưng gã da đen đã đi thu nhặt cả
đống chuột chết về từ mọi nơi mọi chốn và đem chúng ra bầy hàng. Lũ chuột chết
nằm trong đống cỏ khô cho đến lúc người chủ nhà tới rồi được ném ra ngoài một
cách vội vã đáng tha thứ.
- Xem con mèo ấy kìa, thưa ngài!... Đó đúng là dòng máu
Analostan, thưa ngài, nỗi khủng khiếp của chuột đấy ạ.
Trong thời gian này con mèo cũng có vài ba lần sinh đẻ. Gã
da đen cho rằng con mèo đực vàng tươi là cha của một số mèo con do nó cho ra
đời trong những lúc ấy, và điều này chắc là gã nói đúng.
Gã đã bán rẻ con mèo nhiều lần một cách yên tâm vì biết rõ
rằng chỉ sau vài ngày là con mèo hoàng gia Analostan sẽ quay trở về nhà. Con
mèo đã quen với cái thang máy đi lên và đi xuống. Gã da đen quả quyết nói rằng
có một hôm đẹp trời khi con mèo nghe thấy tiếng rao hàng của lão bán gan và nó
đang ở trên lầu gác thượng thì nó đã khôn ngoan ấn chuông để gọi thang máy lên
cho nó xuống.
Bộ lông của nó lại trở lại mượt mà và đẹp đẽ.
Con mèo được kể vào số đứng hàng đầu trong họ mèo quý phái.
Lão bán gan rất mực tôn trọng con mèo. Ngay con mèo được nuôi bằng váng sữa và
gà con của mụ vợ gã cho vay nặng lãi cũng không giành được vị trí như con mèo
hoàng gia Analostan. Trong khi đó thì bất chấp tất cả mọi sự hạnh phúc của nó
lẫn vị trí xã hội cũng như danh hiệu hoàng gia và phổ hệ ngụy tạo, con mèo chưa
bao giờ thấy hạnh phúc cho bằng những lúc vào buổi hoàng hôn nó lẻn ra đi và
đến bới các đống rác, bởi vì từ trong đáy tâm hồn nó đã là và mãi mãi vẫn là
một con mèo hoang nghèo nàn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét