Thứ Hai, 10 tháng 8, 2015

Gia đình Lily - Eve Garnett (chương 3)

Chương 3: Kate mười một tuổi (cộng và trừ)


Nếu Kate không đẹp lắm thì ngược lại nó rất thông minh. Ông Ruggles nghĩ là nó thông minh giống mẹ. Còn theo bà Ruggles thì trí thông minh của Kate là do kế thừa truyền thống của gia đình họ nhà bà. Về điều này thì ông Ruggles nói rằng ông hy vọng là nó giống cậu Albert, em trai út của bà Ruggles. Bà Ruggles nghe thấy thế thì cũng không nói gì thêm vì Albert khi còn nhỏ cũng thông minh thật.
Trí tuệ của Kate dù bắt nguồn từ đâu chăng nữa thì vẫn phải thừa nhận là rất thông minh. Cho nên cha mẹ nó đã không ngạc nhiên khi thấy nó dự kỳ thi để lấy học bổng cùng với hàng trăm trẻ khác và đã đỗ kỳ thi viết, xếp thứ chín trong toàn quận. Mặc dù ông bố bà mẹ rất hãnh diện vì con, nhưng học bổng là dành cho các lớp ở trường trung học, mà trường trung học thì phải mặc quần áo đồng phục đặc biệt trong năm năm liền!
Bà Ruggles đã nói với bà giáo lớp Kate học, vào một buổi sáng thứ bảy là:
- Thưa bà, bà biết đấy, một điều như thế thật là rất khó! Tôi không phải là người mẹ muốn con mình phải ở nhà kiếm sống vào tuổi mười bốn. Tôi mong muốn chúng được học hành đến nơi đến chốn, không phải làm những việc linh tinh nhiều giờ hoặc là đi lang thang trên đường phố kiếm việc. Nhưng thật sự những áo khoác ngoài, những bộ quần áo thể thao, nào mũ, nào vớ riêng biệt ấy, chưa kể đến giày, ủng đều là những thứ phải sắm cả. Cháu sẽ không mặc được các quần áo cũ của chị cháu nữa, mà luôn luôn phải có quần áo mới. Tôi nghe nói chính quyền không giúp đỡ nhiều để mua được các thứ đó đâu. Thưa bà, chúng tôi sẽ có thể sắm sửa đủ cho cháu, nếu như chỉ có mình nó thôi, nhưng bà biết đấy, chúng tôi có đến bảy đứa đang phải nuôi ăn, nuôi mặc.
Bà giáo biết rất rõ hoàn cảnh bà Ruggles nên bảo bà rằng, Kate còn phải thi kỳ cuối cùng nữa, gọi là thi vấn đáp. Kỳ thi này sẽ rất ngắn thôi, nếu Kate lại đỗ nữa thì ông Ruggles sẽ nhận được một mẫu đơn của chính quyền đưa, để khai rõ lương của ông, các khoản chi phí của ông và khả năng cung cấp các trang bị cho Kate đi học. Bà giáo nói thêm:
- Bà Ruggles ạ, ngay cả với những thứ được nhà nước cấp cho rồi, cũng vẫn còn rất khó khăn. Nhưng tôi mong bà sẽ không từ chối cái học bổng này, nếu như Kate giành được. Quả thật, cháu nó là một đứa trẻ rất sáng dạ. Tôi mong được nhìn thấy cháu gặp mọi điều may mắn.
Bà cũng cho biết thêm, nếu Kate cũng thi vấn đáp tốt như kỳ thi đầu, thì nó có thể giật được một trong các giải thưởng tiền.
Vậy là, bà Ruggles nói, bà sẽ đợi xem và kể lại việc này cho chồng bà biết. Mười ngày sau đó thì Kate đỗ kỳ thi vấn đáp dễ dàng, nó đậu thứ ba trong số hàng trăm thí sinh và được nhận giải thưởng một đồng ghinê vàng.
Ảnh nó được đăng trên tờ báo địa phương và cả gia đình làm một bữa tiệc trà có cá Sác-đin và bánh bích qui sôcôla để chào mừng sự kiện quan trọng này.
Ông Ruggles rất tự hào, tuyên bố rằng, không gì có thể ngăn trở Kate tiếp tục học tập, khi nó có một trí tuệ thông minh như thế.
Nhưng khi trẻ con đã đi ngủ, ông bà Ruggles ngồi nói chuyện về vấn đề này, ở cái bàn trong bếp thì vợ ông bảo:
- Ngồi mà nói thì thật dễ. Nhưng ông nghĩ mà xem, kiếm được đủ quần áo mới, giày, ủng mới cho Kate trong năm năm tới thì thật gay quá.
Ông Ruggles nói:
- Nhà nước sẽ giúp cho ít nhiều. Ta hãy cố gắng rồi cuối cùng ta sẽ được bù đắp lại. Hãy nhớ lấy lời tôi, Rosie ạ! Mẹ tôi xưa kia luôn luôn nói…
Nhưng vợ ông cướp lời ngay:
- Tôi không quan tâm đến điều mẹ ông luôn luôn nói. Tôi chỉ muốn nói, dù nhà nước có trợ cấp hay không thì ngay bây giờ ta cũng phải mua quần áo, các thứ khác cho Kate và phải trả tiền ngay. Tôi e rằng ông không kiếm đủ tiền cho Kate như ông nghĩ. Ông có nghĩ rằng, khi nó đã học cao như thế thì nó sẽ chọn nghề gì để làm không?
Ông Ruggles nói, ông chưa nghĩ đến điều đó, nhưng ông tin rằng Kate sẽ chọn một nghề hợp với hoàn cảnh của mình thôi.
Bà Ruggles nói:
- Cái đó còn tùy thuộc vào cách nhìn của người ta. Nghĩ thế này thì hợp lý, nghĩ thế khác thì không. Nhưng mọi người đều biết rằng, không có vấn đề tiền trong đó. Tôi thật lấy làm lạ một đứa trẻ thành phố như Kate mà lại có những ý nghĩ rất khác.
Ông Ruggles nóng nảy hỏi:
- Thế nào, nó nghĩ gì?
Bà Ruggles trả lời:
- Đất đai, trồng trọt! Kate nói rằng nếu người ta muốn trồng trọt cho tốt thì người ta phải biết rõ cách trồng, mọi việc khác cũng như thế cả. Hôm qua nó nói với tôi về cày máy, về hóa chất, rồi nó bảo rằng trong khi mọi người đều luôn luôn cần đến thực phẩm - chúng ta đã biết quá rõ về điều đó - nếu nó chọn nghề trồng trọt nó sẽ không bao giờ thất nghiệp. Còn nếu ai thất nghiệp thì có thể đến chỗ nó, vì ở nông trại thì luôn luôn có nhiều thứ để làm, để ăn. Điều chủ yếu trên hết là, nó thích được luôn luôn ở ngoài trời.
Ông Ruggles nói:
- Giống như cha nó.
Nhưng lời ông bay theo gió, vì Rosie nghe thấy William khóc đã chạy lên lầu rồi.
Mấy ngày sau ông Ruggles nhận được một bức thư của Sở Giáo dục hỏi xem, con gái ông có nhận học bổng cô được cấp không. Nếu nhận thì ông phải khai vào bản mẫu họ gửi kèm theo. Có nhiều câu hỏi đề cập đến đời tư của ông Ruggles, những câu hỏi về vợ ông, về họ hàng của ông, về các con ông, về lương ông và nhiều vấn đề khác.
Khổ nỗi ông Ruggles lại viết rất kém, nhưng ông nhất định từ chối mọi người muốn giúp đỡ ông. Ngay sau bữa tối, ông mời cả nhà ra khỏi bếp, đặt bản mẫu kê khai lên bàn và bắt đầu khai.
Sau ba ngày, ông Ruggles nhận được thư trả lời. Trong đó họ nói rằng đã xét đến mọi điều ông viết, nhà nước rất vui lòng cho Kate một chỗ học miễn phí giáo dục, nhưng cô chưa đủ tiêu chuẩn để được cấp các phí tổn mua sắm quần áo, trang bị riêng cho cô. Cùng một lúc ông cũng nhận được bức thơ của trường Trung học có một bản kê các thứ cần dùng cho một nữ học sinh của trường mà gia đình phải tự mua sắm. Nếu bức thơ thứ nhất đã làm cho ông Ruggles xúc động thì bức thơ thứ hai còn làm ông xúc động hơn nữa. Ông xướng lên: “Vợt bóng quần vợt”, “Các túi đựng giày”, “Còn gì nữa?”.
Bà Ruggles - đã nhòm qua vai ông đọc bức thơ - trả lời ông rằng, bà thấy chỉ có một việc phải làm là viết thơ báo cho họ biết không nhận học bổng nữa, vì vợ chồng ông không thể nào cố gắng tự túc lo mọi khoản chi phí khác cho việc đi học của Kate được.
Thế là Kate khóc, rồi Lily Rose thông cảm với em cũng khóc, còn William không kìm được khóc ré lên làm cho bà Ruggles cũng gần như phát khóc nốt.
Ông Ruggles vội vã đóng cửa sổ lại, sợ hàng xóm láng giềng nghe thấy tiếng khóc lóc, lại ngỡ là ông xử tệ với vợ con. Ông nói là, ông chưa biết giải quyết việc này như thế nào, hãy chờ đến tối lúc ông đi làm về. Ông chắc rằng phải có sự lầm lẫn ở một khâu nào đó và trong ngày hôm đó ông có thể sẽ nghĩ ra. Ông đút hai bức thư vào túi rồi đi làm.
Trong khi đó thì một người khác lại nghĩ ra được điều hay. Chẳng phải ai xa lạ mà chính là bà bếp mập ù, làm ở nhà bà Beaseley! Bà đã nhìn thấy ảnh Kate trên tờ báo địa phương và sung sướng chúc mừng bà Ruggles, khi bà Ruggles đem quần áo đến trả vào chiều hôm đó. Bà sôi nổi nói to:
- Tôi đã đưa tờ báo cho bà Beaseley xem. Bà rất quan tâm đến việc này và tiếc rằng đó không phải là cô bé Lily Rose của bà.
Rồi bà bếp mập cười nói:
- Nhưng bà ta hỏi tôi, ông bà làm thế mà lo nổi quần áo, các trang bị khác cho con vào học trường này, không biết các học bổng này có cấp thêm tiền không? Bà ta hỏi tôi: “Khi nào bà Ruggles đến thì hãy bảo cho bà biết, nếu những bộ quần áo thể thao và những cái áo choàng của nhà ta bà dùng được, thi tôi có thể cho bà tất cả những thứ mà cô Hêlen (cháu gái của bà Beaseley vừa nghỉ ở đây mới đi khỏi) lớn lên để lại. Bà nói tiếp:
- “Cô Helen phải lớn gấp đôi cô Kate nhà bà, nhưng bà có thể cắt đi chữa lại được. Đấy tôi đã nói là tôi sẽ bảo bà và bà hãy nói cho cháu nó biết”.
Bà Ruggles cảm ơn bà bếp mập và lại suýt khóc, nhưng lần này là vì sung sướng. Bà vội vã quay về nhà thật nhanh để nói cho chồng biết tin mới này. Bà vẫn tin là chồng mình phải có điều gì lầm lẫn đây. Bà về đến nhà thì thấy ông đang đứng ở ngưỡng cửa, hai tay đút túi và miệng ngoác ra cười.
Ông nhìn thấy bà thì kêu lên:
- Mọi việc tốt đẹp cả, Rosie! Tất cả là do có một sự lầm lẫn buồn cười quá. Buổi trưa tôi đã đến trường. Kate đã kể lại mọi việc cho cô giáo nghe. Cô đi ngay lên Sở trình bày lại và nói rằng hẳn phải có một sự lầm lẫn gì đây.
Ông nói tiếp:
- Hình như tôi đã khai lầm về số con tôi có.
Bà Ruggles kêu lên:
- Ủa! Sao lại thế được!
Ông Ruggles gục gặc đầu, nhắc lại:
- Coi bộ tôi đã viết làm con 7 thành con 1. Đúng thế đấy Rosie ạ!
Ông mỉm cười bẽn lẽn nói thêm:
- Tôi viết kém. Nhưng bà sẽ thấy mọi việc tốt đẹp cả thôi.
Đúng như vậy. Ông Ruggles đã làm lại bản khai và nhà nước đã trả lời vui lòng cấp tiền mua quần áo cho Kate trong khoảng sáu tháng sắp tới.
Bà Ruggles nói:
- Như vậy có nghĩa là tiền sẽ đến sau khi đã phải mua quần áo. Vậy thì phải bắt đầu gom góp quần áo ngay, dù bây giờ mới là tháng năm và đến tháng chín Kate mới phải đi học.
Rồi bà lấy ngay lọ mực và mảnh giấy trong cuốn sổ đẹp nhất của bà, ngồi xuống viết thư cho bà Beaseley. Trong thư bà nói, rất cảm ơn bà Beaseley đã cho Kate những quần áo cũ của cô cháu bà. Với chỗ quần áo đó và đồng ghinê vàng Kate được thưởng, trong lúc này họ có thể xoay xở đủ để mua cái vợt quần vợt, túi đựng giày và các thứ cần thiết khác.
* * *
Kate Ruggles đã quá quen mặc đồ cũ của chị nó, nên những thứ cô cháu gái bà Beaseley cho, nó trông cứ như mới tinh. Thật là thú vị xiết bao, có được nhiều quần áo như vậy cho mình! Các bộ quần áo thể thao, cái áo choàng, một áo khoác màu xanh sẫm có túi, bên trên thêu hàng chứ “Trường Trung học Otwell”. Nhưng đẹp hơn cả là cái mũ học sinh có dải băng sọc và cái ca vát học sinh có sọc. Cả hai thứ giá tới tám silinh mười một penny và chỉ có bán ở một cửa hàng đặc biệt thôi.
Bà Ruggles nói:
- Con phải mặc quần áo này cho đến khi con ra trường.
Nhưng Kate cảm thấy nó không hề phiền lòng nếu như có phải mặc những quần áo đẹp này suốt cả đời. Nó sốt ruột chờ ngày khai giảng để được diện những quần áo oách này đi học.
Nhưng ngày đó vẫn còn xa quá. Trong khi chờ đợi thì quần áo được xếp cẩn thận vào tủ kê ở trong phòng ngủ của bà Ruggles. Khi bà và lũ trả vắng nhà, Kate thường lẻn vào phòng mở tủ ra, lén ngắm các thứ. Nó lấy ra cái mũ nhung có dải băng sọc, vuốt ve nâng niu cái mũ hết sức yêu quý. Thường xuyên hơn, người ta thấy nó ngồi ngắm nghía xấp quần áo, chìm đắm vào trong những ước mơ… Nó có yêu trường mới không?
Có thể sẽ có những vấn đề như bài làm ở nhà, làm sao mà làm bài được trong cái bếp ồn ào này vào buổi tối, về mùa đông thì lạnh vô cùng…
Rồi tất cả những đứa bạn mới mà chúng biết rất nhiều điều hơn nó! Nhưng nó tin rằng, chẳng bao lâu nó sẽ đuổi kịp chúng. Ý nghĩ của nó chuyển sang một hướng mới. Nó bắt đầu mơ tới tiếng La tinh, đến hình học, đến những môn học khác mà nó chưa được học ở trường cũ, nó mơ đến một trường cao đẳng to lớn, ở đấy người ta học trồng lúa, trồng khoai tây, vắt sữa bò, chăm nom ngựa, heo, lái máy cày…Cô như nhìn thấy giữa cô và cái tủ mở là bức tranh một trang trại lớn, giống như cái trại cạnh đường London. Cô đang ở giữa trại làm bơ, lái máy kéo…! Giấc mơ này bị gián đoạn bởi tiếng mở khóa cửa trước của bà Ruggles. Kate vội đóng nhanh tủ lại, nhẹ nhàng bước ra khỏi phòng mẹ, không gây một tiếng động nào, rồi chạy về phòng mình reo lên.
* * *
Một buổi sáng - khoảng một tuần lễ trước khi trường mới khai giảng - trong khi Lily Rose và Kate đang giúp mẹ rửa bát đĩa bữa ăn sáng thì có tiếng gõ cửa bếp. Kate ra mở cửa và ngạc nhiên thấy một cô bạn học - cô Patricia Watkins - đứng ở ngưỡng cửa.
Cô bạn học này cũng vào trường Trung học, đang đứng đó trong bộ đồng phục đẹp tuyệt vời - bộ đồ thể thao, cái áo vét và chiếc mũ học sinh. Cô đến mời Kate cùng ra biển chơi. Mẹ cô cùng ba cô bạn học nữa sẽ cùng đi. Ông cậu của cô - ông Sid Watkins - lái xe tải trở hàng đi Xontevon sẽ qua đón họ, đưa họ đến bờ biển chơi, rồi năm giờ chiều quay về đón họ đưa về nhà. Kate có thích đi chơi biển không? Chắc chắn là thích rồi. Bà Ruggles cũng vui lòng cho phép. Thế là Kate đồng ý hẹn gặp các bạn ở chỗ cửa hàng vào lúc mười một giờ để đi. Patricia chạy ngay về nhà.
Một giờ sau, Kate chuẩn bị đi chơi, đề nghị mẹ cho mặc bộ đồ học sinh mới đang để trong tủ. Bà Ruggles thấy thế rất bực mình.
Bà kêu lên:
- Mẹ muốn biết là con còn muốn gì nữa! Con đã biết rõ, những quần áo này là để đến trường, chỉ đến trường thôi. Con có biết rằng chơi đùa trên biển thì sẽ làm bẩn và dây hết nước mặn vào quần áo không. Thôi, đừng có đề nghị mẹ thêm nữa, con đã biết rằng khi nào mẹ bảo không là không. Nếu bà Watkins cho phép Patricia mặc bộ quần áo học sinh của nó đi chơi ngoài trời thì đó không phải là việc của mẹ và của con. Con hãy mặc bộ quần áo nào mẹ bảo con, hoặc là con đừng đi nữa.
Rồi bà rút một bộ đồ sạch trên dây phơi đưa cho con gái và biến vào sân sau. Kate cầm bộ đồ đứng tần ngần rồi chậm chạp lên lầu. Nó thay đồ rất lâu và khi xuống dưới nhà trước khi bước vào phòng còn ngoái nhìn qua cửa bếp. Không có ai trong bếp cả. Nhìn qua cửa sổ vào trong sân sau, Kate thấy William dang ngủ trong cái xe đẩy của nó. Peg đang chơi nặn bánh bằng đất ở góc vườn cạnh chuồng gà, còn bà Ruggles thì đang bận trong nhà giặt. Lily Rose thì hình như biến đi đâu mất rồi. Bờ biển thì sạch, thế là Kate vẫn đứng quay mặt nhìn ra để trông chừng xem có ai đi qua không, rồi rút ngay cái mũ ở tủ sau lưng ra, đội lên đầu. Nó nghĩ, xét cho xùng, tiền mua cái mũ này là của nó, mũ là mũ của nó, nếu nó muốn đội thì nó cứ việc đội. Nó mở cửa trước và lẻn ra ngoài.
- Mày lại lấy cái gì đi đấy phải không?
Một giọng nói từ trên lầu đưa xuống. Ngẩng đầu nhìn lên, Kate thấy Lily Rose đang ló đầu ra cửa sổ.
Kate nói: “ Em không cần! Đây là mũ của em!” rồi nhăn mặt trêu chị và chạy nhanh ra khỏi Phố Cụt.
* * *
Biển chỉ cách nhà có sáu dặm, nhưng một năm rồi Kate chưa ra biển. Nó cũng chưa bao giờ được đi tới tận Xontevon.
Cai xe tải của ông Watkins thật tuyệt vời. Ông xếp bà Watkins, chị dâu ông, ngồi ở đằng trước với ông. Còn năm đứa trẻ con thì ngồi ở đằng sau, lắc lư rập rình như những cái phao trên mặt nước, làm chúng rất thích thú. Mặt trời tỏa sáng, cảnh vật trông mới đáng yêu làm sao. Ông Watkins thả họ ở một đoạn bờ biển yên tĩnh cách thành phố khoảng một dặm. Bà Watkins cho chúng ăn no bánh mì kẹp giăm bong và chuối, rồi ngồi thoải mái với một túi kẹo hạnh nhân và các đồ đan lát.
Lũ trẻ chơi đùa theo ý thích của chúng. Chúng băt đầu thử lộn đầu xuống đất, chổng chân lên trời trồng cây chuối, rồi đi bằng hai tay. Nhưng trên bờ biển lổn nhổn đá, việc đó đâu có dễ. Chiếc áo vét mới của Patricia cuối cùng được dùng làm thảm để chơi cho dễ. Đến quá trưa, Kate nhìn đến cái áo thì nó lấy làm may bà Ruggles đã nói “không”, khi nó đề nghị mặc áo vét mới đi chơi.
Khoảng một tiếng đồng hồ sau bà Watkins bỏ đồ đan xuống một lát nhìn lên. Biển lặng hiền hòa, lũ trẻ chơi đùa khỏe mạnh, nằm thành hàng tắm nắng… Thật tốt cho sức khỏe của chúng. Bà Watkins tự thưởng cho mình một viên kẹo hạnh nhân.
Chợt cô bé Patricia nhìn đồng hồ đeo tay rồi bảo các bạn:
- Nửa giờ nữa chiếc tàu kia sẽ cập đây.
Kate hỏi:
- Tàu nào?
Patricia đáp:
- Tất nhiên là tàu Cheno, nó chạy từ đây qua Pháp rồi lại trở về. Nó qua đây rồi đi Xontevon. Bạn chưa bao giờ nhìn thấy nó ư?
Kate chưa bao giờ nhìn thấy, mấy đứa trẻ kia cũng vậy.
Patricia nói:
- Khi nó đi qua, sóng sẽ truyền thẳng vào bờ.
- Chúng ta hãy xếp một đống đá to. Đứng lên đó để tránh sóng.
Cả bọn đồng ý. Chúng bắt đầu xếp đá.ngay, hết sức hăng hái. Đó là một công việc sôi nổi, gấp rút và Kate thật sự sung sướng vì đã không mặc bộ đồ thể thao mùa đông dày cộm đi chơi. Cái mũ nhung của nó đội rất nóng, một lúc sau nó không thể chịu đựng thêm nữa - lúc này mọi người đã bắt đầu nhìn vào cái mũ - thế là nó chạy lên, bỏ mũ ra để ở bên cạnh bà Watkins.
Lũ trẻ làm rất nhanh và lúc tàu sắp đến thì đã xếp xong được đống đá. Patricia giải thích cho chúng biết là, khi tàu đi qua được mấy phút thì sóng mới truyền vào. Nó lập tức bảo các bạn trèo hết lên đống đá đứng chờ. Ngay lúc đó thì đợt sóng đầu tiên xô vào, sóng rất nhỏ. Nhưng đợt tiếp theo thì cao hơn, và tiếp liền sau đó là một đợt sóng còn cao hơn nữa. Đống đá bị sóng vây quanh, lũ trẻ ôm lấy nhau chụm lại, đứng một cách khó khăn trên đó.
Patricia nói:
- Hôm nay hoàn toàn không có sóng to.
Nó vừa nói xong thì đợt sóng lớn nhất và cuối cùng ập vào ngay, gần như phá tan đống đá. Làm cho lũ trẻ đứng xuống đất, nước ngập đến tận đầu gối. Nhưng điều đó chưa ăn thua gì so với cảnh bà Watkins phải chịu đựng! Bà đang ngồi đan thoải mái, thỉnh thoảng nhìn lên xem lũ trẻ chơi đùa ra sao, thì chợt thấy một cơn sóng lớn trào lên từ ngoài biển tiến vào bờ. Bà còn chưa kịp đứng lên thì nước đã ập lên trên người bà, dưới thân bà, chung quanh người bà rồi rút ra cuốn đi cả quyển hướng dẫn đan lát của bà, bình nước trà và cái mũ của Kate.
Nghe tiếng kêu thất thanh của bà, lũ trẻ vội chạy nhanh lên, thật nhanh chừng nào mà đôi chân trần của chúng còn cho phép. Chúng can đảm mò các vật bị mất. Lấy lại được cuốn sách dạy đan lát. Túi bánh mì và bơ cũng lấy lại được nhưng khó khăn hơn và thấm đầy nước mặn. Còn cái mũ của Kate và hộp bánh kem thì đang vui vẻ bơi ra biển! Kate muốn bơi ra lấy nhưng bà Watkins không cho, giữ chắc nó trong đôi tay bà. Chẳng thể nào lấy lại được nữa, trừ phi là có một cái thuyền. Nhưng lạy chúa, chẳng thấy bóng một cái thuyền nào ở đây cả. Kate gieo phịch người xuống bờ biển, khóc cay đắng. Nó khóc không phải chỉ vì mất cái mũ mà còn vì sợ bà Ruggles ở nhà nữa. Bà Watkins hết sức làm cho nó vui lên. Bà kêu:
- Nhìn tôi đây này. Gần như bị ướt hết. Những trang sách này mới đau đớn chứ, chỉ còn một nửa là dùng được. Còn những cái bánh kem tôi đã mua cho các cháu uống trà thì đang bơi ra kia với cá!
Đó là tất cả những cái thú vị đấy, nhưng bị ướt hoặc đã mất. Bà Watkins tỏ ra là một bà mẹ tốt, không hề cáu kỉnh khi đi về.
Kate đã cố nín khóc, mỉm cười, tham gia uống trà với mọi người và chén một mẩu bánh mì với bơ, đều đã ngấm nước mặn. Chỉ có trà chứa trong phích nên không bị nước mặn ngấm vào. Nhưng thật là cám cảnh: nước mắt nó giỏ cả xuống tách trà, làm tăng thêm vị mặn của bánh mì và bơ. Trong khi đó thì như trêu ngươi, cái mũ của nó vẫn bơi rập rình trên mặt nước, trước mặt mọi người chỉ cách bờ chừng mươi mét. Ồ, tại sao không có một người nào bơi thuyền tới, cũng không có lấy một người tắm biển có thể bơi ra lấy cái mũ vào! Chẳng có ai đến cả và cái mũ cứ từ từ trôi, ngày càng xa thêm. Đến lúc ông Watkins đem xe tải đến đón họ về, thì cái mũ chỉ còn là một cái chấm nhỏ ở tít ngoài xa.
Ông Watkins thấy Kate trông thật thê thảm và cả nhóm thì buồn rầu, nên ông dừng xe ở Xontevon mua bánh kem tươi cho mọi người và Kate ăn, cố làm cho nó vui lên. Nhưng Kate hoàn toàn không thể nuốt được bánh kem. Cảnh tượng đáng buồn của họ cùng với ý nghĩ mất mũ của nó làm cho nó cảm thấy như bị bệnh. Các đứa trẻ khác ăn bánh và cười một chút, còn Kate thì rất buồn, không sao ăn được. Khi xe dừng lại ở trước cửa hiệu, hình như chẳng có ai còn quyến luyến chuyến đi, tất cả đều xuống xe, chào tạm biệt ra về.
Kate đi bộ chậm rãi về nhà, nó tự hỏi không biết làm thế nào để báo cái tin buồn này cho bà Ruggles. Nó hi vọng hôm nay là thứ sáu có lẽ bà sẽ không có nhà vì phải đi trả quần áo giặt. Bà Ruggles không có nhà thật, nhưng nửa giờ sau bà trở về. Cũng chả cần kể lại câu chuyện thê thảm này cho bà làm gì nữa vì bà đã gặp bà Watkins trên đường về nhà và biết cả rồi.
* * *
Còn năm ngày nữa là trường mới sẽ khai giảng. Kate Ruggles - Kate Ruggles thông minh, người đã thi đỗ giành được học bổng - sẽ không có mũ đi học. Ôi, thật là khủng khiếp! Từ “mũ” được nói đến khó khăn ở Phố Cụt số 1. Nhưng mới kì lạ làm sao, khi người ta không muốn nói đến một từ nào thì hình như không có nó người ta không thể diễn đạt được ý mình. Nhưng còn tệ hơn là vấn đề: làm sao có thể đi học mà thiếu cái mũ học sinh. Người ta bán sáu silinh mười một penny một cái mũ, mà Kate thì chỉ có năm silinh tiền phần thưởng của nó còn lại.
Bà Ruggles đã bảo nó:
- Con hãy mua lấy một dải băng học sinh đính vào cái mũ của con, thế là được rồi. Đừng có nói với mẹ rằng, cái mũ của con màu xanh, còn cái mũ học sinh lại màu đen, mẹ biết điều đó rồi. Thật đáng đời con! Con sẽ trông khác mọi người, vì thực sự con đã hành động khác người và trội hơn bất kì đứa trẻ nào. Mẹ biết con còn đang có những ý nghĩ điên rồ lởn vởn trong đầu ấy.
Tranh luận cũng vô ích mặc dù người ta cứ thích tranh luận. Nhưng Kate tin chắc rằng, nó không bao giờ, không bao giờ có thể ra mắt lần đầu tiên ở cái trường mới đó, dưới cái mũ màu xanh, trong khi mọi học sinh đều đội mũ màu đen. Giá mà nó có thể tìm hoặc kiếm đâu ra được một silinh mười một penny vào thứ tư tuần tới thì nó sẽ mua một cái mũ khác ngay!
Nó đi vơ vẩn không có mục đích trên Phố Cụt rồi vào thành phố. Những phương án có thể và không thể lần lượt diễn ra trong đầu nó. Nửa giờ sau, nhìn vào một cửa hiệu lớn bán hoa quả, nó thấy hai đứa bạn trai học cùng trường đang bưng các giỏ gì đó trên tay. Chúng đi ngang qua nó rồi biến vào trong cửa hiệu. Kate lén nhìn vào xem cái gì trong giỏ. Hóa ra là nấm! Những cánh nấm tươi tuyệt đẹp! Chao ôi! Nó nảy ra một ý! Khi chúng đi ra, Kate kéo đứa bạn trai lớn hơn lại, nói không ra hơi:
- Ted, cậu lấy nấm ở đâu đấy?
Ted nói:
- A, cậu muốn biết chỗ ư?
Thằng bé gọi em nó:
- Ê, Bill. Đây là Kate Ruggles, người biết tất cả mọi điều. Nó muốn biết chúng ta lấy nấm này ở đâu.
Bill nhìn Kate yên lặng một lúc, rồi nhe răng cười nhăn nhở nói:
- Cậu hãy dậy sớm, rồi tự đi tìm lấy.
Cả hai đứa cười khanh khách vào mặt nó rồi vừa đu đưa những cái giỏ không, vừa bỏ chạy. Kate đi vào cửa hiệu hỏi người đàn bà trẻ thường trực ở đấy xem nấm giá bao nhiêu. Người đàn bà trẻ cho nó biết họ mua một silinh một pao (450gr) và hỏi nó có muốn bán nấm không? Kate trả lời là có, nếu nó tìm được. Người đàn bà trẻ nhắc lại:
- Một silinh một pao. Tôi đoán họ hái ở đường London. Chúng tôi mua nấm vào ngày thứ hai hàng tuần, nếu cô có thì mang đến.
Kate nghĩ ngay đến “Đường London”. Nó phải dậy rất sớm, trước khi hai thằng quỷ kia ra đồng nhiều và phải xem kĩ các cánh đồng quanh các trại lớn mà nó từng hay ngắm nghía rất lâu trên đường London. Cái trại trong giấc mơ của nó. Nó tin chắc bằng cách nào cũng phải tìm ra nơi có nấm.
* * *
Tối hôm đó khi Kate chuẩn bị vào giường đi ngủ thì Lily Rose nằm cùng giường với nó hỏi:
- Em đang làm gì đấy?
Kate vội thổi tắt ngọn đèn cầy sợ Lily Rose nhìn thấy nó đang đặt cái bàn chải tóc xuống dưới tấm trải giường bên phía nó nằm. Cái bàn chải tóc này có tác dụng đánh thức nó dậy, bất cứ khi nào nó trở mình ban đêm. Nó sợ ngủ quên mất, vì ngày mai là chủ nhật, cả nhà dậy muộn nên không để đồng hồ báo thức. Nó ngủ thiếp đi ngay và mãi đến bốn giờ sáng mới tỉnh dậy – cái bàn chải tóc đã đánh thức nó. Trời còn tối mịt, lại lạnh nữa, ý nghĩ đi tìm nấm coi bộ không còn thú vị như đã nghĩ sáng hôm qua nữa. Tuy thế Kate vẫn lẳng lặng dậy, bắt đầu đi vớ vào chân. Ôi! Cái sàn mới cọt kẹt làm sao! Lily Rose có thể tỉnh dậy mất, còn Peg thì không cần nói đến, nó ngủ rất say. Nó cố gắng giữ yên tĩnh, đứng trên một chân và đi vớ vào chân kia. Chung quanh tối như bưng, nó đụng vào cái ghế để bên cạnh giường, làm cây đèn cầy để trên ghế rơi xuống sàn. Một tiếng động khủng khiếp vang lên trong đêm yên tĩnh. Kate nín thở bò vội về giường. Lily Rose cựa mình nhưng không tỉnh dậy, Peg vẫn ngủ say. Nhưng mấy phút sau cánh cửa mở ra, bà Ruggles cầm cây đèn cầy đi vào. Bà nhìn quanh, không thấy có kẻ trộm, ba đứa con gái bà vẫn đang ngủ yên ổn, bà yên tâm trở về phòng mình. Kate lại ngồi dậy trong bóng tối và suy nghĩ. Không ổn rồi, nó không thể nào thay đồ trong bóng tối mà không làm một người nào đó tỉnh dậy. Chỉ có cách là, tối phải mặc sẵn quần áo, chuông đồng hồ sẽ báo thức vào lúc năm giờ rưỡi sáng, nó sẽ có nhiều thời gian. Nó lại cởi vớ ra, để cái bàn chải tóc xuống dưới chân giường rồi ngủ ngay tức khắc. Sự việc tiếp theo khi nó tỉnh dậy là, Lily Rose đang lay nó hỏi cái bàn chải tóc đâu vì tối hôm qua Lily Rose còn nhớ chắc là để trên bàn trang điểm.
Ngày chủ nhật trôi qua yên ổn. Mọi người cố gắng không nói gì đến cái mũ. Nhưng kế hoạch lớn của Kate tối hôm đó suýt nữa bị phát hiện ra. Bởi vì khi nó cởi bộ quần áo mặc ngày chủ nhật ra, mặc bộ quần áo ngày thường vào, rồi lại mặc cái áo ngủ phủ ra ngoài - đó thật là một điều rất khó làm - thì Lily Rose bước vào phòng. Tuy nhiên Lily Rose đã không để ý và Kate lăn ra ngủ đóng cả bộ như vậy, chỉ thiếu có đôi giày chưa đi. Nó ngủ say và chìm trong giấc mơ kì lạ. Nó thấy chiếc mũ bị mất biến thành một cái bánh kem to, dải mũ là một chuỗi toàn những cái nấm. Giữa lúc đó thì chuông đồng hồ báo thức làm nó tỉnh dậy. Nó chờ cho đến khi nghe thấy tiếng mẹ bước xuống thang, ra mở cửa trước rồi vào sân sau, mới thận trọng dậy, cởi chiếc áo ngủ ra, tay xách đôi giày, rón rén xuống thang gác, lẻn ra đằng cửa trước. Vừa quành khỏi góc Phố Cụt yên ổn, nó ngồi xuống một bực cửa đi giày vào, rồi vừa chạy, vừa đi, tiến về hướng đường London. Nửa giờ sau, nó tới những cánh đồng đầu tiên chung quanh trang trại lớn này. Nó dừng lại trước cổng trại một tí để thở và nhìn thấy hai bóng người đang đi ngang qua cánh đồng về phía nó với những cái giỏ trên tay. Khi chúng tới gần hơn Kate nhận ra ngay là Ted và Bill!
Khi gặp Kate, Ted nói:
- Xin chào Kate Ruggles! Mày theo dõi chúng tao đấy ư? Được, thông minh đấy, nhưng chưa đủ đâu. Mày đến quá chậm, chúng tao đã lấy hết, chẳng để lại cái nấm nào đâu.
Rồi nó giơ cái giỏ của chúng cho Kate xem: đầy ắp những cái nấm tuyệt diệu!
Bill không nói gì, nó chỉ cười nhăn nhở, mở cổng ra rồi cả hai đứa chạy ra đường huýt sáo và vẫy tay.
Kate cũng không nói gì - bởi vì chả có gì mà nói cả - nhưng nó cảm thấy tủi cực thực sự. Bây giờ có ích hơn là vào xem đã. Có thể chúng xạo, nói là không còn. Cô hơi tin là đã nhìn thấy cái gì trăng trắng ở giữa đồng. Nó đẩy cổng ra, đi vào. Đúng, nó đoán đúng. Đấy là nấm. Nó vui vẻ hẳn lên, nhặt nấm để cẩn thận vào giỏ. Sau khoảng hai mươi phút, xem xét lại nó thấy chỉ có hai cái nấm to, còn thì toàn là nấm nhỏ cả. Bất chợt một tiếng quát ở ngay sau lưng nó: “À, ra mày!”
Kate nhảy cẫng lên quay lại nhìn, một người đàn ông đứng bên cổng đang chỉ vào nó. Ông quát lên:
- Lại đây!
Thấy nó vẫn đứng yên ông lại quát to hơn.
- Lại đây!
Kate chậm chạp bước lại gần ông.
Nó chưa bao giờ gặp rủi như thế này. Có lẽ cái học bổng giành được sẽ kết thúc tại đây - một phần thưởng lớn kéo dài suốt cả đời nó! Đó là một ý nghĩ bi quan! Người đàn ông quát to:
- Nhanh lên!
Kate cố đi nhanh, nhưng nó như đang trải qua một cơn ác mộng, đôi chân cử động rất khó khăn.
Cuối cùng nó cũng tới được bên cổng. Người đàn ông nói:
- Vậy ra là con bé này! Chúng mày đã hái nấm của ta hai tuần trước đây. Mày có biết rằng mày đang ăn trộm không hay là mày đã không đọc bảng này?
Ông ta lấy gậy chỉ vào một tấm bảng nhỏ bên cạnh cổng, trên đó có ghi hàng chữ to, viết rất rõ ràng: “Nấm trồng. Cấm vào. Trái lệnh sẽ bị truy tố”.
Ông nói tiếp:
- Mày có biết ta là ai không? Ta là chủ những cánh đồng này. Bây giờ mày có biện bạch gì không?
Kate nói:
- Thưa ông, đây là lần đầu tiên cháu tới đây. Cháu chưa nhìn thấy tấm bảng này. Cháu mới hái có vài cái nấm nhỏ thôi. Đây ông xem!
Nó run rẩy chìa cái giỏ mở ra cho ông ta xem.
Người chủ trại nhìn nó nói:
- Nhưng mày đã hái nấm và sẽ còn hái nữa, có đúng thế không?
Kate gật đầu. Ông ta lại nói tiếp:
- Rồi mày sẽ làm gì với những cái nấm này. Ăn hay là bán?
Kate nói nhanh:
- Bán ạ!
- Chắc là để lấy tiền mua kẹo phải không?
Kate thẹn đỏ mặt, đỏ đến cả chân bộ tóc đỏ của nó, đáp lại:
- Không ạ! Để mua một cái mũ!
Người chủ trại ngạc nhiên kêu lên:
- Một cái mũ!
Thật là giống y như vợ ông!
- Mày định làm gì nữa với số tiền gom góp được? Mày sẽ mua gì cho lễ giáng sinh?
Câu trả lời vẫn hệt như trước, luôn luôn là: “Một cái mũ”
Quái lạ thật, lúc nào cũng mũ. Làm sao mà phụ nữ họ thích mũ đến thế chứ!
Ông ta hỏi Kate:
- Mày có hay mua mũ không?
Thế là Kate bỏ vội cái giỏ của nó xuống đất, hai tay bưng lấy mặt khóc nức nở.
Nó đã tin chắc rằng chuyện gì sẽ xảy ra cho nó.
Nhưng sau đó nó thấy, nó đang ngồi ở phía trên cổng, bên cạnh nó là ông chủ trại, nó đã kể cho ông nghe tất cả câu chuyện thê thảm của nó. Mọi việc đều là do cái học bổng của nó gây ra, quần áo mới của nó, ngày đi chơi biển bất hạnh của nó và tại sao nó lại phải đi hái nấm trên cánh đồng của ông. Nó kết thúc câu chuyện:
- Nhưng cháu không nhìn thấy tấm bảng. Thực sự là cháu không nhìn thấy. Cháu chỉ nhìn thấy Ted và Bill thôi.
Ông chủ trại hỏi:
- Chúng là ai vậy?
Kate nói:
- À, những thằng bé đã hái tất cả nấm…
Cô chợt ngừng lại. Cô nghĩ bụng, Ted và Bill chắc đã nhìn thấy tấm bảng này, vì chúng đã đến đây nhiều lần. Ted và Bill đã ăn trộm. Nếu ông chủ trại biết chúng là ai, có lẽ ông sẽ cho chúng vào tù mất!
Ông chủ trại nói:
- Vậy là cháu biết những kẻ đã lấy nấm ở đây nhiều lần.
Kate gật gật đầu. Ông nói tiếp:
- Nhưng cháu không chịu nói chúng ra. Hừ?
Kate nói kiên quyết:
- Không!
- Quả là tốt thiệt! Bây giờ hãy nghe đây! Cháu hãy đi theo ta đến ruộng bên cạnh, ta sẽ cho cháu một ít nấm để bán lấy tiền mua mũ. Nhưng trước hết cháu phải hứa với ta, bảo cho Ted và Bill biết, dù chúng là ai đi nữa, nếu còn bước vào ruộng của ta lần nữa thì chúng sẽ phải chịu tội đấy!
Kate sẵn lòng hứa ngay. Ồ, nó sẽ bảo thẳng cho chúng biết và còn thích thú nữa kia. Nó như nghe thấy tiếng nó nói “Con trai như chúng mày mà lại đi ăn trộm!”
Ruộng bên cạnh trắng xóa những nấm là nấm. Chỉ vài phút họ đã hái được đầy giỏ của Kate và một giỏ nữa của ông chủ trại. Ông chủ trại nói:
- Thôi bây giờ về đi. Khi nào quay lại trả tôi cái cái giỏ cháu có thể đi xem khắp cả trại, rồi nói cho tôi biết thêm cháu định làm gì khi đi trên ruộng đất này. Thôi tạm biệt. Nhớ nói cho các thằng bé kia biết nhé.
* * *
Khi Kate mang hai giỏ nấm đến cửa hiệu bán hoa quả thì người đàn bà trẻ nói:
- Tôi e rằng hôm nay chúng tôi không thể mua thêm nấm được nữa. Sáng nay chúng tôi đã mua quá nhiều rồi.
Kate kêu lên:
- Nhưng bà đã hứa với tôi cơ mà!
Người đàn bà trẻ này đáp:
- Tôi đã nói là chúng tôi có thể mua nấm vào sáng thứ hai. Đúng thế, nhưng chúng tôi đã mua được nhiều trước khi cháu đem đến. Đấy không phải là lỗi của tôi. Đấy là điều chẳng may thôi!
- Điều chẳng may! Tôi biết làm thế nào đây!
Nhưng người đàn bà trẻ đã nói:
- Tôi nói đùa đấy. Tôi sẽ lấy, nhưng chúng tôi không thể trả cháu hơn giá sáu penny một pao đâu. Chỗ này bao nhiêu đây?
Kate không biết, nó băn khoăn nhìn người đàn bà trẻ nhấc hai cái giỏ đặt lên cân.
Bà ta nói:
- Gần sáu pao. Tôi sẽ trả cháu ba silinh. Ngày mai chúng tôi không mua đâu. Cháu nghe thấy rồi chứ?
Có, Kate đã nghe thấy, nhưng không nghe rõ lắm, vì nó đang bận rộn nhẩm tính trong đầu: ba silinh cộng với năm siling là tám silinh… cái mũ học sinh giá sáu silinh mười một penny.
- Tiền của cháu đây.
Người đàn bà trẻ nói và đưa tiền cho Kate. Kate chạy ngay về Phố Cụt.
Vừa đến nhà, bà Ruggles đã bảo nó:
- Có một gói gửi cho con đấy. Mày đi đâu về đấy!
- Một gói gửi cho con à?
Kate nói và đón lấy cái gói nhỏ bọc giấy nâu ở tay mẹ. Nó mở ra. Bên trong là cái mũ đã mất của nó cuộn tròn cẩn thận! Khi nó mở mũ ra, một mảnh giấy rơi xuống. Trên mảnh giấy là hàng chữ viết rất run rẩy bằng mực đỏ:
“Một người bạn chân thành đã tìm thấy nó trong khi đánh cá. Ông I.Ruty, số 10 Đường Bờ Biển, Xontevon”.
Bên dưới, một người nào đã viết thêm bằng mực đen, nét chữ rắn rỏi:
“Tái bút. Xin cảm ơn về việc hoàn lại bưu phí”.
Cái trường mới này biết nhìn xa trông rộng làm sao chứ! Họ đã bắt học sinh ghi đầy đủ tên và địa chỉ mình lên mọi thứ đồ! Nhờ thế mà cái mũ đã trở về tay Kate. Trừ cái nhãn và dải băng sọc bị nhạt đi một tý, cái mũ trông không kém gì trước khi bị ngấm nước mặn. Ủi đi một chút và thay dải băng mới trông nó lại đẹp như trước ngay. Chắc chắn không cần mua cái mũ khác nữa. Dải băng có giá hai silinh, thế là Kate lại giàu hơn trước, nó còn lại những sáu silinh chứ không phải năm như trước! Sáu silinh để tiêu thay vì chỉ có một silinh và một penny! Đầu nó đang bận rộn tính xem sẽ tiêu những gì thì bà Ruggles nói:
- Hãy ra bưu điện mua một tấm bưu phiếu một silinh sáu penny về đây, rồi mẹ sẽ cho con một mảnh giấy để con viết thư cho người đã tìm thấy cái mũ và gửi cho con. Con hãy gửi cho ông ấy sáu penny để hoàn lại tiền bưu phí ông đã gửi mũ cho con và một silinh để tặng ông. Mẹ e rằng, ngần ấy việc chưa đủ cho con một bài học đâu!
----------
Còn tiếp

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét