Thứ Năm, 27 tháng 8, 2015

Quy luật của muôn đời - Nodar Dumbadze (Ch 6 - 8)

Quy luật của muôn đời 

Tác giả: Nodar Dumbadze
Người dịch : Phạm Mạnh Hùng
Nhà xuất bản Văn Học - 9/1984

Chương 6

Bảy ngày bảy đêm Batsana len lỏi trên hoang mạc cháy nắng trơ trụi. Hai ngày đầu, ông đi bộ, rồi lê bằng đầu gối, hai ngày sau ông bò. Khi đã suy kiệt, môi nứt nẻ, ông ngã sấp mặt xuống cát vàng nóng bỏng và cảm thấy cái chết gần kề, ông nằm ngửa lên, giương cặp mắt mờ đục nhìn mặt trời và lần đầu tiên trong đời, ông buột miệng oán trách vầng sáng kia.
- Tại sao ngươi đày ta đến chỗ chết, hỡi mặt trời?
Bỗng nhiên, hình ảnh một con người xuất hiện trên vầng mặt trời tròn như cái đĩa. Bóng người đó trùm lên Batsana.
- Anh là ai? - Batsana hỏi.
Chàng thanh niên gầy còm, chân đất, mắt xanh nhìn ông và Batsana không thể hiểu được sau lưng anh ta là mặt trời hay trên đầu anh ta tỏa ra vầng hào quang chói lọi.
- Ta là Chúa tể và Thượng đế của ngươi! - Chàng trai đáp.
- Anh lấy gì chứng minh điều đó!
- Sự hiển hiện của ta trước mặt ngươi không phải là bằng chứng ư?
- Không! Anh là ảo giác của một người đang khát trong sa mạc!
Batsana chờ đợi một lúc lâu cho hình ảnh kỳ lạ đó biến đi. Nhưng chàng thanh niên đứng trước mặt ông, điềm tĩnh, mỉm cười, nhân từ và thân thuộc lạ thường. Thế là Batsana bò đến gần anh ta và rụt rè chạm tay vào vết thương đã lên da màu hồng nhạt ở cái chân trần của anh ta.
- Vứt bỏ những nghi ngờ đi. - Chàng thanh niên mỉm cười.
- Tôi hồ nghi và tôi không tín ngưỡng. Tôi không tin cái mà mắt tôi nhìn thấy. Tôi cảm thấy tất cả những cái đó diễn ra ở một nơi nào cách xa tôi. Hãy đến gần tôi và giải thích cho tôi rõ trước đây có anh trên trần gian này không. Nếu có thì tai sao anh rơi bỏ loài người? - Batsana hỏi.
- Loài người từ bỏ ta, nhưng ta không bỏ loài người... - Chàng thanh niên khẽ trả lời.
- Hãy chứng minh với tôi điều đó!
- Sự có mặt của ta ở đây là bằng chứng!
Một lần nữa, Batsana đưa tay vuốt cái chân đi đất của chàng thanh niên.
- Ngài là gì, thưa Chúa?
- Ta là niềm tin, hy vọng, sức mạnh, điều thiện, tài năng của tình yêu và tự do!
- Làm thế nào mà Giuđa lại bán Ngài lấy ba mươi đồng bạc trắng?
- Không phải Giuđa phản chúa của y, mà y bị bán mình cho bọn phanrixay lấy ba mươi đồng bạc, chúng mua y với giá ấy. Số tiền dưới giường người hôm nay không phải là cái giá của ngươi, vì thế ngươi không tự bán mình. Vì không bán mình hôm nay, ngày mai giá trị ngươi sẽ cao hơn.
- Thế nếu ngày mai, ngày kia tôi cũng không bán mình thì sao?
- Thế thì ngươi sẽ càng cao quý hơn và cái điều mà vì nó ta bị đóng đinh câu rút sẽ thành sự thật...
- Vậy ngài có biết là Giuđa sẽ bán ngài không?
- Xa tăng biết. Chúa không cám dỗ con người. Chúa thử thách con người. Giuda bị quỷ xa tăng cám dỗ, quỷ mua được hắn bằng ba mươi đồng bạc. Còn ta thử thách Giuda bằng cách trao vào tay hắn sợi dây thừng.
- Thế ngài không nguyền rủa Giuđa chứ?
- Không.
- Tại sao?
- Giuda đã tránh cho mười một người sa vào tội lỗi.
- Vậy tại sao ngài không xóa bỏ cho Giuđa cái vết ô nhục suốt đời?
- Vì Giuda là hiện thể của quỷ xa tăng, chứ không phải của chúa.
- Như vậy là quỷ xa tăng đã thắng ngài à?
- Có lẽ là như thế, nếu Giuđa không tự sát.
- Khi lên Gongota, ngài có tin rằng người ta đưa ngài đi đóng đinh câu rút không?
- Không.
- Vậy ngài hy vọng vào cái gì?
- Hy vọng ở nhân dân.
- Chẳng phải nhân dân đã đánh đổi ngài lấy tên kẻ cắp sao?
- Chính nhân dân.
- Vậy là cả ở đây nữa, xa tăng cũng vẫn thắng ngài ư?
- Không, bởi vì đó không phải là sự cám dỗ, mà là sự thử thách.
- Và nhân dân không chịu nổi sự thử thách ư?
- Không.
- Tại sao?
- Dân chúng chờ mong ta làm phép lạ, vì thế họ đổi ta lấy tên ăn cắp mà họ không trông mong gì ở hắn... Đấy là lần thứ hai ta thử thách con cháu của Adam, cuộc thử thách quá sớm, và đấy là sai lầm thứ hai của ta.
- Sai lầm thứ nhất của ngài là gì?
- Là ta đã cho con người ngụ trên thiên đàng. Đáng ra không phải do ý chí của người khác, mà nhờ vào mồ hôi, máu và lòng tin của mình mà con người được lên thiên đàng!
- Đến lúc nào thì ngài tin rằng việc ngài bị đóng đanh câu rút là không thể tránh khỏi?
- Khi ta nhìn thấy mẹ ta và người môn đệ yêu quý của ta đứng trước mặt ta. Ta bảo mẹ ta: “Hỡi người đàn bà, đây là con trai người!”. Ta phán bảo môn đệ ta: “Hỡi người kia, này là mẹ ngươi!”. Và y thay ta ở lại cùng mẹ ta, còn mẹ ta trở thành thánh linh ở cùng y...
- Xin ngài cho biết ý muốn của ngài?
- Đứng đậy!
Batsana đứng dậy.
- Hãy nói to lên rằng ngươi không bị cơn khát hành hạ.
- Tôi không bị cơn khát hành hạ. - Batsana lặp lại và cơn kháy giầy vò ông lập tức biến mất.
- Hãy nói to lên rằng ngươi không bị ánh nắng thiêu đốt!
- Tôi không bị ánh nắng thiêu đốt! - Batsana nhắc lại và cái nắng làm ông kiệt lực biến mất. - Hãy nói to lên rằng ngươi tin vào cuộc sống và vào Chúa của mình!
- Tôi tin vào cuộc sống... - Batsana nói theo, nhưng không nói mấy tiếng “chúa của tôi” vì ông vẫn có cảm tưởng mọi việc xảy ra xung quanh là ảo giác.
Khi ấy chàng thanh niên nói:
- Hãy thổ lộ mơ ước thầm kín của ngươi!
- “Tại sao tôi sinh ra làm người? Cớ sao tôi không tan biến thành cơn mưa?”. - Batsana đọc mấy câu thơ của Vagia Posaven và bỗng nhiên...
Batsana biến thành cơn mưa, cỏ đâm lên qua đất hoang mạc cháy trụi: cỏ xanh tươi mọng sữa...
Batsana biến thành cơn mưa, và hoa đâm lên qua đất hoang mạc cháy trụi: những bông hoa đẹp, tươi vui. ngát hương thơm...
Batsana biến thành cơn mưa, và nước mạch vọt lên qua đất hoang mạc cháy trụi: nước trong mát, tràn đầy sức sống.
Batsana biến thành cơn mưa. và đất hoang mạc cháy trụi hồi sinh, hoang mạc biến thành ốc đảo nở hoa.
Batsana biến thành cơn mưa, rồi đột nhiên chính ông biến thành cây sồi hùng vĩ giữa ốc đảo nở hoa: một cây sồi khổng lồ, cành lá xum xuê, rễ bao quanh khắp trái đất, ngọn cao vút chống đỡ bầu trời... Và những bầy chim có tiếng hót du dương, đông hằng hà sa số từ khắp các nước bay tới đậu trên cành nhánh của cây sồi đó, làm tổ. sinh sôi nảy nở và bài ca vĩ đại ngợi ca cuộc sống vang khắp thế gian...
Thế là Batsana quỳ xuống. rạp đầu trước chàng thanh niên và nói:
- Tôi đã nhìn thấy ngài và tôi tin.
Chúa Kito phán truyền:
- Ngươi tin vì ngươi chính mắt nhìn thấy ta. Phúc cho những kẻ không nhìn thấy ta mà vẫn tin.

Chương 7


Batsana tỉnh lại. Bulika ngồi co gập chân chân trên giường, tựa lưng vào chiếc gối, nghe cha Ioram đọc báo bằng giọng đều đều như đọc thánh thi.
- Chào các ông bạn! - Batsana chào những người giường bên.
- A, chào ông bạn mới đến ở cùng nhà với chúng tôi! - Bulika mứng rỡ.
- Ông cảm thấy trong người thế nào, thưa ông Batsana. - Cha Ioram đặt tở báo xuống, hỏi một cách nhã nhặn.
- Như Adam lúc trẻ tuổi ở trên thiên đàng khi chưa có Eva!
- Vậy ra sống một mình ông không buồn ư?
- Trái lại. tôi có cảm giác cả thiên đường là của tôi!
- Ông thật là cừ, cừ lắm, ông Batsana ạ! - Bulika nói bằng giọng hoan hỉ. - Tôi chưa từng thấy đòn nốc-ao nào như thế: đếm đến ba trăm mà hắn chưa mở được mắt!
- Hắn là ai?
- Thế mới thú vị chứ! Suýt nữa đưa một người sang thế giới bên kia khiến hắn không kịp xưng tội, mà lại còn hỏi hắn là ai. - Cha Ioram thốt lên.
- Nhưng cha có mặt ở đây kia mà, thưa cha! - Batsana bông đùa. nhưng cảm thấy hơi ngượng ngập. Ông gần như đã quên việc xảy ra ban nãy, đó là do tác dụng của pantopon, vì thế nghe nhắc lại chuyện đã xảy ra, ông cũng thấy bực bội. - Thực tình tôi không nhớ rõ đã xảy ra chuyện gì. - Ông vừa nói vừa lau mồ hôi trán.
- Xin đừng lo, ông Batsana kính mến, tôi cũng không nhớ gì hết: tôi ngủ, cha Ioram cầu nguyện. Phải thế không thưa cha? - Bulika nói với Ioram.
- Đúng thế. - Ioram xác nhận.
- Vì thế chúng tôi sẽ không phải là người chứng kiến. - Bulika nói thêm.
- Vâng, nhưng đã có chuyện gi xảy ra kia chứ? - Batsana thành thật muốn biết.
- Thế này này: khi ông ném cái bô vào đầu hắn, bô vỡ tan và hắn ngã xuống thì Gienya chạy vào. Chị ấy tiêm long não, bôi iot cho hắn. Sau đó bỗng nhiên hắn bật dậy và chửi um lên.
- Thế nào kia?
- Hắn la ầm lên rằng chắc ông chê số tiền đó ít, nếu không thì tại sao ông không từ chối ngay?
- Còn gì nữa?
- Hắn còn nhắc đến một người nào tên là Batsalasvili đã được ông cất nhắc lên làm cửa hàng trưởng tiệm ăn mà chẳng phải tốn phí bao nhiêu...
- Cái gì? - Batsana không hiểu.
- Cái gì là thế nào? Ông đã thu xếp cho một người làm cửa hàng trưởng tiệm ăn, còn người đó trả cho ông nửa triệu rúp...
Batsana phá lên cười.
- Sao vậy? Đúng là hắn đã la ầm lên như thế đấy.
- Ồ không, tôi không nói về chuyện ấy... Quả thật là tôi có giúp cho một người thân thích của một cán bộ cơ quan tôi được bổ dụng: chính cái ông Batsalasvili ấy...
- À ra thế...
- Thưa ông Batsana, như vậy là quả thật cũng có kẻ ăn hối lộ ư? - Cha Ioram hỏi chen vào.
- Chuyện ấy cũng có. - Batsana đồng ý.
- Tôi cũng gặp phải một thằng xỏ lá như thế, mà lại là bạn tôi kia chứ. - Bulika nhớ lại. - Hắn thu xếp cho thằng cháu mồ côi của tôi vào trường chuyên nghiệp trung cấp. Hắn đòi tôi đưa ba nghìn: một nghìn rưởi cho ông hiệu trưởng, hắn bảo thế, một nghìn cho một tay nọ, ba trăm cho một tay khác, còn hai trăm là phần công sức hắn chạy chọt, hắn bảo thế... Tôi còn có cách nào khác. Thằng cháu tôi thì tôi biết quá rõ đi rồi... Mới đây tôi hỏi thằng thộn ấy: năm mươi trừ đi năm còn bao nhiêu? Nó trả lời: năm!
- Thế là đúng rồi. - Batsana cười vang.
- Chính bởi “đúng” như thế tôi mới mất ba nghìn rúp. Thằng xỏ lá ấy nó lấy tiền rồi biệt tăm...
- Nó lừa à? - Iôram tò mò.
- Không... Nó có thu xếp cho thằng bé vào trường, nhưng còn tiền thì... Tiền của tôi mất toi...
- Thế thì bác trách nó cái nỗi gì?
- Sao lại không. Tháng chạp, hiệu trưởng của chính trường chuyên nghiệp ấy gọi tôi lên và hỏi: ông Goghilasvili, ông bà đưa ba nghìn rúp cho ông Govalatze phải không? Cố nhiên tôi nhận: vâng, quả có thế. Cứ giờ hồn, quân đểu cáng, ông hiệu trưởng gầm lên và đập tay xuống bàn.
- Ông ta nói bác thế à? - Cha Ioram buồn rầu.
- Sao lại nói tôi. Nói cái thằng Govalatze xỏ lá ấy!
- Vậy ra ông ấy vu khống người ta! -  Ioram phẫn nộ.
- Ơ kìa, thì ra cha không hiểu ư? Chẳng là Govalatze không đưa tiền cho ông ấy mà. Thế là ông ta dồn tôi: anh coi tôi là người thế nào? Trường trung cấp thương nghiệp không phải như trường... gọi là trường gì nhỉ, cái trường... ở cạnh lò bánh mì ở Vakê ấy mà... Ở đấy học sinh cứ ngày đêm nhìn vào những ống ngắm...
- Trường trắc đạc. - Batsana nhắc.
- À vâng, trường trắc đạc. Đây không phải như trường trắc đạc đâu nhé. ông ta nói thế. Bây giờ là tháng chạp. Tháng giêng anh đưa tôi ba nghìn rúp, không thì thắng cháu đần độn của anh không còn là học sinh trường này nữa.
- Ai nói như thế? - Ioram ngạc nhiên.
- Ai là thế nào? Ông hiệu trưởng chứ còn ai!
- Rồi sau thế nào?
- Sau thế nào ấy à? Tôi với Xvêta của tôi bàn nhau, bà ấy bảo tôi: chẳng thà thêm một khoản bằng ngần ấy nữa là ta có thể thu xếp được cho nó làm bộ trưởng Bộ Nội thương...
- Thế ra hiệu trưởng cũng là một thằng kẻ cướp ư? - Batsana bứt rứt trở mình trên giường.
- Đúng thế, bạn quý ạ! Có lẽ ông cần cái bô chăng? Trong lúc họ chưa đem cái mới đến, có thể dùng tạm cái của tôi... - Bulika đề nghị.
- Không, cảm ơn... Tôi vừa nảy ra ý nghĩ là có lẽ nên nhận số tiền ấy chăng?
- Tôi không biết... nói chung tiền là thứ khá bẩn thỉu... - Bulika nói bằng giọng trầm ngâm.
- Ba mươi đồng bạc trắng hủy diệt nhân loại. - Cha Ioram kêu lên. - Ba mươi đồng bạc trắng.
- Ông Batsana kính mến ạ, tôi đoán nhận người chẳng kém gì các ông xem tướng... tướng mạo... - Bulika ngắc ngứ.
- Những người xem tướng mặt.
- Đúng thế. Có điều họ xem mặt đoán người, còn tôi xem giày mà đoán được... Nhìn giày tôi đoán dứt khoát không sai kẻ đó là thứ người gì... Như cái thằng cha ngu ngốc đã đến gặp ông chẳng hạn... Vừa nhìn đôi giày hắn đi, tôi hiểu ngay hắn là thằng đê tiện khốn khiếp...
- Bằng cách nào?
- Thứ nhất, giày của hắn đánh bóng lộn...
- Còn tôi thì trái lại, tôi tưởng hắn là giáo sư. - Cha Ioram ngắt lời Bulika.
- Vào đến nơi, hắn chùi giày vào quần... - Bulika liếc nhìn Ioram. - Giáo sư không bao giờ làm như thế... Thứ hai, đế giày hắn vẹt đằng trước, còn gót giày hoàn toàn mới. Như vậy đôi giày ấy của hắn là giày dùng trong những dịp long trọng, hắn chỉ dùng trong những lần đến cấp trên. Trước mặt cấp trên đương nhiên là hắn đi nhón gót, vì thế đế giày chỉ mòn phía trước... Hắn có phải là thằng đê tiện không? Tất nhiên là thằng đê tiện... Thứ ba, vừa ngồi xuống hắn lập tức rút ngón chân khỏi giày. Tại sao? Giày bó chân quá, nguyên do là vì vậy. Nhưng hắn đi giày chật để làm gì? Để vẻ mặt nom đau khổ. Ý muốn nói lên rằng: xin hãy nhìn xem tôi là người suy kiệt khổ sở thế này đây. Vậy hắn không phải là kẻ đê tiện thì là gì? Thứ tư, gót giày của hắn cao hơn gót giày thường đến ba, bốn centimet. Tại sao? Vì hắn muốn cao hơn bản thân hắn trong thực tế? Hắn có phải là kẻ đê tiện không? Tất nhiên. Còn gì nữa? Phải, điều quan trọng nhất, nhưng điều này không dính dáng gì đến giày nữa, điều quan trọng nhất là khi bị người ta ụp cả cái bô bệnh viện lên đầu mà hắn lại không cắn đứt cổ họng kẻ làm nhục mình thì hắn là kẻ hèn hạ đê mạt hết mức rồi đó. - Bulika kể xong những đặc điểm về tư cách của Đracveditze.
- Vậy theo bác, giày của một người tốt nom nó thế nào? - Cha Ioram hỏi, không tin những lời luận bàn của Bulika là có thể chấp nhận được.
- Giày của người đứng đắn mòn đều: bên phải, bên trái, bên mép... Và người đó đi giày rộng hơn cỡ chân. Tại sao? Để cho thoải mái, dễ dàng, không cọ sát nhiều thành chai chân... Rõ rồi chứ? Còn điều này nữa: nếu như phần sau giày của một người nào bị nhăn nhúm và hõm vào thì hoặc là người đó đi giày của người khác, hoặc đấy là một kẻ bừa bãi cẩu thả nhơ nhuốc...
- Thế còn trẻ em thì sao? - Batsana thích thú.
- Trẻ em lại là chuyện khác. Trẻ em vận động nhiều xương cốt chưa vững chắc... Xem giày đoán tính nết trẻ con thì khó đấy...
- Thế còn bản thân bác thì sao? Bác làm mòn giày như thế nào? - Cha Ioram đưa ra câu hỏi bất ngờ.
Bulika bối rối.
- Phải, chính bác.
Bulika cúi xuống, lấy dưới gầm giường ra chiếc giày dúm dó, phía sau lõm vào và ngạc nhiên xoay chiếc giày trong tay.
- Hừm, té ra bản thân tôi là một thằng khá đê mạt.
Ông ta làu bàu, giọng bực bội và lẳng chiếc giày vào gầm giường. Batsana và cha Ioram phì cười. Cả Bulika cũng cười xòa.
- Thưa đức cha kính mến. - Batsana bỗng lái sang chuyện khác. - Cha đã từng chiêm bao thấy chúa Kitô bao giờ chưa?
Hàm dưới cha Iôram trễ xuống và mắt của cha trợn ngược lên. Cuối cùng cha nói ngắc ngứ:
- Ông Batsana kính mến... Chuyện như thế không mấy khi có: chiêm bao thấy chúa của chúng ta... Chuyện hiển hiện của chúa thì có... Nhưng cho đến giờ, chúa chưa ban cho tôi cái hạnh phúc như thế...
- Thế cha đã nghe thấy tiếng nói của chúa chưa?
- Đấy cũng là sự hiển hiện của chúa.
- Vậy thì cha phụng thờ cái gì?
- Phụng thờ chính là để được đến gần chúa, được nghe tiếng nói của chúa, được nhìn thấy dung mạo của chúa.
- Nếu thế thì chúng ta phải đổi nghề thôi.
- Sao vậy?
- Cách đây một giờ, tôi đã nhìn thấy chúa.
- Nhìn thấy ai?
- Chúa Kito của các ông.
Giọng cha Ioram run lên:
- Con ơi hãy nhớ đến điều răn: “Chớ nói dối”.
- Ông ấy nói ông ấy đã nhìn thấy. Còn tin hay không là tùy cha thôi. - Bulika chen vào và nháy mắt với Ioram, ý muốn nói: đừng phá ngang, cứ để ông ấy kể.
Batsana im lặng.
- Rồi thế nào nữa? Bulika hỏi, vẻ sốt ruột.
- Chúa làm tôi sống lại, biến tôi thành cơn mưa tưới cho một sa mạc chết trở nên tươi tốt. Rồi tôi biến thành một cây sồi hùng vĩ, nở hoa, xanh tươi trong một ốc đảo, và chim chóc hót lên bài ca vĩ đại ca ngợi vẻ đẹp của cuộc sống...
- Lạy chúa tôi. Vị chúa tể ngự trên thượng giới.
- Tôi cũng suýt thốt lên những lời như thế khi chính mắt tôi đã nhìn thấy tất cả những cái đó.
- Ông đã thấy rồi mà còn hồ nghi ư? Một Tôma đa nghi. - Cha Ioram nhỏm dậy trong giường.
- Trong chiêm bao tôi đã sụp xuống dưới chân Chúa... Nhưng khi tỉnh dậy, tôi nhìn thấy cha và Bulika thì thú thực là tôi đâm ra hoài nghi...
- Chẳng lẽ ông không cảm thấy là ông đã được hưởng một vinh hạnh cao cả ư? - Cha Ioram thậm chí tái mặt đi vì xúc động.
- Cha ạ, tôn giáo của các ngài thần bí quá, tách rời cuộc sống, không thực tế... Giá như sau giấc chiêm bao của tôi mà còn lại một cái gì thực, sờ mó được...
- Một kẻ có tội. Chúa đã cho ông sống lại, còn gì thực hơn nữa ư?
- Tôi không thấy mục đích sự sống lại của tôi. Chẳng lẽ tôi trở lại cuộc sống chỉ để ngày mai mọi sự lại lặp lại từ đầu ư? Để rồi mai này lại phải chết ư? Thì cái chết là không tránh khỏi kia mà?
- Nhưng thời gian. - Cha Ioram kêu lên.
- Thời gian gì kia? - Batsana không hiểu.
- Thời gian sống, tuổi thọ. Chúa đã kéo dài thời gian sống của ông.
- Đằng nào cũng thế thôi, tôi chết hôm nay hay ngày mai thì có nghĩa lý gì?
- Đối với ông thì đằng nào cũng thế thôi, nhưng đối với người khác thì không phải thế.
- Đối với ai kia?
- Đối với những người mà cuộc sống phụ thuộc vào ông.
- Điều đó chẳng có ý nghĩa gì... Nhiều người chết từ lúc còn non trẻ, nhưng cuộc sống trên trái đất vẫn tiếp tục...
- Ông nói mới lạ chứ. Điều đó mà lại không có ý nghĩa gì. - Cha Ioram phẫn nộ. - Thế nếu như Ruxtaveli chết từ lúc còn trong nôi thì sao?
- Sẽ có một người khác ra đời.
- Khi nào?
- Vào một lúc nào đó.
- Ấy thế! Vào một lúc nào đó. Nhưng phải bao lâu cho đến lúc ấy? Ông có tưởng tượng được xã hội từ thời Ruxtaveli cho đến ngày nay sẽ như thế nào nếu không có thiên tài của con người ấy không?
- Có sao đâu, đã có thời không có Ruxtaveli, vậy mà vẫn cứ được, người ta vẫn sống...
- Người ta sống không có chúa trong lòng... - Cha Iôram uống sữa trong cái bình nhỏ, nhấp cho dịu lại cái cổ họng đã khan lại. - “Thời gian là thượng đế”. Ông nên hiểu điều đó. Người cộng sản các ông không tin chúa vì không biết giá trị của thời gian. Các ông phí phạm thời gian. Hãy sùng kính thời gian, quý trọng thời gian. Nếu các ông quyết tạo nên một tín ngưỡng mới, một tôn giáo mới thì hãy bắt đầu từ thời gian. Không thì các ông sẽ không có được thành công nào cả, bởi vì, tôi nhắc lại: Chúa trời, đó là thời gian.
- Nhưng người ta vẫn nói Chúa tức là Lời!
- Lời nói, việc làm và thời gian là ba ngôi gắn với nhau thành một thể thống nhất không thể phân chia được! -  Cha Iôram nói với vẻ thành kính.
- Nếu thế thì chúng tôi tán thành, cha ạ. Chúng tôi quý trọng cả thời gian, cả việc làm, cả lời nói. Thêm nữa, sự quý trọng của chúng tôi đối với những cái đó tuyệt nhiên không thua kém gì sự quý trọng của nhà thờ.
- Trên đời chưa từng bao giờ có lắm công việc bị hoãn lại và lắm người thích trì hoãn công việc như ở phía các ông. - Cha Iôram cười phá lên.
- Ồ không, thưa cha, xin cho phép được bày tỏ sự bất đồng với cha. - Batsana bác lại. - Trì hoãn công việc không phải là đường hướng của chúng tôi. Chính Chúa trời hứa hẹn cho con người được lên thiên đường vào lúc nào? Sau khi chết. Cha quên rồi sao?
- Thiên đường ở thế giới bên kia, con người phải giành lấy bằng cuộc đời công chính của mình. Còn cách nào khác được nữa?
- Tất nhiên, cái mà con người giành được bằng lao động và mồ hôi của mình thì các ngài gọi là ân huệ của chúa... Như thế không công bằng, thưa cha. Tôn giáo của cha đòi hỏi ở con người sự hi sinh quá lớn.
- Ông thật là tội lỗi, thật là tội lỗi, ông Batsana kính mến. - Cha Iôram phật ý. - Quy pháp nền tảng của đạo chúng tôi là hiến dâng chứ không phải là thu nhận, là phụng sự chứ không phải là cai trị.
- Những lời hay ho, thưa cha, và chỉ thế thôi... Xin cha nhớ lại: sự ngu dốt, thói cuồng tín tôn giáo, bệnh giáo điều, những cuộc viễn chinh thập tự, tòa án tôn giáo... Và tất cả những cái đó đều nhân danh Chúa, để làm sáng danh Chúa...
- Tôi không chứng minh rằng đạo của chúng tôi đã đạt đến mức hoàn hảo... - Cha Ioram ngập ngừng.
- Hoan hô đức cha. - Batsana cả cười. - Lần đầu tiên tôi được nghe những lời như thế từ miệng một người tu hành. Trong giới chức của cha, cái nhận định như thế gọi là gì? Thiên tả hay thiên hữu?
- Trong đạo thiên chúa không có những khuynh hướng thiên về bên nào, cũng không có trung tâm. Chỉ có thiên đình. - Cha Iôram nói bằng giọng răn dạy và ngước mắt nhìn lên trần nhà.
- Nó ở đâu, cái thiên đình ấy? - Batsana hỏi và bất giác cũng nhìn lên trên.
- Thiên đình, đó là ánh sáng. Khi con người đi vào vương quốc của ánh sáng, người đó khắc phục được mọi sự hạn chế và có được tự do. Nhưng điều đó sẽ đến cùng với sự hoàn thiện tâm hồn con người, vì thế cái chết làm cho con người đến gần Chúa. - Cha Iôram chắp hai tay trước ngực như lúc cầu nguyện.
- Thế khi người ta khiêng cha đến đây, toàn thân tím ngắt, dở sống dở chết, cha có nhớ lúc ấy cha cầu xin ai cứu giúp không? Cầu khấn các bác sĩ, chứ không phải chúa trời. - Bulika xen vào.
- Sợ chết tức là sợ đến gần Chúa. - Cha Ioram thốt lên, không nhìn Bulika.
- Cha ngụy biện rồi, thưa cha. Cõ lẽ cả cái bệnh nhồi máu của cha cũng do nỗi sợ ấy sinh ra chăng? - Bulika nháy mắt với Batsana.
Ông thầy tu ném lên Bulika một cái nhìn hằn học:
- Con người bất hạnh kia ơi, đạo của bác mở đầu trong dạ dày và kết thúc ở nhà tiêu. Kẻ tội lỗi như bác thì ngay đến địa ngục nó cũng không chịu chứa chấp đâu.
- Tất nhiên là như thế, nếu như tôi đến đấy với sự giới thiệu của cha! Nhưng tôi xin nhường cha tất cả: cả địa ngục, cả thiên đường. Tôi muốn thấy chủ nghĩa cộng sản. Đấy là thiên đường của các ông, phải không, ông Batsana? Thực ra tôi là người ngoài đảng, nhưng tôi hy vọng vào sự che chở của các ông...
- Xin mời bác Bulika! -  Batsana mời người thợ giày vào xã hội cộng sản. -  Chúng tôi là những người tốt bụng, chúng tôi sẽ chấp nhận không chỉ riêng bác, mà cả cha Ioram nữa.
- Xin mời hai ông cứ bước vào cái thế giới mô phỏng thiên đường ấy. - Cha đạo khước từ lời mời. - Còn tôi sẽ chờ theo ý Chúa... Cái thiên đình của các ông trần tục quá... Tôi muốn biết các ông sẽ làm gì sau khi đến được chính cái xã hội cộng sản đó.
- Hãy đến đó đã, rồi sau sẽ rõ.
- Ngộ nhớ sẽ thấy chẳng có gì cả thì sao? - Cha Iôram hỏi, không phải không có phần cay độc.
- Thưa cha Iôram kính mến, đạo của cha được bao nhiêu tuổi rồi. - Batsana trả lời bằng một câu hỏi lại.
- Hai nghìn tuổi! - Tiếng ông cha đạo nghe đầy tự hào.
Batsana phá lên cười một cách thành thật.
- Còn đạo của chúng tôi chưa đầy một trăm tuổi... Vậy mà số tín đồ của nó thì đạo các ông không sao mơ tưởng được. Các ông, những người hai nghìn tuổi, hiện đang ganh đua với chúng tôi, những thanh niên một trăm tuổi ư? Phải biết xấu hổ chứ? Xin hãy kiên nhẫn, khi nào chúng tôi được hai nghìn tuổi thì các ông hãy từ trên thượng đỉnh của các ông mà nhìn xuống chúng tôi. Khi ấy chúng ta sẽ phân xử xem trong chúng ta ai vượt lên cao hơn.
- Khó lòng tranh cãi được với những người không tin cái gì trên đời. - Cha Ioram quay mặt vào tường.
- Đạo của cha đem lại cho nhân dân cái gì? - Batsana không chịu thôi.
- Món ăn tinh thần. - Cha Iôram đáp, không quay lại. - Thế còn đạo của các ông?
- Đạo của chúng tôi đem lại cả món ăn tinh thần và món ăn vật chất. Con người đang đi đến thiên đỉnh cần cả bánh mì, pho mát, bơ, khoai, cà chua và thịt. Phải không nào?
- Thế thịt đâu nào? - Cha Iôram lập tức quay mặt về phía Batsana.
- Như thế không phải là tranh luận, cha ạ... Hôm nay chưa có thì ngày mai sẽ có.
- Xin nói thêm là đạo chúng tôi không cấm người ta ăn thịt, cũng không cấm sản xuất thịt. Nói ra thì hơi phiền, nhưng... trước kia có nhiều thịt hơn bây giờ...
- Trước kia trên trái đất có nửa tỉ người, còn bây giờ ngót ngét bốn tỉ.
- Ờ đúng... chúng ta bỏ thói ăn thịt người sớm quá. - Bulika từ nãy vẫn im lặng lại lên tiếng. - Giá như bây giờ bớt người đi mà thịt ăn thừa thãi thì hay!
- Đó, đạo của các ông làm cho con người trở nên trâng tráo như thế đấy. - Cha Iôram giơ tay trỏ vào Bulika. Ông thợ giày toan trả lời, thậm chí đã hé miệng ra, nhưng tiếng nói tắc trong họng: từ dưới gầm giường ông ta, một con chuột cống bò ra, dẫn theo cả gia đình nó và ngồi chổm hổm ở giữa phòng bệnh.
- Nhân ngôn diệt chuột tốt thế đấy. - Bulika phá tan sự yên lặng.
Nhìn thấy con chuột, Batsana không có cảm giác ghê tởm, mà lại đâm ra tò mò. Con chuột lần lượt đi vòng qua cả ba chiếc tủ con, như tìm kiếm cái gì, rồi chẳng tìm thấy gì, nó quan sát từng người trong ba bệnh nhân. Nhưng khi Bulika ném cho nó miếng đường, nó thậm chí không buồn ngó ngàng gì đến.
- Tôi không hiểu thế là thế nào. -  Cha Iôram hỏi. - Hoặc là nó đã ăn sáng no căng, hoặc là nó quyết tuyệt thực.
- Phải gọi Giênya thôi. Bảo chị ta lôi cái tay nhân viên khử trùng ngu thộn ấy đến đây cho hắn thấy rõ là có những con lợn con như thế nào vẫn hoành hành ở đây. - Bulika đề nghị.
Con chuột lại đi vòng qua mấy chiếc tủ con, rồi trở lại với chồng con, ngọ nguậy hai chân trước và rỉa một cách kỳ cục, thông báo cái gì cho gia đình. Con chồng và hai con con chăm chú nghe, rồi chuột mẹ dẫn hai con chui vào gầm giường Bulika, rõ ràng là nó đua con qua khe hở về nhà và trở lại với chồng. Giữa hai vợ chồng diễn ra cuộc trò chuyện sôi nổi.
- Cảnh sinh hoạt gia đình. Không nên để trẻ con có mặt. - Bulika xác nhận.
Bỗng nhiên con chuột cái hoảng hốt nhảy vội sang một bên, cắm đầu chạy vòng quanh như điên trong phòng bệnh. Rồi nó trở lại chỗ con đực, thở hồng hộc, dừng lại và ngây ra như hóa đá trước con đực. Bây giờ đến lượt con đực bắt đầu nhảy điệu vũ man rợ. Lát sau, nó chạy tới gần con cái và đờ ra, nhìn chằm chằm vào vợ. Thế là cả hai con chuột không nhúc nhích, dừng lại trước mặt nhau hồi lâu. Một linh cảm rùng rợn tràn ngập tâm hồn Batsana, tim ông đập loạn nhịp... Từ dưới gầm giường, hai con chuột con bò ra. Chúng chạy tới gần bố mẹ, nhưng bố mẹ dường như không nhận thấy chúng. Thế là hai chuột con rúc mõm vào bố mẹ. Bố mẹ chúng không nhúc nhích. Hai chuột con dùng chân khi thì lay bố, khi thì lay mẹ. Bỗng nhiên, tất cả mấy con chuột đều rời khỏi chỗ, bắt đầu chạy vòng quanh khắp phòng, xô vào tủ, vào tường, xô vào nhau, ngã xuống, rồi lại chồm lên.
- Chúng làm sao vậy? Hóa dại chắc? - Cha Ioram làm dấu chữ thập. - Bulika, xin vì chúa, gọi Giênya đi.
Nhưng Bulika tái xanh tái xám, ngồi trên giường và sững sờ nhìn điệu vũ man rợ của mấy con chuột.
- Đấy là do nhân ngôn... Chúng ăn phải nhân ngôn và bây giờ tìm nước uống. Nhưng nước chỉ làm chúng mau chết. - Batsana nói.
- Thế sữa có được không? - Cha Ioram hỏi, giọng run lên.
- Cho nó sữa đi, thưa cha. - Batsana yêu cầu.
Hai tay run run, cha Ioram rót sữa vào cái đĩa sâu lòng và đặt xuống sàn. Nhưng muộn rồi. Mấy con chuột đã hóa dại không còn nhận thấy gì nữa.
- Lạ thật, chuột con trụ vững hơn. - Batsana nói, và liền đó, như để bác bỏ lời ông, một chuột con nằm vật ngửa ra, bốn chân chổng ngược. Lát sau, con thứ hai cũng gục nốt.
- Tôi không lòng nào nhìn chúng được. - Bulika rên rỉ và đặt một viên nitoroglyxerin vào dưới lưỡi, hai tay bưng mặt.
- Lạy chúa rủ lòng thương. - Cha Iôram buột miệng thốt lên.
Cảm thấy có điều chẳng lành, hai con chuột lớn mở mắt, loạng choạng tới gần xác lũ con và khuỵu gối xuống.
- Giênya. - Batsana gào lên và bất giác nhỏm dậy trên giường. Hai con chuột lớn ngước đầu lên và Batsana thấy trong những cặp mắt hạt cườm đen láy của chúng bao nhiêu là đau đớn, ngạc nhiên và thất vọng đến nỗi tim ông nhức nhối và lạnh giá.
- Giênya. - Ông lại gào lên và ngã lưng xuống chiếc gối.
- Batsana kính mến. Batsana. Con tôi ơi. - Cha Iôram nhấp nhổm trên giường. - Bulika. Xem kìa, ông ấy làm sao rồi.
Nhưng Bulika nằm vùi đầu vào chiếc gối và không nghe thấy gì.
- Này, ai đấy. Giúp chúng tôi với. - Cha Iôram gào rú và cố đứng lên, nhưng một cơn đau ghê gớm xuyên thấu qua tim khiến ông già đổ vật xuống...
Phòng bệnh trở nên im lặng như tờ. Những con chuột đã tắt thở nằm lăn trên sàn, thần chết náu hình bên giường những con người còn thoi thóp thở và giương mắt hau háu rình linh hồn họ.
Không ai nghe thấy tiếng cửa bật mở và chị y sĩ Giênya cùng với bác sĩ hoảng hốt chạy xộc vào.
- Thế nào, bây giờ các ông yên tâm rồi chứ? - Thấy những con chuột chết, Giênya nói. Liền đó vang lên tiếng kêu lo lắng của bác sĩ:
- Pantôpôn. Nhanh lên. Cho cả ba người.

Chương 8


Laxa Baxilya bắt gặp Tamara ở ga Ôzurgêti [26]. Cô gái ngủ trên chiếc ghế băng, đầu gối lên cái túi xách tay nhỏ. Cảm thấy luồng mắt chăm chú nhìn mình, cô thức giấc. Cô gái có cặp mắt xanh to của người đói ăn, mặt trắng như vải, đôi môi đỏ mọng xinh tươi, tóc vàng như rơm xõa xuống bộ ngực tròn căng. Cô bật dậy. Laxa đưa mắt nhìn cái dáng cân đối con nhà nòi của cô và ngây ra...
... Từ khi ở nhà ăn của Laxa Baxilya xuất hiện cô nhân viên phục vụ mới, số khách ăn tăng gấp ba. Tất cả đàn ông trong làng bắt đầu tụ họp ở đây. Họ ngồi, bông phèng, uống không biết cơ man nào là “idaben” chua [27]. Các bà vợ và các bậc cha mẹ phải khó khăn lắm mới lôi được các gã đàn ông đã trở nên mê muội rời khỏi ghế.
- Tamara tiên nữ ơi, cho thêm mười chai nữa!
- Tamara, ai đã ban cho em cái nhan sắc dường ấy, quỷ tha ma bắt cô em đi!
- Trả tiền thừa làm quái gì, chỉ riêng một cái nhìn của em cũng đáng giá một triệu đồng rồi.
- Tamara, mỉm cười đi cái nào, rồi em có dùng con dao của Laxaiia [28] cắt cổ tôi, tôi cũng vui lòng.
- Laxaiia, hôn chân cô gái đi, không có cô ấy thì anh sẽ sạt nghiệp với cái nhà ăn hôi hám của anh!
- Anh thật may mắn, Laxaiia ạ! Bây giờ anh có bán thịt chó cũng vẫn cứ chạy.
- Hôn tôi đi, Tamara, rồi em có ném tôi, xuống sông Xupxa cũng được!
- Xem, đùi thế mới là đùi chứ!
- Sao mãi đến giờ vẫn chưa ai bắt cóc cô ta nhỉ?!
- Ngay tắp lự!
- Tôi không biết, anh ạ!
- Một triệu nhiều quá đấy! Làm gì đến ngần ấy tiền?
- Vợ anh xinh hơn tôi, anh bạn ạ!
- Khi nào anh tỉnh rượu thì tôi sẽ hôn!
- Tôi yêu người khác, anh bạn thân mến ạ!
- Tay! Bỏ tay ra! Laxa, bắt anh chàng say rượu này thôi đi chứ!
- Laxa, đến giờ rồi, đóng cửa hàng thôi!
Và ngày nào cũng thế...
Batsana vào nhà ăn, ngồi bên chiếc bàn con trong góc nhà. Bên ngoài, hơi nước bốc ngùn ngụt trên mặt đất bị hun nóng, trong nhà ăn, sàn nhà mới rửa tỏa hơi mát dễ chịu, Laxaiia ở dưới bếp, làm phép phù thủy bên cái nồi đang sôi. Tamara đứng bên quầy bán món ăn, quay lưng về phía Batsana, lau lại những chiếc cốc.
Còn sớm lắm, lúc này nhà ăn vắng tanh. Khách thường đến đông vào quá trưa. Batsana biết thế, nên đến đây vào quãng thời gian trái khoáy như thế này. Chờ một lát, Batsana rụt rè hắng giọng, Tamara quay nhìn lại. Tim Batsana giật nảy lên. Anh cúi xuống và ho mấy tiếng: bây giờ là vì hồi hộp. Tamara lấy trên quầy một cái đĩa, con dao, dĩa và tới gần Batsana. Batsana chỉ nhìn thấy những ngón tay cô: ngón tay dài, đẹp, hơi đỏ và tấy lên vì hơi nước sôi. Cô đặt cái đĩa xuống bàn, ngạc nhiên ngắm nhìn khách. Lần đầu tiên cô thấy anh ta.
- Anh gọi món gì? - Cô hỏi.
Batsana ngẩng đầu lên.
- Bánh mì! - Anh khẽ nói, khó nhọc nuốt nước miếng.
- Chỉ thế thôi ư?
- Pho mát nữa.
- Thế còn thịt?
- Không.
- Rượu vang?
- Không, mai tôi thi.
- Thi gì?
- Vật lý.
- Cậu học lớp mấy?
- Sắp tốt nghiệp
- À... Không muốn dùng các món ăn ư?
- Không đủ tiền! - Batsana đỏ mặt.
Tamara bỏ đi. Lát sau cô trở lại, bưng cái khay. Cô đặt trước mặt Batsana bánh mì, phó mát, một đĩa thức ăn và một cốc rượu vang.
- Một cốc thôi thì được! - Cô mỉm cười và ngồi xuống trước mặt Batsana. - Tên cậu là gì?
- Batsana.
- Họ?
- Ramisvili.
- Còn tên tôi là Tamara.
- Tôi biết! - Batsana cầm cốc lên.
- Tại sao cho đến giờ tôi chưa thấy cậu lần nào?
Batsana bối rối. Anh nhấp một ngụm rượu vang, như muốn dồn trái tim đã mắc nghẽn ở cổ họng trôi về chỗ cũ.
- Ở tuổi tôi không ai đến nhà ăn.
- Tại sao hôm nay cậu đến?
- Tôi đói ngấu, vì thế tôi đến. - Batsana nhấp thêm ngụm nữa.
- Chua không? - Tamara nheo mũi một cách ngộ nghĩnh.
- Chúc sức khỏe cô! - Batsana uống cạn cốc. - Xin tính tiền cho.
- Thi xong môn vật lý đã, rồi tôi sẽ tính tiền!
- Tamara! - Tiếng gọi từ dưới bếp.
- Em xuống đây, Laxa! - Tamara nói to. - Tôi trở lại ngay đấy. - Cô nói với Batsana và chạy đi.
Lúc trở lại, Tamara châng hẩng, Batsana không còn ở nhà ăn nữa. Mọi thứ trên bàn còn nguyên.
* * *
- Chào cậu! - Tamara nói, ngồi xuống bên bàn.
- Chào cô! - Batsana đáp.
- Thi xong rồi chứ?
- Xong rồi.
- Thế nào?
- Điểm ba, - Batsana mỉm cười gượng gạo. - Ấy là vì kính nể ông tôi là Lômkatsê thì mới được như thế đấy. - Cậu lấy trong túi ra tờ năm rúp và đặt lên bàn. - Xin gửi tiền bữa ăn hôm qua.
Tamara thậm chí không buồn nhìn đến tiền.
- Còn mấy môn thi nữa?
- Tamara! Hơi đâu mà mất thời giờ với thằng bé miệng còn hơi sữa ấy! Lại đây. - Đutu Tsentêratzê gọi to. Gã cùng với bốn tay bạn rượu ngồi bên chiếc bàn ở một góc xa và đã ngà ngà say.
Tamara không để ý đến gã.
- Còn mấy môn thi nữa?
- Một.
- Bao giờ?
- Ngày kia.
- Ngày kia đến đây.
- Cả ngày mai tôi cũng đến.
- Cứ đến đi. Đem gì ra cho cậu bây giờ?
- Tamara-a! Thằng bé mới rời vú mẹ thôi, vậy mà cô không thể dứt khỏi thứ nhãi ranh ấy ư? - Đutu lại quát to.
Tamara đến chỗ gã.
- Ông muốn gì?
- Còn muốn gì hơn sắc đẹp của em nữa? Ở đây với chúng tôi!
- Tôi không có thời giờ! Cần gì cứ nói đi.
- Cho thêm mười chai nữa và đến ngồi cạnh tôi! Tôi muốn uống mừng sức khỏe em! - Đutu chộp lấy tay Tamara. Cô giật ra và đến quầy hàng.
- Laxa, cho mười chai rượu vang.
Laxa lấy mấy chai rượu, Đutu đến gần quầy. Mắt gã long lên, mọi người cảm thấy gã say lắm rồi.
Đutu Tsentêratzê là công an. Người thấp lùn, vai rộng, tay dài, súng lục để trong hộp mở nắp, gã vênh váo dương dương tự đắc. Tới quầy, gã ôm lấy Tamara.
- Buông cô ấy ra và trở lại bàn của anh đi, Đituia! - Laxa cau có.
- Cô ấy không phản đối, can gì anh tức mướn hờn vay? - Đutu cự lại và vơ lấy sáu chai rượu như vơ những món đồ chơi, rồi trở về chỗ. - Đưa rượu cho khách mới chính là nhiệm vụ của anh! - Gã quát lên với Laxa. - Ta mà thấy kẻ nào bám cô ấy thì đừng có trách ta! Ta sẽ tự tay đặt quan tài kẻ đó ở sân nhà thờ thiên sứ Gavrila! Nói cho mà biết! - Đutu nói thật to cho mọi người nghe thấy.
Tamara mang đến bốn chai nữa. Đutu dùng sức mạnh kéo cô ngồi cạnh mình.
- Ngồi đây, cô em, tôi muốn uống mừng sức khỏe em! - Đutu cầm cốc đứng lên và quay về phía Laxa. - Laxaiia Baxilya! Bắt mỹ nhân này rửa bát đĩa mà anh không biết xấu hổ sao? Hãy nhường Tamara cho tôi, tôi sẽ đưa nàng lên ngự ngai vàng, nàng sẽ giống như vương hậu Tamara!
- Ngai vàng nào vậy? Falikô vợ anh đang ngự trên một ngai vàng đấy thôi?... Nên nghĩ đến công việc thì hơn, anh chàng trai lơ ạ! Sân không có lấy một cái cọc rào, một cái cây! [29] đêm đến gà không có chỗ nào đậu! Thế mà cũng đòi làm hiệp sĩ.
Trong nhà ăn rộ lên tiếng cười.
- Laxaiia, thu ngắn lưỡi lại, kẻo ta sơ ý giẫm lên thì rầy! - Đutu răn đe, đặt tay lên khẩu súng lục.
Batsana đứng lên đi ra cửa.
- Đứng lại, ê, gã trai! - Đutu gọi. - Chú mày cứ lởn vởn ở đây làm gì vậy? Thử nhìn quanh đây xem có ai cùng lứa tuổi với chú mày không?
- Tôi đến ăn chứ sao, - Batsana điềm tĩnh trả lời.
- Ta biết chú mày đến đây vì mục đích gì! Này, cầm lấy đi, rồi cuốn gói về nhà! - Đutu đưa cho Batsana cốc rượu vang và cái đùi gà luộc.
Batsana đến gần bàn, cầm lấy cốc rượu vang và thịt từ tay Đutu và đặt xuống bàn!
- Tôi không uống.
- Thế thì đi đi!
- Tôi đi hay không, không phải là việc của anh! - Má Batsana đỏ bừng lên.
Đutu đưa tay véo tai Batsana, nhưng Batsana nhanh nhẹn né tránh và tay Đutu lơ lửng trong khoảng không.
- Anh say rồi, Tsentêratzê! - Batsana nói đốp vào mặt gã công an và đi ra cửa.
- Con chó nhà nào vậy nhỉ? - Đutu chưng hửng, hỏi.
- Cháu Lômkatsa Ramisvili đấy! - Usaghi Kalanđatzê ngồi cạnh gã trả lời. Đutu bậm môi. - Manutsar Kicvatzê đâu như bị hạ thủ bởi chính tay hắn đấy, mà chính vì diệt trừ được tên đó mà thủ trưởng của anh được tặng huân chương... Vì vậy hãy để hắn yên... - Kalanđatzê thì thầm vào tai Đutu.
- Láo toét, - Đutu khẽ rít lên. - Chính ta tham gia cuộc tác chiến đó! - Mặt Tsentêratzê đỏ tía lên. - Nó là con rắn con và con trai một tên Trôtkit!
- Nhưng thằng bé có lỗi gì với anh mới được chứ? Thì nó đến nhà ăn, thậm chí không ăn gì hết, nó đi con đường của nó... không thể thế được, Đutu... Mất trí vì một ả đàn bà... - Afanaxi Lôrya nói bằng giọng bất bình.
- Ai là một ả? Thằng chó đẻ kia?! Không phải là một cô ả, mà là nữ thần! Hãy quỳ trước nữ thần và cầu nguyện đi! - Đutu vung cánh tay gấu đập vào vai Afanaxi. Afanaxi lặng người đi. Trong nhà ăn chợt trở nên yên lặng, căng thẳng.
- Đituia, anh trúng số công trái được Tamara đấy chắc? Hãy để cho cô ấy được tùy ý, phải cho chúng tôi ngắm cô ấy với chứ! - Mamuka Iasvili cố làm dịu tình thế.
- Hôm nay ta tha thứ cho thói ba hoa của mi, từ mai mi đừng có đặt chân đến nhà ăn này nữa nhé! - Tsentêratzê hăm dọa anh ta.
- Anh yêng hùng như thế thì nên vào quân đội đi! - Mamuka vừa cười vừa đáp lại. - Có thể anh sẽ làm cho Hitle kiêng chúng ta đấy!
- Vậy thì ai sẽ là người duy trì trật tự ở đây? Ai sẽ theo dõi những kẻ đào ngũ như ngươi?
- Ta là kẻ đào ngũ ấy à?! Cho đến giờ trong ngực ta vẫn còn mảnh đạn nặng một ký đây này! - Mamuka phanh áo sơ mi. - Mi mà dám gọi ta là kẻ đào ngũ ư?! Cái mặt mi mà lại định duy trì trật tự ở đây ư? Cái thằng ăn bơ làm biếng và tên đào ngũ số một kia?! - Mamuka vơ lấy cái chai trên bàn và xông vào Tsentêratzê.
Gã rút súng ra.
Batsana rời khỏi nhà ăn.
* * *
Đã ba tháng qua kể từ ngày Tamara xuất hiện ở nhà ăn, trong làng dậy lên lời ong tiếng ve. Như những con cú mùa xuân, chúng bay tới từng mảnh sân và từng nhà. Ở khắp nơi, tại các đông điền chè, trên cánh đồng, các khu vườn, vườn rau, ngoài chợ, trong văn phòng, ở nhà tắm, hiệu cắt tóc, thư viện, đâu đâu cũng toàn những chuyện cợt nhả và chuyện ngồi lê đôi mách về cô nhân viên phục vụ trẻ tuổi ở nhà ăn.
- Này, cách đây hai ngày, vì con bé yêu quái đó mà Manuka Iasvili và Đutuia Tsentêratzê suýt cắt cổ nhau ở nhà ăn đấy...
- Nghe nói gã Đutuia vô công rồi nghề đánh vợ và đuổi vợ về Mêlêkêduri ở với bố.
- Laxaia đã tìm được một ả phù thủy, trời đánh thánh vật hắn! Nghe nói ả mang bầu với hắn... Hãy xem ả xồ người ra như thế nào...
- Không phải là với hắn, mà với gã công an Đutuia...
- Ả lại còn liếc mắt đưa tình cả với Mamuka Iasvili nữa chứ, bời vậy Đaretgian vợ gã đã cho ả cái tát!...
- Con quái này chẳng khác gì Hitle! Làm rối loạn cả xã...
- Chẳng lẽ trên đời chỉ có con đấy thôi ư?
- Có lẽ vậy thật đấy! Nghe đồn Tornikê Kintsurasvili cầm dao xông vào đâm Anđaliôn Gơvalatzê...
- Thế còn tay công an Đutuia, mắt gã để đâu?
- Chính Đutuia cũng nhân tình nhân ngãi với ả.
- Nói gì đến Đutuia, cả gã trai ấy cũng bị ả làm cho mê mẩn...
- Lại còn gã trai nào nữa?
- Cháu Lômkatsa Ramisvili, Batsana... Chỉ riêng chuyện ấy cũng đáng tống ả vào tù: tội mưu toan rủ rê con trai vị thành niên vào con đường trụy lạc. Ba ngày nay tôi thấy thằng bé ở nhà ăn: mắt nó như mắt người điên...
* * *
Tamara ở trọ nhà Dôxim Khintibitzê. Cô ở căn buồng nhỏ xíu đầu trái, có một cửa sổ trong ra đường làng.
Cả làng đã ngủ yên. Batsana khẽ gõ ngón tay vào cửa sổ. Lát sau, ở cửa sổ hiện ra khuôn mặt sợ hãi của Tamara. Thấy Batsana, mặt cô thoáng lộ vẻ trách móc. Cô cắn môi, vung hai tay lên rồi thận trọng hé mở cửa sổ và thì thầm hỏi Batsana đang bối rối:
- Cả anh cũng thế ư, anh bạn?
- Cho tôi vào một lát! - Batsana van vỉ.
- Cả anh mà cũng làm khổ tôi ư? - Giọng Tamara run lên.
- Cho tôi vào! - Batsana nhắc lại.
- Đừng giây vào những việc nhơ bẩn, Batsana! Về nhà đi! Anh cần gì ở tôi? Anh gây tai tiếng nhục nhã cho tôi để làm gì? Tôi có lỗi gì với anh? Đủ rồi... Để tôi yên... - Tamara òa khóc.
Batsana trèo qua cửa sổ vào buồng, đi vòng qua Tamara và đến ngồi bên bàn. Cô gái thắp ngọn đèn dầu và cũng đến ngồi đối diện với Batsana.
- Anh cần gì? - Cô hỏi bằng giọng thảm thiết.
Batsana lặng thinh.
- Anh đến làm gì?
- Những điều trong làng xã người ta nói về cô có thật hay không? - Batsana hỏi, tay run run bứt cái hoa đèn.
- Họ nói gì. - Tamara thở dài.
- Nói linh tinh... những chuyện không hay...
- Cả anh cũng tin ư?
Batsana nhún vai.
- Tôi đến để...
- Để làm gì?...
- Để...
- Thôi đừng nói nữa!... Trong cả xã chỉ có anh là người tôi coi là trong trắng! Đừng nói gì hết!
Batsana nuốt nước mắt và bỗng nói luôn:
- Mặc áo vào!
- Cái gì?
- Mặc chỉnh tề vào và đi với tôi!
- Đi đâu?
- Tôi không biết...
- Tôi sẽ đi đâu bây giờ?
- Cô phải bỏ làng này ra đi!
- Để mang theo tai tiếng nhục nhã ư?
- Cô phải ra đi! Tất cả bọn họ chỉ thấy cô là một người đàn bà, còn tôi...
- Còn anh?
- Tôi bảo cô ăn vận chỉnh tề vào! Thu nhặt xống áo, còn gì thu cho hết và chúng ta đi! - Tiếng Batsana sang sảng như tiếng chuông và thiết tha đến nỗi anh không nhận ra tiếng mình nữa.
Tamara đứng phắt dậy, nhanh nhẹn lấy chiếc vali dưới giường ra và nhét bừa tất cả đồ dùng của mình vào đó.
Còn Batsana ra ban công và gõ liên hồi vào cửa buồng Dôxim.
- Ai đấy? - Giọng nói ngái ngủ của Dôxim.
- Batsana, cháu của Lômkatsa Ramisvili!
- Nhầm cửa rồi, anh bạn trẻ ạ!
- Không, bác Dôxim ạ, cháu không nhầm. Xin các bác ra đây, bác và bác gái Marô!
- Nếu chú mày say thì về nhà đi! - Dôxim cáu.
- Không, cháu không say! Xin các bác ra đây một lát! - Batsana nài.
Cửa mở ra, Dôxim xuất hiện, chỉ mặc đồ lót, Marô đứng sau lưng chồng, vẻ sợ hãi.
- Cháu sẽ đưa Tamara đi khỏi đây, bác Dôxim ạ, và cháu muốn bác và bác Marô biết cho điều đó...
- Cứ việc đưa đi... Vì việc ấy mà cháu đánh thức ta dậy ư? Cô ấy không nợ gì ta, tiền thuê buồng đã trả trước, thành thử...
- Bác Dôxim, bác có lần nào thấy Mamuka Iasvili, hay Đutuia Tsentêratzê hay Laxaia Baxili hay Tornikê Kuntsurasvili từ buồng cô ấy đi ra không?
- Sao cháu lại tra hỏi ta, anh bạn? Ta là người canh giữ cô ta chắc?
- Không phải vậy, bác Dôxim ạ, bác là người đứng đắn! Bác nói thật với cháu đi!
Dôxim ngập ngừng, gãi gáy.
- Ta sẽ không nói đâu, con ạ... Ta không hề thấy ai từ buồng cô ấy đi ra!... Ba lần Đutuia Tsentêratzê mò đến, say khướt, xông vào cửa buồng cô ấy, nhưng cô ấy không cho hắn vào... Hai lần Tornikê Kuntsurasvili tới, cũng ngà ngà say, và đều công cốc ra về... Cháu là người đầu tiên ta thấy ở trong buồng cô ấy ban đêm... - Dôxim nhìn vào mặt Tamara, cô đứng đấy, tay xách chiếc vali.
- Vì cớ gì thiên hạ bêu diếu cô ấy? - Batsana hỏi.
- Chưa từng có ai nghe thấy vợ chồng bác nói điều gì không hay về cô ấy, con ạ! - Marô tiến ra phía trước. - Chúng ta luôn nói tốt là đằng khác, nhưng có ai tin đâu?
- Ta đi thôi! - Batsana cầm chiếc vali ở tay Tamara.
- Đêm hôm con đưa cô ấy đi đâu? Nên chờ đến sáng, ta sẽ sửa soạn chu đáo cho hai con lên đường - Marô săn đón.
- Ngoài những điều các bác đã nói, cô ấy không cần gì nữa!...- Batsana đáp. - Chào các bác, cám ơn hai bác! - Anh nói thêm.
- Ông cháu có biết việc cháu làm lúc này không? - Dôxim hỏi, lúc anh đã ở sân.
- Biết ạ! - Batsana trả lời ngắn gọn và cầm tay Tamara - Ta đi đi!
* * *
Hai người lặng lẽ đi. Ra đến dường, Batsana đặt vali xuống, ngồi bên lề đường và vấn một điếu thuốc lá, Tamara ngồi xuống cạnh anh. Nghỉ một lúc, họ lại tiếp tục đi. Lần nghỉ sau, họ dừng chân trước khi lên dốc Naxakiran.
- Anh nói điều gì đi chứ! - Tamara nài.
Batsana lấy trong ngực áo ra một bọc nhỏ và lẳng lặng đặt lên đùi Tamara.
- Cái gì đấy! - Tamara hỏi.
- Tiền tôi ứng trước cho những ngày công của cô... Sáu trăm rúp... Thời gian đầu như thế là đủ... Mua bột mì đi... - Tiếng Batsana đứt quãng.
Tamara giở cái bọc, nhìn tiền, rồi gói lại cẩn thận, nhét cái bọc vào ngực áo Batsana, úp mặt vào đùi gối và khóc một cách chua xót. Batsana không an ủi và dỗ dành cô. Anh chờ cô gái khóc cho nguôi đi. Chờ mãi cô không nín khóc, anh lên tiếng.
- Khóc là điều có ích... Khi tôi bị đau chỗ nào hay buồn phiền và tim hóa đá trong lồng ngực, tôi vào rừng, nằm dưới gốc cây và khóc... Khóc như đứa trẻ, thật to... Tôi khóc suốt ngày, khóc đến cạn nước mắt, đến khi trái tim băng giá... Sau đó tôi thoải mái hơn... Cứ khóc đi một chút!... Cho nỗi lòng dịu đi. Không thì con người chết mất... Cô đừng oán giận... Người ta không có tội tình gì... Lỗi là ở nhan sắc của cô, cô xinh đẹp quá... Còn cánh đàn ông chúng tôi... Thế đấy, họ cắn xé nhau vì ghen tuông... Ba tháng ròng tôi không ngủ được, luôn luôn nghĩ đến cô... Ai đã tạo ra cô nhan sắc thế, có đôi mắt tình tứ thế?... Người nào cũng tưởng cô chỉ cười với mình, mắt cô chỉ âu yếm với mình... Cả tôi cũng tưởng như thế! Tôi biết như thế là dớ dẩn!... Tôi biết, nhưng... tôi yêu cô quá, yêu vô cùng... Tôi không thể sống thiếu cô... Tôi chết mất...
Tamara thôi khóc. Cô ngạc nhiên chăm chú nghe Batsana nói. Anh nói tiếp.
- Tôi sắp mười bảy tuổi... Chưa phải là nhiều, nhưng cũng không phải là ít... Tôi biết, cô xem tôi như đứa con nít... Cô đừng ngạc nhiên... Tôi yêu cô tha thiết, tha thiết đến mức... Tôi biết làm thế nào được?... Còn tiền thì cô cầm lấy... Không phải tôi ăn cắp đâu... Ông tôi cho tôi... để đưa cô... Ông tôi là một người sáng suốt... Chính ông cho đến với cô, bảo tôi phải đưa cô ra khỏi nơi đây... Giá như cô có thể yêu tôi... Nhưng cô xinh đẹp quá, tôi không biết rồi chuyện gì sẽ xảy đến với cô... Tôi còn ít tuổi, chưa thể bảo vệ cô, chăm sóc cô... Nhưng tôi yêu cô tha thiết, mãnh liệt... Ba tháng ròng tôi không ngủ, đêm nào cũng nghĩ về cô...
Nước mắt dâng lên làm Batsana nghẹn thở. Anh vùi đầu vào đùi gối Tamara và khóc rống lên như con sói con lạc trong rừng, hệt như hồi ấy, trong rừng Tsơkhakôuri.
Tamara ôm ghì đầu Batsana vào ngực và anh cảm thấy trái tim kết băng của anh bắt đầu tan giá, ấm lên, nóng rực, bốc lửa, anh ôm lấy Tamara, tới tấp chùm lên ngực, lên cổ, lên má cô những cái hôn nóng hổi. Anh cảm thấy hơi ấm mằn mặn từ mắt cô, nghe thấy tiếng thì thầm thổn thức:
- Anh là mặt trời của em, là niềm vui sướng của em... anh trai của em và cha đẻ của em... Nỗi đau buồn của em... Con trai của em và sự côi cút của em... Cuộc sống của em và cái chết của em... Chú bé của em, tình yêu của em... Anh ở đâu ra vậy, anh từ nơi đâu vụt đến trong đời em?...
Rồi môi họ tìm được nhau, họ cùng im bặt, trái tim họ lên tiếng. Trong lồng ngực họ vang lên những tiếng chuông bạc, tiếng chuông âm vang nhịp nhàng, uy nghiêm đến nỗi họ muốn cầu nguyện, - cầu nguyện, và chỉ thế thôi.
- Chúa cao cả! Xin hãy hợp nhất tâm hồn và thể xác chúng con, làm cho chúng con thành một cuộc sống duy nhất, lớn lao, bất tận!... Chúa trời chí công, xin hãy cho con máu cô ấy và truyền cho cô ấy máu của con! Xin cứu chúng con khỏi tội lỗi và tiếp nhận cuộc đời chúng con hiến dâng chúa!...
- Batsana, mặt trời của em, duyên cớ vì sao mà từ đâu anh đã bước vào đời em... Hạnh phúc của em, nỗi đau xót của em... Không nên, niềm vui sướng của em, không nên... Em còn con gái...
- Lạy Chúa toàn năng! Xin cho con sức mạnh và ý chí!... Xin giữ cho đầu óc con sáng sủa!... Xin cứu vớt con, trời ơi!
* * *
Tay nắm tay, họ đi trên đường lớn. Rừng thức tỉnh. Chim chóc sửa soạn hát bài ca ngợi mặt trời và buổi sớm mai. Ở các làng xung quanh, chó cất tiếng sủa. Đâu đó bên kia sông, một người nông dân trở dậy từ canh gà đầu tiên đang quát tháo chửi lũ gia súc chui vào vườn rau. Trời bắt đầu sáng. Trên các đỉnh núi, mây đã nhuốm màu như hồng. Ở Naxakixari, buổi sáng đã đến.
Batsana dừng lại, đặt chiếc vali xuống bên chân Tamara.
- Bây giờ cô đi đi! - Anh khẽ nói.
Tamara nhìn anh hồi lâu. Rồi cô bình tĩnh hỏi:
- Chúng ta sống thế nào đây?
Batsana im lặng.
- Anh sẽ nói thế nào với hàng xóm láng giềng?
Batsana nhún vai.
- Cô đi đi... - Anh thốt lên một cách khó nhọc.
- Đừng quên em...
Batsana lắc đầu.
- Trên đời này không có người nào yêu em tha thiết hơn anh! Đừng lấy chồng... Chẳng bao lâu nữa anh sẽ trưởng thành... - Batsana nức lên.
Tamara quỳ xuống trước mặt anh và áp môi vào hai tay anh.
- Anh còn phải trưởng thành đến thế nào nữa? - Cô ôm lấy hai đầu gối Batsana.
Batsana thận trọng thoát ra khỏi vòng tay cô gái, lùi lại mấy bước, quay lưng lại và... bỏ đi.
Đi được nửa vecxtơ, anh ngoái nhìn lại, Tamara vẫn đứng trên đường như trước và nhìn anh.
Bỗng nhiên Batsana giật nảy người vì ngạc nhiên. Anh nhìn thấy rõ một cách kỳ lạ cặp mắt xanh đẫm lệ của Tamara. Chỉ có đôi mắt thôi.
* * *
Buổi trưa, Batsana bước vào nhà ăn. Nhà ăn đông nghịt, khói thuốc lá mờ mịt, ồn ào. Laxa đứng bên quầy, bằng động tác khéo léo quen thuộc cắt dưa chuột và cà chua. Thấy Batsana vào, anh ngây người, tay vẫn cầm con dao. Trong nhà ăn vụt trở nên yên lặng. Những khuôn mặt sung sướng, ngạc nhiên, sợ hãi nhìn Batsana, tất cả đều biểu lộ một câu hỏi chung duy nhất. Trong giây lát, không ai dám phá tan sự yên lặng. Laxa sực tỉnh trước tiên.
- À, anh chàng đây rồi! - Anh reo lên và thở dài nhẹ nhõm, như cất được gánh nặng một trăm put. Nhà ăn náo động. Mọi người cùng lên tiếng một lúc. Giữa lúc ồn ào ấy chợt vang lên tiếng nói giễu cợt của Đutu Tsentêratzê:
- Chào chú rể khố rách áo ôm!
Không để ý đến gã công an, Batsana đến gần cái bàn nơi Tornikê Kintsurasvili ngồi và dừng lại trước mặt bác ta.
- Chú mày giấu cô bé vào đâu rồi? Có lẽ đưa về nhà ông nội chăng?- Tornikê ngà ngà say.
- Tornikê Kintsurasvilli. Hãy nói cho dân làng nghe, người phụ nữ ấy có phải là tuồng đĩ thõa không? - Batsana lớn tiếng hỏi.
- Cái đó thì hỏi Laxaiia ấy. Cô ả vừa là đệm vừa là gối đầu của anh ta, - Tornikê cười phá lên.
- Chú Laxa, người này nói đúng sự thật không? - Batsana nói với Laxa.
- Ta sẽ không được nhìn thấy rạng đông ngày mai và con dao này sẽ xuyên suốt trái tim ta, nếu có lúc nào, bằng lời nói, hành động, hay thậm chí trong ý nghĩ, ta đã làm nhục cô gái! - Laxa cắm con dao ngập đến một nửa xuống bàn bán hàng.
Batsana lại quay về phía Tornikê:
- Nếu anh là người đàn ông thì hãy đứng lên, Tornikê Kintsurasvili và nói đi, bao nhiêu lần anh đã ở trong buồng cô ấy? Nói đi, đừng ngại, đằng nào cô ấy cũng không nghe thấy kia mà!
- Mày là cái thá gì, thằng nhãi nhép kia! Tao lại phải trình báo với mày à! - Tornikê nổi khùng.
- Này, thế thì thú nhận đi, bao nhiêu lần cô ấy tống cổ anh ra khỏi nhà?
- Chẳng ai tống cổ tao hết! Tỉnh rượu là tự tao ra về... Dôxim ngồi kia kìa, hỏi bác ta xem! - Kintsurasvili đấu dịu.
- Mamuka Iasvili, tôi tin bác hơn ai hết! Bác nói đi, tại sao bác gái Đarêtgin sinh sự với Tamara? - Batsana nói với Mamuka, suốt thời gian ấy bác ta vẫn ngồi bên bàn, cắn môi lặng thinh.
- Có gì đâu, do ngu ngốc thôi... Vợ Đutuia Tsentêratzê đơm đặt, làm bà ấy điên tiết lên... - Mamuka nói, không ngẩng đầu lên.
- Đừng nói động đến vợ tao, thằng khốn kiếp! - Tsentêratzê quát.
Mamuka đứng lên, nhưng Batsana nhanh hơn.
- Bây giờ thú thật đi, ai trong các người đã ngủ với cô ấy dù chỉ là một lần? Anh nói trước đi, Đutu!
Tsentêratzê đứng lên. Gã đứng lên với ý định tống ra khỏi cửa cái thằng láo xược dám toan lập lại kỉ cương ở đây, nhưng Batsana coi cử chỉ của gã công an là câu trả lời cho câu hỏi của mình, và anh chộp lấy con dao cắm trên quầy bán món ăn, xấn tới trước mặt hắn.
- Mày nói láo, thằng đê hèn, nói láo! Ba lần mày xông vào buồng cô ấy và ba lần mày bị tống cổ ra một cách nhục nhã!... Mày là thằng mặt dày và kiêu căng, Đutuia Tsentêratzê ạ, mày vu oan cho cô gái ngay thẳng chỉ vì muốn khoe khoang với mọi người thôi!... Cháu nói đúng không, bác Đôxim?
- Con nói đúng, con ạ, thề có cây thánh giá! - Mặt tái đi, Dôxim trả lời.
- Làm sao mày biết được, thằng ngu ngốc kia?! - Tsentêratzê xông vào Batsana. - Mày đã tháo ủng cho tao hẳn thôi?!
- Cậu bé nói đúng thưa bà con, tôi xin thề trước Đức Chúa trời! - Dôxim nhắc lại.
- Mày là thằng đê hèn, Đutuia Tsentêratzê! - Batsana nói đốp ào mặt gã công an, gói ghém trong mấy lời đó tất cả sức mạnh chưa từng được thử thách.
- Tao sẽ giết mày, thằng oắt con! Coi chừng, nó làm mit-tinh gì ở đây! Nó bêu xấu mọi người! Ta là cái gì, là người đại diện cho pháp luật hay là thằng nhỏ để sai vặt? - Tsentêratzê thộp lấy khẩu súng ngắn, hầm hè xấn về phía Batsana.
- Mi là con khỉ, Đutuia Tsentêratzê ạ, mi là cái hạng như thế đấy! Ta coi khinh khẩu súng của mi! - Chính Batsana tiến lên đương đầu với Tsentêratzê. Laxa từ sau quầy hàng chạy ra, đứng chắn giữa hai người.
- Đã vậy thì tôi xin thưa với dân làng! - Batsana gào lên. - Đêm qua tôi đã ở chỗ Tamara! Đến với chúng ta, cô ấy còn con gái, và rời bỏ chúng ta ra đi cô ấy vẫn là con gái! Đấy là sự thật, tôi xin thề trước vong linh mẹ tôi!...
Bỗng nhiên trong nhà ăn vang lên một cú đánh chát chúa, và thật không ai ngờ, Đutu Tsentêratzê ngã lộn ngửa xuống sàn. Mamuka Iasvili xoa bàn tay sưng lên vì cú đánh, đến gần Batsana và đưa bàn tay ấy xoa má anh.
- Con thật là tốt, con ta ạ! Về nhà đi, mọi chuyện mặc ta khu xử với nó...
Mamuka thong thả đi ra cửa...
--------------
[26] Tên cổ cho đến nay vẫn quen dùng của thành phố Maharatz.
[27] Loại rượu vang làm bằng nho idaben.
[28] Tên gọi bông đùa của Laxa.
[29] Thành ngữ, tương đương với “không mảnh đất cắm dùi” (N.D)
---------------
Còn tiếp

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét