Chương 3: Kate mười một tuổi (cộng và trừ)
Nếu Kate không đẹp
lắm thì ngược lại nó rất thông minh. Ông Ruggles nghĩ là nó thông minh giống
mẹ. Còn theo bà Ruggles thì trí thông minh của Kate là do kế thừa truyền thống
của gia đình họ nhà bà. Về điều này thì ông Ruggles nói rằng ông hy vọng là nó
giống cậu Albert, em trai út của bà Ruggles. Bà Ruggles nghe thấy thế thì cũng không nói gì thêm vì Albert khi còn nhỏ cũng thông minh thật.
Trí tuệ của Kate dù
bắt nguồn từ đâu chăng nữa thì vẫn phải thừa nhận là rất thông minh. Cho nên
cha mẹ nó đã không ngạc nhiên khi thấy nó dự kỳ thi để lấy học bổng cùng với
hàng trăm trẻ khác và đã đỗ kỳ thi viết, xếp thứ chín trong toàn quận. Mặc dù
ông bố bà mẹ rất hãnh diện vì con, nhưng học bổng là dành cho các lớp ở trường
trung học, mà trường trung học thì phải mặc quần áo đồng phục đặc biệt trong
năm năm liền!
Bà Ruggles đã nói với
bà giáo lớp Kate học, vào một buổi sáng thứ bảy là:
- Thưa bà, bà biết
đấy, một điều như thế thật là rất khó! Tôi không phải là người mẹ muốn con mình
phải ở nhà kiếm sống vào tuổi mười bốn. Tôi mong muốn chúng được học hành đến
nơi đến chốn, không phải làm những việc linh tinh nhiều giờ hoặc là đi lang
thang trên đường phố kiếm việc. Nhưng thật sự những áo khoác ngoài, những bộ
quần áo thể thao, nào mũ, nào vớ riêng biệt ấy, chưa kể đến giày, ủng đều là những
thứ phải sắm cả. Cháu sẽ không mặc được các quần áo cũ của chị cháu nữa, mà
luôn luôn phải có quần áo mới. Tôi nghe nói chính quyền không giúp đỡ nhiều để
mua được các thứ đó đâu. Thưa bà, chúng tôi sẽ có thể sắm sửa đủ cho cháu, nếu
như chỉ có mình nó thôi, nhưng bà biết đấy, chúng tôi có đến bảy đứa đang phải
nuôi ăn, nuôi mặc.
Bà giáo biết rất rõ
hoàn cảnh bà Ruggles nên bảo bà rằng, Kate còn phải thi kỳ cuối cùng nữa, gọi
là thi vấn đáp. Kỳ thi này sẽ rất ngắn thôi, nếu Kate lại đỗ nữa thì ông Ruggles
sẽ nhận được một mẫu đơn của chính quyền đưa, để khai rõ lương của ông, các
khoản chi phí của ông và khả năng cung cấp các trang bị cho Kate đi học. Bà
giáo nói thêm:
- Bà Ruggles ạ, ngay
cả với những thứ được nhà nước cấp cho rồi, cũng vẫn còn rất khó khăn. Nhưng
tôi mong bà sẽ không từ chối cái học bổng này, nếu như Kate giành được. Quả
thật, cháu nó là một đứa trẻ rất sáng dạ. Tôi mong được nhìn thấy cháu gặp mọi
điều may mắn.
Bà cũng cho biết
thêm, nếu Kate cũng thi vấn đáp tốt như kỳ thi đầu, thì nó có thể giật được một
trong các giải thưởng tiền.
Vậy là, bà Ruggles
nói, bà sẽ đợi xem và kể lại việc này cho chồng bà biết. Mười ngày sau đó thì
Kate đỗ kỳ thi vấn đáp dễ dàng, nó đậu thứ ba trong số hàng trăm thí sinh và
được nhận giải thưởng một đồng ghinê vàng.
Ảnh nó được đăng trên
tờ báo địa phương và cả gia đình làm một bữa tiệc trà có cá Sác-đin và bánh
bích qui sôcôla để chào mừng sự kiện quan trọng này.
Ông Ruggles rất tự
hào, tuyên bố rằng, không gì có thể ngăn trở Kate tiếp tục học tập, khi nó có
một trí tuệ thông minh như thế.
Nhưng khi trẻ con đã
đi ngủ, ông bà Ruggles ngồi nói chuyện về vấn đề này, ở cái bàn trong bếp thì
vợ ông bảo:
- Ngồi mà nói thì
thật dễ. Nhưng ông nghĩ mà xem, kiếm được đủ quần áo mới, giày, ủng mới cho
Kate trong năm năm tới thì thật gay quá.
Ông Ruggles nói:
- Nhà nước sẽ giúp
cho ít nhiều. Ta hãy cố gắng rồi cuối cùng ta sẽ được bù đắp lại. Hãy nhớ lấy
lời tôi, Rosie ạ! Mẹ tôi xưa kia luôn luôn nói…
Nhưng vợ ông cướp lời
ngay:
- Tôi không quan tâm
đến điều mẹ ông luôn luôn nói. Tôi chỉ muốn nói, dù nhà nước có trợ cấp hay
không thì ngay bây giờ ta cũng phải mua quần áo, các thứ khác cho Kate và phải
trả tiền ngay. Tôi e rằng ông không kiếm đủ tiền cho Kate như ông nghĩ. Ông có
nghĩ rằng, khi nó đã học cao như thế thì nó sẽ chọn nghề gì để làm không?
Ông Ruggles nói, ông
chưa nghĩ đến điều đó, nhưng ông tin rằng Kate sẽ chọn một nghề hợp với hoàn
cảnh của mình thôi.
Bà Ruggles nói:
- Cái đó còn tùy
thuộc vào cách nhìn của người ta. Nghĩ thế này thì hợp lý, nghĩ thế khác thì
không. Nhưng mọi người đều biết rằng, không có vấn đề tiền trong đó. Tôi thật
lấy làm lạ một đứa trẻ thành phố như Kate mà lại có những ý nghĩ rất khác.
Ông Ruggles nóng nảy
hỏi:
- Thế nào, nó nghĩ
gì?
Bà Ruggles trả lời:
- Đất đai, trồng
trọt! Kate nói rằng nếu người ta muốn trồng trọt cho tốt thì người ta phải biết
rõ cách trồng, mọi việc khác cũng như thế cả. Hôm qua nó nói với tôi về cày
máy, về hóa chất, rồi nó bảo rằng trong khi mọi người đều luôn luôn cần đến
thực phẩm - chúng ta đã biết quá rõ về điều đó - nếu nó chọn nghề trồng trọt nó
sẽ không bao giờ thất nghiệp. Còn nếu ai thất nghiệp thì có thể đến chỗ nó, vì
ở nông trại thì luôn luôn có nhiều thứ để làm, để ăn. Điều chủ yếu trên hết là,
nó thích được luôn luôn ở ngoài trời.
Ông Ruggles nói:
- Giống như cha nó.
Nhưng lời ông bay
theo gió, vì Rosie nghe thấy William khóc đã chạy lên lầu rồi.
Mấy ngày sau ông
Ruggles nhận được một bức thư của Sở Giáo dục hỏi xem, con gái ông có nhận học
bổng cô được cấp không. Nếu nhận thì ông phải khai vào bản mẫu họ gửi kèm theo.
Có nhiều câu hỏi đề cập đến đời tư của ông Ruggles, những câu hỏi về vợ ông, về
họ hàng của ông, về các con ông, về lương ông và nhiều vấn đề khác.
Khổ nỗi ông Ruggles
lại viết rất kém, nhưng ông nhất định từ chối mọi người muốn giúp đỡ ông. Ngay
sau bữa tối, ông mời cả nhà ra khỏi bếp, đặt bản mẫu kê khai lên bàn và bắt đầu
khai.
Sau ba ngày, ông
Ruggles nhận được thư trả lời. Trong đó họ nói rằng đã xét đến mọi điều ông
viết, nhà nước rất vui lòng cho Kate một chỗ học miễn phí giáo dục, nhưng cô
chưa đủ tiêu chuẩn để được cấp các phí tổn mua sắm quần áo, trang bị riêng cho
cô. Cùng một lúc ông cũng nhận được bức thơ của trường Trung học có một bản kê
các thứ cần dùng cho một nữ học sinh của trường mà gia đình phải tự mua sắm.
Nếu bức thơ thứ nhất đã làm cho ông Ruggles xúc động thì bức thơ thứ hai còn
làm ông xúc động hơn nữa. Ông xướng lên: “Vợt bóng quần vợt”, “Các túi đựng
giày”, “Còn gì nữa?”.
Bà Ruggles - đã nhòm
qua vai ông đọc bức thơ - trả lời ông rằng, bà thấy chỉ có một việc phải làm là
viết thơ báo cho họ biết không nhận học bổng nữa, vì vợ chồng ông không thể nào
cố gắng tự túc lo mọi khoản chi phí khác cho việc đi học của Kate được.
Thế là Kate khóc, rồi
Lily Rose thông cảm với em cũng khóc, còn William không kìm được khóc ré lên
làm cho bà Ruggles cũng gần như phát khóc nốt.
Ông Ruggles vội vã
đóng cửa sổ lại, sợ hàng xóm láng giềng nghe thấy tiếng khóc lóc, lại ngỡ là
ông xử tệ với vợ con. Ông nói là, ông chưa biết giải quyết việc này như thế
nào, hãy chờ đến tối lúc ông đi làm về. Ông chắc rằng phải có sự lầm lẫn ở một
khâu nào đó và trong ngày hôm đó ông có thể sẽ nghĩ ra. Ông đút hai bức thư vào
túi rồi đi làm.
Trong khi đó thì một
người khác lại nghĩ ra được điều hay. Chẳng phải ai xa lạ mà chính là bà bếp
mập ù, làm ở nhà bà Beaseley! Bà đã nhìn thấy ảnh Kate trên tờ báo địa phương
và sung sướng chúc mừng bà Ruggles, khi bà Ruggles đem quần áo đến trả vào
chiều hôm đó. Bà sôi nổi nói to:
- Tôi đã đưa tờ báo
cho bà Beaseley xem. Bà rất quan tâm đến việc này và tiếc rằng đó không phải là
cô bé Lily Rose của bà.
Rồi bà bếp mập cười
nói:
- Nhưng bà ta hỏi
tôi, ông bà làm thế mà lo nổi quần áo, các trang bị khác cho con vào học trường
này, không biết các học bổng này có cấp thêm tiền không? Bà ta hỏi tôi: “Khi
nào bà Ruggles đến thì hãy bảo cho bà biết, nếu những bộ quần áo thể thao và
những cái áo choàng của nhà ta bà dùng được, thi tôi có thể cho bà tất cả những
thứ mà cô Hêlen (cháu gái của bà Beaseley vừa nghỉ ở đây mới đi khỏi) lớn lên
để lại. Bà nói tiếp:
- “Cô Helen phải lớn
gấp đôi cô Kate nhà bà, nhưng bà có thể cắt đi chữa lại được. Đấy tôi đã nói là
tôi sẽ bảo bà và bà hãy nói cho cháu nó biết”.
Bà Ruggles cảm ơn bà
bếp mập và lại suýt khóc, nhưng lần này là vì sung sướng. Bà vội vã quay về nhà
thật nhanh để nói cho chồng biết tin mới này. Bà vẫn tin là chồng mình phải có
điều gì lầm lẫn đây. Bà về đến nhà thì thấy ông đang đứng ở ngưỡng cửa, hai tay
đút túi và miệng ngoác ra cười.
Ông nhìn thấy bà thì
kêu lên:
- Mọi việc tốt đẹp
cả, Rosie! Tất cả là do có một sự lầm lẫn buồn cười quá. Buổi trưa tôi đã đến
trường. Kate đã kể lại mọi việc cho cô giáo nghe. Cô đi ngay lên Sở trình bày
lại và nói rằng hẳn phải có một sự lầm lẫn gì đây.
Ông nói tiếp:
- Hình như tôi đã
khai lầm về số con tôi có.
Bà Ruggles kêu lên:
- Ủa! Sao lại thế
được!
Ông Ruggles gục gặc
đầu, nhắc lại:
- Coi bộ tôi đã viết
làm con 7 thành con 1. Đúng thế đấy Rosie ạ!
Ông mỉm cười bẽn lẽn
nói thêm:
- Tôi viết kém. Nhưng
bà sẽ thấy mọi việc tốt đẹp cả thôi.
Đúng như vậy. Ông
Ruggles đã làm lại bản khai và nhà nước đã trả lời vui lòng cấp tiền mua quần
áo cho Kate trong khoảng sáu tháng sắp tới.
Bà Ruggles nói:
- Như vậy có nghĩa là
tiền sẽ đến sau khi đã phải mua quần áo. Vậy thì phải bắt đầu gom góp quần áo
ngay, dù bây giờ mới là tháng năm và đến tháng chín Kate mới phải đi học.
Rồi bà lấy ngay lọ
mực và mảnh giấy trong cuốn sổ đẹp nhất của bà, ngồi xuống viết thư cho bà
Beaseley. Trong thư bà nói, rất cảm ơn bà Beaseley đã cho Kate những quần áo cũ
của cô cháu bà. Với chỗ quần áo đó và đồng ghinê vàng Kate được thưởng, trong
lúc này họ có thể xoay xở đủ để mua cái vợt quần vợt, túi đựng giày và các thứ
cần thiết khác.
* * *
Kate Ruggles đã quá
quen mặc đồ cũ của chị nó, nên những thứ cô cháu gái bà Beaseley cho, nó trông
cứ như mới tinh. Thật là thú vị xiết bao, có được nhiều quần áo như vậy cho
mình! Các bộ quần áo thể thao, cái áo choàng, một áo khoác màu xanh sẫm có túi,
bên trên thêu hàng chứ “Trường Trung học Otwell”. Nhưng đẹp hơn cả là cái mũ
học sinh có dải băng sọc và cái ca vát học sinh có sọc. Cả hai thứ giá tới tám
silinh mười một penny và chỉ có bán ở một cửa hàng đặc biệt thôi.
Bà Ruggles nói:
- Con phải mặc quần
áo này cho đến khi con ra trường.
Nhưng Kate cảm thấy
nó không hề phiền lòng nếu như có phải mặc những quần áo đẹp này suốt cả đời.
Nó sốt ruột chờ ngày khai giảng để được diện những quần áo oách này đi học.
Nhưng ngày đó vẫn còn
xa quá. Trong khi chờ đợi thì quần áo được xếp cẩn thận vào tủ kê ở trong phòng
ngủ của bà Ruggles. Khi bà và lũ trả vắng nhà, Kate thường lẻn vào phòng mở tủ
ra, lén ngắm các thứ. Nó lấy ra cái mũ nhung có dải băng sọc, vuốt ve nâng niu
cái mũ hết sức yêu quý. Thường xuyên hơn, người ta thấy nó ngồi ngắm nghía xấp
quần áo, chìm đắm vào trong những ước mơ… Nó có yêu trường mới không?
Có thể sẽ có những
vấn đề như bài làm ở nhà, làm sao mà làm bài được trong cái bếp ồn ào này vào
buổi tối, về mùa đông thì lạnh vô cùng…
Rồi tất cả những đứa
bạn mới mà chúng biết rất nhiều điều hơn nó! Nhưng nó tin rằng, chẳng bao lâu
nó sẽ đuổi kịp chúng. Ý nghĩ của nó chuyển sang một hướng mới. Nó bắt đầu mơ
tới tiếng La tinh, đến hình học, đến những môn học khác mà nó chưa được học ở
trường cũ, nó mơ đến một trường cao đẳng to lớn, ở đấy người ta học trồng lúa,
trồng khoai tây, vắt sữa bò, chăm nom ngựa, heo, lái máy cày…Cô như nhìn thấy
giữa cô và cái tủ mở là bức tranh một trang trại lớn, giống như cái trại cạnh
đường London. Cô đang ở giữa trại làm bơ, lái máy kéo…! Giấc mơ này bị gián
đoạn bởi tiếng mở khóa cửa trước của bà Ruggles. Kate vội đóng nhanh tủ lại,
nhẹ nhàng bước ra khỏi phòng mẹ, không gây một tiếng động nào, rồi chạy về
phòng mình reo lên.
* * *
Một buổi sáng -
khoảng một tuần lễ trước khi trường mới khai giảng - trong khi Lily Rose và
Kate đang giúp mẹ rửa bát đĩa bữa ăn sáng thì có tiếng gõ cửa bếp. Kate ra mở
cửa và ngạc nhiên thấy một cô bạn học - cô Patricia Watkins - đứng ở ngưỡng
cửa.
Cô bạn học này cũng
vào trường Trung học, đang đứng đó trong bộ đồng phục đẹp tuyệt vời - bộ đồ thể
thao, cái áo vét và chiếc mũ học sinh. Cô đến mời Kate cùng ra biển chơi. Mẹ cô
cùng ba cô bạn học nữa sẽ cùng đi. Ông cậu của cô - ông Sid Watkins - lái xe
tải trở hàng đi Xontevon sẽ qua đón họ, đưa họ đến bờ biển chơi, rồi năm giờ
chiều quay về đón họ đưa về nhà. Kate có thích đi chơi biển không? Chắc chắn là
thích rồi. Bà Ruggles cũng vui lòng cho phép. Thế là Kate đồng ý hẹn gặp các
bạn ở chỗ cửa hàng vào lúc mười một giờ để đi. Patricia chạy ngay về nhà.
Một giờ sau, Kate
chuẩn bị đi chơi, đề nghị mẹ cho mặc bộ đồ học sinh mới đang để trong tủ. Bà
Ruggles thấy thế rất bực mình.
Bà kêu lên:
- Mẹ muốn biết là con
còn muốn gì nữa! Con đã biết rõ, những quần áo này là để đến trường, chỉ đến
trường thôi. Con có biết rằng chơi đùa trên biển thì sẽ làm bẩn và dây hết nước
mặn vào quần áo không. Thôi, đừng có đề nghị mẹ thêm nữa, con đã biết rằng khi
nào mẹ bảo không là không. Nếu bà Watkins cho phép Patricia mặc bộ quần áo học
sinh của nó đi chơi ngoài trời thì đó không phải là việc của mẹ và của con. Con
hãy mặc bộ quần áo nào mẹ bảo con, hoặc là con đừng đi nữa.
Rồi bà rút một bộ đồ
sạch trên dây phơi đưa cho con gái và biến vào sân sau. Kate cầm bộ đồ đứng tần
ngần rồi chậm chạp lên lầu. Nó thay đồ rất lâu và khi xuống dưới nhà trước khi
bước vào phòng còn ngoái nhìn qua cửa bếp. Không có ai trong bếp cả. Nhìn qua
cửa sổ vào trong sân sau, Kate thấy William dang ngủ trong cái xe đẩy của nó.
Peg đang chơi nặn bánh bằng đất ở góc vườn cạnh chuồng gà, còn bà Ruggles thì
đang bận trong nhà giặt. Lily Rose thì hình như biến đi đâu mất rồi. Bờ biển
thì sạch, thế là Kate vẫn đứng quay mặt nhìn ra để trông chừng xem có ai đi qua
không, rồi rút ngay cái mũ ở tủ sau lưng ra, đội lên đầu. Nó nghĩ, xét cho
xùng, tiền mua cái mũ này là của nó, mũ là mũ của nó, nếu nó muốn đội thì nó cứ
việc đội. Nó mở cửa trước và lẻn ra ngoài.
- Mày lại lấy cái gì
đi đấy phải không?
Một giọng nói từ trên
lầu đưa xuống. Ngẩng đầu nhìn lên, Kate thấy Lily Rose đang ló đầu ra cửa sổ.
Kate nói: “ Em không
cần! Đây là mũ của em!” rồi nhăn mặt trêu chị và chạy nhanh ra khỏi Phố Cụt.
* * *
Biển chỉ cách nhà có
sáu dặm, nhưng một năm rồi Kate chưa ra biển. Nó cũng chưa bao giờ được đi tới
tận Xontevon.
Cai xe tải của ông
Watkins thật tuyệt vời. Ông xếp bà Watkins, chị dâu ông, ngồi ở đằng trước với
ông. Còn năm đứa trẻ con thì ngồi ở đằng sau, lắc lư rập rình như những cái
phao trên mặt nước, làm chúng rất thích thú. Mặt trời tỏa sáng, cảnh vật trông
mới đáng yêu làm sao. Ông Watkins thả họ ở một đoạn bờ biển yên tĩnh cách thành
phố khoảng một dặm. Bà Watkins cho chúng ăn no bánh mì kẹp giăm bong và chuối,
rồi ngồi thoải mái với một túi kẹo hạnh nhân và các đồ đan lát.
Lũ trẻ chơi đùa theo
ý thích của chúng. Chúng băt đầu thử lộn đầu xuống đất, chổng chân lên trời
trồng cây chuối, rồi đi bằng hai tay. Nhưng trên bờ biển lổn nhổn đá, việc đó
đâu có dễ. Chiếc áo vét mới của Patricia cuối cùng được dùng làm thảm để chơi
cho dễ. Đến quá trưa, Kate nhìn đến cái áo thì nó lấy làm may bà Ruggles đã nói
“không”, khi nó đề nghị mặc áo vét mới đi chơi.
Khoảng một tiếng đồng
hồ sau bà Watkins bỏ đồ đan xuống một lát nhìn lên. Biển lặng hiền hòa, lũ trẻ
chơi đùa khỏe mạnh, nằm thành hàng tắm nắng… Thật tốt cho sức khỏe của chúng.
Bà Watkins tự thưởng cho mình một viên kẹo hạnh nhân.
Chợt cô bé Patricia
nhìn đồng hồ đeo tay rồi bảo các bạn:
- Nửa giờ nữa chiếc
tàu kia sẽ cập đây.
Kate hỏi:
- Tàu nào?
Patricia đáp:
- Tất nhiên là tàu
Cheno, nó chạy từ đây qua Pháp rồi lại trở về. Nó qua đây rồi đi Xontevon. Bạn
chưa bao giờ nhìn thấy nó ư?
Kate chưa bao giờ
nhìn thấy, mấy đứa trẻ kia cũng vậy.
Patricia nói:
- Khi nó đi qua, sóng
sẽ truyền thẳng vào bờ.
- Chúng ta hãy xếp
một đống đá to. Đứng lên đó để tránh sóng.
Cả bọn đồng ý. Chúng
bắt đầu xếp đá.ngay, hết sức hăng hái. Đó là một công việc sôi nổi, gấp rút và
Kate thật sự sung sướng vì đã không mặc bộ đồ thể thao mùa đông dày cộm đi chơi.
Cái mũ nhung của nó đội rất nóng, một lúc sau nó không thể chịu đựng thêm nữa -
lúc này mọi người đã bắt đầu nhìn vào cái mũ - thế là nó chạy lên, bỏ mũ ra để
ở bên cạnh bà Watkins.
Lũ trẻ làm rất nhanh
và lúc tàu sắp đến thì đã xếp xong được đống đá. Patricia giải thích cho chúng
biết là, khi tàu đi qua được mấy phút thì sóng mới truyền vào. Nó lập tức bảo
các bạn trèo hết lên đống đá đứng chờ. Ngay lúc đó thì đợt sóng đầu tiên xô
vào, sóng rất nhỏ. Nhưng đợt tiếp theo thì cao hơn, và tiếp liền sau đó là một
đợt sóng còn cao hơn nữa. Đống đá bị sóng vây quanh, lũ trẻ ôm lấy nhau chụm
lại, đứng một cách khó khăn trên đó.
Patricia nói:
- Hôm nay hoàn toàn
không có sóng to.
Nó vừa nói xong thì
đợt sóng lớn nhất và cuối cùng ập vào ngay, gần như phá tan đống đá. Làm cho lũ
trẻ đứng xuống đất, nước ngập đến tận đầu gối. Nhưng điều đó chưa ăn thua gì so
với cảnh bà Watkins phải chịu đựng! Bà đang ngồi đan thoải mái, thỉnh thoảng
nhìn lên xem lũ trẻ chơi đùa ra sao, thì chợt thấy một cơn sóng lớn trào lên từ
ngoài biển tiến vào bờ. Bà còn chưa kịp đứng lên thì nước đã ập lên trên người
bà, dưới thân bà, chung quanh người bà rồi rút ra cuốn đi cả quyển hướng dẫn
đan lát của bà, bình nước trà và cái mũ của Kate.
Nghe tiếng kêu thất
thanh của bà, lũ trẻ vội chạy nhanh lên, thật nhanh chừng nào mà đôi chân trần
của chúng còn cho phép. Chúng can đảm mò các vật bị mất. Lấy lại được cuốn sách
dạy đan lát. Túi bánh mì và bơ cũng lấy lại được nhưng khó khăn hơn và thấm đầy
nước mặn. Còn cái mũ của Kate và hộp bánh kem thì đang vui vẻ bơi ra biển! Kate
muốn bơi ra lấy nhưng bà Watkins không cho, giữ chắc nó trong đôi tay bà. Chẳng
thể nào lấy lại được nữa, trừ phi là có một cái thuyền. Nhưng lạy chúa, chẳng
thấy bóng một cái thuyền nào ở đây cả. Kate gieo phịch người xuống bờ biển,
khóc cay đắng. Nó khóc không phải chỉ vì mất cái mũ mà còn vì sợ bà Ruggles ở
nhà nữa. Bà Watkins hết sức làm cho nó vui lên. Bà kêu:
- Nhìn tôi đây này.
Gần như bị ướt hết. Những trang sách này mới đau đớn chứ, chỉ còn một nửa là
dùng được. Còn những cái bánh kem tôi đã mua cho các cháu uống trà thì đang bơi
ra kia với cá!
Đó là tất cả những
cái thú vị đấy, nhưng bị ướt hoặc đã mất. Bà Watkins tỏ ra là một bà mẹ tốt,
không hề cáu kỉnh khi đi về.
Kate đã cố nín khóc,
mỉm cười, tham gia uống trà với mọi người và chén một mẩu bánh mì với bơ, đều
đã ngấm nước mặn. Chỉ có trà chứa trong phích nên không bị nước mặn ngấm vào.
Nhưng thật là cám cảnh: nước mắt nó giỏ cả xuống tách trà, làm tăng thêm vị mặn
của bánh mì và bơ. Trong khi đó thì như trêu ngươi, cái mũ của nó vẫn bơi rập
rình trên mặt nước, trước mặt mọi người chỉ cách bờ chừng mươi mét. Ồ, tại sao
không có một người nào bơi thuyền tới, cũng không có lấy một người tắm biển có
thể bơi ra lấy cái mũ vào! Chẳng có ai đến cả và cái mũ cứ từ từ trôi, ngày
càng xa thêm. Đến lúc ông Watkins đem xe tải đến đón họ về, thì cái mũ chỉ còn
là một cái chấm nhỏ ở tít ngoài xa.
Ông Watkins thấy Kate
trông thật thê thảm và cả nhóm thì buồn rầu, nên ông dừng xe ở Xontevon mua
bánh kem tươi cho mọi người và Kate ăn, cố làm cho nó vui lên. Nhưng Kate hoàn
toàn không thể nuốt được bánh kem. Cảnh tượng đáng buồn của họ cùng với ý nghĩ
mất mũ của nó làm cho nó cảm thấy như bị bệnh. Các đứa trẻ khác ăn bánh và cười
một chút, còn Kate thì rất buồn, không sao ăn được. Khi xe dừng lại ở trước cửa
hiệu, hình như chẳng có ai còn quyến luyến chuyến đi, tất cả đều xuống xe, chào
tạm biệt ra về.
Kate đi bộ chậm rãi
về nhà, nó tự hỏi không biết làm thế nào để báo cái tin buồn này cho bà
Ruggles. Nó hi vọng hôm nay là thứ sáu có lẽ bà sẽ không có nhà vì phải đi trả
quần áo giặt. Bà Ruggles không có nhà thật, nhưng nửa giờ sau bà trở về. Cũng chả
cần kể lại câu chuyện thê thảm này cho bà làm gì nữa vì bà đã gặp bà Watkins
trên đường về nhà và biết cả rồi.
* * *
Còn năm ngày nữa là
trường mới sẽ khai giảng. Kate Ruggles - Kate Ruggles thông minh, người đã thi
đỗ giành được học bổng - sẽ không có mũ đi học. Ôi, thật là khủng khiếp! Từ
“mũ” được nói đến khó khăn ở Phố Cụt số 1. Nhưng mới kì lạ làm sao, khi người
ta không muốn nói đến một từ nào thì hình như không có nó người ta không thể
diễn đạt được ý mình. Nhưng còn tệ hơn là vấn đề: làm sao có thể đi học mà
thiếu cái mũ học sinh. Người ta bán sáu silinh mười một penny một cái mũ, mà
Kate thì chỉ có năm silinh tiền phần thưởng của nó còn lại.
Bà Ruggles đã bảo nó:
- Con hãy mua lấy một
dải băng học sinh đính vào cái mũ của con, thế là được rồi. Đừng có nói với mẹ
rằng, cái mũ của con màu xanh, còn cái mũ học sinh lại màu đen, mẹ biết điều đó
rồi. Thật đáng đời con! Con sẽ trông khác mọi người, vì thực sự con đã hành
động khác người và trội hơn bất kì đứa trẻ nào. Mẹ biết con còn đang có những ý
nghĩ điên rồ lởn vởn trong đầu ấy.
Tranh luận cũng vô
ích mặc dù người ta cứ thích tranh luận. Nhưng Kate tin chắc rằng, nó không bao
giờ, không bao giờ có thể ra mắt lần đầu tiên ở cái trường mới đó, dưới cái mũ
màu xanh, trong khi mọi học sinh đều đội mũ màu đen. Giá mà nó có thể tìm hoặc
kiếm đâu ra được một silinh mười một penny vào thứ tư tuần tới thì nó sẽ mua
một cái mũ khác ngay!
Nó đi vơ vẩn không có
mục đích trên Phố Cụt rồi vào thành phố. Những phương án có thể và không thể
lần lượt diễn ra trong đầu nó. Nửa giờ sau, nhìn vào một cửa hiệu lớn bán hoa
quả, nó thấy hai đứa bạn trai học cùng trường đang bưng các giỏ gì đó trên tay.
Chúng đi ngang qua nó rồi biến vào trong cửa hiệu. Kate lén nhìn vào xem cái gì
trong giỏ. Hóa ra là nấm! Những cánh nấm tươi tuyệt đẹp! Chao ôi! Nó nảy ra một
ý! Khi chúng đi ra, Kate kéo đứa bạn trai lớn hơn lại, nói không ra hơi:
- Ted, cậu lấy nấm ở
đâu đấy?
Ted nói:
- A, cậu muốn biết
chỗ ư?
Thằng bé gọi em nó:
- Ê, Bill. Đây là
Kate Ruggles, người biết tất cả mọi điều. Nó muốn biết chúng ta lấy nấm này ở
đâu.
Bill nhìn Kate yên
lặng một lúc, rồi nhe răng cười nhăn nhở nói:
- Cậu hãy dậy sớm,
rồi tự đi tìm lấy.
Cả hai đứa cười khanh
khách vào mặt nó rồi vừa đu đưa những cái giỏ không, vừa bỏ chạy. Kate đi vào
cửa hiệu hỏi người đàn bà trẻ thường trực ở đấy xem nấm giá bao nhiêu. Người
đàn bà trẻ cho nó biết họ mua một silinh một pao (450gr) và hỏi nó có muốn bán nấm
không? Kate trả lời là có, nếu nó tìm được. Người đàn bà trẻ nhắc lại:
- Một silinh một pao.
Tôi đoán họ hái ở đường London .
Chúng tôi mua nấm vào ngày thứ hai hàng tuần, nếu cô có thì mang đến.
Kate nghĩ ngay đến
“Đường London ”.
Nó phải dậy rất sớm, trước khi hai thằng quỷ kia ra đồng nhiều và phải xem kĩ
các cánh đồng quanh các trại lớn mà nó từng hay ngắm nghía rất lâu trên đường London . Cái trại trong
giấc mơ của nó. Nó tin chắc bằng cách nào cũng phải tìm ra nơi có nấm.
* * *
Tối hôm đó khi Kate
chuẩn bị vào giường đi ngủ thì Lily Rose nằm cùng giường với nó hỏi:
- Em đang làm gì đấy?
Kate vội thổi tắt
ngọn đèn cầy sợ Lily Rose nhìn thấy nó đang đặt cái bàn chải tóc xuống dưới tấm
trải giường bên phía nó nằm. Cái bàn chải tóc này có tác dụng đánh thức nó dậy,
bất cứ khi nào nó trở mình ban đêm. Nó sợ ngủ quên mất, vì ngày mai là chủ
nhật, cả nhà dậy muộn nên không để đồng hồ báo thức. Nó ngủ thiếp đi ngay và
mãi đến bốn giờ sáng mới tỉnh dậy – cái bàn chải tóc đã đánh thức nó. Trời còn
tối mịt, lại lạnh nữa, ý nghĩ đi tìm nấm coi bộ không còn thú vị như đã nghĩ
sáng hôm qua nữa. Tuy thế Kate vẫn lẳng lặng dậy, bắt đầu đi vớ vào chân. Ôi!
Cái sàn mới cọt kẹt làm sao! Lily Rose có thể tỉnh dậy mất, còn Peg thì không
cần nói đến, nó ngủ rất say. Nó cố gắng giữ yên tĩnh, đứng trên một chân và đi
vớ vào chân kia. Chung quanh tối như bưng, nó đụng vào cái ghế để bên cạnh
giường, làm cây đèn cầy để trên ghế rơi xuống sàn. Một tiếng động khủng khiếp
vang lên trong đêm yên tĩnh. Kate nín thở bò vội về giường. Lily Rose cựa mình
nhưng không tỉnh dậy, Peg vẫn ngủ say. Nhưng mấy phút sau cánh cửa mở ra, bà
Ruggles cầm cây đèn cầy đi vào. Bà nhìn quanh, không thấy có kẻ trộm, ba đứa
con gái bà vẫn đang ngủ yên ổn, bà yên tâm trở về phòng mình. Kate lại ngồi dậy
trong bóng tối và suy nghĩ. Không ổn rồi, nó không thể nào thay đồ trong bóng
tối mà không làm một người nào đó tỉnh dậy. Chỉ có cách là, tối phải mặc sẵn
quần áo, chuông đồng hồ sẽ báo thức vào lúc năm giờ rưỡi sáng, nó sẽ có nhiều
thời gian. Nó lại cởi vớ ra, để cái bàn chải tóc xuống dưới chân giường rồi ngủ
ngay tức khắc. Sự việc tiếp theo khi nó tỉnh dậy là, Lily Rose đang lay nó hỏi
cái bàn chải tóc đâu vì tối hôm qua Lily Rose còn nhớ chắc là để trên bàn trang
điểm.
Ngày chủ nhật trôi
qua yên ổn. Mọi người cố gắng không nói gì đến cái mũ. Nhưng kế hoạch lớn của
Kate tối hôm đó suýt nữa bị phát hiện ra. Bởi vì khi nó cởi bộ quần áo mặc ngày
chủ nhật ra, mặc bộ quần áo ngày thường vào, rồi lại mặc cái áo ngủ phủ ra
ngoài - đó thật là một điều rất khó làm - thì Lily Rose bước vào phòng. Tuy
nhiên Lily Rose đã không để ý và Kate lăn ra ngủ đóng cả bộ như vậy, chỉ thiếu
có đôi giày chưa đi. Nó ngủ say và chìm trong giấc mơ kì lạ. Nó thấy chiếc mũ
bị mất biến thành một cái bánh kem to, dải mũ là một chuỗi toàn những cái nấm.
Giữa lúc đó thì chuông đồng hồ báo thức làm nó tỉnh dậy. Nó chờ cho đến khi
nghe thấy tiếng mẹ bước xuống thang, ra mở cửa trước rồi vào sân sau, mới thận
trọng dậy, cởi chiếc áo ngủ ra, tay xách đôi giày, rón rén xuống thang gác, lẻn
ra đằng cửa trước. Vừa quành khỏi góc Phố Cụt yên ổn, nó ngồi xuống một bực cửa
đi giày vào, rồi vừa chạy, vừa đi, tiến về hướng đường London . Nửa giờ sau, nó tới những cánh đồng
đầu tiên chung quanh trang trại lớn này. Nó dừng lại trước cổng trại một tí để
thở và nhìn thấy hai bóng người đang đi ngang qua cánh đồng về phía nó với
những cái giỏ trên tay. Khi chúng tới gần hơn Kate nhận ra ngay là Ted và Bill!
Khi gặp Kate, Ted
nói:
- Xin chào Kate
Ruggles! Mày theo dõi chúng tao đấy ư? Được, thông minh đấy, nhưng chưa đủ đâu.
Mày đến quá chậm, chúng tao đã lấy hết, chẳng để lại cái nấm nào đâu.
Rồi nó giơ cái giỏ
của chúng cho Kate xem: đầy ắp những cái nấm tuyệt diệu!
Bill không nói gì, nó
chỉ cười nhăn nhở, mở cổng ra rồi cả hai đứa chạy ra đường huýt sáo và vẫy tay.
Kate cũng không nói
gì - bởi vì chả có gì mà nói cả - nhưng nó cảm thấy
tủi cực thực sự. Bây giờ có ích hơn là vào xem đã. Có thể chúng xạo, nói là
không còn. Cô hơi tin là đã nhìn thấy cái gì trăng trắng ở giữa đồng. Nó đẩy
cổng ra, đi vào. Đúng, nó đoán đúng. Đấy là nấm. Nó vui vẻ hẳn lên, nhặt nấm để
cẩn thận vào giỏ. Sau khoảng hai mươi phút, xem xét lại nó thấy chỉ có hai cái
nấm to, còn thì toàn là nấm nhỏ cả. Bất chợt một tiếng quát ở ngay sau lưng nó:
“À, ra mày!”
Kate nhảy cẫng lên
quay lại nhìn, một người đàn ông đứng bên cổng đang chỉ vào nó. Ông quát lên:
- Lại đây!
Thấy nó vẫn đứng yên
ông lại quát to hơn.
- Lại đây!
Kate chậm chạp bước
lại gần ông.
Nó chưa bao giờ gặp
rủi như thế này. Có lẽ cái học bổng giành được sẽ kết thúc tại đây - một phần
thưởng lớn kéo dài suốt cả đời nó! Đó là một ý nghĩ bi quan! Người đàn ông quát
to:
- Nhanh lên!
Kate cố đi nhanh,
nhưng nó như đang trải qua một cơn ác mộng, đôi chân cử động rất khó khăn.
Cuối cùng nó cũng tới
được bên cổng. Người đàn ông nói:
- Vậy ra là con bé
này! Chúng mày đã hái nấm của ta hai tuần trước đây. Mày có biết rằng mày đang
ăn trộm không hay là mày đã không đọc bảng này?
Ông ta lấy gậy chỉ
vào một tấm bảng nhỏ bên cạnh cổng, trên đó có ghi hàng chữ to, viết rất rõ
ràng: “Nấm trồng. Cấm vào. Trái lệnh sẽ bị truy tố”.
Ông nói tiếp:
- Mày có biết ta là
ai không? Ta là chủ những cánh đồng này. Bây giờ mày có biện bạch gì không?
Kate nói:
- Thưa ông, đây là
lần đầu tiên cháu tới đây. Cháu chưa nhìn thấy tấm bảng này. Cháu mới hái có
vài cái nấm nhỏ thôi. Đây ông xem!
Nó run rẩy chìa cái
giỏ mở ra cho ông ta xem.
Người chủ trại nhìn
nó nói:
- Nhưng mày đã hái
nấm và sẽ còn hái nữa, có đúng thế không?
Kate gật đầu. Ông ta
lại nói tiếp:
- Rồi mày sẽ làm gì
với những cái nấm này. Ăn hay là bán?
Kate nói nhanh:
- Bán ạ!
- Chắc là để lấy tiền
mua kẹo phải không?
Kate thẹn đỏ mặt, đỏ
đến cả chân bộ tóc đỏ của nó, đáp lại:
- Không ạ! Để mua một
cái mũ!
Người chủ trại ngạc
nhiên kêu lên:
- Một cái mũ!
Thật là giống y như
vợ ông!
- Mày định làm gì nữa
với số tiền gom góp được? Mày sẽ mua gì cho lễ giáng sinh?
Câu trả lời vẫn hệt
như trước, luôn luôn là: “Một cái mũ”
Quái lạ thật, lúc nào
cũng mũ. Làm sao mà phụ nữ họ thích mũ đến thế chứ!
Ông ta hỏi Kate:
- Mày có hay mua mũ
không?
Thế là Kate bỏ vội cái
giỏ của nó xuống đất, hai tay bưng lấy mặt khóc nức nở.
Nó đã tin chắc rằng
chuyện gì sẽ xảy ra cho nó.
Nhưng sau đó nó thấy,
nó đang ngồi ở phía trên cổng, bên cạnh nó là ông chủ trại, nó đã kể cho ông
nghe tất cả câu chuyện thê thảm của nó. Mọi việc đều là do cái học bổng của nó
gây ra, quần áo mới của nó, ngày đi chơi biển bất hạnh của nó và tại sao nó lại
phải đi hái nấm trên cánh đồng của ông. Nó kết thúc câu chuyện:
- Nhưng cháu không
nhìn thấy tấm bảng. Thực sự là cháu không nhìn thấy. Cháu chỉ nhìn thấy Ted và
Bill thôi.
Ông chủ trại hỏi:
- Chúng là ai vậy?
Kate nói:
- À, những thằng bé
đã hái tất cả nấm…
Cô chợt ngừng lại. Cô
nghĩ bụng, Ted và Bill chắc đã nhìn thấy tấm bảng này, vì chúng đã đến đây
nhiều lần. Ted và Bill đã ăn trộm. Nếu ông chủ trại biết chúng là ai, có lẽ ông
sẽ cho chúng vào tù mất!
Ông chủ trại nói:
- Vậy là cháu biết
những kẻ đã lấy nấm ở đây nhiều lần.
Kate gật gật đầu. Ông
nói tiếp:
- Nhưng cháu không
chịu nói chúng ra. Hừ?
Kate nói kiên quyết:
- Không!
- Quả là tốt thiệt!
Bây giờ hãy nghe đây! Cháu hãy đi theo ta đến ruộng bên cạnh, ta sẽ cho cháu
một ít nấm để bán lấy tiền mua mũ. Nhưng trước hết cháu phải hứa với ta, bảo
cho Ted và Bill biết, dù chúng là ai đi nữa, nếu còn bước vào ruộng của ta lần
nữa thì chúng sẽ phải chịu tội đấy!
Kate sẵn lòng hứa
ngay. Ồ, nó sẽ bảo thẳng cho chúng biết và còn thích thú nữa kia. Nó như nghe
thấy tiếng nó nói “Con trai như chúng mày mà lại đi ăn trộm!”
Ruộng bên cạnh trắng
xóa những nấm là nấm. Chỉ vài phút họ đã hái được đầy giỏ của Kate và một giỏ
nữa của ông chủ trại. Ông chủ trại nói:
- Thôi bây giờ về đi.
Khi nào quay lại trả tôi cái cái giỏ cháu có thể đi xem khắp cả trại, rồi nói
cho tôi biết thêm cháu định làm gì khi đi trên ruộng đất này. Thôi tạm biệt.
Nhớ nói cho các thằng bé kia biết nhé.
* * *
Khi Kate mang hai giỏ
nấm đến cửa hiệu bán hoa quả thì người đàn bà trẻ nói:
- Tôi e rằng hôm nay
chúng tôi không thể mua thêm nấm được nữa. Sáng nay chúng tôi đã mua quá nhiều
rồi.
Kate kêu lên:
- Nhưng bà đã hứa với
tôi cơ mà!
Người đàn bà trẻ này
đáp:
- Tôi đã nói là chúng
tôi có thể mua nấm vào sáng thứ hai. Đúng thế, nhưng chúng tôi đã mua được
nhiều trước khi cháu đem đến. Đấy không phải là lỗi của tôi. Đấy là điều chẳng
may thôi!
- Điều chẳng may! Tôi
biết làm thế nào đây!
Nhưng người đàn bà
trẻ đã nói:
- Tôi nói đùa đấy.
Tôi sẽ lấy, nhưng chúng tôi không thể trả cháu hơn giá sáu penny một pao đâu.
Chỗ này bao nhiêu đây?
Kate không biết, nó
băn khoăn nhìn người đàn bà trẻ nhấc hai cái giỏ đặt lên cân.
Bà ta nói:
- Gần sáu pao. Tôi sẽ
trả cháu ba silinh. Ngày mai chúng tôi không mua đâu. Cháu nghe thấy rồi chứ?
Có, Kate đã nghe
thấy, nhưng không nghe rõ lắm, vì nó đang bận rộn nhẩm tính trong đầu: ba
silinh cộng với năm siling là tám silinh… cái mũ học sinh giá sáu silinh mười
một penny.
- Tiền của cháu đây.
Người đàn bà trẻ nói
và đưa tiền cho Kate. Kate chạy ngay về Phố Cụt.
Vừa đến nhà, bà
Ruggles đã bảo nó:
- Có một gói gửi cho
con đấy. Mày đi đâu về đấy!
- Một gói gửi cho con
à?
Kate nói và đón lấy
cái gói nhỏ bọc giấy nâu ở tay mẹ. Nó mở ra. Bên trong là cái mũ đã mất của nó
cuộn tròn cẩn thận! Khi nó mở mũ ra, một mảnh giấy rơi xuống. Trên mảnh giấy là
hàng chữ viết rất run rẩy bằng mực đỏ:
“Một người bạn chân
thành đã tìm thấy nó trong khi đánh cá. Ông I.Ruty, số 10 Đường Bờ Biển,
Xontevon”.
Bên dưới, một người
nào đã viết thêm bằng mực đen, nét chữ rắn rỏi:
“Tái bút. Xin cảm ơn
về việc hoàn lại bưu phí”.
Cái trường mới này
biết nhìn xa trông rộng làm sao chứ! Họ đã bắt học sinh ghi đầy đủ tên và địa
chỉ mình lên mọi thứ đồ! Nhờ thế mà cái mũ đã trở về tay Kate. Trừ cái nhãn và
dải băng sọc bị nhạt đi một tý, cái mũ trông không kém gì trước khi bị ngấm
nước mặn. Ủi đi một chút và thay dải băng mới trông nó lại đẹp như trước ngay.
Chắc chắn không cần mua cái mũ khác nữa. Dải băng có giá hai silinh, thế là
Kate lại giàu hơn trước, nó còn lại những sáu silinh chứ không phải năm như
trước! Sáu silinh để tiêu thay vì chỉ có một silinh và một penny! Đầu nó đang
bận rộn tính xem sẽ tiêu những gì thì bà Ruggles nói:
- Hãy ra bưu điện mua
một tấm bưu phiếu một silinh sáu penny về đây, rồi mẹ sẽ cho con một mảnh giấy
để con viết thư cho người đã tìm thấy cái mũ và gửi cho con. Con hãy gửi cho
ông ấy sáu penny để hoàn lại tiền bưu phí ông đã gửi mũ cho con và một silinh
để tặng ông. Mẹ e rằng, ngần ấy việc chưa đủ cho con một bài học đâu!
----------
Còn tiếp
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét