Thứ Tư, 2 tháng 1, 2013

Truyện Loài Vật - Arnaux


Ernest Thompson Seton
  
Dịch giả: Lê Thùy Dương

1

Chúng tôi bước qua cái cửa bên vào trong tàu ngựa. Mùi cỏ khô thơm dịu dàng át hẳn mùi thoang thoảng của các ngăn chuồng ngựa được giữ gìn sạch sẽ. Chúng tôi leo thang lên một gian gác thượng dài. Phần phía nam của gian gác được ngăn riêng ra, và những tiếng gù quen thuộc “gu-ù- ù, gu-ù-ù” xen lẫn tiếng vỗ cánh “xè-è, xè-è” mách cho chúng tôi biết là mình đang đứng trước một chuồng chim bồ câu.
Ở chuồng chim này có nuôi những con chim bồ câu nổi tiếng và chính ngày hôm nay sẽ có cuộc thi tài giữa khoảng năm chục con bồ câu trẻ. Người chủ chim đã mời tôi tham gia chấm thi trong cuộc đua tài này.
Cuộc đua này thực chất là một cuộc thử thách lũ chim non. Đã hai lần chúng được mang cùng với chim bồ câu mẹ ra ngoài cánh đồng và thả cho bay tự do để học cách quay trở về chuồng nuôi. Bây giờ là lần đầu tiên chúng được thả cho bay độc lập không có chim bố mẹ bay kèm. Người ta đã quyết định đem thả chúng tại thị trấn Elizabeth đối với lũ chim non thì khoảng cách như thế đã là khá lớn.
- Vấn đề là chúng ta sẽ loại được những con chim ngờ nghệch. - người huấn luyện chim giải thích. - Chỉ những con chim tốt nhất mới quay trở về được, và chúng ta cũng cần có chính những con chim như thế.
Các chủ chim và những người láng giềng thích chơi chim đánh cá với nhau về những con chim khác nhau. Họ thỏa thuận về những giải thưởng cho những con thắng cuộc. Tôi là người giám khảo sẽ phải quyết định xem con chim nào thắng. Con thắng cuộc sẽ không phải là con bồ câu quay trở về đầu tiên mà phải là con bồ câu chui vào chuồng đầu tiên, bởi vì con bồ câu chỉ trở về khu vực đặt chuồng mà không chui vào chuồng ngay thì sẽ là con chim đưa thư tồi.
Con bồ câu nào luôn luôn quay trở về nhà được không kể thả tại chỗ nào thì gọi là con bồ câu quy hồi. Những con bồ câu này không có màu lông khác biệt và không có những vệt trang trí kì quặc như những con chim nuôi làm cảnh. Người ta nhân giống những con chim này không phải để trưng bày mà bởi vì chúng bay nhanh và thông minh. Với chúng đòi hỏi phải có sự gắn bó với nơi quê hương và năng lực tìm ra nơi đó không chút lầm lẫn. Bây giờ thì người ta cho rằng cơ quan cảm giác phương hướng là đường rối trong tai. Ở trên đời này chẳng có một sinh vật nào có cảm giác phương hướng tinh tế hơn con bồ câu quy hồi tốt. Bao giờ cũng có thể nhận ra, thứ chim này căn cứ vào những cái mấu lớn ở phía trên tai chim và đôi cánh khỏe của chúng.
Thế là đã đến lúc thử thách năng lực của lũ chim bồ câu non.
Mặc dầu có nhiều người làm chứng nhưng tôi cho rằng cách làm đáng tin cậy hơn phải là đóng tất cả các cửa chuồng chim lại chỉ để chừa ra một cửa thôi, và ngay sau khi con bồ câu thứ nhất bay về chuồng thì phải kịp thời đóng nốt cái cửa chuồng đó lại.
Tôi không bao giờ quên được những điều đã trải qua cái ngày hôm đó. Người ta đã báo trước cho tôi biết là sẽ thả chim vào lúc mười hai giờ. Khoảng một giờ rưỡi chúng sẽ về tới đây nhưng phải cảnh giác bởi vì chúng bay tới như cơn bão lốc. Chỉ vừa mới nhận ra chúng là chúng đã bay lọt vào chuồng chim rồi.
Chúng tôi đứng gác ở gần tường bên trong chuồng chim, và người nào cũng dán mắt vào khe hở hoặc qua cánh cửa khép hờ đăm đăm nhìn về hướng tây nam.
Đột nhiên có ai đó kêu to:
- Xem kìa, chúng nó kia kìa?
Một đám mây trắng bay là là phía trên các mái nhà thành phố, bay vòng qua ống khói nhà máy và không đến hai giây sau lũ chim đã tới nơi. Đám mây trắng nhỏ hiện ra cùng với tiếng vỗ cánh, mọi việc xảy ra đột ngột, nhanh như chớp đến nỗi dù tôi đã chuẩn bị sẵn sàng thế mà vẫn bị bất ngờ. Chỗ tôi đứng chỉ có một cánh cửa chuồng duy nhất mở. Một mũi tên xanh lao vút ngang qua tôi, cánh chim vỗ mát rượi mặt tôi và tôi vừa kịp đóng sập cửa chuồng chim là đã nghe có tiếng reo hò:
- Arnaux! Arnaux! Tôi đã nói với anh là nó sẽ thắng mà! Ôi, con chim đáng yêu của ta! Cả thảy mới có ba tháng mà chiếm giải rồi! Niềm vui của ta ơi.
Và người chủ của con Arnaux nhảy cẫng lên vì vui sướng trước thành tích của con chim nhiều hơn là vì tiền thưởng.
Tất cả mọi người đều ngồi chồm hỗm xung quanh con chim bồ câu chiêm ngưỡng kẻ chiến thắng với vẻ tôn sùng trong lúc con này uống no nước đã rồi mới quay sang chỗ đựng thức ăn.
- Xem những con mắt kia, đôi cánh kìa! Mà các vị đã có khi nào được thấy một bộ ngực như thế kia chưa? Ôi chàng chim non, tuyệt lắm! - Người chủ của con Arnaux ba hoa với những chủ chim khác đứng ngậm tăm vì thất bại.
Đó là chiến công đầu tiên của con Arnaux. Nó là con bồ câu tốt nhất trong số năm chục con bồ câu xuất sắc và một danh phận chói ngời đã hứa hẹn sẽ đến với nó.
Nó được nhận một cái vòng bạc tặng cho những con bồ câu tốt nhất. Trên vòng nổi bật số hiệu của nó: 2590C, con số mà mãi tận bây giờ những người chơi chim còn thường nhắc đến một cách thán phục.
Cả thảy chỉ có bốn mươi con bồ câu bay trở về chuồng. Hầu như bao giờ cũng thế cả. Một số con mệt mỏi và rớt lại, một số khác lạc đường vì ngờ nghệch. Những người chủ chim dùng cách lựa chọn đơn giản này để hoàn thiện nòi chim. Trong số mười con có năm con lạc mất tăm, còn năm con nữa quay trở về muộn hơn trong cùng ngày hôm đó nhưng đi thành tốp chứ không về riêng rẽ. Con về cuối cùng trong số này là một con bồ câu xám to lớn, vụng về. Người trông coi chuồng chim nhận ra nó và nói:
- Nó đấy, chính con bồ câu xám đần độn mà lão Jakey đánh cá đây. Tôi không nghĩ rằng nó sẽ trở về. Nó có cái diều quá to.
Con Xám to lớn cũng còn được gọi là con Góc bởi vì nó ra đời ở một góc chuồng, ngay từ ngày đầu đã nổi bật ở chỗ có sức khỏe đặc biệt. Mặc dầu tất cả lũ bồ câu đều gần như thuộc cùng một lứa nhưng nó đã lớn vượt tất cả anh em nó và đẹp đẽ hơn tất cả. Nhưng những người hiểu biết thì không coi trọng vẻ đẹp của bồ câu. Con Xám rõ ràng là lấy làm tự hào về vẻ duyên dáng của mình và lúc còn trẻ nó thường thích bắt nạt những con yếu hơn. Chủ nuôi nó đã đoán trước được là nó sẽ có một tương lai rực rỡ nhưng anh chàng chăn ngựa Bil1y không tín nhiệm cái cổ dài, cái diều lớn, cái tính nết vụng về và trọng lượng quá cỡ của nó.
- Chẳng lẽ con chim có thể bay tốt với cái diều như thế ở cổ hay sao? Cả những cái chân dài cũng chỉ tăng thêm trọng lượng thôi chứ ích gì. - Billy cứ làu bàu một cách khinh thị mỗi buổi sáng dọn dẹp chuồng chim.

2

Sau cuộc bay đầu tiên việc huấn luyện được tiến hành một cách hệ thống. Mỗi ngày khoảng cách lại được tăng thêm từ hai mươi nhăm đến ba mươi dặm và hướng bay cũng được thay đổi cho đến khi bầy chim quen thuộc khắp vùng xung quanh New York trên bán kính một trăm năm mươi dặm. Từ năm chục con chỉ còn lại tất cả hai chục con, bởi vì việc lựa chọn nghiêm ngặt đã gạt bỏ cả những con yếu và không có năng lực lẫn những con ngẫu nhiên ốm hay gặp rủi ro, hoặc những con ăn quá no trước khi đua.
Trong chuồng chim có nhiều con bồ câu đẹp, ngực nở, mắt sáng và cánh dài, chúng được sáng tạo ra để phục vụ con người trong những giờ phút nghiêm trọng. Màu lông chủ yếu của chúng là trắng, xám và nâu. Chúng không có một màu lông nhất định nhưng con nào trong số được lựa chọn cũng đều có cặp mắt sáng và những cái mấu ở phía trên tai của nòi bồ câu quy hồi thượng hạng. Và con bồ câu tốt nhất trong số chúng cũng là con Arnaux bé nhỏ hầu như luôn luôn bay về đầu. Khi đậu ở chuồng thì nó chẳng khác gì mấy so với các con khác bởi vì bây giờ tất cả đám bồ câu đều đã được lắp vòng bạc. Nhưng ở trong không trung thì người ta nhận ra nó ngay. Vừa mở cửa lồng một cái là Arnaux đã bay ra trước tiên, bốc lên đến độ cao cần thiết rồi đoán trúng ngay đường về nhà và cứ thế lao thẳng về không chút lầm lẫn, chẳng bao giờ dừng lại ăn uống hay chơi bời.
Mặc dầu gã Bil1y đã có những lời tiên đoán đen tối nhưng con Xám lớn ra đời ở nơi góc chuồng vẫn là một trong số hai chục con được chọn. Nó thường về chậm và chưa bao giờ là con bồ câu về đầu tiên. Lại còn có lần sau khi đã về sau những con khác tới vài giờ đồng hồ mà nó vẫn tỏ ra không đói khát: tức là có những dấu hiệu rõ rệt chứng tỏ nó đã nghỉ lại kiếm ăn dọc đường. Nhưng lần nào nó cũng quay trở về, và cũng như các con bồ câu khác, ở cẳng chân nó có gắn một cái vòng bạc mang số. Gã Bil1y khinh thị con Xám nhưng người chủ nuôi chim nói:
- Phải có thời gian chứ. Con nào chóng trưởng thành thì con đó cũng chóng tàn lụi. Tôi luôn luôn để ý thấy con chim tốt biểu lộ mình ra chậm hơn những con khác.
Phải mất thêm một năm nữa Arnaux mới đạt được kỉ lục vinh quang. Khó nhất là bay trên mặt biển, nơi không thể nhận ra đường dựa vào những cái mốc nào đó. Tình huống còn xấu hơn nữa nếu phải bay trong sương mù, khi thậm chí mặt trời cũng chẳng trông thấy nữa. Nhưng những lúc cả trí nhớ, thính giác lẫn thị giác đều bất lực thì ở bồ câu vẫn còn cảm giác phương hướng. Chỉ có sự sợ hãi mới có thể diệt mất cảm giác đó mà thôi. Chính vì thế mà ở giữa đôi cánh khỏe mới cần thiết phải có một trái tim dũng cảm.
Arnaux cùng với hai con chim khác được gửi đi trên một chiếc tàu biển vượt đại dương, sang châu Âu. Người ta dự định khi tàu đến giữa biển khơi thì thả chim, nhưng sương mù dày đặc đột ngột đến đã làm phá sản kế hoạch. Con tàu đã mang lũ chim đi xa hơn. Người ta sẽ chuyển chim trở về khi nào gặp con tàu đầu tiên chạy trở về bến. Sau mười tiếng đồng hồ chạy trên biển, máy của tàu bỗng hỏng, sương mù dày đặc thêm và con tàu dường như trở thành một thứ đồ chơi bất lực của gió và sóng nước. Điều duy nhất có thể làm được là kéo còi báo tín hiệu bất an. Nhưng kéo còi cũng chẳng giúp được gì cả. Lúc ấy người ta sực nhớ đến những con bồ câu. Con Starback mang số 2592C được chọn. Người ta viết thư vào một tờ giấy không thấm nước, cuộn tròn lại và buộc vào phía dưới lông đuôi chim. Starback cất cánh bay lên và biến mất. Nửa giờ sau đến lượt con Xám lớn ra đời nơi góc chuồng, mang số 2600C. Nó cũng cất cánh bay lên nhưng gần như quay trở lại ngay lập tức vì sợ. Chẳng có cách nào bắt nó rời khỏi con tàu được cả. Nó sợ hãi đến mức để cho người ta bắt nó dễ dàng và cứ nằm chúi ở trong lồng.
Bây giờ đến lượt con thứ ba, một con bồ câu nhỏ bé chắc nịch. Các thủy thủ không có khái niệm gì về nó cả nhưng nhận ra tên và số hiệu nó trên vòng: Arnaux, 2590C. Đối với họ những điều ghi đó chẳng có nghĩa gì cả. Nhưng người thủy thủ cầm nó trong tay thì có nhận xét rằng nhịp đập của trái tim nó không dồn dập như con chim trước. Người ta tháo bức thư buộc vào chân con Xám lớn để buộc sang cho nó bức thư viết như sau:

“10 giờ sáng ngày thứ ba
Máy tàu hỏng ở cách New York 210 dặm. Tàu trôi bất lực trong sương mù. Cho tàu kéo đến càng nhanh càng tốt. cứ sau sáu mươi giây chúng tôi sẽ kéo một tiếng còi dài rồi đến một tiếng còi ngắn.
Thuyền trưởng”

Bức thư được cuộn tròn lại, bọc kín bằng giấy không thấm nước, đề gửi cho Hội tàu biển và buộc chặt vào phía dưới lông đuôi con bồ câu.
Con bồ câu vừa được thả ra đã cất cánh bay lượn một vòng phía trên con tàu, rồi lượn tiếp một vòng nữa cao hơn, và lại một vòng thứ ba cao hơn nữa cho đến khi khuất tầm mắt. Nó cứ bay lên cao mãi, cao mãi cho đến khi không còn trông thấy con tàu nữa. Do đã mất hết khả năng sử dụng mọi giác quan ngoại trừ cảm giác phương hướng nên nó hoàn toàn tin theo cảm giác đó. Cả sự sợ hãi cũng không che mờ được cảm giác đó. Giống như chiếc kim la bàn nào cũng trỏ hướng bắc, con chim Arnaux luôn luôn bay về đích của nó không chút dao động, không chút nghi ngờ. Chỉ một phút sau khi được thả khỏi lồng nó đã bay thẳng như một tia sáng về hướng cái chuồng chim nuôi nó lớn lên, nơi duy nhất nó thấy dễ chịu.
Ngày hôm đó Billy trực tại chuồng chim. Đột nhiên anh ta nghe thấy tiếng chim vỗ cánh dồn dập rồi một mũi tên xanh lao vụt xuống chuồng và nhảy tới chỗ chậu nước uống. Con bồ câu đang uống lấy uống để từng ngụm nước thì Billy đã nhận ra nó:
- Mày đấy ư, Arnaux, con chim xinh đẹp của ta?
Sau đó anh ta xem đồng hồ với vẻ thành thạo của người luyện chim và ghi thời gian: 2 giờ 40 phút. Đúng lúc đó anh ta nhận ra sợi dây buộc ở phía đuôi con chim. Billy đóng cửa chuồng chim lại và lấy một tấm lưới nhanh chóng chụp lên đầu Arnaux. Một phút sau anh ta đã cầm trong tay bức thư và hai phút nữa anh đã ba chân bốn cẳng đến văn phòng hội nhận một món tiền thưởng hậu hĩ. Tại đấy anh ta được biết rằng con Arnaux đã bay qua hai trăm mười dặm trên biển trong sương mù mất bốn giờ bốn mươi phút và không đầy một giờ sau một chiếc tàu cấp cứu đã được phái đi cứu con tàu biển bất hạnh.
Hai trăm mười dặm trên biển trong sương mù bay hết bốn giờ bốn mươi phút! Kỉ lục đó thật là vinh quang! Kỉ lục đó được ghi vào sổ thống kê của câu lạc bộ bồ câu đúng như nó xứng đáng được ghi như thế. Người ta giữ con Arnaux trong tay và viên thư kí hội tay đi găng da đã dùng thẻ mực không phai ghi chiến công đó cũng như ngày lập chiến công đó vào một trong những cái lông cánh trắng như tuyết của Arnaux.
Starback, con bồ câu thứ hai không thấy trở về. Chắc là nó chết ngoài biển cả.
Con Xám ra đời ở nơi góc chuồng thì được chiếc tàu kéo mang về.

3

Đó là chiến công đầu tiên của Arnaux, và chẳng bao lâu lại đến những chiến công tiếp theo làm cho nơi chuồng chim trở thành nơi diễn xuất nhiều màn mà Arnaux là kẻ thủ vai chính.
Một bữa có một chiếc xe ngựa lăn bánh đến chỗ tàu ngựa; rồi một ông già tóc bạc bước ra khỏi xe, leo chiếc thang gác bụi bặm lên cái chuồng chim và suốt buổi sáng ngồi đó với gã Billy, đăm đăm nhìn qua cặp kính gọng vàng, hết vào đống giấy tờ lại lên phía trên nóc các ngôi nhà trong thành phố, vẻ theo dõi và chờ đợi. Ông ta chờ đợi cái gì vậy? Chờ đợi tin tức từ một thị trấn nhỏ nằm cách đây bốn mươi dặm, một tin tức quan trọng đối với ông ta, một tin tức hoặc là sẽ cứu ông ta thoát nạn hoặc là sẽ giết chết ông ta, cái tin tức mà ông ta cần nhận được nhanh chóng hơn so với tin mà điện báo có thể mang đến bởi vì điện báo bị giữ lại ít nhất là một giờ đồng hồ trên mỗi tuyến đường. Cái gì có thể đi nhanh hơn điện báo trong phạm vi bốn mươi dặm? Thời đó chỉ có một phương tiện duy nhất là chim bồ câu đưa tin hạng nhất.
Tiền không thành vấn đề nếu như thắng lợi vẫn thuộc về ông ta. Ông chủ ngân hàng già yêu cầu cử đi một con bồ câu tốt nhất dù phải trả giá bao nhiêu cũng được. Người ta chọn Arnaux làm kẻ đưa tin, con chim đã có ghi những chiến công không phai mờ trên đôi cánh.
Một giờ đã trôi qua, lại một giờ nữa và đã bắt đầu sang giờ thứ ba thì một vệt sao băng xanh đã sa xuống chuồng chim kèm theo tiếng vỗ cánh. Billy đóng cửa chuồng và bắt chim. Anh ta khéo léo gỡ sợi dây và đưa bức thư cho ông chủ ngân hàng. Ông già mặt trắng bệch như mặt người chết mở bức thư ra một cách khó nhọc và khuôn mặt ông như người vừa sống lại.
- Cảm tạ thượng đế! - ông ta lầm rầm.
Sau đó ông chủ ngân hàng hạnh phúc vội vã đến chỗ họp của ban giám đốc sau khi biết mình vẫn thắng. Con chim nhỏ Arnaux đã cứu ông khỏi chết. Ông chủ ngân hàng muốn mua con bồ câu vì nghĩ rằng ông ta chăm nom săn sóc được vị cứu tinh của mình. Nhưng Billy đã trả lời:
- Làm như thế phỏng có ích gì? Ông không mua được trái tim của con bồ câu quy hồi đâu. Ông chỉ có thể biến nó thành kẻ bị cầm tù, thế thôi. Nhưng không có cái gì ở trên đời này có thể khiến nó quên cái chuồng chim, nơi nó đã ra đời.
Như thế là Arnaux vẫn ở lại căn nhà số 211 đường phố Tây 1. Nhưng ông chủ ngân hàng không quên nó.
Trong nước chúng ta không ít kẻ đê tiện coi con bồ câu đang bay là một thứ mồi săn hợp pháp và giết chết con chim chỉ vì khó lòng buộc tội được chúng. Không phải chỉ có một con chim đưa thư hào hiệp đang bay với tin tức về cái sống hay về cái chết đã bị giết vì tay kẻ ác độc và biến thành nhân bánh.
Con chim Arnolf, em của con Arnaux, từng đoạt ba kỉ lục vinh quang đã bị giết trong khi mang thư mời gặp tới cho thầy thuốc. Nó rơi xuống chân người bắn, và đôi cánh tuyệt đẹp của nó dang rộng ra để lộ bức thư. Người đi săn trông thấy cái vòng bạc ở chân chim và cảm thấy lương tâm bị cắn rứt. Gã gửi bức thư đi cho bác sĩ và mang con chim bị giết tới Câu lạc bộ bồ câu báo tin rằng “đã nhặt được nó”. Người chủ chim vào nhà gặp gã, và gã thợ săn bối rối buộc phải thú nhận rằng chính gã đã bắn con chim đưa thư, nhưng làm ra bộ là vì người hàng xóm ốm đau của gã thèm ăn bánh nhân thịt chim bồ câu. Người chủ chim phẫn nộ khóc ròng:
- Con chim bé nhỏ của tôi, con chim Arnolf xinh đẹp của tôi! Nó đã hai chục lần mang đi những tin tức quan trọng, đã ba lần lập kỉ lục, đã hai lần cứu sống mạng người, thế mà người ta đã giết chết nó để làm món nhân bánh! Ta có thể truy tố ngươi trước pháp luật nhưng ta ghê tởm sự trả thù hèn hạ đó. Ta chỉ yêu cầu người một điều: Nếu có khi nào còn một người hàng xóm của ngươi ốm đau thèm ăn bánh nhân thịt chim bồ câu thì ngươi hãy đến đây, ta sẽ cho không ngươi đủ chim cho cái tên súc sinh đó. Nhưng nếu như ngươi còn một chút phẩm giá thì ngươi hãy chớ bao giờ còn giết chết và cũng đừng cho phép người khác giết chết những sứ giả thanh cao và vô giá ấy nữa.
Việc này xảy ra vào thời gian người chủ ngân hàng thường tới thăm chuồng chim và lòng ông đang hừng hực niềm biết ơn con chim bồ câu. Ông là một người có thế lực và một trong những hệ quả của chiến công của Arnaux là một đạo luật bảo vệ chim bồ câu đã được thông qua ở Albany.

4

Billy chưa bao giờ ưa thích con Xám ra đời ở góc chuồng chim mang số hiệu 2600C cả. Mặc dầu con Xám có tên trong danh sách những con bồ câu được đeo vòng bạc nhưng Billy vẫn tiếp tục tỏ thái độ khinh thị con chim đó. Câu chuyện trên con tàu biển đã chứng tỏ nó là một con bồ câu hèn nhát. Ngoài ra rõ ràng là nó còn hay gây chuyện ồn ào nữa.
Một buổi sáng Billy bắt gặp một đám đánh nhau ở chuồng chim. Hai con chim bồ câu, một lớn và một bé quấn lấy nhau đánh lộn trên sàn nhà làm bụi tung mù mịt. Billy gạt chúng ra và thấy con bé là Arnaux còn con lớn là con Xám ra đời ở góc chuồng. Arnaux chiến đấu ngoan cường nhưng con Xám thắng thế vì nó nặng gấp đôi con Arnaux.
Ngay lập tức người ta biết rõ nguyên nhân của vụ đánh lộn là một con bồ câu mái bé nhỏ duyên dáng. Con Xám lớn từ lâu đã đem cái thô lỗ của nó ra trêu ngươi Arnaux, nhưng con bồ câu mái bé nhỏ là nguyên cớ thúc đẩy cuối cùng dẫn đến trận đánh nhau một sống một chết. Billy không có quyền vặn cổ con Xám nhưng gã đã làm một việc có thể làm được vì con Arnaux thân thiết của mình.
Billy nhốt con Arnaux cùng với con bồ câu mái bé nhỏ vào một ngăn chuồng riêng biệt trong hai tuần lễ, và để cho chắc ăn hơn gã cũng làm như vậy với con Xám lớn bằng cách gán cho nó một con mái thích hợp.
Mọi việc đã diễn ra đúng như gã dự kiến. Con bồ câu mái bé nhỏ thừa nhận Arnaux là người chủ trái tim của nó, còn con mái thích hợp kia thì công nhận con Xám to lớn. Chúng đi xây tổ uyên ương và ai cũng tưởng là chúng sẽ ăn đời ở kiếp với nhau tốt đẹp. Nhưng con Xám lớn là một con bồ câu rất to lớn và đẹp trai. Nó khéo biết ưỡn diều ra phô cái vòng lông cổ óng ánh dưới ánh mặt trời khiến cho không có con bồ câu mái nào đứng trước nó mà không cầm lòng nổi.
Còn con Arnaux của chúng ta thì tuy có thể chất cương nghị nhưng lại nhỏ con và không đẹp trai cho lắm. Chỉ có đôi mắt của nó là sáng long lanh một cách khác thường. Ngoài ra nó thường phải rời chuồng chim đi làm những công việc quan trọng, trong khi con Xám lớn lại chỉ có mỗi một công việc là vây vo ở bên chuồng chim và khoe khoang đôi cánh thiếu những chữ ghi thành tích của mình.
Các nhà văn thường thích đi tìm ở các loài vật, đặc biệt là ở chim bồ câu nhưng ví dụ về tình yêu lứa đôi và về lòng chung thủy. Những đức tính đó thực ra nói chung là đúng, nhưng than ôi! Cũng vẫn có ngoại lệ.
Vợ của Arnaux ngay từ đầu đã thán phục con Xám lớn, và rốt cuộc một hôm khi chồng nó được mang đi làm công vụ thì đã xảy ra một sự kiện khủng khiếp.
Khi từ Boston quay trở về Arnaux đã trông thấy gã Xám lớn trong lúc vẫn chưa bỏ “vị phu nhân thích hợp” được cưới cheo hợp pháp cho nó nơi góc chuồng thì lại chiếm đoạt cả vợ mình lẫn ngăn tổ của mình. Thế là một trận chiến ác liệt đã nổ ra. Chứng kiến cuộc chiến đó chỉ có một mình con vợ đứng xem một cách hoàn toàn thản nhiên. Arnaux lao vào đánh bằng đôi cánh thần kì của mình, nhưng các dòng chữ ghi các kỉ lục không gia tăng thêm sự nhanh nhẹn của đôi cánh. Mỏ và chân của nó nhỏ bé đúng như ở một con chim đưa thư tốt và trái tim dũng cảm không thể thay thế được chỗ thiếu trọng lượng. Cuộc chiến nhất định sẽ kết thúc bất lợi cho nó. Con vợ đậu thờ ơ ở tổ như chẳng có chuyện gì xảy ra cả, và Arnaux có lẽ đã bị đánh chết nếu như Billy không đến kịp thời. Gã tức giận đến nỗi suýt nữa thì vặn gãy cổ con Xám nếu như tên gây chuyện này không kịp chạy trốn khỏi chuồng.
Billy âu yếm chăm sóc Arnaux trong mấy ngày liền. Sau một tuần lễ con chim này đã hoàn toàn bình phục và qua mười ngày thì nó lại lên đường. Hiển nhiên là nó đã tha thứ cho con vợ bội bạc bởi vì ả đã tiếp tục sống yên ổn trong tổ. Trong tháng này nó đã lập được hai kỉ lục mới: nó mang một bức thư đi xa mười dặm chỉ trong tám phút và bay từ Boston về New York trong bốn giờ. Lúc nào tình yêu nơi chôn rau cắt rốn cũng cuốn hút nó quay trở lại.
Arnaux quay trở về lại gặp chuyện đau lòng bởi vì nó lại bắt gặp con vợ chuyện trò thân thiết với con Xám lớn. Dù nó rất mệt mỏi nhưng trận đánh nhau lại nổ ra và có lẽ Arnaux đã chết nếu như Billy không can thiệp. Gã tách hai kẻ đánh nhau ra, nhốt riêng Xám lớn vào một chỗ và quyết định hễ có dịp là tống cổ tên này đi.
Giữa lúc này sắp có tổ chức một cuộc thi tài lớn của tất cả các lứa chim: bay chín trăm dặm từ Chicago đi New York. Lũ bồ câu được gửi đi Chicago bằng xe lửa. Tại đây chúng sẽ được thả lần lượt từng con một. Con bồ câu nào bay tốt sẽ được thả muộn hơn. Con Arnaux sẽ được thả cuối cùng.
Sau khi rời Chicago một vài con bồ câu đã tụ họp lại thành đàn theo bản năng. Con bồ câu quy hồi sẽ bay theo đường thẳng nếu như cảm giác chung về phương hướng chi phối nó, nhưng khi nó thấy lờ mờ hay là quen thuộc thì nó thường dựa theo những dấu hiệu đã biết mà nó còn nhớ được. Phần lớn lũ chim được luyện theo con đường bay qua Columbus và Buffalo. Arnaux đã biết con đường bay qua Columbus nhưng cũng biết con đường bay qua Detroit. Vì thế khi nó bay ngang qua hồ Michigan thì nó theo đường thẳng bay tới Detroit. Như vậy nó sẽ được lợi vài dặm bay.
Detroit, Buffalo, Rochester với những mái nhà và ống khói quen thuộc cứ liên tiếp nối theo nhau bị bỏ lại phía sau và nó đã bay gần đến Syracuse rồi. Ngày đã ngả về chiều, Arnaux đã bay sáu trăm dặm trong vòng mười hai giờ và chắc chắn sẽ về trước tất cả. Nhưng đột nhiên nó muốn uống nước. Khi bay ngang qua các mái nhà của thành phố nó trông thấy một chuồng chim và thế là nó nhào xuống sau hai ba vòng lượn lớn rồi xáp vào với đồng loại và uống lấy uống để nước ở cóng. Trước đấy nó chưa bao giờ làm như thế cả. Bất cứ người chơi chim bồ câu nào cũng đều luôn luôn ao ước lũ chim đưa thư sử dụng lòng mến khách của mình. Người chủ chuồng chim có mặt lúc đó và đã nhận ra con chim lạ. Gã thận trọng đứng yên tại chỗ theo dõi con bồ câu. Một con trong số bồ câu của gã tới gây gổ với kẻ mới tới và Arnaux dang cánh ra tự bảo vệ và do đó đã để lộ ra những chữ ghi các kỉ lục của mình. Người chủ chuồng chim liền kéo dây sập cửa chuồng lại và ít phút sau Arnaux đã trở thành tù nhân của gã.
Gã bắt trộm dang những cánh bồ câu ra đọc những dòng chữ ghi hết kỉ lục này đến kỉ lục khác rồi lại nhìn cái vòng bạc ở chân con chim mà gã coi quý như vàng. Gã đọc tên con bồ câu và kêu thốt lên:
- Arnaux! Arnaux! Ôi, ta đã nghe nói về mi, anh bạn ạ, và ta thật sung sướng đã bắt được mi!
Gã tháo tờ giấy buộc vào chân con chim và đọc:
- Arnaux rời khỏi Chicago hôm nay lúc 4 giờ sáng. Nó tham gia cuộc bay thi lớn giữa các lứa chim trên hành trình Chicago - New York.
- Sáu trăm dặm trong mười hai giờ! Mi đã phá tất cả các kỉ lục.
Và tên ăn trộm bồ câu thả con chim đang giãy giụa vào trong lồng một cách âu yếm gần như tôn sùng.
- Này, anh bạn, - gã nói thêm, - ta biết mi sẽ chẳng bằng lòng ở lại đây đâu nhưng ta có thể để cho mi tìm được những kẻ thừa kế và nhân giống nòi chim tốt của mi.
Thế là Arnaux bị nhốt trong một ngăn thuận tiện cùng với một số tù nhân khác. Người chủ chuồng chim tuy là một gã kẻ trộm nhưng là một người chơi chim nghiệp dư thành thật. Gã không tiếc kẻ cầm tù của mình một điều gì cả.
Ba tháng ròng rã cứ thế trôi qua. Lúc đầu Arnaux chỉ làm mỗi một việc là đi đi lại lại suốt ngày trong lồng, nhìn quanh trên dưới xem có chỗ nào có thể chui ra được hay không, nhưng sang tháng thứ tư thì nó từ bỏ ý định chạy trốn, và tên cai ngục chu đáo bắt tay vào thực hiện phần thứ hai của chương trình. Gã đem đến cho Arnaux một con bồ câu mái trẻ hay thẹn thò. Nhưng chẳng ăn thua gì cả: Arnaux thậm chí không thèm để mắt tới ả nữa. Gã cai ngục chờ đợi ít hôm rồi mang con bồ câu mái đi, và Arnaux lại bị nhốt riêng một mình cả tháng ròng. Sau đó gã lại đưa đến một con mái mới nhưng cũng chẳng hòa hợp được, và sự việc cứ thế diễn ra suốt cả năm. Arnaux hoặc là hung dữ mổ người đẹp hoặc là tỏ thái độ lãnh đạm khinh thị, và thỉnh thoảng lại thấy nó biểu lộ ý muốn quay trở về nhà một cách mạnh mẽ hơn trước: nó húc vào nan lồng hoặc là bồn chồn đi tới đi lui. Đến mùa kết đôi hằng năm của bồ câu gã cai ngục cẩn thận thu nhặt làm kỉ niệm từng cái lông quý báu rụng ở cánh con Arnaux ra, và khi những cái lông mới mọc lên thì gã lại khéo léo ghi lại lên đó những chiến công hiển hách của Arnaux.
Hai năm trời chậm chạp trôi qua. Gã cai ngục chuyển Arnaux sang một chuồng chim mới và đem cho nó một con mái mới. Tình cờ con này rất giống con vợ thay lòng đổi dạ của nó ở nhà và Arnaux đã chú ý tới ả. Một lần gã coi ngục trông thấy kẻ tù nhân nổi tiếng của mình ve vãn người đẹp, và - đúng thế không còn nghi ngờ gì nữa! - ả đã bắt đầu làm ổ. Sau khi kết luận được qua đó rằng hai con chim đã ăn ở với nhau, gã cai ngục liền mở cửa chuồng lần đầu tiên, và Arnaux đã được tự do. Liệu nó có lần lữa không? Nó có bối rối không? Hoàn toàn không. Không trung vừa được mở rộng trước mắt nó một cái là nó đã hành động theo ý chí, dang rộng đôi cánh có những dòng chữ ghi kì lạ và lao ra khỏi cái ngục tù đáng ghê tởm và bay đi mỗi lúc một xa.

5

Chưa bao giờ có một người nào yêu căn nhà của mình như Arnaux đã yêu cái chuồng chim của nó.
Trở về nhà, trở về nhà, về ngôi nhà thân thiết? Mọi thử thách đau khổ mà nó từng chịu đựng ở nơi chuồng chim quê hương đều được lãng quên hết. Cả những năm tháng ngục tù, cả tình yêu muộn màng, lẫn nỗi sợ hãi cái chết đều không thể lấn át nổi tình yêu quê hương, và giá như Arnaux biết hát thì chắc chắn nó sẽ tất tiếng hát một bài ca hào hùng. Nó bay lên không trung theo những vòng tròn hướng lên trên theo sự chi phối của một ý muốn duy nhất có khả năng khắc phục đôi cánh vinh quang ấy, đó là ý muốn bay cao mãi, cao mãi, cuốn hút bởi tình yêu quê hương, tình yêu ngôi nhà tin cậy duy nhất của nó và người bạn đời thay lòng đổi dạ của nó. Nhắm mắt lại như người ta thường nói, bịt tai lại như người ta thường khẳng định, và chẳng đòi hỏi gì nữa như chúng ta thường nghĩ, nó cứ bay trên bầu trời xanh và hoàn toàn tuân theo kẻ điều khiển bí mật của mình là cảm giác phương hướng.
Arnaux bay nhanh như tên về hướng đông nam. Arnaux từ giã tên ăn cướp chim ở Syracuse vĩnh viễn.
Phía dưới kia, một con tàu tốc hành đang lao nhanh trên bình nguyên. Con tàu chạy khá xa ở đằng trước nhưng Arnaux đã đuổi kịp và vượt nó, chẳng khác gì một con ngỗng trời vào mùa hè bay vượt một con chuột xạ. Nó bay cao hơn những ngọn đồi, thấp hơn dãy núi Chenango, nơi có những cây thông đang rì rào với gió, và cứ thế bay đi mỗi lúc một xa.
Một con diều hâu vừa rời khỏi tổ trên một cây sồi đã trông thấy con bồ câu và nhằm nó định bắt làm mồi ăn. Arnaux không hề rẽ phải hoặc rẽ trái, cũng không dâng lên cao hay hạ xuống thấp mà cứ hạ cánh đều đều. Con diều hâu chờ đợi. Nhưng Arnaux đã bay ngang qua như một con hươu đang hồi sung sức chạy thoát khỏi ổ phục kích của con gấu vậy! Trở về nhà, trở về nhà!
Phần phật, phần phật! Đôi cánh lấp lóa thấp thoáng trên con đường bây giờ đã quen thuộc. Một giờ sau nó đã trông thấy những ngọn đồi quen cũ. Hồi đó đã bay trên những ngọn đồi ấy. Những nơi chốn thân thiết đang lướt nhanh ngược lại gặp nó đã tiếp thêm cho nó sức mạnh mới. Về nhà, về nhà! Con tim nó chẳng cất lên lời ca nào khác. Đôi mắt cực sáng của nó nhìn đăm đăm một cách hi vọng vào làn khói xa xăm của đảo Manhattan chẳng khác nào một khách bộ hành sắp chết khát nhìn thấy những ngọn cây cọ thấp thoáng phía xa xa.
Một con chim ưng chuyên bắt bồ câu bay từ sườn núi ra. Là con chim nhanh nhất trong số các ác điểu, kiêu hãnh về sức mạnh, về đôi cánh, nó sung sướng thấy con mồi xứng đáng. Đã có không ít bồ câu sa vào tổ nó, và giờ đây nó đang hướng theo gió, lượn lờ và giữ sức chờ đợi thời cơ thích hợp. Ôi nó lựa chọn thời cơ ấy mới chính xác làm sao! Nó lao xuống phía dưới như một mũi tên. Không một con diều hâu, một con ngỗng trời có thể thoát khỏi tay nó vì nó là một gã chim ưng.
Hãy bay ngược trở lại đi, bồ câu! Ôi, bồ câu, hãy chạy trốn đi, hãy lánh xa những ngọn đồi nguy hiểm đi!
Con bồ câu liệu có quay trở lại hay không? Không, bởi vì đó là Arnaux. Trở về nhà, trở về nhà, về nhà! Nó không hề nghĩ đến điều nào khác nữa. Để thoát khỏi con chim ưng nó chỉ bay nhanh hơn lên mà thôi. Gã chim ưng lao vút xuống - nó lao vào cái chấm đang lấp lóa đó - và đã quay trở lại chẳng bắt được gì. Trong khi đó Arnaux đã xé gió bên trên ngọn đồi vút đi như một viên đá bay ra khỏi chiếc máy bắn đá cổ xưa; thoạt đầu còn trông rõ là một con chim trắng, rồi sau là một vệt nhỏ lấp loáng và tiếp theo đó chỉ còn là một chấm mất hút trong bầu trời... Xa xa, dọc theo ngọn đồi thân thương của Hudson đã là con đường lớn quen thuộc với nó rồi... Đã hai năm rồi đó mới lại trông thấy con đường lớn đó. Bây giờ nó đã bay xuống thấp hơn. Một cơn gió nhẹ thổi từ hướng bắc về làm mặt nước của con sông phía bên dưới nó lăn tăn gợn sóng. Về nhà, về nhà, về nhà! Cần phải bay thấp bởi vì gió đã nổi lên rồi.
Bay thấp! Than ôi, nó đã bay quá thấp! Con quỷ dữ nào đã xui khiến một gã đi săn vào hồi tháng sáu nấp ở đỉnh ngọn đồi ấy thế? Vì lẽ gì mà ma quỷ lại chỉ cho gã ta cái chấm trắng đang chấp chới trên nền trời xanh ngược về hướng bắc? Ôi, Arnaux, Arnaux, xin đừng có quên cây súng săn khi mày bay thấp đến thế. Mày đã bay quá thấp, quá thấp nơi ngọn đồi ấy. Quá thấp.
Ánh lửa lóe lên, một tiếng nổ đoàng! - Và một viên đạn chết người đã bắn trúng Arnaux; bắn trúng, làm bị thương nhưng không bắn rơi được nó. Từ đôi cánh chấp chới những chiếc lông có ghi chữ rụng xuống, rớt từ từ xuống mặt đất. “Con số không” của cái kỉ lục trên biển khơi của nó bị mất. Bây giờ kỉ lục đó không phải là 210 mà chỉ còn là 21 dặm mà thôi. Ôi, thật là một vụ ăn cướp nhơ nhuốc! Lồng ngực bị một vết thương đỏ lòm nhưng Arnaux không chịu lui bước. Về nhà, về nhà! Mối nguy hiểm đã lùi lại phía sau. Về nhà, chỉ trở về nhà thôi, vẫn cứ bay chẳng đường như lúc trước.
Nhưng vận tốc kì diệu bây giờ đã giảm sút rồi: một phút nó chỉ bay được có không đến một dặm đường và gió lại dâng lên những tiếng ồn ào không quen thuộc trong đôi cánh bị thương. Vết thương ở lồng ngực khiến cho sức lực suy sụp, nhưng Arnaux vẫn cứ bay về phía trước. Căn nhà, nó đã trông thấy căn nhà từ xa và quên cả cơn đau nơi lồng ngực. Những cái tháp chuông cao của thành phố đã hiện rõ trước cặp mắt nhìn được xa của nó trong khi nó xẹt qua gần ghềnh đá Jersey. Tiến lên, tiến lên! Cánh có thể yếu đi và mắt có thể mờ đi nhưng tình yêu quê hương thì cứ mỗi lúc một tăng.
Nó đã bay dọc theo những ngọn đồi cao, tránh được hướng gió thổi, bay phía trên làn nước lấp loáng, trên những ngọn cây và bên dưới tổ con chim ưng chuyên bắt bồ câu, cái dinh luỹ kẻ cướp xây trên một mỏm đá, nơi có những con ác điểu hung dữ đang đậu. Chúng dõi nhìn một cách tinh tường như những tên kẻ cướp bị bịt mặt nạ đen và đã nhận ra con bồ câu đang bay lại gần, Arnaux đã biết rõ chúng từ lâu. Nhiều bức thư không gửi được tới nơi đã đến trú ngụ tại cái tổ chim ưng này, nhiều chiếc lông chim có ghi các kỉ lục đã run rẩy rơi từ tổ này xuống đất. Nhưng Arnaux đã từng nhiều lần tranh đua với chúng và bây giờ nó cứ tiếp tục bay theo đường của mình, tiến về phía trước, về phía trước thật nhanh, nhưng dù sao cũng không thể nhanh như trước đây được nữa. Khẩu súng giết người đã làm hao tổn sức lực của nó, đã làm giảm vận tốc của nó. Tiến lên, tiến lên! Lũ chim ưng chứ đúng thời cơ đã lao ra như hai mũi tên. Chúng đã vồ được con bồ câu sức tàn lực kiệt bé nhỏ.
Mô tả lại cuộc săn đuổi làm gì kia chứ? Phác họa lại nỗi thất vọng của một trái tim nhỏ nhoi dũng cảm làm gì kia chứ? Nó đã nhìn thấy căn nhà của nó rồi mà... Trong phút chốc mọi cái đều kết thúc. Lũ ác điểu bắt bồ câu cất tiếng kêu khàn khàn đắc thắng và đậu trên mỏm đá của chúng, giữ chặt cái xác bồ câu trong móng sắc của chúng, đó là tất cả những gì còn lại của con Arnaux bé nhỏ gan dạ.
Tại đó, nơi mỏm đá, mỏ và móng vuốt của những tên kẻ cướp đã nhuốm đầy máu vị anh hùng. Đôi cánh không gì so sánh nổi đã bị nhổ thành một đám lông, và những hàng chữ ghi trên cánh bị rải tung trên đá. Chúng cứ nằm phơi nắng tại đó cho đến lúc những tên giết người bị hạ sát và dinh lũy của chúng bị san bằng.
Và số phận của con chim không gì sánh nổi có lẽ sẽ vẫn biệt vô âm tín nếu như người ta không ngẫu nhiên tìm thấy trong đống đồ thải bỏ và rác rưởi của cái tổ cướp đó một chiếc vòng bạc - tấm huy chương thiêng liêng của con bồ câu đưa thư hạng nhất, trên đó nổi bật hàng chữ mang nhiều ý nghĩa:
ARNAUX, 2590C.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét