Chương 8: Ông Ruggles
bắt được của.
Dù đã có vợ và bẩy
đứa con, ông Ruggles vẫn là người rất yêu đời. Khi gió đông thổi về làm bay
lung tung rác rưởi trong các thùng rác của ông, vào cả mắt mũi, ông có bực tức
thật. Nhưng chỉ một lát thôi. Chỉ cần là ông có việc làm, gia đình ông mạnh
khỏe, hạnh phúc, ông có thể hút cái tẩu thuốc của ông và làm vườn, gặp các bạn
bè tuần lễ một hai lần ở câu lạc bộ Người Lao Động, mơ tới con heo của ông,
giải trí trong những ngày nghỉ, thế là ông chẳng muốn gì hơn.
Ông Ruggles luôn luôn
sử dụng những ngày nghỉ hợp lý. Vào tháng Tám ông có thể làm thêm những việc
phụ kiếm được, rồi đưa cả gia đình ra biển cách nhà sáu dặm chơi suốt một ngày.
Họ thường ra đi vào lúc tám giờ, trên chuyến xe bus đầu tiên. Mỗi người trong
gia đình mang một thứ: người thì mang phích nước, người thì mang túi bánh sữa,
và bà Ruggles bế đứa con bé nhất đi đoạn hậu.
Nếu trời đẹp thì họ
hưởng một ngày tuyệt diệu. Đầu tiên họ đi bộ dọc bờ biển. Cả nhà ngồi thành một
hàng ăn pate lợn và chuối.
Sau bữa trưa, họ bỏ
ra vài penny xem những phim trong máy tự động: những trận đá banh, đấu bốc,
khúc côn cầu hoặc những cuốn phim như “Ngôi nhà cháy” v.v.
Những lần xem này
được mọi người ưa thích và ông Ruggles luôn luôn phải bỏ ra tới ba penny trả
tiền. Còn Rosie thì cứ nói rằng, cái đó hoàn toàn không phải để trẻ con xem.
Xem xong, họ thường bơi lội một lúc, cái đó thì bà Ruggles thích hơn ai hết. Bà
bảo:
- Ngày nào tay tôi
cũng ngâm nước rồi, bây giờ phải cho chân tôi ngâm nước chứ.
Sau khi bơi là đến
bữa trà. Bữa trà là giây phút tuyệt diệu trong ngày. Gia đình Ruggles thường đi
uống chung với vài người bạn.
Có rất nhiều chỗ bán
nước trà và có nhiều loại trà. Nhưng gia đình Ruggles biết chỗ nào họ nên vào.
Họ cẩn thận quan sát bên trong quán, nếu thấy có yêt thị là không bán nước trà
cho những người có đem theo thức ăn riêng là họ tiếp tục đi. Vì họ luôn luôn
mang theo bánh mì, bơ, và đôi khi cả trà nữa để tiết kiệm tiền. Họ nghĩ là, tốt
hơn nên để tiền tiêu vào các việc khác ở ngoài bờ biển.
Phần lớn các tiệm trà
có những cái tên như: “Nhà dễ thương”, “Trang trại cổ” v.v… Nhưng gia đình Ruggles
ưa nhất là quán “Nước trà như mẹ pha”. Ở đây người ta có thể ăn bánh mì và bơ
mang theo. Bà mẹ - một bà già to lớn - phục vụ họ tốt hơn tất cả những chỗ khác
trong thành phố này. Ông Ruggles nghĩ như vậy.
Ngay cả một ngày nghỉ
mưa gió cũng có thể sử dụng rất thú vị ở
Braitơoen. Vì họ có thể nghỉ ở một chỗ nào đó có mái che và đôi khi kết thúc
bằng một chầu xem phim.
Đôi khi ông Ruggles
thuê một xe hơi cũ để họ đi về nông thôn chơi cả một ngày. Nhưng sau đó bà
Rosie cho thế là chán.
Mong muốn lớn nhất
của ông Ruggles là một ngày nào đó sẽ đưa cả gia đình về London, đi thăm quảng
trường Karl Horse trong công viên Regent. Ông Charlie - anh ruột ông - cũng làm
cùng một nghề như ông, luôn luôn viết thư mời ông đem gia đình lên chơi. Cỗ xe
ngựa chở rác của ông Charlie đã được nhiều giải trong các cuộc thi triển lãm xe
ngựa, xe bò. Ông viết là trông nó rất đẹp, chắc Jo và Rosie sẽ thích. Có chỗ
cho ít nhất là hai mươi người trong chiếc xe ngựa của ông và lũ trẻ tha hồ vui
chơi. Nhưng, lạy chúa, ông Ruggles chưa bao giờ để dành được đủ tiền - ngay cả
làm thêm nữa - để đi chơi London.
Hàng năm ông anh đều
viết thư cho họ và mỗi năm Jo lại phải viết trả lời: “Sợ năm nay chưa đi được,
có lẽ phải sang năm”.
Cuối cùng ông Charlie
viết thư nói rằng, nếu ông giành được giải nhất năm nay - ông rất hy vọng giật
giải nhất - ông sẽ gửi cho ông em ít nhiều để có thêm tiền mua vé tàu. Nhưng
không may, con ngựa của ông bị gãy chân hai ngày trước cuộc thi và Charlie chỉ
được giải nhì. Tất cả những hy vọng chờ đến ngày lễ Whitsun lại biến thành mây
khói. Ông Ruggles thông thường khi gặp khó khăn về kinh tế, thì lại quay về
nghĩ tới vấn đề nuôi heo. Nếu ông mua ngay bây giờ một con heo và nuôi cho béo
thì ông nghĩ có thể bán được đúng vào dịp lễ Whitsun năm tới. Cả nhà sẽ có tiền
đi chơi London. Trong mấy ngày ông đã suy nghĩ về việc này và cuối cùng đem nói
với vợ.
Bà kêu lên:
- Thực thế ư, ông Jo Ruggles.
Hãy suy nghĩ thêm một tí đi. Không phải chỉ có tiền mua lợn mà còn phải có tiền
nuôi nó nữa.
Jo nói:
- Thế thì sao? Chúng
ta có đủ tiền nuôi và có thiếu thì ông hàng xóm Hook vui lòng cho chúng ta mượn
số tiền để dành của ông. Ông ta chả luôn luôn bảo thế là gì!
- Thế ông có nghĩ là
nuôi được bao lâu thì bà Smith và ông Thanh tr Vệ sinh đến thăm ông không? Chỉ
hai ngày thôi là tôi sẽ bảo cho bà ấy biết ngay. Được, tôi không có trách nhiệm
gì cả. Nếu ông thích heo thì ông thuê lấy một nơi rộng hơn mà nuôi nó, nhốt nó.
Ông Ruggles nghĩ :
“Mua một con lợn lại thuê một chỗ rộng hơn để nhốt nó, thế thì tốn tiền quá.
Lúc này mà ông làm cả một lúc hai việc đó thì sau này dù có bán được con lợn
giá hời cũng không còn dư tiền để lấy vé đi London, mà nếu không bán được giá
hời thì biết trông nợ vào đâu đây”.
Ông tự nhủ:
- Được, ta hy vọng
một ngày nào đó sẽ tìm ra cách kiếm tiền. Hoặc sẽ có một việc gì đó làm thay
đổi tình trạng này.
“Việc gì đó làm thay
đổi tình trạng này” đã đến sớm hơn ông Ruggles mong đợi, nhưng lại theo một
cách mà ông không mong đợi nhất.
* * *
Sau đó chưa được một
tuần lễ, một buổi sáng ông Jo đi lấy rác cùng với bạn là ông Berg. Họ thường
thay tua nhau: một người dắt ngựa, một người vào lấy thùng rác. Không phải là
con ngựa già màu xám cần phải dắt mà đúng hơn là vì các thùng rác nặng, vác ra
mệt nên cần phải có thời gian đứng nghỉ một lúc.
Hôm đó đến lượt ông Ruggles
đi lấy rác. Ông gõ cổng bên nhà số 9 Đại lộ Uýttêriơ. Ngôi nhà này không biết
vì lý do gì luôn luôn khóa chặt nên ông không thể nhìn thấy gì bên trong ngoài
ông chủ nhà, một nhà văn có tác phong riêng của ông ta. Cứ ngày thứ ba hàng
tuần là hiện tượng này lại diễn ra. Sau năm sáu tiếng gõ cửa của ông Jo, ông
nhà văn xuất hiện ở cửa sổ trên lầu (vẫn còn mặc quần áo ngủ, mặc dù đã quá
mười một giờ), ném xuống cái chìa khóa và nói: “Khi nào làm xong thì gọi nhé”.
Ông Ruggles làm xong, ném cái chìa khóa lên, ông nhà văn bắt lấy, nói “cám ơn”
rồi đóng cửa sổ lại. Nhà số 9, công việc ở đây nhanh thôi, các thùng rác bao
giờ cũng nhẹ, chỉ toàn hộp sắt tây và giấy. Chưa từng có cái gì hơn ở đây. Ở
một vài nhà họ kiếm được vài thứ khá hơn - những đôi giày cũ, những cái tem
nước ngoài trên các bức thư cũ, (ông Berg thu nhặt cho con ông), những tờ báo
ảnh, nhiều chai rỗng, và có một lần có cả một chai bia đầy nữa, một chai bia to
chưa mở. Có lẽ họ đã vứt lầm và Jo không thể tưởng tượng được sao nó lại không
vỡ.
Họ đã ngồi bên nhau
thưởng thức thú vị chai bia ấy, ngay cạnh bãi đổ rác ngoài thành phố, lần lượt
tu từng ngụm lớn. Sau đó ông Berg cứ luôn hy vọng còn tìm được thứ gì hay ho
nữa, nhưng ông Ruggles thì kém lạc quan hơn. Ông đã làm nghề này lâu hơn ông
Berg và cho đến nay thì chai bia là vật quý nhất ông đã gặp. Nhưng mấy ai đã
biết là như vậy.
Khi ở nhà số 9 đi ra,
ông bảo ông Berg:
- Cuộc sống dễ dàng
quá. Chỉ viết rồi ngủ đến tận quá mười một giờ.
Ông Berg đáp:
- Ông Ruggles ơi,
không ra tiền đâu, không ra tiền đâu! Thời buổi này có quá nhiều sách rồi! Hãy
nhìn xem, riêng trong tỉnh này đã có hàng trăm thư viện, chưa kể đến các hiệu
sách nữa. Hãy nhìn các hộp sắt tây trong cái rổ rác của chúng ta, đủ cho một
gia đình mười người! Ông hãy tin vào lời tôi, ông Ruggles ơi! Khi một người mà
ăn đến chừng này đồ hộp thì công việc của y chẳng trôi chẩy đâu!
Làm xong ở Đại lộ
Uýttêriơ - con đường cuối cùng trong một tua của họ - họ đem rác ra đổ ở bãi
rác ngoài thành phố. Hôm đó là một ngày nóng trong năm, khi họ tới bãi rác thì
ông Berg nhớ ngay đến chai bia đã có lần họ nhặt được.
Ông nói:
- Không bao giờ còn
tìm được một chai nữa, Jo nhỉ!
- Tôi sợ rằng như thế
đấy.
Ông Ruggles vừa trả
lới vừa rút tấm ván sau xe ngựa để đổ rác ra. Họ luôn luôn đổ rác ra rồi lấy
gậy chọc để tìm “dịp may”. Họ làm việc trong im lặng, được một lát thì ông Ruggles
gọi:
- Berg ơi! Cho anh
mấy con tem này.
Rồi ông cúi xuống
nhặt lên một cái thư. Ông Berg đứng thẳng lên nói:
- Đưa đây xem nào ông
bạn. Nếu chúng ta không tìm được bia thì cũng được vài con tem.
Nhưng ông Ruggles
không đưa cái thư cho ông Berg mà lại bắt đầu xem xét. Ló ra ngoài bì thư là
một tờ giấy bạc. Ông lôi tờ giấy bạc ra, đưa ra chỗ sáng nhìn dường như không
tin vào mắt mình nữa.
Ông Berg hỏi một cách
mỉa mai:
- Gì đấy Ruggles, tìm
được một tờ năm bảng chắc?
Jo đáp:
- Đúng, tôi tìm thấy
sáu tờ.
Ông nhìn vào trong
bức thư rồi nhỏ nhẹ nói thêm:
- Một, hai, ba, bốn,
năm, sáu, bảy, tám, chín, mười, mười một tờ.
Ông Berg vứt gậy
xuống, tới chỗ ông Ruggles đứng, nói:
- Anh đang đùa tôi
đấy phỏng. Đấy không phải là tiền thật.
Jo nói:
- Này, theo tôi thì
đúng là tiền thật đấy. Nhưng có thể là anh đúng. Bắt được một lúc quá nhiều
tiền như thế này thì khó mà tin là thực được.
Ông Berg nhìn tập
tiền nói:
- Coi bộ chắc là tiền
thật. Thế là anh đang nghĩ đến một con tem cũ thì lại tìm được chỗ tiền này.
Còn tôi thì vừa mới nói rằng chai bia là vật đầu tiên và cuối cùng mà ta bắt
được.
Ông Ruggles cười,
nói:
- Và anh đã hỏi mỉa,
có phải tôi tìm thấy một tờ năm bảng phải không? Sao, thế mà đây có những bốn
mươi mốt bảng. Nhưng thật không tốt!
Một lát sau ông buồn
bã nói:
- Chúng ta không thể
giữ lại số tiền này. Một kẻ khờ dại giầu có nào đó đã đánh mất nó và chắc đang
kêu la ầm ĩ lên đấy. Anh sẽ thấy cho mà xem. Đến trình công an thôi, Berg ạ.
Ông Berg hỏi:
- Coi bộ đáng ngạc
nhiên nếu nghĩ rằng anh đã nhặt được ngần ấy tiền mà lại đem trả lại cả. Anh có
thể giữ lại một hoặc hai tờ trong số đó chứ. Anh nghĩ sao?
Ông Ruggles đáp:
- Tôi không nghĩ rằng
tôi có thể giữ lại. Làm như thế là bước đầu không tốt rồi. Vả lại, người mất
tiền khi nhận được tiền ta trả lại, sẽ biết ngay là thiếu, thế thì thật là
không hay.
Ông buồn rầu nói
thêm:
- Có lẽ họ sẽ biểu
dương cả hai chúng ta đấy, phải thế không?
Rồi ông nghĩ đến con
heo, quảng trường Karl Horse và số tiền mua vé đi London. Bây giờ ông đang cầm
trong tay số tiền đủ mua được hai trăm cái vé tàu.
Ông Berg nói:
- Này, Ruggles, anh
không bao giờ nghĩ đến việc chia số tiền đó à?
Jo trả lời:
- Ồ, tất nhiên là có,
Berg ạ! Chúng ta vẫn luôn luôn chia nhau các thứ chúng ta tìm được, phải thế
không?
Ông Berg đáp:
- Phải, đúng thế.
Nhưng lần này coi bộ có cái gì khang khác ấy.
Ông Ruggles nói:
- Chắc chắn là có hể
nói như vậy được, bởi vì chẳng có gì để mà chia cả, nếu như họ không cho chúng
ta chút ít. Tôi không mong đợi gì điều đó. Nếu có được đền ơn, chắc cũng chỉ một
món tiền nhỏ đủ để uống một ly bia thôi. Mới hôm kia, tôi đọc báo, thấy một
người lái taxi nhặt được trong xe của mình một chuỗi hạt ngọc trị giá hàng
nghìn. Ông ta trả lại và được đền ơn năm shillings, Người đàn bà có chuỗi ngọc
ấy đã nói rằng: ông ta chỉ làm đuungs nhiệm vụ của mình! Bà ta nói đúng quá!
Đừng trông mong gì cả thì hơn, Berg ạ.
(đơn vị tiền tệ Anh
quốc trước 1971. 1 bảng (pound) = 20 shilling; 1 shilling = 12 penny)
Ông Berg nói:
- Tôi không trông
mong, nhưng tôi không thể không hy vọng. Tôi tự hỏi, không biết ai là kẻ khờ
dại lại đi ném cả món tiền to như thế này đi.
Ông đọc trên bì thư:
“Xoóctơ - 9 Đại lộ Uýttêriơ”.
- Xoóctơ, đúng thế,
bây giờ thì gã đúng là Xoóc và te tua thật - số 9 Đại lộ Uýttêriơ. Này Jo Ruggles!
Tôi chắc như một với một bằng hai, số tiền ấy là của ông nhà văn có những cái
hộp sắt tây đấy. Ông ta chả ở nhà số 9 là gì.
Ông Ruggles nói:
- Đúng thế thật!
Phred Berg ơi! Điều đó nói lên rằng, những cái hộp rỗng không phải luôn có
nghĩa là túi cũng rông đâu!
* * *
Ông Ruggles hôm ấy về
nhà ăn bữa trưa chậm. Trông ông như người bệnh. Vợ ông đang sung sướng vì sáng
nay người ta nói cho bà biết Peg và William được khen. Đúng, quả thật chúng
được khen.
Khi ông vừa về đến
nhà, bà hỏi ngay:
- Cái gì thế, anh
thân yêu? Anh có điều gì phiền muộn thế? Hôm nay anh về muộn quá. Em đã để phần
anh bữa cơm nóng và dành cho anh một thứ rất ngon cơ, một miếng pho mát mà anh
rất thích.
Ông Ruggles ngồi
phịch xuống ghế, nói:
- Nó làm tôi mất cả
hứng ăn.
Rosie hỏi:
- Cái gì làm, mùi pho
mát ấy à?
Ông Ruggles nói tiếp:
- Tôi rất phiền lòng.
Dĩ nhiên không có gì lạ khi tôi mất cả hứng ăn, hoàn toàn không có gì đáng ngạc
nhiên cả.
Bà Ruggles hỏi:
- Anh nói gì đấy? Ai
hoặc cái gì làm anh mất cả hứng ăn - Lại một con mèo chết à? (Chả là đôi khi
ông Ruggles nhìn thấy những vật như thế, hoặc cái mà ông không thích gặp là
những con mèo con chết trong thùng rác của ông).
Cuối cùng ông nói:
- Rosie, tôi vừa mới
từ đồn công an về.
- Việc gì thế, một
tai nạn trên đường phố à?
Jo vẫn im, không trả
lời. Rosie kêu lên:
- Jo! Có việc gì đã
xảy ra cho một người quen của chúng ta hay sao?
Ông Ruggles nói:
- Không! Rosie! Đây
không phải là tai nạn!
- Nào, dù là cái gì
đi nữa thì vì Chúa, xin hãy nói ra ngay đi, hay là để cho bữa tối của anh nguội
ngắt nguội ngơ đi.
Câu “nói ra đi” làm
cho ông Ruggles cuối cùng kể hết cả câu chuyện bất ngờ ông gặp sáng nay.
Rosie lắng nghe hết
sức chăm chú. Lũ trẻ cũng chậm đi học buổi chiều, đứng hoặc ngồi chung quanh
nghe, miệng há hốc, mắt tròn xoe.
Liếc nhìn xung quanh,
Rosie nói:
- Đi học đi!
Không một đứa nào
động đậy. Bà Ruggles đang thích thú nghe câu chuyện của chồng nên cũng không để
ý.
Ông Ruggles kể tiếp:
- Chúng tôi đến đồn
công an xin gặp một người công an. Em có biết anh gặp ai không? Này, chính là
ông John Simon. Rosie! Em có nhớ ông ta không? Cái ông ngồi cạnh chúng ta ở rạp
chiếu bóng cùng vợ và các con trong ngày nghỉ lễ Giáng Sinh lần trước ấy mà.
Rosie gật đầu, nói:
- Tiếp đi, tiếp đi!
Ông Ruggles nói tiếp:
- Thế rồi, chúng tôi
đã nói với ông ta rằng chúng tôi đã nhặt được cái gì và đoán nó là của ai. Ông
ta nói rằng, ông hy vọng cả hai chúng tôi sẽ được đền ơn một cái gì đó. Nhưng
chúng tôi thì không trông đợi điều đó. Rồi thời gian sẽ trả lời cho biết.
Ông nói tiếp một cách
mộc mạc:
- Chúng tôi ra về.
Nhưng Rosie ạ! Điều này làm tôi choáng váng. Bắt được món tiền to như thế mà
không thể nào lấy được một đồng để tiêu, trong khi đó thì rất cần tiền để mua
vé, ấy là chưa nói đến chuyện mua một con heo.
Bà Ruggles rất thông
cảm. Bà gọi Lily Rose, bảo con:
-Đem cho ba nửa lít
bia. Những đứa khác đi học, mau!
Lily Rose mang bia
đến cho bố rồi đi ra. Những đứa khác còn ở lại. Kate hỏi bố:
- Ba không thể giữ
lại được một pound à, ba?
Rosie kêu lên:
- Các con có đi không
nào? Các con không thấy là ba đang buồn à?
Lũ trẻ nhà Ruggles
tản đi như những con thỏ.
Bà Ruggles nói:
- Anh thân yêu, bây
giờ hãy ăn trưa đi đã!
* * *
Sau ba ngày ông Ruggles
không nghe thấy nói gì thêm về vụ bắt được của rơi của ông. Cả gia đình chờ đợi
xem ba có được đền ơn không. Nếu được đền ơn thì số tiền thưởng sẽ đủ mua một
cốc bia thôi hay đủ mua vé cho cả nhà đi London hoặc như Kate nghĩ: “Chỉ đủ mua
vé cho măng và Ba đi thôi, chẳng đủ cho tất cả chúng ta đâu”. Nhưng vẫn chưa
thấy gì hơn. Hoàn toàn chưa thấy nói gì đến chuyện đền ơn.
* * *
Cùng lúc đó tại nhà
số 9 Đại lộ Uýttêriơ, ông nhà văn Xoóctơ đã được đồn công an trả lại cho số
tiền đã mất, đang ngồi suy nghĩ, hút hết điếu thuốc lá này đến điếu thuốc lá
khác.
Ông đã trải qua hai
ngày lo phiền khi mất số tiền và chân thành biết ơn khi được trả lại số tiền
ấy. Nó không phải của ông mà của một người bạn già làm thủy thủ đã để dành
trong nhiều năm gửi về nhờ ông gửi vào Ngân Hàng London giúp. Ông Xoóctơ không
biết làm sao họ lại nhặt được trong thúng rác, chắc là ông đã ném nhầm nó vào
đó thay vì ném cái thư từ Thụy Điển gửi đến cùng ngày hôm đó. Chà, thật là cảm
ơn Thượng Đế, bây giờ thì số tiền đó đã nằm an toàn ở bưu điện London rồi. Vấn
đề bây giờ là phải trả ơn cho người phu hốt rác đã nhặt được nó. Nghĩ đến đó,
ông lại thở dài sườn sượt. Ông nghĩ là phải đền ơn con người lương thiện ấy
ngay lập tức. Ông muốn tới ngay nhà ông Ruggles, nói cho tất cả mọi người biết
hành vi cao quý của ông ta, dúi vào tay ông ta một tờ năm pao, ép ông phải nhận
và hứa kết bạn với ông suốt đời. Nhưng đó là ý muốn mà thực tế thì… ông lại thở
dài. Ông có thể đi đến nhà người phu hốt rác này, nói cho ông ta biết sự thật -
nói cho người lao động chân tay đã có vợ (và hình như có mười đứa con, ông công
an đã nói với ông như vậy) này biết rằng ông chỉ là một người chưa có vợ con,
sống trong một ngôi nhà ở Đại lộ Uýttêriơ, không thiếu thốn lắm, nhưng lúc này
chỉ còn có 10 shilling thôi. Ông lại nghĩ, thế thì thật vô ích. Mặt khác, ông
không muốn làm cho một người lương thiện như ông Ruggles nghĩ rằng ông ta đã
làm một việc tốt như thế mà lại không được đền ơn. Có thể vì vậy mà từ nay trở
đi ông sẽ không bao giờ còn muốn trả lại những món tiền bắt được nữa. Không,
chỉ còn mỗi một cách là ông phải viết ngay một cái thư cảm ơn ông Ruggles và
giải thích cho ông biết mình đang mắc công chuyện nên chưa thể ghé thăm ông
ngay được, nhưng hy vọng là tuần tơisẽ đến. Lúc đó - nếu không phải là sớm hơn
- nhà văn sẽ có tiền, ông có thể tặng ông Ruggles, chẳng phải chỉ năm pound mà
còn có thêm cái gì nữa đặt vào tay ông Ruggles. Ông lấy bút ra viết ngay một
bức thư ngắn gửi đi. Viết thư xong ông lại thở dài. Ông đã làm xong nhiệm vụ và
có thể nghỉ ngơi: hút thuốc lá, đọc báo và nghỉ. Ông ngồi xuống, nhưng chưa
đươc một giây đã đứng bật dậy, vứt tờ báo xuống, nhìn đồng hồ, rồi lấy mũ đội,
vội vã ra khỏi nhà đi về hướng Phố Cao, vừa đi vừa châm một điếu thuốc lá.
Cũng buổi chiều hôm
đó, khoảng năm giờ, có tiếng gõ cửa nhà sô 1 Phố Cụt. Bà Ruggles ra mở cửa.
Đứng trên bậc cửa là một người đàn ông nhỏ bé, vác cái gì trông như cái hộp
trên vai.
Ông ta hỏi: “Bà
Ruggles phải không?”, rồi không đợi trả lời, đưa cho bà tấm danh thiếp in hàng
chữ: “Ông Uôntơ Uynkin - Nhà Báo”. (Walter Wilkins ?)
Ông kính cẩn ngả mũ
cúi chào Rosie và nói tiếp:
- Tôi là phóng viên
Nhật báo Otwell. Tôi đã được nghe những tin tức rất hấp dẫn về chồng bà, thưa
bà. Ông nhà văn Xoóctơ (Sorter ?) đã ghé tòa báo chúng tôi sáng nay kể cho
chúng tôi nghe câu chuyện ông ta được trả lại tiền. Chúng tôi muốn kể lại trên
tờ Nhật báo số ra ngày mai câu chuyện này. Chúng tôi rất muốn như vậy! Ông Ruggles
không có nhà ư?
Ông ta đi qua mặt
Rosie vào trong bếp, nhìn khắp xung quanh. Rosie cảm thấy hơi khó chịu, đáp:
- Không, nhưng sẽ về
ngay đấy! (Đi bộ gì mà chậm thế! Được, dù thế nào thì ông nhà văn của Jo - ông
Xoóctơ (Sorter ?) - vẫn còn sống, đã nhận lại đủ tiền. Đáng tiếc là ông ta
không tới thăm!)
Ông Uynkin ngạc nhiên
khi thấy hết đứa trẻ này đến đứa trẻ khác về, nhìn ngó ông.
- Chao ôi! Một gia
đình lớn quá! Sáu, bảy, tám… bao nhiều cháu?
Rosie tự hào nói:
- Bảy.
- Bảy cháu! A ha ha.
Ồ, chúng toi sẽ có một cột về vấn đề này bà Ruggles ạ, một cột!
Rosie nghĩ bụng,
không biết ông này có tỉnh táo không mà cứ nói những cột với kèo. Bà mong Jo
già về ngay để xem ông ta nói gì nữa.
- Nào, bà Ruggles,
chụp một tấm ảnh cho cả nhà chứ, một gia đình hạnh phúc - bà, chồng bà và tất
cả các cháu - để đăng báo.
Ông đặt cái hộp của
ông lên bàn, phủi hai tay vào nhau, mỉm cười dường như muốn nói rằng, ở đời
không gì sướng hơn là được ông Uôntơ Uynkin chụp ảnh đăng lên Nhật báo Otwell.
Rosie kêu lên:
- Chụp ảnh! Ông định
chụp thật à? Cứ mặc quần áo làm việc thế này mà chụp à?
Ông Uynkin hình như
luôn luôn cứ phải nhắc lại những điều ông đã nói đến hai ba lần:
- Cứ y như thế thôi,
bà Ruggles ạ, cứ y như thế thôi.
Rosie nghĩ, may mắn
là lũ trẻ đang mặc quần áo đi học, đủ sạch sẽ rồi, nhưng còn bà và Jo…
Đây, cám ơn Chúa, Jo
đã về!
Ông nhà báo kêu lên:
- Xin chào ông Ruggles.
Tôi là phóng viên Nhật báo Otwell, tôi đã được nghe việc “bắt được tiền” của
ông. Ông nhà văn Xoóctơ, ông biết đấy, đã kể lại.
Ông ta kêu lên: “Ông
vào đi chứ”, khi thấy ông Ruggles cứ đứng ngoài ngưỡng cửa.
Ông Ruggles chậm chạp
đi vào. Cuối cùng phần thưởng là như thế này đây. Cái ông nhà báo hình như cứ
coi đây là nhà mình, mời ông Ruggles vào bếp.
Khi Jo già đóng cửa
lại, nhà báo bắt đầu nói:
- Bây giờ, thưa ông Ruggles.
Tôi nghĩ rằng vài shilling không phải là vô ích và tôi nghĩ rằng chúng ta có
thể kể lại đầy đủ câu chuyện của ông, thật đầy đủ. Bây giờ tôi muốn ông…
Nhà báo rút ra một
cuốn sổ, nói tiếp:
- …Kể lại cho tôi,
bằng lời lẽ của ông, thật chính xác, ông đã bắt được số tiền này như thế nào.
Xin ông chớ vội vàng, ông Ruggles ạ, xin ông chớ vội vàng.
Nhà báo kéo ghế cho
ông Ruggles ngồi. Ông Ruggles ngồi xuống, đưa mắt nhìn Rosie cầu cứu.
Bà kêu lên:
- Jo! Nói ra đi!
Nhưng ông Ruggles
ngượng ngập. Tuy nhiên, cuối cùng ông cũng bắt đầu kể lại những điều bất ngờ
ông gặp.
Khi ông kể xong, nhà
báo Uynkin gấp cuốn sổ nhỏ lại, coi bộ rất vui vẻ kêu lên:
- Ông là người sinh
ra để kể chuyện, ông Ruggles ạ, một người kể chuyện rất hay. Bây giờ đến chụp
ảnh! Đáng tiếc là thiếu ông bạn Berg của ông. Không có thời gian, thôi, khỏi
phiền, ông ấy sẽ chụp sau. Có lẽ phải ra ngoài chụp.
Ông Uynkin hướng dẫn
mọi người:
- Nào, bây giờ các vị
phải ngồi chỗ khung cửa ấy. Ông Ruggles hãy hút cái tẩu của ông - ông có hút
tẩu không? - Tất nhiên! Còn bà Ruggles, mời bà đứng ngay cạnh ông. Đấy, như thế
và bế cháu bé nữa. Cô bé này thì ra đây (ông để Peg đứng lên trước). Cô con gái
lớn đứng chỗ này. Bây giờ, để tôi xem, còn bốn người nữa. Hai anh em sinh đôi
đâu? Tôi phải ghi lại điều này mới được!
Ông rút sổ tay ra,
ghi lại vài dòng. Ông gập sổ lại, nói tiếp:
- Các cháu thân yêu,
bốn cháu ngồi trên bậc cửa này. Được rồi, chờ một phút để tôi mang máy ảnh tới
nhé. Đừng động đậy nhé.
Ông ta chạy vào nhà
lôi cái hộp bí ẩn để trên bàn trong bếp ra.
Rosie nghĩ, không
biết hàng xóm láng giềng sẽ nghĩ gì về nhà mình. Kìa, bà Smith đã ra đứng ở cửa
nhà bà ta, hai cái đầu đang ló ra ở cửa sổ nhà đối diện! Đúng lúc đó thì ông
Uynkin đã chuẩn bị xong máy ảnh, đang sửa lại chỗ đứng cho gia đình Ruggles.
Đến nửa Phố Cụt ra
xem. Cái gì ở nhà số 1 thế nhỉ? Nhà Jo Ruggles đang được chụp ảnh. Ghê chưa!
Ông Wilkins kêu lên:
- Bây giờ nhìn cả vào
tôi một phút nhé!
Ông quay ra nói với
đám người đến xem:
- Xin giữ trật tự
nhé. Xin các vị lùi xuống cho một chút. Nào, một, hai, ba...
Vừa lúc ấy bà Smith
lại nhoi lên trước đám đông.
- Kìa, xin bà lùi
xuống. Cảm ơn. Nào…
Một tia chớp lóe lên.
Rosie suýt đánh rơi cả William. Ông Jo suýt đánh rơi tẩu. Tất cả mọi người đều
nhắm tịt mắt lại.
Ông Uynkin kêu lên:
- Tuyệt diệu! Tuyệt
diệu!
Ông bắt đầu thu xếp
đồ nghề của mình. Ông nghiêng mình trước Rosie nói:
- Xin chào ông Ruggles,
xin chào bà.
Trước khi mọi người
trong gia đình Ruggles kịp tản ra thì ông nhà báo đã lách qua đám đông, đi biến
mất.
Cuối cùng họ cũng mời
được đám láng giềng đi khỏi và vào nhà yên ổn. Rosie đặt ấm nước lên lò, nói:
- Chúng ta hãy uống
trà. Đừng buồn nữa, ông già ơi! Một điều chắc chắn là, ông nhà văn của anh vẫn
còn sống, mà tục ngữ có câu: “Ở đâu có cuộc sống, ở đấy còn hy vọng”.
* * *
Hôm sau, người ta có
thể thấy ở khắp các sạp bán báo ở Otwell tờ Nhật báo Otwell, có đăng những hàng
tít: “Điều may mắn của một nhà văn nổi tiếng” và “Của bắt được hấp dẫn”.
Người bưu tá ít khi
đến làm phiền nhà Ruggles hôm ấy cũng ghé vào nhà sô 1 Phố Cụt đưa cho ông Ruggles
một tờ Nhật báo Otwell của ông chủ bút gửi biếu kèm theo những lời chúc mừng
tốt đẹp nhất. Lại còn hai bức thư nữa gửi ông Ruggles. Rosie mở tờ báo ra. Chao
ôi! Tất cả gia đình họ trên tấm ảnh của tờ báo, trông hơi có vẻ sợ sệt, nhưng
rất tự nhiên, y như lúc thường. Không thể nào còn mong đẹp hơn được nữa! Dưới
tấm hình là dòng chữ: “Ông Ruggles cùng vợ và các con. Xem trang 5”.
Bên dưới là cái đầu
và đôi vai rộng của ông Berg, bạn ông Ruggles. Dưới hình ông là dòng chữ:
“Người bạn của ông Ruggles - ông Berg. Con ông chơi tem”.
Kate hỏi:
- Cái gì ở góc này
thế, bên cạnh ngón tay Măng ấy!
Bà Ruggles nhìn kỹ
hơn. Đúng - không thể là - đúng - đúng là một mẩu ảnh nhỏ của bà Smith - Cái
mũi to tướng của bà ta ở trên tấm ảnh của họ!
Ông Ruggles đang bận
đọc bức thư, nói:
- Nghe này, Rosie.
Coi bộ cái công việc văn chương này cũng đáng giá đấy. Đây là năm shilling gửi
cho tôi vì hôm qua đã ngồi ghế kể lại chuyện mình cho nhà báo nghe.
Bà Ruggles reo ngay
lên vui sướng.
Ông Ruggles nói:
- Chờ một tí đã nào.
Đây là cái thơ của chính ông nhà văn gửi cho tôi, cảm ơn tấm lòng lương thiện
của tôi và nói rằng ông quá bận nên chưa ghé vào thăm nhà mình ngay được, nhưng
ông hy vọng tuần tới sẽ đến. Chắc đâu ông ta đến lại không mang theo cái gì
nữa. Rosie, đừng làm ầm lên.
Lũ trẻ bắt đầu nhảy
cỡn lên, hò reo. Ông nói thêm:
- Ông nhà văn có thể
đến bằng xe buýt, lại quên hết mọi điều và có thể lại vứt hết cả số tiền của
ông ta đi vào tuần sau. Em hãy đừng than van vội, hãy chờ ông ta đến đã. Hãy
ngậm miệng lại nếu không thì sẽ lắm chuyện đấy.
Rosie lật trang 5 tờ
báo ra xem, kêu lên:
- Nhìn này, Jo! Anh
chưa nói tất cả những điều này!
Dưới đầu đề: “Lòng
trung thực của một con người - Tiền bạc trong thùng rác”, bài báo này không chỉ
nói đến những chuyện bất ngờ bên bãi rác mà còn nói đến những nhận xét của ông
về thời tiết, về tình hình chính trị, về các gia đình lớn, về sự ưu việt của Otwell
trên tất cả các tỉnh khác và về nhiều vấn đề khác!
Cũng có nhiều điều
viết trong bài “Ông Xoóctơ - Nhà văn nổi tiếng”, nói về các kế hoạch của ông và
một bảng kê các tác phẩm nổi tiếng nhất của ông. Ông Ruggles đã đọc kỹ cả bài
này.
Khi xem hết, ông nói:
- Rosie, tôi thấy
hình như trong thành phố này có nhiều người có đầu óc lắm!
Trước khi bà Ruggles
có thể nghĩ ra được câu trả lời thích hợp thì ông đút tờ báo vào túi rồi đi
làm.
* * *
Thứ Ba tuần sau, theo
thường lệ, ông Ruggles và ông Berg lại gọi cửa ngôi nhà số 9 Đại lộ Uýttêriơ.
Thực sự lần lấy rác cuối cùng mới các đây có một tuần lễ thôi, chứ có lâu la gì
đâu! Ông Ruggles không muốn vào. Ông bảo lần này đến lượt ông giữ ngựa. Vì thế
ông Berg đến gõ cửa. Như thường lệ nhà văn xuất hiện ở cửa sổ. Nhưng thay vì
ném chìa khóa xuống, ông nói là sẽ xuống ngay. Chỉ mấy phút sau ông đã xuất
hiện trong cái áo khoác choàng ra ngoài bộ quần áo ngủ, mỗi tay cầm một chai
bia! (Cảm ơn Chúa, tiền hôm nay đã tới. Nhà văn hoàn toàn quên mất buổi lấy rác
hàng tuần này. Quả thực là, trông làm sao được nếu nhà văn giải thích là không
có tiền trong nhà).
Ông Berg và ông Ruggles
được mời vào nhà. Trong khi họ uống bia thì nhà văn tự pha trà cho mình và một
hộp cá Sardine. Ông giải thích: “Bữa sáng của tôi”. Ông Berg thật khó giữ không
nhìn vào mắt ông Ruggles.
Thật là một bữa ăn dễ
chịu! Ông Xoóctơ rất thích những con người đang gặp và hôm nayoong lại đang rất
vui nữa. Uống xong chai bia, ông Ruggles ngà ngà, cảm thấy tự nhiên như ở nhà.
Chẳng bao lâu, ông Xoóctơ đã được nghe kể về ông Charlie Ruggles, quảng trường Karl - Horse và những dự
định nuôi một con heo của ông Ruggles.
Cuối cùng, ông Berg
lưu ý rằng còn phải đi làm tiếp. Ông Xoóctơ
mở cửa trước ra, ấn vào tay ông Ruggles một cái gì đó và nói: “Để lấy tiền
đi London, chúc ông may mắn!”.
Ông Ruggles thì hầu
như đã quên không còn nghĩ đến chuyện được trả ơn nữa.
Hai pao! Hai pao!
Chao ôi! Thế là đủ tiền mua vé cho cả nhà và có cả chút ít cho ông Berg nữa!
Cuối cùng đã thấy Charlie và London. Ông ứa nước mắt khi nghẹn ngào cảm ơn nhà
văn.
Nhà văn nói:
- Đừng! Tôi còn muốn tặng
ông nhiều hơn cơ, nhưng thời buổi khó khăn…
Rồi ông đóng cửa lại
sau họ. Ông nhà văn không còn thấy vui nữa. Những lời cám ơn của ông Ruggles
làm ông băn khoăn. Tám nhân mạng (ông nghĩ là đứa bé sơ sinh không mất tiền mua
vé) sẽ được hạnh phúc hơn nhờ có năm shilling một đầu người. Năm shilling!
Những lời cảm ơn!... Không biết một người tội nghiệp như ông Ruggles có nghĩ
mình là con người hạnh phúc không? Ông Sorte thấy cuộc đời thật rất lạ lùng.
Ông gạt bữa ăn sáng sang một bên, gieo mình vào chiếc ghế bành, gác đôi chân
lên bàn, châm thuốc lá hút và suy nghĩ hết cả buổi sáng về vấn đề này hàng
nghìn lần.
-------------
Còn tiếp...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét