Thứ Ba, 25 tháng 8, 2015

Gia đình Lily - Eve Garnett (chương 10)

Chương 10: Một ngày đẹp

Hai giờ đồng hồ sao mà trôi qua nhanh thế, chưa đủ thời gian để nói hết được về bạn bè và họ hàng (luôn luôn có rất nhiều chuyện về họ) thì bà chị dâu đã nhìn thấy Jo đang đi tới:
Bà Aivy kêu lên:
- Trở lại rồi! Nhanh lên! Hãy nói cho chúng tôi biết kết quả nào.
Ông Ruggles nói:
- Rất tốt! Tẩm ngẩm tầm ngầm mà đấm chết voi đấy! Charlie đã đoạt giải nhất. Một người trọng tài thích con Bernard Shaw vô cùng. Bây giờ phải nói đến chuyện ăn một tí gì chứ. Rosie, họ còn chờ ngoài kia kìa. Các con đâu cả?
Bác Aivy nói:
- Chúng đang chơi yên ổn cả ngoài vườn chơi. Tôi sẽ đem chúng về cho.
Nói rồi bà chạy đi.
Bad Aivy hình như đi quá lâu.
Bà Perkins nói:
- Trời ơi! Tôi hy vọng không xảy ra điều gì. Hai giờ đồng hồ lâu đấy, nhưng tôi quá say sưa nghe câu chuyện về ông em rể của Aivy và mấy người hàng xóm nên quên khuấy mất.
Ông Ruggles nói:
- Này, tôi đã trông thấy thằng James của chúng ta đằng kia kìa. Đúng là cái đầu tóc đỏ của nó trong cái đám đông bên cạnh hồ ấy.
Rosie cũng kêu lên:
- Này, bế lấy William. Để tôi đi xem nào. Kìa, đúng là nó rồi. Sao nó là Kate, rồi Peg với một ông công an. Trời ơi!
Bà chạy lao đi.
Khi bà Ruggles chạy đến gần đám đông thì Kate chạy ngay lại gặp mẹ kêu lên “Ôi, Măng, nhanh lên!”. Nó kéo tay mẹ lôi đi nói: “P-Pamela đang ở trong hồ và c-công an bảo Peg của chúng ta ăn cắp!”.
- Trời ơi!
Bà Ruggles kêu lên, rồi rẽ đám đông đi tới.
Không còn nghi ngờ gì nữa, Peg đây rồi, đang khóc thút thít trong tay người công an. Còn Pamela thì không phải ở dưới hồ mà đang đứng trên mặt đất, ướt như chuột lột và cũng khóc nốt. Lily Rose và bà trông vườn thì đang cố sức vắt khô bớt cái áo lụa màu hồng cho Pamela.
Bà Ruggles nhìn quanh một cách giận dữ kêu lên:
- Các con đã làm những gì thế này? Những đứa khác không làm sao chứ?
Đúng, chúng đều có mặt ở đây cả: hai thằng sinh đôi, thằng Frank Ruggles, thằng Anthony - bộ quần áo nhung của nó rách và bẩn - Mary và Dorrit còn bẩn hơn và lôi thôi lếch thếch hơn trước nhiều, Alfred thì lấm đầy bùn nhưng vẫn ngoác miệng ra cười. Tất cả đều có mặt, chỉ thiếu Jo!
Bà Ruggles kêu lên:
- Jo đâu?
- Nó vẫn bình yên, Măng! Nó ở trong vườn, con để nó chơi đu trong ấy. - Lily Rose nói.
Người công an chỉ Peg, nói:
- Đây là con gái của bà, phải không? Bà nên dạy cho cháu biết không được hái hoa trong vườn hoa công cộng.
Ông đặt Peg đang khóc vào tay mẹ nó. Bà Ruggles tội nghiệp nhìn thấy mấy bông hoa hồng trong bàn tay bụ bẫm của Peg.
Rosie kêu lên rất bực bội:
- Trước đây nó không bao giờ làm một việc như thế.
Rồi bà lắc Peg một cái, nói thêm:
- Có im đi không. Nói với ông công an này như vậy đi.
Nhưng người công an đã không còn chú ý gì đến việc đó nữa, đang bảo đám đông giải tán.
Bà trông vườn chỉ vào Pamela đang còn ướt sũng, hỏi:
- Đây có phải con bà không?
Rosie đáp:
- Không! Nó không phải con tôi.
Bà làm vườn nói tiếp với Pamela:
- Cháu đã làm gì mà đến nỗi thế? Cháu thật là một cô bé hư. Tôi tin là mẹ cháu sẽ không vui lòng đâu. Tốt hơn là cháu nên cởi ngay váy áo đó ra, đem phơi ra nắng cho khô đi. Cháu mặc như thế thì nó không khô được đâu.
Pamela vừa khóc vừa nói:
- Ứ ừ, đây là cái váy áo đẹp nhất của cháu.
Bà Ruggles quát lên:
- Tôi không cần biết cái váy áo đó thế nào! Lily Rose cởi áo ra cho nó không thì nó chết lạnh mất. Cháu hãy nhìn cháu xem kìa. Khiếp chưa! Trời ơi! Mũ của cháu đâu rồi.
Frank Ruggles kêu lên:
- Cháu đã vớt được nó đây, thím ơi!
Rồi nó giơ cái gậy, ở đầu có treo một vật ướt sũng lên, nói:
- Cháu đã cứu được nó.
Lúc này bà Aivy và bà Mabel đã tới. Bà Mabel kêu lên giọng đầy nước mắt:
- Tôi biết thế nào cũng có chuyện xảy ra mà! Tôi đã cảm thấy thế. Vậy mà tôi cứ mải ngồi nghe chuyện ông em rể của bác và về bác Pơxi, trong khi Pamela bé bỏng của tôi suýt chết đuối! Trời ơi! Tôi biết làm thế nào cho nó bây giờ đây. Nó không thể đi ngang qua công viên như thế được, gần như là trần truồng thế kia kìa. Còn thằng nhỏ Anthony, hãy xem nó kìa.
Bác Aivy kêu lên:
- Ồ, đừng nói những lời vô ích nữa, Mabel. Pamela vẫn bình yên, nó đã không chết đuối vì đã biết kêu cứu ầm lên. Bây giờ nó có đi bộ không có váy áo mặc thì cũng chẳng có ai lưu ý hoặc quan tâm đến nó đâu. Anthony cũng bình yên. Mặc dù nó có ngã đau một chút nhưng nó sẽ còn gặp nhiều điều tệ hơn nữa trước khi nó trưởng thành. Tôi lấy làm tiếc rằng chắc chắn sẽ xảy ra như thế đấy, dù lũ trẻ có được dặn dò bao nhiêu đi chăng nữa.
Bác nắm cánh tay Dorrit, giật nó một cái và nói thêm:
- Mẹ không biết tại sao, mẹ chẳng bảo các con không được ra khỏi Vườn Chơi là gì?
Còn hàng tràng những lời giải thích nữa.
Bà Rosie phải kêu lên:
- Khiếp quá! Tôi không thể chờ nghe cho hết được đâu. Kate, hãy trông Peg, đừng để cho nó đụng vào một cái hoa nào nữa. Mẹ phải đi tìm Jo về. Có trời biết được nó đang mưu tính gì đây.
Rồi bà vội vã chạy đi.
Đến Vườn Chơi bà Rosie nhìn quanh hy vọng thấy Jo, nhưng không thấy nó đâu cả. Quái thật, Lily Rose đã nói: “Con để nó chơi đu ở đây” mà. Nhưng đã lâu quá rồi.
Bà đi tới hết đám trẻ này đến đám trẻ khác tìm Jo, nhưng không thấy bóng thằng nhỏ mập mạp mặc cái áo nịt xanh chật căng đâu. Bà đang định đi hỏi người coi vườn xem có nhìn thấy thằng bé nào giống như Jo không thì thình lình một tiếng gọi ré lên ngay trên đầu bà: “Alo! Măng, đã đến giờ ăn trưa rồi à?”
Ngẩng đầu lên, bà Ruggles thấy một cái bóng ở trên ngọn cây đang chuẩn bị trèo xuống. Trên mình Jo chắc chắn không còn thấy cái áo nịt xanh chật nữa, thay vào đó là một cái áo dệt rộng rãi, thoải mái. Mẹ nó nhận ra ngay lập tức đó là cái áo của James đã cũ, rách và bẩn!
Bà Ruggles kêu lên:
- Xuống ngay.
Và lập tức Jo trèo xuống. Nó chưa kịp đứng xuống đất, bà đã nghiêm khắc nói:
- Áo với xống trông khiếp chưa kìa!
Trông nó như một thằng nhỏ nhố nhăng, kỳ lạ. Khi nó đứng thì cái áo nịt dài đến tận đầu gối, nhưng mà nó đã xắn lên mấy gấu nên trông rất gọn. Bà Ruggles nắm lấy cánh tay nó, cáu kỉnh hỏi:
- Con lấy đâu ra cái áo này?
Jo mỉm cười rất là dễ thương, nhưng không dám nhìn mẹ, chỉ liếc trộm rồi nói:
- Con đã mang nó đi. Đây là cái áo của James. Mặc cái áo của con nóng lắm!
Bà Ruggles kêu lên:
- À, thì ra cái gói con mang theo là cái áo này! Thế mẹ hỏi, cái áo kia của con đâu rồi? Thế nào, nói cho mẹ nghe đi. Con đã tự cởi được cái áo đó ra à? Trả lời mẹ đi.
Jo lờ đi không trả lời câu hỏi đầu, chỉ nói:
- Bọn trẻ con trai đã giúp con.
Bà Ruggles kêu lên:
- Hãy trả lời câu hỏi của mẹ - cái áo nịt kia đâu?
Jo vẫn im lặng.
Bà Ruggles nói một cách chắc chắn:
- Con hãy nói cho mẹ biết cái áo đâu, nếu không thì con sẽ phải nhịn cơm trưa.
Cuối cùng Jo nói:
- Con cho đi rồi.
Bà Ruggles kêu lên:
Thế nào? Con nói gì?
Jo nhắc lại:
- Con cho đi rồi. Nó chẳng còn dùng được đâu.
Bà Ruggles hình như không còn nói được nữa vì tức giận. Cho đi rồi, một cái áo đẹp như thế, một năm nữa là Peg mặc vừa, ấy là chưa kể còn để lại cho William nữa.
Bà hỏi:
- Con cho ai?
Jo nói:
- Ồ, cho một bà nào ấy. Con để áo lên ghế và bà ấy bảo, hình như con không muốn mặc nó nữa, mà con bà ấy mặc thì rất vừa. Con đã không muốn cho. Nhưng sau bà ấy cho con một penny để lấy cái áo.
Nó có vẻ tự hào về sự khôn ngoan của nó!
Bà Ruggles quát lên:
- Mẹ sẽ phạt con khi chúng ta về nhà! Bây giờ hãy chỉ cho mẹ người đàn bà ấy. Nhanh lên!
Nhưng không may, bà ấy đã đi mất rồi.
Jo đang đứng khóc, bà Ruggles bảo nó:
- Im ngay! Coi bộ không khóc thì con chưa giống một người mới từ hố rác chui lên phỏng? Con làm cho mọi người phải nhìn vào con mà cười.
Jo càng khóc to hơn. Mẹ nó bảo:
- Cứ khóc tiếp đi, rồi con sẽ không được đi diễu hành đâu.
Nước mắt Jo lập tức ngừng chảy, dường như nó có phép thần thông ấy.
Bác Charlie đã được giải nhất rồi! Lúc này họ đã dừng lại ở chỗ cái hàng rào, gần đấy con ngựa Bernard Shaw đang đứng, trông vẻ rất hớn hở. Cái cách nó nhìn đủ làm cho mọi người phấn khởi vui lên. Bên trong hàng rào, trên bãi cỏ xanh trải một cái khăn bàn trắng tinh, bên trên bày đủ mọi thứ đã mang theo trong các túi và các giỏ. Thật là một mâm thức ăn thức uống tuyệt diệu! Tất cả những người dự ngồi vòng quanh, hát theo tiếng nhạc đệm của chiếc kèn harmonica bác Charlie đang thổi bài “hãy cất tất cả phiền muộn vào túi dết”. Cảnh mới đẹp làm sao! Bà Ruggles nghĩ, nếu không nhìn thấy co bé Pamela đang ngồi kia, trần như nhộng, váy áo của nó và cái mũ của Lily Rose đang phơi trên hàng rào thì bà có thể tưởng giờ phút này là trong mơ, nhưng có lẽ lại là ác mộng!
Bác Charlie vẫy cây kèn harmonica kêu lên:
- Nào vào đi, cô gái già Rosie! Tất cả chúng tôi đều đói cả rồi, chỉ còn chờ cô và thằng nhóc kia là bắt đầu thôi!
Bà Ruggles cũng đang đói, rất cảm ơn khi thấy mọi thứ đã bày sẵn cả, bà quên hẳn cơn giận về cái áo nịt và diện mạo lố lăng của Jo, (nhưng bà có thể nghe thấy bà Perkins đang có nhận xét).
Bà vừa ngồi xuống vừa nói:
- Coi bộ các vị phấn khởi lắm, dù có thế nào chăng nữa.
Bác Charlie nói:
- Đó là nhờ bài hát nhỏ của tôi. Không có gì làm cho người ta vui bằng âm nhạc.
Bác quay đầu nhìn về phía cái váy áo của Pamela và cái mũ của Lily Rose đang phơi trên hàng rào, nói thêm:
- Thật ra những đứa trẻ cũng chẳng có lỗi, Aivy sẽ nói cho các vị nghe…
Nhưng bà Ruggles cảm thấy tốt hơn là hãy để vấn đề này lại, chờ ăn uống xong đã, lúc mọi người no nê rồi hãy kể cũng vừa.
Ăn uống xong, bác Charlie nằm dài trên cỏ, lấy tờ báo che đầu cho khỏi chói mắt và chống ruồi. Bà Ruggles nghe kể lại mọi việc đã xảy ra và sẽ biết vì sao mà bọn trẻ lại không có lỗi.
Bác Aivy kể:
- Hình như cái hồ này chảy qua cả Vườn Chơi. Trừ Peg và Jo đang mải chơi đu, còn tất cả bọn trẻ đều đi thẳng ra hồ. Chúng đang mải ngắm những chiếc thuyền thì một bà đến nói với hai đứa trẻ sinh đôi của em - thế đấy, Rosie ạ - hãy ra đứng năm phút cho bà vẽ chúng, rồi bà sẽ cho chúng đi thuyền chơi. Chả là bà thích những cái đầu tóc đỏ của chúng. Thế là bà vẽ chúng, xong rồi cho tiền để chúng đi thuyền. tất nhiên là cả những đứa khác cũng thích đi thuyền. Thế là bà ta cho tất cả bọn chúng ngồi vào một cái thuyền. Kate kể là, Pamela hơi hồi hộp một tí nhưng bà ta nói rằng bà sẽ đứng trên bờ trông cho chúng an toàn bơi thuyền ra. Mọi việc đều êm  đẹp cho đến khi cái mũ của Lily Rose bị gió thổi bay xuống nước. Nó cố vớt lên. Cả bọn xô về một bên mạn thuyền. Dĩ nhiên là chúng quá đông nên Pamela lộn ngay cổ xuống nước. May là chúng đang còn ở chỗ nông của hồ, nước chỉ ngập hết chân thôi, người coi vườn trông thấy ra bế nó lên ngay lập tức. Em không nên giận chúng, vì đây là ngày nghỉ, đi chơi thoải mái. Sở dĩ xảy ra như vậy chính là vì em, Rosie ạ, em đã có hai đứa con trai sinh đôi tóc đỏ. Nếu không thì đã chẳng có điều gì xảy ra. Còn Peg của em hái hoa trong vườn như thế nào thì chị không nghe nói, dù sao thì nó đã hái của người ta mấy bông hồng đẹp…
Bà Perkins nói:
- Tôi không giận ai cả, ngoài cái bà họa sĩ kia. Tại sao bà ta lại đi nói chuyện với những đứa con người khác và vẽ chúng ở nơi công cộng như thế?
Rosie nói một cách sắc sảo:
- bác không nên nói là bà ta vẽ các con bác. Aivy ơi, bà ta ở đâu? Tôi chưa nhìn thấy một họa sĩ nào bao giờ.
Bác Aivy đáp:
- Dorrit nói rằng trong khi chúng đang bơi thuyền thì có một người bạn trai đến gọi bà này, bà liền cầm cuốn sách vẽ vẫy chúng, hét to chào tạm biệt rồi đi với bạn.
Bà Perkins tức giận nói:
- Bà ta trông cho chúng an toàn như thế đấy. Tôi không thể tưởng tượng được! Không thể nào tin vào các nghệ sĩ được. Có một ông ở xưởng của Lexơlai…
Đúng lúc đó thì lũ trẻ con nhà láng giềng và nhiều đứa khác nữa chạy đến gọi:
- Ông Rugglesơi, mời ông dậy đi, một giờ rồi.
Bác Charlie bỏ tờ báo xuống, ngồi lên, rút cái đồng hồ quả quýt to tướng trong túi ra xem rồi kêu lên:
- Đến giờ thật rồi! Thu xếp mau lên! Họ sắp đi đấy!
Bà Mabel lại kêu lên:
- Trời ơi! Không biết váy áo của Pamela đã khô chưa. Nó không thể đi như thế này được.
May quá, nó hoàn toàn khô rồi. Nhưng, chao ôi! Nó đã ngắn đi nhiều.
Rosie nói:
- Tơ nhân tạo! Đôi khi lạ như thế đấy!
Bà nhìn Lily Rose lúc này đang đỏ mặt lên và bận rộn hử cái mũ vừa mới phơi khô lên đầu. May mắn nó lại không bị co.
- Chúng ta có bao nhiêu người tất cả? - bác Charlie nói và bắt đầu đếm số người tham dự cuộc diễu hành.
- Tám người nhà Ruggles, không kể William,  bốn người nhà Perkins, sáu người nhà mình, hai ông bà Baklơ hàng xóm vừa mới đến và khoảng hai tá trẻ con hàng xóm…
Ông bắt đầu tính toán, rồi nói một cách chắc chắn:
- Sáng nay chỉ có mười người, mà bây giờ đã lên đến ba mươi. Đủ cho con Bernard Shaw hoặc bất cứ con ngựa nào thử sức!
Một việc lớn là phải sắp xếp cho tất cả mọi người được lên xe đi. Cuối cùng thì họ đều được đi cả.
Bác Charlie và già Jo ngồi trên ghế xà ích. Ông già Baklơ (đến đúng lúc họ sắp khởi hành, và lên xe cùng với những tiếng rên của bà Baklơ: “Ôi, cái bệnh tê thấp của tôi, xin lưu ý đến cái chân khốn khổ của tôi!”), ông bà Perkins, bác Aivy, Rosie với thằng William trên lòng thì ngồi trên cái ghế dài đặt sau xe. Cái ghế này quá chật đối với một số người đông như vậy, nhưng bác Aivy nhận xét rằng chật như thế càng hay, nếu Bernard Shaw có giở chứng gây chuyện bất ngờ thì khỏi bị ngã.
Bà Mabel sợ sệt hỏi:
- Nó sẽ làm gì?
Bác Aivy trả lời:
- Mabel, tôi làm sao biết được, có thể nó sẽ lồng lên một hoặc hai lần, đó là tất cả những điều tôi đã từng thấy nó làm. Tôi chắc rằng nó có thể…
Bà Mabel vội hỏi: “Có thể gì?”, nhưng bác Aivy nhìn thấy một người bạn trong đám đông bên đường, còn đang bận rộn chào hỏi lẫn nhau, không nghe thấy. Lũ trẻ ngồi hai bên thành xe  đứa nào cũng có thể nhìn rõ cảnh bên ngoài. Cái xe đằng trước bắt đầu tiến lên. Bernard Shaw cất cao đầu, hý vang. Những người xem hoan hô rầm rầm. Họ đang tiến lên. Cuộc Diễu Hành Lớn bắt đầu.
* * *
Cuộc diễu hành mới thú vị làm sao. James và John hích nhau ra hiệu, lại có chuyện kể cho Hội nghe rồi. Người ta tự hào biết bao  được ngồi trên xe nhìn xuống đám đông đang vẫy tay, hoan hô. Và sung sướng biết bao nghe những lời nhận xét về phong thái con ngựa Bernard Shaw! Ngay cả bác Charlie đang hưởng những tràng vỗ tay hoan hô cũng không biết được họ hoan hô bác và bộ lễ phục của bác hay là hoan hô cỗ xe đẹp và con ngựa. Thật khó mà biết được.
Bác mỉm cười vẫy tay và sẵn sàng trả lời mọi nhận xét, vì bác Charlie ưa thích những lời phê bình của quần chúng. Bác đã đi học trường dành cho những người lao động, một tuần ba tối.
Họ đi từ lúc một giờ rưỡi và đã đi được một tiếng đồng hồ mới bắt đầu nhìn thấy lễ đài ở phía xa xa. Thêm hai mươi phút nữa họ mới tới lễ đài. Trời nắng và rất nóng. Ông Perkins nói, nếu họ cứ đi chậm như thế này thì sẽ về nhà rất muộn, qua giờ đi ngủ của Anthony mất. Bác Aivy thì nhận xét là năm nay có rất nhiều xe, nhưng bác phấn khởi thấy xe của bác coi bộ không đến nỗi ở sau quá trong dòng xe diễu hành. Còn ông già Baklơ - xưa kia là người đánh xe chở than, đã tham gia diễu hành trên ba mươi năm - thì đang hồi tưởng lại trước kia có lần xe ông chỉ đi trước có ba xe cuối cùng, con ngựa của ông đã mệt quá đến nỗi về đến nhà là nó lăn ngay ra sân, lúc đó đã qua hai giờ đêm.
Tuy nhiên, cuối cùng họ đã đến lễ đài. Bác Charlie nghiêng người về phía trước nhận phần thưởng do một bà bệ vệ trong một bộ váy áo tơ xám, môi đỏ chót, móng tay cũng đỏ chót, trao tặng. Bà chúc mừng bác Charlie, nhận xét về con ngựa đẹp của bác và hỏi tên con ngựa. Không biết bác Charlie nói gì mà nghe xong, bà nhướng cặp lông mày lên, hỏi:
- Thật thế ư? Nhưng sao lại thế?
- Thưa bà, vì nó là một con ngựa già nên mọi người đều không tin là nó còn làm được gì tới đây nữa.
Như để chứng tỏ những lời này là đúng, Bernard Shaw thình lình cất cao đầu, lồng lên chạy.
Bà Mabel rú lên, William cũng thét lên sợ hãi, bà Baklơ kêu “ôi, cái chân khốn khổ của tôi”. Trong khi đó thì ông Baklơ lại hồi tưởng lại một việc đã xảy ra vào năm 1910 (hoặc vào năm 1911). Khi đó con ngựa của người bạn ôngcũng lồng lên y như thế này, mọi người trên xe đã bị ngã và phải vào bệnh viện nằm một tuần lễ.
Chỉ có những đứa trẻ con là thực sự vui vẻ, chúng ngã dúi vào nhau, lăn xuống sàn xe, James và John lại hích nhau - thêm một chuyện nữa để kể cho Hội!
Hai người đàn ông nhảy ngay lên trước giữ lấy cương ngựa và con Bernard Shaw bình tĩnh lại ngay lập tức. Những người ngồi trên ghế dài hơi bị lắc một chút nhưng không ai bị đau. Còn lâu nữa đoàn diễn hành mới ra khỏi công viên.
Ông bà Perkins bắt đầu nói rằng, có lẽ họ phải xuống xe ra về vì nà họ ở xa.
Bác Charlie kêu lên ngạc nhiên:
- Thế nào? Ngày lễ mà ba giờ chiều đã về nhà ư? Aivy và tôi đang nghĩ là hai bác không được vui. Chúng ta không nên có một ngày như thế. Jo đây và tôi, chúng tôi hơi ngạc nhiên về các bác đấy. Này, chúng ta đã dự định uống cà phê ở một quán trong công viên, nhưng các vị nghĩ thế nào, hay là vào hẳn Hiệu Cà Phê uống. Có ai ưng thế không?
Ồ, còn phải nói gì nữa, tất cả mọi người đều đồng ý. Bây giờ mọi người đều yên lặng, nhưng chưa được năm phút thì họ hát vang, chỉ có bác Charlie không thổi kèn đệm cho bài hát vì bác còn phải tập trung chú ý theo dõi con Bernard Shaw xem nó có giở trò gì không.
Bác nói:
- Vì nó là một gã bạn tốt vui tính.
Jo già hỏi:
- Cái gì làm cho anh nói dối bà trao giải thưởng về con Bernard Shaw đấy?
Vì Jo biết nó còn rất trẻ, nhưng bác Charlie chỉ cười, không giải thích.
Sau lúc bốn giờ thì hàng xe của họ trong đoàn diễn hành mới ra đến đường cái. Những đứa trẻ con hàng xóm được gửi về, còn tất cả tốp người tham dự thì ở lại đấy chờ bác Charlie đi gửi ngựa. Anh con trai của ông Baklơ làm tài xế cho một ông bác sĩ, lái xe đi suốt ngày, đã có lòng tốt cho gửi con Bernard Shaw vào trong nhà để xe của anh. Bác Charlie đã vui vẻ vẫy tay khi bác đem ngựa đi gửi. Chỉ một lát sau bác đã quay lại và chưa đầy một giờ vừa đi xe buýt vừa đi thang máy, họ đã ngồi trong một phòng đông đúc, quanh hai cái bàn to ở một hiệu cà phê vào loại to nhất. Một người đàn ônglịch sự trong bộ lễ phục buổi tối cúi đầu chào họ, trong khi một cô hầu bàn trông cứ như một ngôi sao màn bạc đứng ở bên chờ họ đặt món.
Kiểu cách vương giả như thế làm cho mọi người cảm thấy hơi ngượng ngập, chỉ có bà Perkins là vẫn bình thường như ở nhà, không để ý gì đến người đàn ông mặc bộ đồ buổi tối lịch sự cũng như bộ mặt diễn cảm của cô hầu bàn có dáng tài tử điện ảnh. Bà ngồi xuống, tháo găng tay ra một cách bình thản dường như bà uống trà hàng ngày ở những nơi như thế này.
Hình như đến mấy phút không ai có thể gọi được món gì, sau đó ông Perkins loan báo một tin thật đáng ngạc nhiên, là ông muốn mời mọi người một món gì đó, ông hỏi không biết có thể bắt đầu bằng món xade không? Không có người nào trong gia đình Ruggles biết xande là món gì. Cả hai ông bà Baklơ chắc chắn cũng không biết. Tuy nhiên chỉ có một người duy nhất dám nói ra điều đó là ông Baklơ. Thật là sung sướng khi nghe nói đó chỉ là một trong những loại kem ngon nhất thôi. Mọi người đều đồng ý, thế là ông Perkins gọi một cách tự nhiên, hình như đối với ông, việc gọi một lúc hai chục ly mứt kem là việc bình thường ấy.
Khi mứt kem đem tới, bà già Baklơ reo lên ngạc nhiên:
- Món mứt kem tuyệt diệu!
Ông Baklơ sau khi nếm một hai muỗng kem, lại bắt đầu hồi tưởng đến một câu chuyện có liên quan đến kem, trong khi đó thì dàn nhạc chơi bài “Những người làng Halếch”. Bác Charlie giơ một ngón tay kêu lên:
- Đây là âm nhạc phục vụ chúng ta. Xin hãy thưởng thức.
Trong tiếng nhạc, ông già Baklơ ăn nốt ly kem của ông hết sức ngon lành.
* * *
Bữa trà đã qua. Thức ăn còn nhiều nhưng nói thật là họ buồn ngủ. Trong căn phòng nóng bức, có dàn nhạc sống, họ ngồi yên lặng trên những chiếc ghế dựa. Bà Baklơ quên đi bệnh tê thấp của mình, đang gật gù. Chồng bà thì đang hồi tưởng đến một chuyện gì đó xa xưa cũng im thin thít, Ngay cả lũ trẻ cũng yên lặng.
Chỉ có bác Charlie đang ngắm cái kèn harmonica yêu quý của mình và hạ giọng hỏi ông em xem liệu dàn nhạc có đồng ý cho ông hòa tấu với họ không? Bác Mabel nghe lỏm được ý định này, nói ngay là bác mong ông Charlie không làm điều gì thất thố ở đây. Khi tràng vỗ tay hoan hô bài “Những người làng Halếch” vừa kết thúc, bà nói thêm là muốn họ chơi bài “Điều mong ước của trái tim tôi”. Bà quay lại nói với Rosie:
- Họ đã chơi bài này ở Hiệu cà phê Acadi gần nhà chúng tôi. Lexlai và tôi thỉnh thoảng vẫn đến đấy ăn tối.
(Vậy là rõ tại sao bà Mabel cứ tự nhiên như ở nhà và ông Lexlai biết tất cả các món xande. - Rosie nghĩ - thì ra mọi vấn đề đều có lý do cả).
Rosie mỉm cười buồn ngủ rồi nói cần gọi thêm món gì cho bác Lexlai.
Thế còn bác Charlie bây giờ đang làm gì nhỉ? Bác đang hoạt động tích cực ở giữa những cái bàn phía dàn nhạc. Thấy chồng đang nói gì với người chỉ huy dàn nhạc, bác Aivy kêu lên:
- Tôi tin là ông ấy sẽ tham gia biểu diễn đấy!
Nhưng không! Bác Charlie đã trở lại, người chỉ huy dàn nhạc  đang hướng về phía họ nghiêng mình cúi chào. Một phút sau, dàn nhạc tấu bản “Điều mong ước của trái tim tôi”.
Khi bác Charlie vừa ngồi xuống, bà Mabel reo lên:
- Ồ, Charlie! Cậu làm thế nào mà họ chơi ngay bài đó thế?
Ông đáp:
- Tôi nghĩ rằng người chỉ huy dàn nhạc ưa bộ mặt của tôi, hoặc có lẽ khuôn mặt của chị, chị Mabel ạ. Tôi đã đề nghị ông ta chơi bài này phục vụ bà đội mũ nâu đấy.
Bà Mabel đỏ mặt lên, mỉm cười và sau hết làm như không để ý gì đến việc đó cả.
Khi bản nhạc này kết thúc, những tiếng vỗ tay vang rền, bà Mabel reo lên:
- Đây chính là bản nhạc tôi cho là tuyệt vời, hoàn toàn…
Câu nói của bà Mabel bị ngắt vì tiếng kêu bất chợt của Rosie:
- Jo, Jo! Nhìn đồng hồ xem! Coi lại thời gian đi… Xe lửa của chúng ta… Ồ, chúng ta chưa bao giờ bị nhỡ tàu cả… Vé của chúng ta có giá trị đến… Nhanh lên, nhanh lên!
Làm sao họ có thể quên nhỉ? Sao lại có thể như vậy? Những cái vé chỉ có giá trị trong một thời gian thôi.
Bác Charlie bảo vợ và ông bà Perkins:
- Tốt nhất là em và các bác cứ ngồi cả đây, tôi sẽ đưa họ ra ga. Không đầy một tiếng đồng hồ tôi sẽ trở lại. Yên lặng nào, chúng ta đi thôi.
Bác gọi gia đình Ruggles nhặt túi, áo choàng rồi chào “cảm ơn, tạm biệt”. Cả gia đình Ruggles theo bác Charlie ra thang máy, đi ra đường và chen lên xe bus đông ơi là đông.
Bác Charlie chốc chốc lại nói: “Chúng ta sẽ kịp tàu”, nhưng coi bộ bác cũng nghi ngờ. Bác nói với ông em:
- Chú đã chuẩn bị vé sẵn sàng chưa? Xuống xe chúng ta sẽ chạy nhanh đến cho kịp. Tôi ẵm hai đứa trẻ cho.
Họ chạy nhanh đến ga tàu hỏa. Bác Charlie một tay ôm Jo, một tay ẵm Peg. Rosie bế William. Lily Rose và Kate dắt hai thằng bé sinh đôi đi giữa. Ông Ruggles thì ôm áo choàng, túi đi sau cùng.
- Chậm mất rồi!
Người soát vé nói và đóng cửa ga lại ngay trước mũi họ.
Đằng kia, chuyến tàu của họ đã chuyển bánh, lên đường.
William biểu lộ cảm giác chung của cả nhà, hét to lên một tiếng.
Một nhân viến lịch sự hơn đang đứng gần đấy hỏi:
- Các vị đi đâu? Otwell à? Thế thì chưa sao. Chúng tôi còn một chuyến tàu nữa đi Otwell. Được, vé của các vị đi được ra sân ga số 15, năm phút nữa tàu sẽ chạy.
Gia đình Ruggles thở ra như trút được gánh nặng, vội vã ra sân ga số 15. Tất cả các toa đều đầy ắp người. Họ đi mãi, đi mãi dọc sân ga tìm chỗ.
- Đây, đây có hai chỗ.
Cuối cùng bác Charlie kêu lên, mở cửa toa sát cuối đoàn tàu, giục mọi người: “lên đi, lên đi”.
Bác nhấc hết đứa trẻ này đến đứa trẻ khác lên tàu.
Rosie bế thằng William trên tay cảm thấy ngạt thở, đứng trong một góc toa. Một giây sau bà đứng thẳng lên thì thấy ngay trước mặt là bà “Thóc Mách” - tay đang cầm quả chuối, mồm há ra cắn từng miếng to tướng! Góc đằng kia là ông chồng của bà đang ngồi xem báo. Rosie vội tìm xem có cầu nối đi sang toa khác không, nhưng rất tiếc là không có.
Trong khi đó thì ông Ruggles đang đứng ở cửa sổ nói chuyện với ông anh.
Rosie đặt William xuống ghế, lách lại gần chồng, nói to:
- Tạm biệt anh Charlie thân mến! - rồi đưa tay ra bắt.
Nhưng bác Charlie đang bận rộn với cây kèn harmonica của bác.
Bác đưa kèn lên môi, lấy hơi thổi một bản nhạc trong khi tàu bắt đầu chuyển bánh. Rosie còn kịp nghe thấy những nốt nhạc của một bài hát xưa.
Bác Charlie còn chạy theo tàu, cố chơi một điệu nhạc gì nữa, ông Ruggles hỏi vợ:
- Bài gì đấy? Bác ấy còn cố chơi bản gì nữa đấy?
Tàu tăng tốc. Bác Charlie đứng lại. Bà Ruggles vẫy vẫy tay lần cuối, rồi quay lại trả lời chồng:
- Bài “Kết thúc một ngày đẹp”, mình thân yêu ạ!
Và bà hôn lên mũi ông.

Hết

3 nhận xét:

  1. Cảm ơn add đã đăng câu chuyện này!
    Đây là một chuyện rất hay, rất dễ thương mà tôi đã đọc hồi nhỏ và giờ tôi lại đọc cho con tôi nghe. Cháu rất thích.
    Nhân tiện xin phép add cho tôi dùng những nội dung văn bản add đã nhập để đóng thành ebook có được không?

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Rất vui vì bạn cũng thích truyện này. Bạn cứ thoải mái sử dụng. Tôi rất vui khi được mọi người cùng chia sẻ.

      Xóa
  2. Cám ơn bác đã đăng truyện này, đây là truyện gắn với tuổi thơ của mình. Mình từng có sách nhưng bị mất chương cuối, mình cứ nghĩ sẽ không bao giờ được đọc trọn vẹn tác phẩm này. Cám ơn lần nữa và chúc sức khoẻ bác.

    Trả lờiXóa