Quy luật của muôn đời
Tác giả: Nodar Dumbadze
Người dịch : Phạm Mạnh Hùng
Nhà xuất bản Văn Học - 9/1984
Chương 3
Cái buồng bệnh ba giường thấm đượm mùi iôđôfooc lẫn với mùi cồn, mùi long não và mùi hơi ẩm của sàn nhà
mới lau chùi. Để khỏi ngạt thở, bằng một cử động thận trọng Batsana kéo chăn
che kín mũi, rồi cũng thận trọng như thế, ông tự xem mạch của mình. Tim đập như
thời thơ ấu khi Basana nheo mắt, tựa đầu vào tấm vách, bắt đầu đếm: “Một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, tám
rưỡi, chín, chín rưỡi, mười!”. Batsana thôi không bắt mạch nữa và đặt tay
lên tim. Tim im lặng. Sợ hãi, ông lại xem mạch. Mạch vẫn đập. Thế là ông chậm
rãi thò mũi ra khỏi chăn. Một mùi găn gắt xông lên.
- Cửa sổ... - Batsana khẽ thốt lên.
- Cái gì? - Giường bên lên tiếng.
- Ô-hô! Ông ấy còn sống ư? - Giường kia hỏi.
- Chẳng lẽ người ta lại đưa người chết đến đây à? Đây là
phòng bệnh hay nhà xác? - Giường thứ nhất đáp bằng giọng bực tức.
- Nghe nói là một nhà văn. - Giường thứ hai đáp. - Chỗ của
nhà văn là ở Mơtatxminđa [nghĩa đen là
“Núi Thần” - ngọn núi ở Tbilixi, nơi có lăng các nhà hoạt động xã hội xuất sắc],
chứ không phải là ở đây.
Batsana nghe thấy cuộc đối thoại giữa hai giường kế cận,
nhưng đối với ông, cái chủ yếu bây giờ là không khí, không khí tươi mới, trong
lành, ngoài ra không cần gì hơn.
- Cửa sổ! - Ông nhắc lại.
- Ở đây có cái gì không vừa ý ông ta, không rõ là không khí
hay cửa sổ.
- Không khí. - Batsana nói.
- Thưa ông, ông biết đấy, chúng tôi không được phép trở dậy,
thậm chí không được phép cử động nữa kia. - giường thứ hai cho biết. - Vì vậy,
chừng nào cô hộ lý chưa đến thì ông đành bằng lòng với thứ không khí mà tôi và
ông Bulika đáng kính vẫn thở vậy.
Batsana hiểu rằng Bulika là tên giường thứ nhất. Bây giờ cần
biết rõ người nằm giường thứ hai là ai.
- Mấy giờ rồi? - ông hỏi.
- Theo tôi, bây giờ là lúc cha làm dấu thập ác và cầu nguyện
đức Chúa Trời! - giường thứ nhất trả lời.
Batsana nghiêng qua giường thứ hai và nhìn thấy bộ râu đen
với những sợi râm bạc. “Chắc là một cha cố” - ông nghĩ và hỏi lại:
- Mấy giờ rồi?
- Mười giờ. - Bộ râu đáp.
- Thế ông không quan tâm đến thế kỷ à? - Bulika tò mò.
Người ốm thường bông đùa hoặc trước khi chết hoặc sau khi
bình phục, Batsana vẫn nhớ bây giờ là thế kỷ thứ mấy, nhưng lúc này ông quan
tâm đến vấn đề khác: bộ mặt của người đã bình phục này. Đầu giường Bulika ở
phía chân Batsana, vì thế ông chỉ có thể nhìn thấy quãng đầu hói của ông ta.
Batsana bất giác mỉm cười, và không muốn làm mếch lòng người
nằm giường bên, ông hỏi:
- Bây giờ là thế kỷ thứ mấy?
- Đúng rồi, thưa cha, ông ấy từ những vùng rất xa xôi trở
về, - Bulika nói với giường thứ hai. - Tôi thì chưa đi xa đến như thế.
- Ờ thì bác chỉ thiếu máu cục bộ vách sau tim. Còn ông ấy
không phải chỉ thương tổn vách sau, mà là cả một đống hoang tàn Bagrachi [Đền thờ Bagrat (thế kỷ X-XI), gần thành phố
Kutaxi].
- Nếu vậy thì ông bạn thân mến ạ, đối với ông bây giờ là thế
kỷ đầu của kỷ nguyên mới! - Bulika nói rõ hơn.
Batsana không đáp. Ông bắt đầu quan sát buồng bệnh.
Cửa ra vào. Một giường bệnh. Một giường bệnh nữa. Hai cái tủ
con thấp, trên để những lọ matxôni [Sữa
chua đặc], những lọ thuốc, những trái cây có đậy tấm khăn ăn. Những bức
tường trắng. Một cửa sổ lớn. Một chiếc bàn dùng chung có một bình nước và những
bông hồng đã tàn héo. Dưới giường thứ nhất là một chiếc bô màu trắng, dưới gầm
giường thứ hai có cái gì thì Batsana không nhìn thấy. Ông nằm giường số ba. Ông
nghiên cứu khá kỹ quãng đầu hói của người thứ nhất ở giường kế cận. Ông cảm thấy
khuôn mặt trông nghiêng của người thứ hai, người có râu, nom khá dễ ưa: trán
cao, mũi thẳng, bộ râu rậm điểm bạc... Hôm nay là ngày thứ mấy? Tháng nào?
Những câu hỏi liên tiếp nảy ra trong đầu Batsana và ông
không thể tìm ra câu trả lời nào cả. Thôi, thây kệ những câu hỏi đó, ít ra cũng
cần biết năm nay là năm bao nhiêu!
- Năm nay là năm bao nhiêu? - Ông buột miệng nói.
- Ông ấy mê sảng hay lỡm chúng ta! - Bulika nói.
- Không, chẳng qua là ông ấy thiếu ôxy, vì thế lẫn trí. Tôi
cũng đã có lần như thế. - Bộ râu đáp. - nên cố tìm cách mở cửa sổ ra.
Trong phòng bỗng nhiên đầy sương mù màu hồng quen thuộc, và
Batsana lại ở trên cái thang dốc.
- Ông tên là gì, thưa ông? - Bulika từ xa đưa lại.
“Tên tôi là Batsana, họ là Ramisvili!” - Batsana toan trả
lời, nhưng lại im lặng. Bulika ở xa, xa lắm.
- Thôi đi, ông ấy đang thiêm thiếp ngủ! - Bộ râu đáp khe
khẽ.
“Ồ không, tôi không ngủ đâu, tôi đang bị kéo xuống thang!
giúp tôi với, cho tôi trở lại phía trên!” - Batsana muốn kêu lên mà không được.
Bắt đầu một trạng thái ngây ngất màu hồng, lưỡi không tuân theo ông nữa. Để
khỏi mất hẳn những người đó, những người ở các giường bên, Batsana ngồi xuống
bậc thang.
- Ông ấy ngủ rồi! - Bulika nói.
Batsana không ngủ. Ông nghe thấy hết.
Từ gậm giường của Bulika, một con chuột cống bò ra, hếch mồm
đánh hơi, ngọ nguậy ria.
- Nó đã hạ cố đến thăm ta, - Người bệnh No-1 nói.
- Một mình nó hay cả gia đình? - Bulika hỏi.
- Lúc này mới có một mình nó.
- Xem xem có phải nhà văn của chúng ta đã chết rồi không?
Cha ạ, chuột thường kéo đến khi đánh hơi thấy mùi xác chết. - Bulika nói và
thận trọng ngóc đầu lên nhìn con chuột, nhưng không kịp. Tiếng kẹt giường làm
con chuột kinh hoảng, nó chạy vụt về hang. Bulika chỉ kịp trông thấy cái đuôi
nó. - Nó chuồn rồi. - Bác ta nói bằng giọng tiếc rẻ.
- Nó sẽ quay lại. - Người bệnh giường No-2 an ủi Bulika, lấy
trong chiếc tủ con ra một mẩu đường và ném xuống sàn. - Nó sẽ trở lại cùng với
cả gia đình.
- Nhưng ông hãy cứ xem xem nhà văn còn sống hay không?
Người có râu quay đầu về phía giường Batsana. Ông nằm không
nhúc nhích, hai bàn tay xanh mét ấp trên ngực.
- Chăn động đậy và mi mắt rung rung.
- Chăn động đậy tức là ông ấy thở, thở tức là tim hoạt động.
Mi mắt rung rung tức là ông ấy không ngủ, không ngủ tức là nghe thấy chúng ta,
nghe thấy là phải trả lời, không trả lời tức là bệnh tình nghiêm trọng...
Bulika kết luận. - Đồng chí nhà văn kính mến, đồng chí còn sống chứ?
“Còn sống, tôi đang ngồi trên thang và chờ đợi các bạn đưa
tôi lên trên”. - Batsana muốn trả lời.
Hỡi ôi, chỉ là mong muốn thế thôi. Bulika không thể đoán
được mong muốn của người khác.
- Nó mà bò lên, chui ra thì tôi sẽ tin thượng đế!... -
Bulika nói với người có râu.
- Thì nó chui ra kia rồi! - Người có râu mừng rỡ, - Lại dẫn
theo cả gia đình nữa chứ!
Lần này, con chuột cái dẫn theo cả chồng và hai con. Nó đi
diễu một vòng quanh cái bô, rồi xộc thẳng tới chỗ miếng đường. Không thèm tốn
công tha thức ăn vào hang, nó gọi người nhà, và cả gia đình nó lần lượt gặm
miếng đường.
- Con vật khốn khiếp, nó cảm biết chúng ta không thể trở dậy
được! Nếu không thì ngay cả hổ cũng không dám láo đến như thế, - Bulika tức
giận lắc đầu. Con chuột quay đầu lại, đứng lên bằng hai chân sau và tò mò nhìn
người nói.
- Thậm chí nó hiểu cả tiếng nói của chúng ta, quân trời chu
đất diệt! - Bulika ngạc nhiên.
- Thế giới vô sinh có
tiếng nói bí ẩn kỳ diệu của riêng nó.
Loài người không hiểu
nổi.
Nào ai biết: con người
tinh khôn có khám phá ra không
Cái sáng suốt đã được
thấu hiểu từ lâu trong thế giới nọ?
- Thơ gì thế, “Dũng sĩ khoác da hổ” [Tác phẩm của nhà thơ cổ Gruzya, thế kỷ XII, Sôta Ruxtavêli] phải
không? - Bulika hỏi.
- Không, “Dũng sĩ” thế này kia:
Nghe tiếng Avtanđin,
thú vật đàn đàn lũ lũ kéo ra khỏi các khu rừng sồi.
Chúng nghe chàng và
ngạc nhiên về tính chân thật của chàng.
- Hừm, nó sống sướng hơn người. Chén đường không phải trả
tiền, không bị nhồi máu cơ tim, không mắc chứng đau thắt ngực, chứng tim đập
nhanh... Chúng ta lại đọc thơ cho nó nghe!... Xem kìa, nó béo tròn béo trục như
con lợn vậy!
- Chứ sao, điều kiện sống thích hợp...
- Vậy là thế nào? Nếu xét vấn đề về mặt lịch sử xã hội và
loại trừ sự phản vệ sinh và lập luận một cách lôgic và khách quan thì phải thừa
nhận rằng chuột cống sinh ra do hoàn cảnh dư thừa thực phẩm. Thành thử tôi
không thấy sự việc đó có gì dơ dáy... Nói chung chuột cũng là một tạo vật của
chúa... Chỉ tiếc rằng nó reo rắc bệnh dịch hạch, cái đó thì có...
- Chỉ xin cha đừng làm ồn và dừng gọi tôi là kẻ vô thần,
nhưng cha làm ơn cho biết: Chúa của cha cần tạo ra chuột cống để làm gì, hả
cha? Ít ra cũng nên cho nó một bản chỉ dẫn mới phải chứ! Ồ, công dụng của nó
dưới cõi trần này là gì? Chơi nhạc ư? Không! Làm món toonma [Món ăn làm bằng thịt ở vúng Kavkazơ, tương
tự như món thịt băm bọc lá cải bắp] ư? Không! Thế thì nó làm gì? Gặm nhấm
đường, gặm sàn, gặm sắt, gieo rắc dịch tả, dịch hạch, mọi thứ bệnh truyền
nhiễm! Nó là thế đấy, tạo vật ấy của cha do chúa sinh ra! Hừ, mẹ cha nó!... -
Bulika nhổ bọt và quay mặt vào tường.
- Anh thật là đần độn! Chúa tạo ra chuột cống để những kẻ
ngu dốt như anh thấy sự toàn năng của Chúa! Và hãy giữ mồm giữ miệng, kẻo sau
khi anh chết, Chúa lại bắt hồn anh đầu thai vào chính con chuột này đấy! -
Người có râu hăm dọa.
- Muốn vậy thì Chúa chỉ cần một con chuột cống thôi là đủ! -
Bulika hạ giọng.
- Ném cho con chuột miếng đường, tôi hết ráo cả rồi! - Người
bệnh No-2 nói.
- Có lẽ cần dâng cho nó “khúc đuôi tôm” chăng? Liệu nó có
nảy mụn trứng cá ra không nhỉ? - Bulika hỏi với giọng khinh miệt, lại quay về
phía người nói chuyện với mình.
- Mọi sinh vật trên đời đều là tạo vật của Chúa. - Người kia
trả lời với giọng dạy đời. - Và ta nên sống hoàn toàn hòa hợp.
Ăn xong chỗ đường, mấy con chuột bắt đầu đánh hơi cái tủ con
của Batsana, nhưng không tìm thấy ở đấy thứ gì ăn được - Batsana chưa kịp trữ
thực phẩm - nó chuyển sang khu vực của người bệnh No-2. Nhưng ở đây cũng không
có gì thích hợp, thế là chúng bắt đầu gặm chân chiếc tủ con.
- Hừ, chúng mày chết tiệt đi cho rảnh! - Người bệnh No-2
bỗng kêu ré lên và ném chiếc giầy vào con chuột, ném mạnh đến nỗi Bulika hoảng
sợ ấp hai tay lên tim.
- Chớ phá hủy sự hài hòa, thưa cha! - Bác ta nói một cách
mỉa mai và để phòng ngừa sự bất trắc, bác đặt một viên notrôglyxêrin dưới lưỡi.
- Có chuyện gì thế? - Chị y sĩ hỏi, nghe thấy tiếng ồn ào,
chị vào.
- Thưa chị Giênya, - Người bệnh No-2 nói với chị y sĩ bằng
giọng lo lắng, - Hoặc chị bảo vệ chúng tôi khỏi những con vật đáng tởm, hoặc
xin chị đặt một cái bẫy chuột.
- Ông định nói gì thế?
- Cố nhiên, không phải là “Bẫy chuột” của Vagiơ Psaven! Hãy
giải thoát chúng tôi khỏi những con chuột cống! Không thể tiếp tục chịu đựng sự
có mặt của chúng được nữa.
- Lạ thật, thưa batônô,
đã ba chục năm tôi làm việc ở đây mà không hề thấy một con chuột nhắt nào cả!
- Thì tôi có nói đến chuột nhắt đâu. Chuột cống kia chứ!
- Thế thì lại càng không có!
- Tôi nói quyết với chị rằng ở đây đầy chuột cống! - Người
bệnh No-2 khăng khăng nhắc lại. - Giầy của ai đây? - Chị y sĩ tránh trả lời.
- Của tôi, chị Giênya ạ, giầy của tôi, tôi muốn ném chết con
chuột cống!
- Thế sao bảo là “Không được sát hại sinh linh”, thưa cha?
- Điều răn ấy không cần chị giảng giải thêm, mà nói chung,
một người phụ nữ ở tuổi chị phải phân biệt được người với chuột cống! - Người
bệnh No-2 bực tức.
- Tuổi của tôi không phải là chuyện đáng cho cha bận tâm! -
Giênya nổi nóng, - Tôi không phải là y sĩ về chuột cống! Cần thuốc thì nói với
tôi, còn về bẫy chuột và Xtricnin thì hỏi thủ kho!
- Trong phòng chúng tôi hiện giờ có một nhà văn! Chắc là ông
ấy sắp hồi tỉnh, ông ấy sẽ chính mắt nhìn thấy hết và sẽ đưa các người lên báo!
- Bulika đe dọa.
Chị y sĩ tới gần giường Batsana, ngồi ghé xuống bên giường
và bắt mạch cánh tay không còn sức sống của ông...
- Ôi chao, ông ấy còn hơi sức đâu mà... - Chị thở dài.
- Làm ơn, mở hộ cửa sổ ra, ông ấy vừa tỉnh lại và đòi không
khí. - Người bệnh No-2 nhớ ra.
...Giênya đứng phắt dậy khỏi giường đến gần cửa sổ và mở
toang cửa.
Không khí tươi mát tràn trề sức sống, thấm đượm hương thơm
hoa phượng tràn vào phòng.
Phòng bệnh ngát hương thơm mùa xuân.
* * *
- Đứng dậy, leo lên đi! - Một giọng rất quen gọi Batsana lúc
ấy đang ngồi trên thang, ông đi theo tiếng gọi ấy. Cái thang đưa ông tới một
bãi trống nhỏ nằm lọt giữa những cây phượng nở hoa, trên bãi rải rác những bông
anh túc đỏ như máu. Giữa đám hoa anh túc có một chú ngựa non trắng như tuyết
với cỗ bờm lộng lẫy. Nó nóng nảy giậm một chân trước xuống đất như gọi Batsana
đến với nó.
- Hãy đến cưỡi lên lưng tôi! - Batsana nghe thấy. Ông cưỡi
lên con ngựa, hai tay ôm lấy cổ nó và gục đầu vào cổ nó. Con ngựa phóng đi.
Móng nó không bịt sắt nện vang giòn. Nó lao như bay, đưa Batsana đến gần ngôi
nhà thờ trắng và cất tiếng hí vang, nghe như hàng nghìn cái chuông lớn nhỏ đổ
hồi. Cổng nhà thờ mở rộng và Đức mẹ đồng trinh hiện ra, tay bế Chúa hài đồng.
“Lạy chúa tôi”, - Batsana nghĩ, quỳ xuống...
... Lúc tỉnh lại, Batsana thấy chị y sĩ mặc áo blu trắng
đang đếm mạch ông. Ông cảm thấy máu chảy trong mạch và ở một chỗ nào đó cạnh
tim, nhịp co bóp của tim chậm lại, vấp phải một trở ngại vô hình. Nhưng máu vẫn
dai dẳng mở đường chảy, ép vào các vách tim. Dòng chảy của máu mỗi lúc một mạnh
hơn, nhanh hơn. Bây giờ máu không chảy, mà vỗ đập, phụt tia, sôi lên, đến nỗi
Batsana buốt hai bên thái dương. Nhưng đấy là cái đau khác, đặc biệt. Và
Batsana hiểu rằng sinh mạng đã rời bỏ ông nay lại trở về với ông, vào trong
phòng, đến ngồi xuống giường cạnh ông và chạm vào ngực ông. Tất cả những cái
đó, thoạt tiên Batsana cảm thấy, rồi nghe thấy, rồi nhìn thấy hẳn hoi.
- Xin chào! - Ông mỉm cười với sinh mạng đã quay trở lại.
- Chào ông! - Cả chị y sĩ và hai người bệnh giường bên đều
buột thốt lên.
Tiếng “chào ông” đó chứa đựng tất cả sự bất ngờ, niềm vui
sướng, ngạc nhiên.
- Chào các bạn! - Batsana nhắc lại, mỉm cười với mọi người.
- Ông ấy đã trở về! - Bulika nói.
- Đã trở về! - Batsana xác nhận.
- Trước đây ông ở đâu? - Bulika tò mò.
- Chắc chắn là ở Viflêêm! - Batsana mỉm cười.
- Hình như bây giờ ông ấy vẫn ở đấy! - Bulika buồn rầu.
- Ồ không, tôi thực sự đã trở về rồi! - Batsana nói cho
người kia yên tâm.
- Tôi ở đây bao nhiêu ngày rồi? - Ông hỏi chị y sĩ.
- Một ngày một đêm, - chị vừa trả lời vừa đặt lại chiếc gối
ngay ngắn.
- Cảm ơn.
- Ông thấy trong người thế nào?
Batsana suy nghĩ. Tim ông đập không đều, nhưng không yếu
lắm: ông nghe thấy tiếng tim mình. Ông động đậy chân tay, nhưng không cảm thấy
thân thể. Ông cảm thấy lâng lâng, thú vị vì một cảm giác bay bổng tự do. “Chắc
hẳn đấy chính là trạng thái không trọng lượng” - Batsana nghĩ.
- Ông cảm thấy trong người thế nào?
- Như nhà du hành vũ trụ! - Batsana đáp, cả quyết như một
nhà du hành vũ trụ dày dạn.
- Có khó chịu ở tim không?
- Hơi đau, nhưng không đau như ban nãy...
- Tôi biết, - chị y sĩ ngắt lời ông. - Tôi sẽ tiêm Ghêparin
và Pantôpôn cho ông ngay bây giờ. Ngủ đi cho khỏe sức, đừng nói chuyện, không
được cử động... Chiều, giáo sư sẽ đến.
- Không được cử động tí nào ư?
- Tuyệt đối không!
- Chỉ động đậy một chút thôi thì sao?
Chị y sĩ nghĩ ngợi, rồi nói khẽ, nhưng bằng giọng kiên quyết
dứt khoát và khốc liệt:
- Ông sẽ chết!
Batsana nuốt nước miếng một cách khó nhọc. Rồi ông ngoan
ngoãn chịu hai mũi tiêm (chị y sĩ lập tức đặt túi sưởi nóng vào chỗ tiêm) và
ông im thít.
- Có gì cứ gọi tôi. - Chị y sĩ nói với ông. - Còn các ông, -
Chị quay về phía hai người kia, - thì uống xêđuxen và ngủ đi. Tôi cũng có nhận
thấy một điều gì đó cả trong các phòng bệnh khác, nhưng chớ vì thế mà làm náo
loạn cả trần gian lên!
Chị đi ra.
- Tôi sẽ kể hết với giáo sư! - Bulika hét với theo, nhưng
chị y sĩ không nghe thấy.
- Ấy là vì trước khi ông trở lại với thế giới chúng ta, giữa
chúng tôi đã có một cuộc tranh cãi nhỏ về chuột cống. - Người bệnh No-2 giải
thích với Batsana.
- Chuột cống nào?
- Nó sắp đến bây giờ đấy, khi ấy ông sẽ làm quen với nó, Còn
bây giờ thì xin phép tự giới thiệu: cha cả của nhà thờ Ba ngôi tại Ortaisala, Iôram
Kanđêlaki, còn đây là bác thợ giày ở Vakê [Tên
cổ của các khu trong thành phố Tbixili], Aptanđin, cũng còn có tên là
Bulika, Gôghilasvili.
- Tại sao lại tên là Bulika?
- Thuở bé, tôi gọi “Bulka” [Có nghĩa là bánh mì trắng] là “bulika”. Vì thế có cái tên nhạo là
Bulika. Ông cứ gọi tên tôi như thế cũng được. - Bulika trả lời.
- Rất hân hạnh... còn tôi là Batsana Ramisvili, nhà văn.
- Chúng tôi biết rồi, nhưng vì sao ông bị nhổi máu cơ tim?
- Thú thực là tôi không thể nói được! - Batsana thở dài.
- Có lẽ ông... Chính cái ấy chứ gì? - Bulika búng vào cổ
họng mình một cách ý vị. - Nghe nói các nhà văn rất khoái món đó...
- Không, không phải thế đâu! - Batsana mỉm cười.
- Tịnh không à? - Bulika ngạc nhiên.
- “Tịnh không” là thế nào? - Đến lượt Batsana ngạc nhiên.
- Chính vậy đấy! ... Không thì lạ thật: không uống thì viết
làm sao được?! Chẳng hạn như ông thì bao nhiêu?
- Ồ... một, hai, ba...
- Hai ba ly à?
- Hai-ba-chai!
- Tôi biết mà! Cừ lắm!... Nhưng bây giờ ông sẽ phải tạm
chuyển sang nước quả.
- Không phải là tạm, mà vĩnh viễn! - Cha Iôram thốt lên.
- Nói thế! Như vậy thà tự sát còn hơn! - Bulika kêu lên.
- Đúng, đổi sang nước quả. Nếu ông uống nước quả thì sẽ
không phải nằm bẹp tại đây! - Cha Iôram nói bằng giọng dạy đời.
- Thế còn cha? Cha không uống rượu vang, thế tại sao cha lại
nằm cạnh tôi, hả? - Bulika hỏi, mỉm cười cay độc.
- Vâng, đến phải như vậy thôi... Nước quả. - Batsana nói.
- Nói chung thì điều đó đúng... Tôi có quen một nhà văn cũng
như ông, tôi chữa giày cho ông ta. Cú mỗi lần tôi say rượu, ông ấy lại gào lên
như con quạ.
Ơi Bulic mến thân, tự
nay nên chừa rượu.
Kẻo rồi khốn vào thân,
hãy tin lời tôi khuyên!
Tôi không tin ông ta, tôi cho rằng ông ta cũng không bình
thường như mọi nhà thơ thôi... Thế là tôi đã đến nông nỗi này! Tôi mới chưa đầy
ba mươi mà đã thành người tàn phế... Quỷ
tha ma bắt nó đi, món rượu vang ấy, - Bulika thở dài, - Đâu đâu tôi mơ thấy
những điếu thuốc lá, như mơ thấy người đẹp!... Nói chung, sau khi bị nhồi máu
cơ tim, thật không muốn sống nữa!...
- Sau khi bị nhồi máu cơ tim, con người đâm ra sợ, nỗi sợ
hãi đáng ghét! Ông có sợ không! - Cha Iôram hỏi Batsana.
- Sợ chứ, rất sợ là đằng khác! - Batsana thú nhận.
- Lầm! - Bulika xen vào. - Hiện giờ ông còn bị tác dụng của
thuốc mê, nhưng rồi sẽ qua hết... Thế ông không mường tượng thấy gì ư? Không mơ
thấy ai ư?
- Có, tôi có thấy một người. - Batsana đáp, sau một lúc suy
nghĩ.
- Đấy là chuyện thường xảy ra... Đôi khi ta còn nói trong
lúc mơ... Phun ra hết mọi điều bí mật của ta!... Nếu có người tình thì phải coi
chừng, chớ có gọi tên nàng trước mặt vợ!...
- Cám ơn, tôi sẽ lưu ý. - Batsana mỉm cười.
- Nói chung, - Bulika nói tiếp, - người thông minh thì kiếm
người tình có tên trùng với tên vợ mình. Như tôi chẳng hạn, khi tôi lâm vào
tình trạng như ông bây giờ, cái trạng thái như nhà du hành vũ trụ phải không,
tôi luôn luôn nhớ đến Xvêta người tình của tôi... Té ra Xvêta vợ tôi ngồi bên
giường và khóc nức nở “Vaimê, Bulik - gian, tôi không ngờ mình yêu tôi đến
thế!”. Tôi cứ huyên thuyên thỏa thích về người tình của tôi... Nếu phụ danh của
hai người đàn bà đó lại trùng nhau nữa thì ông chồng đúng là sống trên thiên
đường! Nhưng có lần tôi vẫn bị hố! Ấy, có cha Iôram đây làm chứng...
- Sao vậy? - Batsana linh hoạt hẳn lên.
- Số là trong lúc mê sảng tôi nói lảm nhảm như sau:
“Xvêta-gian, em ạ, trái quả đầu tiên con lợn cái được hưởng, - con lợn cái là ý
nói vợ tôi, - nhưng không sao, nếu nhờ trời anh ra được khỏi đây thì anh sẽ
cưới em làm vợ!”. Nghe những lời như thế, vợ tôi khóc toáng lên và đâu như còn
đập đầu vào chiếc giường bây giờ ông đang nằm, hồi ấy giường bỏ không. “Vaimê,
Bulika của tôi lẫn hẳn rồi, thậm chí không nhớ cả lễ cưới của chúng tôi!”. Giá
mà bà ấy biết lúc ấy tôi hoàn toàn tỉnh thì nguy tai!... Thế đấy!...
Bulika đột nhiên dứt lời và nhìn Batsana chằm chằm. Batsana
nằm nhắm mắt, vẻ khoan khoái hiện rõ trên mặt và thở đều đều, bình tĩnh.
- Chà, con người kỳ lạ làm sao, ông ta đi đến nơi ấy và quay
trở lại nhanh chóng quá chừng! - Bulika nói với cha đạo bằng giọng giận dữ.
- Hãy để ông ấy yên, đấy là do tác dụng của Pantôpôn... Để
ông ấy ngủ.
Còn Batsana xuyên qua màn sương mù màu hồng, xuống cái thang
dốc quen thuộc, nhưng lần này ông cảm thấy rõ rệt mình lên mỗi lúc một cao...
Chương 4
- Đây là giấy gửi con đi khám nghiệm con bé bỏng của ta ạ...
Đến Tsôkhatauri [Một trung tâm huyện ở
phía bắc Tbixili] chụp điện... Ta không thích đôi mắt sáng ngời và cặp má
ửng hồng của con!
Batsana gập tư tờ giấy và cất vào túi.
- Cháu bị làm sao, bác Epghêni? - Chú bé bình tĩnh hỏi bác
sĩ.
- Cháu hay bị sốt đã lâu chưa?
- Chừng một tháng nay, có lẽ thế!
- Có đổ mồ hôi không?
- Ban ngày ra mồ hôi tay, ban đêm thì đúng là bơi trong mồ
hôi. - Batsana chùi đôi tay đẫm mồ hôi vào quần.
- Có ho không?
- Thỉnh thoảng, nhưng ho dữ như con chó, - Batsana pha trò
một cách buồn rầu.
- Có thấy máu trong đờm không?
- Tuần trước có ra ít máu, bằng ngần này này, - Batsana giơ
ra móng ngón tay út.
- Sao đến giờ con mới nói, con bé bỏng của ta? - Giọng bác
sĩ run lên.
- Cháu bị làm sao, hả bác? - Batsana lo lắng.
- Bác xem phim chụp điện, rồi sẽ cho biết.
- Bệnh đó gọi là gì ạ?
- Infintrat [Đám thâm
nhiễm (thuật ngữ y học)]... Biến chứng phức tạp hơn thì thành brônkhônđênit
[Viêm hạch phế quản (thuật ngữ y học)].
- Tiếng Gruzya là gì ạ? - Batsana không chịu thôi.
Bác sĩ không trả lời. Ông ngồi xuống bên bàn và bắt đầu lục
lọi giấy tờ, không có chủ định gì hết.
- Chữa bệnh đó dùng thuốc gì ạ? - Batsana lại hỏi.
- Pênêxilin và xunfiđin. - Bác sĩ đáp, không ngẩng đầu lên.
- Có thể tìm được không ạ?
- Được! Cần mười ngàn rúp, ở Tbilixi! - Bác sĩ nhìn đôi mắt
ngạc nhiên mở to của Batsana.
- Lấy đâu ra số tiền như thế được?
Bác sĩ nhún vai, giang hai tay ra tỏ ý bất lực.
- Còn những thứ thuốc gì nữa, bác Epghêni?
- Thuốc nữa à? Bơ, sữa, dầu cá, trứng cá, đường, mật ong, độ
ẩm và Băcmarô [Một nhà an dưỡng trên núi
cao ở Gruzya]... Thuốc như thế đấy!
Batsana cảm thấy khô cả cổ... Tất cả những thứ bác sĩ nêu ra
đắt gấp đôi những thứ thuốc kể trên. Chú đứng lặng thinh hồi lâu, không động
đậy, rồi chú lấy trong túi ra tờ giấy khám nghiệm, cẩn thận trải ra, đặt lên
bàn, và cũng lẳng lặng như thế, đi về phía cửa.
- Đi đâu thế, chú mày? - Bác sĩ gọi.
- Cháu đi đây, bác Epghêni ạ, cháu sẽ tự tìm ra một cách gì
chữa khỏi bệnh của cháu. - Batsana nhăn nhó nói.
- Khoan đã! Đến hiệu thuốc, mua ghêmatôghen [Loại thuốc bổ huyết], uống ngày ba lần,
mỗi lần một cùi dìa. Cái đó có ích đấy... Bác sĩ lấy trong túi ra một tờ mười
rúp, đưa cho Batsana. - Cháu cầm lấy này...
Batsana cầm lấy tiền và đặt cạnh tờ giấy xét nghiệm.
- Tiền thì ông cháu sẽ cho... Cảm ơn bác lắm lắm, bác
Epghêni ạ! - Batsana mở cửa.
- Bảo ông đến gặp bác nhé.
- Ông cháu ốm, bác Epghêni ạ, ông cháu đi lại khó khăn -
Batsana nói dối.
- Vậy thì nói lại với ông rằng... - Lời nói tắc trong cổ
họng bác sĩ.
- Nói gì kia ạ?
- Bảo ông rằng... - Bác sĩ nghẹn lời. - Con đừng sợ, con ạ.
Chưa muộn đâu! Con là một chàng trai cường tráng, bệnh tật không quật nổi con
đâu!
- Bảo với ông cháu thế nào, bác Epghêni?
- Thế này này! - Bác sĩ bỗng buột ra. - Bảo với ông già bất
hạnh là lập tức bán hết mọi thứ đi, - nhà, sân, linh hồn và thể xác mình, - và
mua Pênixilin cho cháu! Nghe thấy chưa?! Ngay lập tức!
Bác sĩ đâm bổ tới gần bàn, chộp lấy tờ giấy gửi khám nghiệm
xé vụn ra và tung lên trần nhà, rồi quay về phía Batsana, mặt biến dạng hẳn đi,
thét lên.
- Sau sự việc này mà tôi còn tự xưng là con người được ư?!
Tôi còn tự nhận là bác sĩ được ư?!
Không chịu được cái nhìn của bác sĩ. Batsana ra khỏi phòng.
* * *
- Cô Agrafêna, cho cháu hai chai Ghêmatôghen. Chủ nhật cháu
sẽ đem đào đi bán ở Tsôkhatauri và trả tiền cô. - Batsana nài nỉ người bào chế
khi chỉ còn hai người với nhau trong hiệu thuốc.
- Chú bé ơi, cháu cần Ghêmatôghen để làm gì? Đấy là thuốc
cho người ho lao.
Batsana run lên, hai tay chú đẫm mồ hôi, chân bủn rủn. Chưa
ai lớn tiếng gọi thẳng tên cái bệnh khủng khiếp ấy, ngay trước mặt chú như vậy.
- Để cho ông cháu... Bác Epghêni bảo uống... Bác ấy bảo yếu
sức uống có lợi...
- Lấy đi, con, lấy đi... Có điều... Cô nghi ngờ về những quả
đào của cháu...
- Sao kia ạ, thuốc đắt tiền phải không ạ?
- Chín rúp sáu mươi một chai...
- Thế thì cho cháu một chai, chủ nhật cháu sẽ đem tiền đến
trả.
- Con làm sao thế, con yêu quý? Tại sao con tái mặt đi thế?
- Agrafêna hỏi, giọng ái ngại.
- Dạ không, không sao cả ạ, da cháu vẫn tái như thế, -
Batsana cầm lấy chai thuốc, ra khỏi hiệu thuốc, và để khỏi ngã, chú ngồi xuống
bực cầu thang đã mục ải.
* * *
- Chào bác Glakhuna!
- Chào cháu! Ờ, nhưng bác không nhận ra cháu là ai... - Ông
chủ nhiệm trại chăn nuôi nheo mắt.
- Cháu là Batsana, cháu ông Lômkatsa Ramisvili.
- Chết chửa! Cháu lớn quá rồi đấy, cháu ạ! - Glakhuna ngạc
nhiên. - Ông cháu thế nào?
- Cũng bình thường ạ...
- Ờ... Mất những người con trai như thế... Vậy mà ông lão
vẫn không đến nỗi hồn lìa khỏi xác... Cháu là con người nào?
- Con ông cả.
- Con Akatsi à?
- Vâng.
- Ôi chao, bố cháu trước kia mới gớm chứ! Hồi bằng tuổi
cháu, bố cháu một mình tay không đi săn gấu!... Ờ, thế ông Lomkatsa cần gì?
Không có việc cần hẳn cháu đã không đến gặp bác.
- Bác Glakhuna, xin bác nhận cháu vào chăn gia súc trong
trại...
- Con còn nhỏ quá, con ạ, con không đuổi theo dê và bê được
đâu.
- Bác bảo là hồi bằng tuổi cháu, bố cháu đã đi săn gấu kia
mà.
- Nhưng bố cháu khỏe như con bò mộng, còn cháu thì thế nào?
Thổi một cái là cháu bay vèo đi. Cháu bao nhiêu tuổi?
- Mười lăm!
- Thế ông cháu ra sao? Liệu ông cháu có cho đi không?
- Nếu bác đồng ý thì ông cháu sẽ cho đi!
- Làm sao ta có thể đồng ý được! Ông cháu biết rõ hơn cả ta
công việc của người chăn gia súc trong núi vất vả như thế nào!
- Cháu van bác, bác Glakhuna!
- Ta không thể làm thế được con ạ!
Miệng Batsana méo xệch đi, mắt đẫm lệ.
- Đừng từ chối cháu, bác Glakhuna.
- Vì sao lại nôn nóng thế?!
- Cháu bị ho lao, bác Glakhuna! - Batsana nuốt nước mắt.
- Im đi, đồ ngốc! Có thể đùa bỡn như thế được không?! -
Glakhuna nổi cáu.
- Bác Epghêni bảo rằng... Bác ấy bảo cháu cần ăn nhiều bơ,
uống nhiều sữa, thở hít không khí trên núi, như vậy cháu có thể thắng được
bệnh...
- Trời giết tôi đi! - Glakhuna Kerkatzê rên rỉ, ôm lấy
Batsana. - Thế ngộ nhỡ cháu bị cảm lạnh trong núi vì mưa hay tuyết thì sao? Ngộ
nhỡ cháu chết thì sao? Khi ấy ta biết làm thế nào? Ta còn mặt mũi nào nhìn vào
mắt người ông xấu số của cháu nữa? Cháu cưng của ta ơi! Cái cần cho cháu không
phải là núi rừng, mà là chăn và đệm lông chim kia!
- Đừng từ chối cháu, bác Glakhuna! - Batsana ôm lấy Glakhuna
và òa khóc.
- Được, được, con yêu quý! Ta sẽ đem con theo, sẽ cho con
uống sữa chim, chứ đừng nói gì sữa dê! Ta sẽ giữ gìn con như lòng ngươi con mắt!
Trong hai tháng, ta sẽ bồi dưỡng cho con khiến con có thể một tay quật đổ con
bò đực ba tuổi! Lặng đi, lặng đi, con yêu quý của ta, đừng khóc! Chúng ta bất
chấp bệnh tật! Ta coi khinh bệnh tật! Nín đi, đồ chó đẻ!
Batsana đã nín khóc từ lâu, nhưng bây giờ Glakhuna Kerkatzê
khóc như đứa trẻ và chẳng có ai dỗ ông...
* * *
Hai mươi ba con bò cái, hai bò đực, hai mươi bảy con dê, ba
con ngựa và một con lợn đực - đấy là tất cả số gia súc lấy sữa và thịt mà nông
trang Kvêđôban có trong tay vào mùa hè năm 1943. Trại ở bãi chăn trên núi, trên
sườn dốc Tsơkhakaura thuộc vùng ngoại vi Bakhơmarô. Mùa hè, cùng với gia súc
chung, nông trang viên lùa cả gia súc riêng ra bãi chăn - phần lớn là bò cái tơ
và bê, - vì người ta không thể không cần đến bò sữa trong ba bốn tháng vào
những năm chiến tranh đói kém này, đó là lẽ tất nhiên.
Việc bảo vệ số tài sản thảm hại đó của hai mươi hộ do hai
con chó chăn cừu và ba người đàn ông đảm nhiệm: chủ nhiệm trại chăn nuôi
Glakhuna Kerkatzê, Xipitô Guđavatzê và Iôna Ôragơvêlitzê, Batsana là người thứ
tư, nhưng chẳng ai thực sự đếm xỉa đến chú.
Con lợn đực duy nhất trong đàn thuộc phần Glakhuna. Hôm nay,
con lợn đó sắp phải chịu chung số phận cay đắng của những con đồng loại bị
hoạn. Con lợn giống hai tuổi khỏe mạnh cố nhiên không hề đoán được gì. Nó khoan
khoái xục xạo đám rác, cái mõm ngắn và khỏe cày xới đất chẳng khác lưỡi cày
máy. Trong lúc con lợn nhởn nhơ làm công việc của mình. Glakhuna đứng dưới mái
hiên và liếc lưỡi dao vào sợi dây cương treo trên đỉnh.
- Cháu thương con lợn, bác Glakhuna! Không nên hoạn nó! -
Batsana nài xin.
- Nó chẳng cần gì phải một mình chạy nhông khắp rừng để kiếm
vợ như thế! Ở đây có phi như ngựa suốt bảy ngày cũng không tìm đâu ra con lợn
cái! Ta hoạn đi thì nó sẽ không còn nghĩ đến chuyện gì, ngoài cái ăn! Nó sẽ tu
tỉnh, sẽ béo mập lên, rồi cháu xem! - Glakhuna nói cho Batsana yên tâm.
- Nhưng bác ạ, Xipitô của chúng ta cũng một mình lang thang
trong rừng mà ta có hoạn cậu ấy đâu! - Iôna Ôragơvê litzê bênh vực con lợn...
- Này thằng ăn bám kia, nếu chúng tao kịp thời thiến chính
mày đi thì bây giờ trên đời đã không có kẻ thừa tự thiên tài của mày! Thằng
ngốc ấy mười bảy tuổi rồi mà không phân biệt nổi lê với táo! - Xipitô từ dưới
mái hiên đi ra, xổ luôn một tràng.
- Có mày là đồ ngu thì có! Con tao lúc bé bị ngã từ trên cây
xuống, chuyện ấy ai cũng biết! Còn mày? Cả đời mày chưa hề trượt chân lần nào,
vậy mà chín năm liền ngồi lì ở một lớp! Quên rồi à?
- Bác Glakhuna, - Xipitô nói với ông chủ nhiệm chăn nuôi. -
Ta bắt tay vào việc đi thôi, không thì thằng chó đẻ này làm ta hết sống nổi.
Bác ạ, lưỡi hắn vẫn la liếm trong đám phân bò mà.
- Glakhuna, nói thật đi, ai trong hai đứa tôi đúng? - Iôna
đòi Glakhuna phân xử.
- Đáng dứt lưỡi cả hai, xong việc con lợn, tao sẽ ra tay
ngay! - Glakhuna đe, rồi gạt lưỡi dao cạo vào móng ngón tay cái và nói tiếp: -
Thôi đừng giở trò ngu ngốc ra nữa, bắt con lợn đi!
- Chúng tôi đọ với nó sao được! Nó đào xuyên xuống đất bây
giờ đây này. - Iôna nói.
- Gãi bụng nó đi. - Glakhuna bảo Batsana.
Batsana lấy trong căn nhà kho lụp xụp một nắm ngô vàng chóe
và đi về phía con lợn.
- Ỉn-ỉn-ỉn...
Con lợn hếch mõm lên và thấy ngô, nó đâm bổ tới chỗ Batsana,
ngọ nguậy đôi tai một cách kỳ cục.
- Con vật ngu ngốc, tự mình chạy đến đoạn đầu đài! - Iôna
thương con lợn.
Xipitô đã chuẩn bị xong nước ấm và tro, Iôna mang đến sợi
dây thừng, Glakhuna gập lưỡi dao lại, giắt vào thắt lưng, rút ở tấm dạ lót yên
ra chiếc kim khâu giày to tướng xâu sợi chỉ tơ và bắt đầu xắn tay áo.
- Gãi đi, gãi đi! - Ông lớn tiếng bảo Batsana.
Batsana ngồi xổm trước con lợn và gãi bụng nó. Con lợn nhai
ngô rào rạo, không để ý đến Batsana. Ăn hết ngô nó bỗng ngây ra, nhắm mắt và ủn
ỉn vì thích thú. Trong giây lát, nó đứng yên, đắm mình trong khoái lạc, rồi nó
khuỵu hai chân trước xuống, đổ kềnh sang một bên và đờ ra.
- Hừ, con vật đần độn, mày không biết mày mất cái gì để đổi
lấy hai hạt ngô! - Iôna thốt lên, tròng thòng lọng vào chân sau con lợn. Con
vật thậm chí không động đậy: nó nhắm mắt nằm yên, ủn ỉn. Batsana gãi bụng nó
bằng cả hai tay.
Con lợn cảm thấy có điều chẳng lành khi Iôna trói nốt chân
sau nó. Nó vùng ra, nhưng muộn rồi. Xipitô cưỡi lên nó, Iôna nắm tai nó,
Batsana đứng ngay tại đấy và hồi hộp chờ xem mọi việc diễn ra sau đó. Trong lúc
Glakhuna dùng nước ấm rửa cái chỗ sắp rạch dao, con lợn rít lên khe khẽ. Nhưng
Glakhuna đã mở lưỡi dao... và tiếng kêu xé ruột của con vật vang động khắp
vùng.
- Lẽ ra bác nên dùng cái gì bịt miệng, không chừng làm nhiễm
trùng vết thương cũng nên.
- Xipitô nói với Glakhuna.
- Im mồm đi! - Glakhuna bực tức đối lại.
Cuộc mổ xẻ tiếp tục. Tiếng kêu ré của con lợn khiến người ta
có cảm giác như bầu trời sắp nứt vỡ và núi sắp đổ.
- Nó gào mới khiếp chứ, quỷ tha ma bắt nó đi! - Xipitô nói.
- Nếu đằng ấy bị như nó, tớ muốn xem đằng ấy sẽ kêu gào như
thế nào! - Iôna đáp.
- Bắt đầu rồi, hả? - Xipitô cảnh cáo.
- Thôi được. Nhưng nếu tớ là Xtalin thì sau chiến tranh tớ
sẽ gọi Glakhuna đến và ra lệnh cho bác ấy hoạn Hitle và cả bè lũ, hệt như hoạn
con lợn này! - Iôna nói.
- Tớ không biết những đứa khác thì thế nào, chứ Hitle thì tớ
cho rằng chẳng cần gì phải hoạn... Hắn không có vợ con và nghe nói hắn tịnh
không muốn có vợ con... - Xipitô rêu rao điều bí mật của nội các đế quốc Đức.
- Nói chung ăn thịt người là tính chất của tất cả những kẻ
bị hoạn... Có nhớ chuyện Aga-Môhamet-khan không? Cái tên đã đốt cháy Tbixili ấy
mà [Vua Iran , năm 1795 đã cướp phá Gruzya,
đốt cháy và cướp bóc Tbilixi]. Y cũng là một kẻ bị... như thế... Y hy vọng
vào việc tắm nước suối lưu huỳnh... khi thấy không ăn thua gì, y nổi cáu và ra
lệnh đốt cháy thành phố, - đến lượt Iôna phơi trần bí mật của triều đình Iran .
- Này, bạn thân mến ơi, nếu nước lưu huỳnh kiến hiệu thì
Efrôxinya của chúng ta sẽ là người phụ nữ giàu nhất thế gian, trong sân nhà bà
ấy có cả một nguồn nước lưu huỳnh! - Glakhuna khâu mũi cuối cùng, cắt chỉ, lau
mồ hôi trán bằng mu bàn tay đẫm máu và khà một tiếng, đứng dậy.
- Thả con lợn ra! - Ông nói.
Xipitô và Iôna thả con lợn bị trói và tránh sang bên. Con
lợn thoạt tiên không tin rằng cảnh địa ngục đã chấm dứt và vẫn kêu inh ỏi. Rồi
cảm thấy nhẹ nhõm, nó chồm lên và đột nhiên đâm bổ vào rừng.
- Chao ôi, chúng ta là thú vật chứ không phải là người! -
Batsana nói. - Trước khi hoạn, cho nó uống ít vốtka thì tốn kém gì?
- Thôi, rửa tay đi! - Glakhuna bảo chú bé.
- Bác phải tội với giời, bác Glakhuna Kerkatzê ạ! - Xipitô
trách ông trưởng trại. - Bây giờ gặp lợn cái trong rừng nó biết làm thế nào, nó
sẽ nhục nhã, con vật khốn khổ! - Xipitô đưa cặp mắt buồn rầu nhìn theo con lợn
đang chạy đi.
- Thôi, cười đủ rồi! Vắt sữa gia súc đi và lùa chúng lại
đây! - Glakhuna quát bảo mấy người kia. - Còn cháu nữa? Sao cứ trân mắt ra nhìn
con lợn? - Ông quay về phía Batsana. - Đi đi, hôm nay, vắt sữa con dê Ghênô,
còn con của cháu ngày mai thế nào cũng đẻ. Mà coi chừng đấy, phải uống cạn sạch
vò sữa, không để sót giọt nào! Bác thấy cháu đã bắt đầu nhiễm thói làm ẩu rồi
đấy! Cháu đâm ra bạo dạn quá rồi! Coi chừng! Ta sẽ đập cả vò vào cái đầu đần
độn của cháu cho mà xem!
Batsana lẳng lặng đi vắt sữa dê.
- Cầu trời cho bác khỏe mạnh và sống lâu trăm tuổi, bác
Glakhuna! - Iôna nói, khi Batsana đi khuất. - Bác đã cứu thằng bé! Không nhận
ra nó được nữa! Mặt đỏ hồng, bấm ra sữa!
Glakhuna bỏ ngoài tai lời lẽ của Iôna, cầm cái xô và đi về
phía mấy con bò cái.
Một giờ sau, gia súc của trại chăn nuôi nông trang Cơvêđôban
đã la rống và kêu be be chạy tản tác trên sườn núi Tsơkhakôura xanh tươi.
* * *
Buổi tối, chủ tịch nông trang Gervaxi Patsatxya lên trại
chăn nuôi, cùng đi với ông có hai chiến sĩ dân quân vũ trang bằng tiểu liên.
Tiết trời mát mẻ. Chủ khách ngồi bên đống lửa. Củi thông nổ lép bép vui vẻ, tỏa
ra mùi thơm thơm. Trong nồi đang luộc một con dê con. Mấy con chó vừa sủa vừa
chạy quanh đống lửa. Trong lúc chờ đợi những khúc xương ngon lành thưởng công
phục vụ trung thành.
- Có gì mới không, ông? - Glakhuna hỏi chủ tịch nông trang,
đồng thời đưa trả tờ báo gập tư.
- Đồng chí còn muốn biết tin gì nữa? - Gervaxi ngẩng đầu lên
và vuốt ve cái bao khẩu Maode trên
đùi.
- Về tài sản còn bỏ lại ở làng thì chúng tôi không hỏi, -
Iôna xen vào, - Chắc đồng chí không thêm được gì vào đấy... Tình hình mặt trận
thế nào?
- Tình hình mặt trận ư?... Nguy thay nước Đức! - Gervaxi lại
vuốt ve khẩu Maode của mình.
- Xin cất nó đi cho, chạm cò thì khốn! - Xipitô càu nhàu,
dịch ra xa.
- Thế nào, nước Đức ra sao?
- Sao nữa! Ê mặt ở gần Xmôlenxka, nhục nhã ở gần Matxcơva và
còn bị những vố ê chề ở đâu nữa? - Ông tự hỏi, và không nhớ ra, ông khoát tay,
- Nói chung nước Đức vãi cả ra quần, có thế thôi. Đang chầy chật lo giữ Rumani,
Tiệp và Italya...
- Bao giờ chiến tranh chấm dứt? Xtalin nói gì?
- Xtalin nói rằng chiến tranh sắp chấm dứt, nhưng không nêu
rõ thời hạn. - Gervaxi dang hai tay ra.
- Lẽ ra nên nói rõ, điều đó đối với đồng chí ấy có khó gì? -
Iôna ngạc nhiên.
- Nói lạ? Chiến tranh với Đức có phải như việc hoạn lợn của
các cậu ấy à! - Gervaxi bào chữa cho Xtalin.
- Hoạn lợn cũng không phải chuyện dễ, đồng chí Gervaxi của
tôi ạ! - Glakhuna bênh vực uy tín nghề nghiệp của mình.
Xipitô lấy cái nồi trên đống lửa, cầm một chân con dê, lấy
nó ra khỏi khối nước sôi sục. Không khí ngào ngạt mùi thơm ngon của thịt luộc,
hành và lá nguyệt quế.
- Nào, các cậu, lôi cái đó đến đây! - Gervaxi ra lệnh.
Các chiến sĩ của tiểu đoàn lôi cái bao da đựng rượu đến gần
đống lửa. Glakhuna phân phát những chén đất nung. Mọi người lần lượt cầm chén
đến chỗ Gervaxi, và nhận xong phần rượu của mình, ai về chỗ nấy. Cả Batsana
cũng đến lấy phần rượu. Gervaxi đưa mắt nhìn Glakhuna dò hỏi. Glakhuna gật đầu
ưng thuận.
Gervaxi uống trước tiên.
- Loại dây leo tuyệt diệu! Cầu trời ban phước cho rễ cây của
người. - Ông thốt lên bằng giọng khoái trá. Câu cảm thán đó được coi là lời
chúc chén đầu tiên.
- Cầu trời ban phước! - Tất cả cùng nhắc lại và uống cạn một
hơi.
Gervaxi rót mỗi người chén nữa. Và một lần nữa, trước khi
rót rượu cho Batsana, ông đưa mắt hỏi ý Glakhuna -. Glakhuna ưng thuận.
- Có nhiều quá không? - Gervaxi hỏi.
- Thêm ba chén nữa! - Glakhuna nói.
- Tùy anh! - Ông chủ tịch đồng ý.
Gervaxi lên tiếng.
- Chén này chúng ta chúc sức khỏe Đảng ta và bộ chính trị
của Đảng đứng đầu là đồng chí Xtalin! - Ông uống cạn sạch chén rượu.
- Chúc mừng Đảng, chúc mừng Xtalin! - Mọi người nói theo và
dùng thức nhắm.
- Chén thứ hai chúc mừng chính phủ ta, đứng đầu là Xtalin vĩ
đại!
Mọi người nhất loạt cạn chén.
Lát sau, Gervaxi nâng chén chúc mừng lần thứ ba.
- Mừng sức khỏe của Hồng quân đứng đầu là Xtalin vĩ đại!
Lời chúc rượu này cũng được mọi người nhất trí ủng hộ, nhưng
mỗi người theo cách riêng của mình.
- Chúc sức khỏe Hồng quân!
- Mừng thắng lợi của Hồng quân!
- Cầu trời phù hộ các chiến sĩ Hồng quân!
- Cầu cho mỗi viên đạn của chiến sĩ Hồng quân chúng ta đều
hạ sát quân thù!
- Vì hòa bình trên trái đất!
Gervaxi nâng chén:
- Còn bây giờ, có Xtalin vĩ đại đứng đầu...
- Bác Gervaxi! - Iôna ngắt lời ông. - Tôi gần như sắp đổ,
nhưng hiện thời vẫn còn đứng vững, ta hãy uống chúc mừng chú bé! Nâng cốc chúc
tụng Xtalin như thế đủ rồi... Ơn trời, chẳng cần đến bác, đồng chí ấy cũng đảm
đương được công việc của mình...!
- Cậu nói không đúng, Iôna Ôragơvêlitzê! - Ông chủ tịch bực
tức. - Nếu không có sự ủng hộ của chúng ta...
- Đồng chí thân mến ơi, sự ủng hộ của chúng ta là ở chỗ nuôi
dạy cho Nhà nước những gã trai cường tráng!
- Cậu nói đúng, đúng đấy! - Ông chủ tịch nhượng bộ. - Ta sẽ
uống mừng Batsana Ramisvili! Hãy nghe ta, Batsana!... Hãy nhớ lấy ngày này và
con người này. - Gervaxi đặt tay lên vai Glakhuna Kerkatzê ngồi cạnh ông. -
Cháu phải hôn những vết chân bác ấy, cháu của bác ạ! Cháu phải thay thế con
trai bác ấy đã hy sinh ở mặt trận... Sẽ không ai dựng tượng kỷ niệm Glakhuna
của chúng ta và bác ấy sẽ không được tặng thưởng huân chương!... Cháu phải trở
thành cả huân chương, cả tượng đài của bác ấy!... Hãy nhìn xung quanh, hãy suy
nghĩ và nên hiểu, cháu yêu quý của ta ạ: mọi cái cháu thấy trên đời là của
cháu! Lúc này, hàng triệu người chết với viên đạn trong ngực, và sẽ không ai
mang theo cái gì. Tất cả đều để lại cho cháu, cho các bạn cùng lứa... Nước mắt
tưới tắt các bếp lửa. Những người mẹ góa con côi nức nở. Các cánh đồng bỏ hoang
đang rên xiết. Đất không chủ khóc than... Chúng ta đang giành lại cho mình tất
cả những gì đã bị bọn ăn thịt người cướp đi... Nhưng liệu cánh già chúng ta có
đủ sức khôi phục đất nước bị tàn phá hay không? Ta không biết... Cháu và các
bạn cháu phải làm việc đó... Các cháu phải gây dựng lại đất nước!... Lớp già
chúng ta có một điều lớn lao cầu xin các cháu: hãy quên những tiếng “ngôi làng
trước kia”, “thành phố trước kia” đi... Sao cho thế hệ tiếp sau các cháu chỉ
biết về chiến tranh qua những câu chuyện các cháu kể lại!... - Gervaxi giơ hai
tay lên trời, đưa mắt nhìn những ngọn núi láng ánh trăng bạc. - Hãy yêu mến và
giữ gìn vẻ đẹp của Tổ quốc... Đó phải là một tình yêu cao cả, trong trẻo, tươi
sáng. Tổ quốc, đó là ngôi nhà thờ thiêng liêng mà ta phải quỳ gối cầu nguyện
trước bàn thờ. Không chỉ cầu nguyện, mà còn cấm súng bảo vệ nơi ấy, không để
cho ma quỷ làm ô uế thánh đường của chúng ta. Còn điều này nữa: hãy luôn luôn là
người đầu tiên trong số những người dâng lễ lên bàn thờ Tổ quốc!... Bác không
còn điều thỉnh cầu và mong muốn nào khác nữa! Ta cạn chén! - Gervaxi đưa chén
lên môi một cách sùng kính.
- Bác Gervaxi Batsatsya! - Iôna hân hoan thốt lên - Nếu tất
cả những điều bác nói không phải do bác đọc được ở đâu đó, mà là những điều sôi
sục trong tim bác thì thề rằng tay tôi sẽ liệt đi nếu tôi không bầu bác làm chủ
tịch lần nữa!
- Tôi đến đây không phải là để ứng cử, - Gervaxi đáp. - Hai
người này có mặt ở đây không phải là không có việc gì!
- Chuyện gì vậy, bác Gervaxi? Định bắt chúng tôi chắc? -
Xipitô phá lên cười.
- Số là... tên khốn khiếp rốt cuộc đã đâm ra càn rỡ!
- Bác nói ai vậy, bác Gervaxi? - Glakhuna hỏi.
- Manutsar Kicvatzê chứ còn ai!
- Thằng lưu manh ấy mà khó tóm đến thế ư? Nó đào ngũ đã ba
năm rồi, vậy mà cho đến giờ các anh vẫn không tóm được nó à? - Iôna nói với các
chiến sĩ.
- Lùng bắt một người trong rừng không phải chuyện dễ! - Một
chiến sĩ toan thanh minh.
- Thêm nữa, hiện giờ nó thận trọng như quỷ xa tăng. - Người
thứ hai nói thêm. - Hầu như ngày nào nó cũng đổi chỗ... Trước kia nó còn có
cách này cách khác tìm được chỗ trú thân: người thì do sự quen biết cũ, người
thì vì sợ... Bây giờ mọi người đều từ bỏ nó. Và nó cũng không còn đường về Xupêbi:
ở đấy nó đã cưỡng hiếp hai em gái nhỏ tuổi và còn làm các em lây thứ bệnh ghê
tởm gì đó... Mẹ một em bé gái đã phát điên, khổ thân bà ta.
- Thế ông bố không có mắt à! - Xipitô buột ra một tràng.
- Bố ở mặt trận... - Người chiến sĩ giang hai tay ra.
- Đấy là câu trả lời của các anh phải không?
- Lần nọ ở Kvêmô - Tsala, nó chầy chật lắm mới thoát khỏi
tay chúng tôi, vậy mà một tuần sau nó đã cắt lưỡi Bônđô Skipurisvili chẳng có
tội tình gì, vì nghi ngờ anh tố giác nó... Bà góa Kaptsivatzê ở Amaglep từ chối
không cho nó vào nhà, thế là ngay đêm hôm ấy nó đốt cháy nhà bà ta... Phải, bây
giờ nó nguy hiểm như con chó sói điên...
- Nó phải chết, tôi nói điều đó trước thượng đế! Nếu các anh
không đủ sức làm việc đó thì đưa vũ khí cho chúng tôi, chúng tôi sẽ làm! -
Glakhuna Kerkatzê bỗng nói và không hiểu sao lại nhìn Batsana. Trong mắt
Glakhuna, Batsana thấy lấp lóe ánh lửa phản chiếu làm chú lạnh người.
- Mới đây Kicvatzê đến trại Habêglap, lấy mất một bao tải
phô mát. Rất có thể nó sẽ đến cả đây, bởi vậy nếu các bạn có cái gì nộp cho nhà
nước thì ngày mai đưa về làng... - Gervaxi vừa nói vừa đứng dậy.
- Đáng đời các ông! Tại sao lại tước mất vũ khí của chúng
tôi? - Xipitô thốt lên.
- Lúc này không phải là lúc bàn cãi! Đưa cho chúng tôi hai
mươi khúc pho mát và hai con dê con, nhiều hơn nữa thì chúng tôi không tải được
đâu! - Gervaxi nói, rồi quay về phía các chiến sĩ: - Sửa soạn đi, đến sáng
chúng ta phải có mặt ở làng! - Và ông đi về phía chuồng ngựa.
- Này, các ông chiếm hết cho mình thì còn lại gì cho Manutsar
Kicvatzê? - Iôna châm chọc.
- Cậu thật là đứa độc mồm độc miệng! - Ông chủ tịch bực tức.
- Tôi có bao giờ lấy tài sản của nông trang? Tôi đưa về cho vườn trẻ, cho cháu
của cậu đấy! Hay cậu còn nghi ngờ?
- Tôi nói đùa đấy mà, nói đùa thôi! - Iôna bối rối. - Vả
chăng... Ông chủ tịch trước cũng nói như thế, nhưng sau đó, những con dê con ấy
nhảy nhót trong sân nhà ông ta. Thế đấy!
- Hừm, có lẽ tôi cũng phải đi làm cướp và dứt phăng cái lưỡi
đáng nguyền rủa của cậu đi chăng? Đồ nỡm!... - Gervaxi phảy tay và thắt lại cái
đai bụng ngựa.
- Xong cả rồi, - Glakhuna tới gần, - Hôm nay chúng tôi sẽ
lừa ngựa về, mai sẽ chuyển về làng mọi cái còn lại.
- Tốt lắm! Này, cẩn thận nhé! Thôi, tạm biệt! - Gervaxi nhảy
lên ngựa.
- Gervaxi! - Glakhuna gọi.
- Gì vậy?
- Để lại cho chúng tôi khẩu Maode của đồng chí.
- Không có vũ khí thì tôi làm ăn thế nào?
- Hai tiểu liên là đủ rồi. Còn khẩu Maode thì chủ nhật tôi sẽ đem trả.
Gervaxi lưỡng lự.
- Có gì mà phải ngần ngừ, quyết định đi!
Gervaxi miễn cưỡng tháo dây đeo khỏi vai và đưa cho Glakhuna
khẩu Maode.
- Nên nhớ là tôi không cho khẩu súng đâu nhé! Phải trả lại
đấy!
- Nhưng đồng chí phải nghe thấy nó nổ đã! - Glakhuna cầm lấy
khẩu Maode từ tay Gervaxi và đưa cho
Batsana. - Này, cất vào khurgin!
Batsana bỏ khẩu Maode
vào túi khurgin rỗng đến một nửa treo
trên cột, còn Gervaxi cùng với các chiến sĩ quay ngựa và phi nước kiệu xuống
núi.
Lát sau sương mù đã nuốt chửng ba người cưỡi ngựa. Còn nghe
thấy tiếng vó ngựa lộn xộn một lúc, rồi tất cả im ắng. Mọi băn khoăn lo nghĩ
của những người ờ lại trên sườn núi Tsơkhakôura cũng theo những người cưỡi ngựa
bay về thung lũng.
- Bây giờ đi lùa ngựa của chúng ta về đây. - Glakhuna nói
với người của mình. - Buổi sáng tôi thấy chúng ăn cỏ ở đằng kia, phía Đôchi. -
Glakhuna trỏ tay. - Sau hai giờ có thể về đến nơi. Cho thằng bé theo... Đem
theo đóm nhựa thắp sáng.
Xipitô vắt dây thừng qua vai, giắt rìu vào thắt lưng và thắp
đóm nhựa. Glakhuna đi về phía mái hiên.
- Thư thư một chút cũng được, can gì vội vã thế? - Xipitô lớn
tiếng nói với theo. - Để rạng sáng hãy đi... Lần mò đi đâu lúc tối mịt thế này?
- Bảo thế nào cứ làm thế, không đòi hỏi gì hết! - Glakhuna
trả lời.
- Phải thương đứa trẻ mới chứ! - Xipitô thử làm cho Glakhuna
động lòng thương.
- Sẽ không có chuyện gì xảy ra cho nó cả! Cần tập cho nó
quen đi!
Xipitô và Iôna đi theo con đường mòn ngược lên núi, Batsana
lon ton chạy theo họ như con sói con!
Trong trại vang lên tiếng be be thảm thiết. Con dê của
Batsana trở dạ đẻ...
* * *
Lúc rạng sáng trở về, những người chăn gia súc khiếp sợ. Cả
hai con chó chăn cừu nằm lăn bên đống lửa, đầu bị đạn xuyên thủng, bò và cừu
không được vắt sữa, đói ăn kêu rống ầm ĩ trong chuồng. Không thấy Glakhuna đâu.
Những người chăn gia súc đâm bổ đi tìm ông, nhưng không hề thấy vết tích gì của
ông. Đột nhiên Batsana lại đổ mồ hôi tay như trước kia. Xipitô Guđavatzê muốn
nói điều gì, nhưng chỉ ú ớ như bị câm, phát ra những tiếng rời rạc và ngồi phệt
xuống đất.
- Đây là do bàn tay Manutsar Kicvatzê! - Iôna vừa kêu lên
vừa nhảy lên lưng con ngựa không thắng yên.
- Đi đâu? - Xipitô thốt lên một cách khó nhọc.
- Cần đi trước hắn! - Iôna đáp và giục ngựa phi nước đại.
Batsana đâm bổ tới chỗ khurgin,
sờ nắn. Khẩu Maode vẫn ở đó. Thế là
chú đến ngồi bên Xipitô, đặt bàn tay lạnh giá lên đùi anh.
- Đừng đi, chú em! - Xipitô vừa nói vừa lau vầng trán ướt.
Batsana cảm thấy đầu gối Xipitô run và chú hiểu rằng Xipitô
sợ hãi hơn cả chú.
- Bác... đừng sợ, bác Xipitô. - Batsana nói.
Xipitô mỉm cười khổ sở và duỗi cái chân run rẩy.
- Ta không sợ thế nào được, hả con? - Anh nói và bỗng òa
khóc.
* * *
Lưng cõng cái giỏ đầy pho mát, Glakhuna lảo đảo đi ở phía
trước, Manutsar đi sau, hai tay lăm lăm khẩu súng đã lên cò.
- Nhanh lên, nhanh lên, Glakhuna! Đùa bỡn với ta thì khốn
đấy! - Manutsa thúc giục Glakhuna.
Glakhuna cắn môi.
Nỗi căm tức khiến ông trưởng trại nghẹt thở. Thằng khốn nạn
này đã làm cách nào lẻn tới được? Làm thế nào nó đã bắn chết được hai con chó
mà Glakhuna quí vô cùng? Làm sao nó lại ép được Glakhuna đi với nó, lại còn bắt
ông cõng trên lưng giỏ pho mát?
Máu làm Glakhuna rối trí, máu chó! Trong đời ông đã từng
nhìn thấy máu không ít, nhưng thứ máu này, máu do đạn làm đổ ra, hẳn là thứ máu
đặc biệt!... Xấu hổ và nhục nhã cho mi, Glakhuna! Thế thì mi cần đến khẩu Maode để làm gì? Để giấu nó trong khurgin à? Điếm nhục, điếm nhục! Tại sao
lại không nhảy bổ tới lấy vũ khí? Nhưng tên gian phi ấy đứng lù lù trên đầu! Mà
ai có thể nhanh tay hơn nó, nó là kẻ cướp kia mà?! Nhục nhã cho mi, Glakhuna!
Nỗi căm tức và nước mắt khiến Glakhuna nghẹn thở! “Tim ta
ơi, hãy vỡ tung ra đi”, - ông van vỉ. Nhưng tim không vỡ tung... Tệ hơn nữa
Glakhuna lại rảo bước. Ô nhục, thật là ô nhục!...
Phía trước là một vũng nước. Vầng trăng tròn đầy soi bóng
trong vũng nước, tưởng chừng trăng rọi sáng từ phía bên kia, qua cái lỗ xuyên
suốt lòng đất. Lúc này Glakhuna sắp bước vào cái lỗ và sa xuống đấy, biến mất
tích. Nhưng vũng nước không phải là cái lỗ, và Glakhuna ngồi xuống vũng nước.
- Đứng dậy, thằng biếng nhác! - Manutsar quát mắng ông.
Glakhuna đứng lên và nhìn Manutsar.
- Thế nào, Glakhuna Kerkatzê, đuối sức rồi hả! - Manutsar
cười hềnh hệch. - Đúng quá rồi! Này, thế ngài chủ tịch ăn mày và các chiến sĩ
anh hùng của các người cần gì? Định bắt ta hả? Thì ta có mặt ở đây! Ta đã có
mặt tại đây và đưa cả ba đứa lên đầu ruồi mũi súng như nhắm bắn những con sáo!
Thế tại sao không sục vào rừng? Sao? không dám phải không? Đích thị là thế. Các
vị anh hùng ấy biết rằng ta sẽ dùng tiểu liên bịt miệng các vị ấy lại! -
Manutsar cười, tiếng cười khàn khàn, điên loạn.
- Mày cứ cười đi, Manutsar Kicvatzê, nhưng dù sao mày cũng
đến ngày tận số rồi! - Glakhuna lên tiếng.
- Chuyện ấy sau chiến tranh ta sẽ bàn! Còn bây giờ thì vác
cái sọt lên và cất bước! Muốn nằm lẫn trong bùn thì sau này vẫn còn kịp, bọn
bônsêvich sẽ cấp giấy phép cho nhà ngươi đi Tsơkhantubô [Cơ sở an dưỡng thủy lý pháp ở Gruzya] không mất tiền. Vì có công
với chính quyền Xô viêt!... Đi!...
- Mày là thằng đê tiện, nếu sau chiến tranh người ta không
kết liễu đời mày thì chính tao sẽ treo cổ mày lên cây tiêu huyền cao nhất vùng
Tsơkhaturi. Tao sẽ treo cổ mày lên, sẽ vằm nát cái xác thối rữa của mày và rắc
muối vào! Toẹt! - Glakhuna nhổ bọt vào mặt Manutsar.
Kicvatzê sững người. Rồi hắn bỗng vung tay đánh một đòn cực
mạnh khiến Glakhuna lộn nhào.
Glakhuna ngã vào vũng nước. Ông đứng lên, đưa tay lau máu
trên mặt và nói bằng giọng khàn khàn:
- Giết thì giết đi, thằng khốn khiếp, tao không đi đâu với
mày nữa! - Ông lại ngồi xuống.
- Nói dóc, Glakhuna! Mày chưa mang pho mát đến nơi đến chốn
thì đừng có xin được chết!
- Mày chiến đấu chống lại ai, thằng nhãi ranh kia? Nói rõ
đi!
- Với các người, thưa ông Glakhuna, với bọn bônsêvich các
người! Hai mươi hai năm các người giày xéo đất của cha ta... Đủ rồi! Bây giờ đã
đến thời của chúng tao!
- Chúng tao là ai?
- Của tao và của nước Đức.
- Thế nước Đức ở đâu?
- Nước Đức sẽ tới, Glakhuna ạ, sẽ tới! Khi ấy trên cây tiêu
huyền mà người dọa treo cổ ta, ta sẽ treo cổ tất cả các ngươi! Đi đầu sẽ là tên
bí thư huyện ủy của các người, tay cầm lá cờ đỏ!... Bây giờ đứng lên đi.
- Ta còn sống thì ta sẽ không rời khỏi chốn này, ta chết rồi
thì mi muốn đem ta đi đâu tùy ý! Nhục thay cho ta đã đi theo mi cho đến lúc
này, đủ rồi!
Kicvatzê hiểu rằng tay hắn sắp phải nhuốm máu một nạn nhân
nữa.
- Thế thì quay mặt đi và hãy cầu nguyện thượng đế, nếu mi
biết cầu nguyện... Dù sao thượng đế cũng nhào nặn ta và mi bằng cùng một thứ
đất...
Glakhuna quì xuống và giơ hai tay lên trời:
- Thượng đế chí tôn! Hôm nay con đã hứa với Người sẽ tự tay
kết liễu đời tên súc sinh này... Thế mà hóa ra con phải chết vì tay hắn... Xin
đừng để xảy ra như thế, hỡi Thượng đế! Tính mạng con là của Người, xin hãy nhận
lấy nó! Nếu Người có thật và nghe thấy tiếng nói của con, xin hãy giết con
đi!... Còn nếu con và con vật này được tạo ra bằng cùng một thứ đất thì con
chẳng đáng sống làm gì!
Tiếng vang dội đi dội lại ầm ầm ba lần trong rừng
Tsơkhakôuri. Glakhuna nằm úp mặt, vẫn trong vũng nước mà mới rồi ông đã nhìn
thấy mặt trăng ngời sáng từ bên kia trái đất.
Glakhuna cảm thấy sáng rõ lạ thường, lồng ngực đất mở rộng
ra, đất tiếp nhận ông vào lòng, rồi cái lỗ hổng khép kín lại, đất đưa bàn tay
khổng lồ vuốt mi mắt ông và bầu trời phủ tấm chăn đen...
Trời đã sắp rạng khi Xipitô Guđavatzê, Iôna Ôragơvêlitzê,
Gervaxi Papatsya và hai chiến sĩ dân quân đưa thi hài Glakhuna về đến trại. Không
một lời, không một giọt nước mắt, năm người đàn ông đứng chờ mặt trời mọc. Mãi
đến lúc sáng rõ, Iôna mới nhận thấy Batsana đã biến khỏi trại.
- Còn thiếu cái nước này nữa thôi! - Xipitô thất vọng kêu
lên, đập hai tay xuống đùi. - Batsana! - Anh gào lên. - Batsana! - Iôna lặp
lại. - Batsana-a-a-a!... Batsana-a-a-a - Tiếng gào lo lắng vang khắp xung
quanh.
Tiếng vang nhảy bổ từ sườn núi này đến sườn núi khác, lao
vào hẻm núi, vòng qua các vách đá và khe ngòi, len lỏi vào rừng, và không tìm
thấy thằng bé, nó quay trở lại trại, trở lại với mấy người đàn ông thẫn thờ như
xác không hồn vì đau xót và tuyệt vọng.
Khi những tia sáng mặt trời đầu tiên ló ra, thằng bé rời
khỏi rừng, lên con đường mòn, khurgin
đeo vai. Nó ngồi bên nguồn nước, tháo đôi tsuviaki
[Loại dép mềm, không có gót] thủng lỗ
chỗ, xoay đôi dép trong tay, quẳng đi và thõng đôi chân sưng phồng vào nước
nguồn giá buốt. Rồi nó rửa ráy, nằm lên cỏ đẫm sương, dùng khurgin làm gối đầu và thở dài não nuột. Một con diều hâu lượn nhịp
nhàng trên khoảng trời xanh.
- Chao ôi, ước gì ta có cánh! - Thằng bé nghĩ. - Từ trên ấy
hẳn là thấy rõ hết như trong lòng bàn tay...
Thằng bé nhắm nghiền mắt và nằm một lúc lâu, không động đậy,
chẳng nghĩ ngợi gì.
Bỗng từ trên sườn dốc, đá lăn rào rào xuống đường. Thằng bé
nhỏm phắt dậy, nhìn quanh. Đứng ở rìa nền đất đắp là một người đàn ông râu ria
không cạo, gầy nhom, cằm dưới nhô ra, tay cầm súng. Tim thằng bé giật nảy lên.
- Mày là ai? - Người đàn ông hỏi.
Thằng bé im lặng.
- Mày câm à?
- Cháu ở Tsơkhakôra! - Khó nhọc lắm thằng bé mới thốt được
lên lời.
- Mày đi đâu?
- Về Dôchi.
- Đến ai?
- Đến nhà bà con.
Gã đàn ông nghĩ ngợi. Rồi nhìn xoáy vào thằng bé bằng con
mắt dò xét, gã hỏi:
- Đối diện với làng mày là trại Cơvêđôban. Mày có qua đấy
không?
- Không, trại cách xa làng cháu. Cháu đi qua rừng, vòng qua
trại, như thế gần hơn... - Thằng bé liếm cặp môi khô và hỏi: - Nhưng chú là ai
vậy chú?
- Ta là người coi rừng, có việc đến gặp những người chăn gia
súc. Mày có cái gì trong khurgin thế?
Thằng bé ngẩn người ra, nó không biết có những gì trong khurgin. Nó vươn tay ra, thọc tay vào nửa thứ nhất của khurgin, lấy ra cái chai nút bằng lõi
bắp cải và đặt trên cỏ.
- Cái gì thế này? - Người đàn ông hỏi.
- Vôtka.
- Sao, mày uống vốtka à, thằng nhóc?
- Ít ít thôi! - Thằng bé mỉm cười.
Rồi nó lấy trong khurgin
ra miếng pho mát bọc lá dương xỉ, một nửa cái bánh tráng bột ngô, và cuối cùng
là thịt dê luộc.
- Ô-hô, ta sẽ nhấm nháp chơi! - Người đàn ông nói và bắt đầu
xuống sườn dốc.
- Mời chú! - Thằng bé nói và ngồi lên khurgin.
- Vậy là chú mày
không vào trại ư? - Gã ngồi lại gần thằng bé, đặt khẩu súng lên đùi.
Thằng bé lắc đầu, và để che giấu cơn run, nó lót hai tay
xuống dưới người.
Gã đàn ông lẳng lặng bắt đầu ăn. Đã đỡ đói, hắn nói với
thằng bé:
- Mày còn chờ đợi gì nữa? Ta sẽ ăn một mình chăng?
Người đàn ông cầm lấy cái chai, lắc:
- Hẳn là rượu ác liệt lắm đây! - Hắn nói.
- Đúng thế, rất ác! - Thằng bé trả lời.
Người đàn ông xoa tay vào cổ chai, dốc ngược cái chai vào
miệng, ho mấy tiếng.
- Quỷ quái! Lửa, chứ không phải rượu nữa! - Hắn kêu lên và
úp mặt vào khuỷu tay trái.
“Lạy trời cho con sức mạnh, rồi sau giết con đi cũng được!”
- thằng bé nghĩ và vươn tay về phía khurgin.
Rồi nó đứng phắt dậy.
Sau khi đã thở lấy hơi, gã đàn ông nhìn thằng bé và ngây ra.
Thằng bé cầm khẩu Maode trong tay và
chĩa vào hắn.
- Đứng lên, Manutsar Kicvatzê! - Thằng bé nói, mắt không rời
gã kia.
Kicvatzê muốn đứng lên nhưng không được.
- Đứng lên thằng khốn khiếp! - Thằng bé nhắc lại.
- Mày là ai, chú em, mày cần gì ở tao! - Manutsar đã tỉnh
hẳn lại.
- Ta là Glakhuna Kerkatzê!
Manutsar sững sờ.
- Ta là Glakhuna Kerkatzê, và ngươi sẽ chết bởi tay ta!
Khẩu Maode nặng nhảy nhót trong bàn tay thằng bé, nó liền
cầm súng bằng cả hai tay.
Manutsar quỳ xuống và lắc cái đầu đẫm mồ hôi, như một người
tắm sông vừa lên khỏi nước.
- Đừng nghịch dại, chú mày!... Ở tuổi chú mày không được
quyền giết người... - Tiếng Manutsar run lên. - Đừng bắn!... Làm sao chú mày có
thể sống trên đời, đi lại trên mặt đất với cái vết nhơ của kẻ giết người?
- Thế mày thì sao? Làm sao mày vẫn sống và thở hít khí
trời?!
- Ta mà vẫn sống và thở hít khí trời ư?!
- Mày phải chết, Manutsar!
- Ít ra mày cũng nói rõ tên mày là gì và tại sao mày muốn tự
tay giết tao chứ? - Manutsar van vỉ và cắn môi đến rớm máu.
- Tao nói rồi, tao là Glakhuna Kerkatzê!
Manutsar còn mấp máy môi, nhưng thằng bé không nghe gã. Tai
nó choáng ù, tim như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, hai bên thái dương như vang
lên tiếng quai búa tạ. Thằng bé cảm thấy chẳng những nó mất thính giác, mà mất
cả thị giác, vì khuôn mặt của Manutsar đang trườn tới gần nó lúc thì thành hình
chập đôi, lúc thì thành hình chập ba, rồi hoàn toàn tan biến. Thằng bé bấm cò.
Nó không nghe thấy tiêng đạn nổ, không đếm số viên đạn đã
bắn ra. Nó chỉ cảm thấy khẩu Maode
rung bần bật trong những ngón tay nắm chặt lấy chuôi súng bạc, và cổ tay nó
giật nảy lên. Rồi khẩu Maode thôi
giật, thằng bé bỗng hết hơi sức, hai tay nó mở ra, khẩu Maode rơi “kịch” một tiếng bên cạnh cái đầu nát nhừ của Manutsar
Kicvatzê.
Thằng bé quay lưng về phía xác chết, ngồi thụp xuống đất,
rúc đầu vào đùi gối và rống lên như con chó sói con lạc trong rừng.
Nửa đêm, cụ Lômkatsa Ramisvili thức giấc vì tiếng đập cửa dữ
dội. Cụ rời khỏi giường, thắp ngọn đèn dầu, tới bên gần cửa và hỏi to.
- Ai đấy?!
- Cháu đây, Batsana! - Người ngoài cửa trả lời.
- Không phải Batsana! - Lômkatsa không nhận ra tiếng cháu.
Tim cụ đập thình thịch vì lo sợ.
- Cháu đây, ông ơi, mở cửa cho cháu!
Lômkatsa kéo then cài, mở toang cửa. Trước mặt cụ là
Batsana, đầu cúi gằm, áo quần rách bươm, hai chân đẫm máu.
- Vào đi!
Batsana không động đậy. Cụ Lômkatsa liền nắm lấy vai cháu và
đưa cháu vào nhà. Cụ đặt cây đèn lên bàn, rồi ngồi xuống ghế.
- Có chuyện gì vậy? - Ông già hỏi, giọng run lên.
- Cháu đã giết người! - Batsana đáp và cằm chú run lên. Mặt
ông cụ Lômkatsa méo xệch đi, cụ đưa hai tay lên ôm ngực chỗ tim đập. Im lặng
một lúc lâu. Cuối cùng cụ Lômkatsa trấn tĩnh lại và khó nhọc thốt lên lời, hỏi:
- Thế suốt năm năm ông đọc Phúc âm cho cháu để làm gì?
Batsana không trả lời. Chú cúi đầu đứng yên, chùi hai tay
đẫm mồ hôi vào quần.
- Cháu giết ai? - Cụ Lômkatsa phá vỡ sự im lặng và chờ câu
trả lời, tâm trí căng thẳng.
- Cháu giết đứa đã giết Glakhuna Kerkatzê, ông ạ!
Lômkatsa trợn tròn mắt ngạc nhiên. Cụ muốn đứng lên, nhưng đôi
chân không theo ý cụ.
- Cháu giết... Manutsar Kicvatzê ư? - Cụ hỏi lại, giọng thì
thầm.
- Cháu giết Manutsar!
Cụ Lômkatsa thở phào, gắng gượng đứng dậy, đến gần cửa ra
vào, khép cửa lại, rồi trở lại cạnh cháu và ôm ghì đầu chú vào ngực.
- Có ai biết việc ấy không? - Cụ thì thầm.
Cháu lắc đầu.
- Ông có hai vị thần, - cụ khẽ nói. - Cháu và Glakhuna. Một
người chết về tay Manutsar... - Batsana chạm bàn tay nóng rực của chú vào bàn
tay chai sạn của ông. Tay ông lạnh như băng. -
Cháu ơi, nghĩ cho kỹ đi... Đừng nhận vào mình máu do những người khác làm đổ
ra... Đó là một việc nghiêm trọng... - Cụ Lômkatsa nói với vẻ trầm ngâm và bỗng
cảm thấy máu sôi sục từ bàn tay nóng bỏng của cháu chảy vào những đường mạch
già lão của cụ, làn sóng máu nóng hổi ấy thoạt tiên chảy vào lồng ngực cụ, rồi
tràn lên thái dương. Lômkatsa nhìn chằm chằm hồi lâu vào mắt cháu, và ông hiểu
rằng không còn thằng bé Batsana mười lăm tuổi ốm yếu nữa. Lômkatsa không chiụu
nổi cái nhìn cháy bỏng của cháu và đưa mắt đi nơi khác. Cụ đoán ra câu hỏi
không lời ẳn trong cặp mắt rực lửa của con người đã biến đổi này và hiểu rằng
việc cụ trả lời câu hỏi ấy thế nào sẽ quyết định cả cuộc đời sau này của cháu,
- Làm thế là đúng, cháu ạ! Địa vị ông, ông cũng sẽ làm như thế! - Cụ nói và ôm
ghì lấy cháu. Batsana bỗng kiệt sức, nhủn người ra, tuột khỏi vòng tay ông và
ngồi phịch xuống sàn. - Đức chúa trời toàn năng, sao sự trả thù của Chúa lại
hiện hình trong đứa trẻ này! - Lômkatsa rên rỉ, buông mình xuống cạnh cháu.
Rạng sáng, khi Xipitô Gudavatzê lo lắng, hớt hơ hớt hải xộc
vào nhà Lômkatsa thì hai ông cháu vẫn ngồi trên sàn và khóc: Batsana khóc to,
nức nở, Lômkatsa khóc không thành tiếng...
Chương 5
Giáo sư Antêlava vào phòng bệnh, cùng đi có bác sĩ điều trị
và chị y sĩ. Batsana nằm nhắm mắt, lắng nghe tiếng tim đập. Ông hài lòng: tim
đập mạnh, bây giờ nó không ngừng đẩy máu đi khắp cơ thể. Batsana cảm thấy mỗi
ngày trái tim suy kiệt của ông càng thêm sức lực, trí óc càng sáng rõ. Ông nghe
thấy giáo sư đã đến, nhưng ngây ngất bởi cảm giác khoan khoái vì được hồi sinh,
ông vờ ngủ.
- Chào các ông! - Giáo sư chào hỏi.
- Kính chào giáo sư! - Bulika nhỏm dậy.
- Chúc sức khỏe giáo sư! - Cha Iôram đáp.
- Này, các ông thế nào? - Giáo sư hỏi một câu chung chung,
đồng thời chăm chú xem bệnh án. - Chúng tôi sắp chuyển các ông sang phân khoa
hồi phục! - Giáo sư nói bằng giọng hể hả.
- Tôi thích được ân xá hơn! Tôi cảm thấy khỏe khoắn, hôm nay
là ngày thứ ba tôi tự đi ra nhà vệ sinh, thành thử nếu giáo sư không phản đối,
tôi có thể về nhà ngay hôm nay! - Bulika nói, và dường như để chứng tỏ mình đã
bình phục, ông thò đôi chân trần ra khỏi chăn.
- Tôi đã báo trước rồi kia mà! - Giáo sư nói với bác sĩ.
- Tôi không thể trói ông ta vào giường được! - Bác sĩ giang
hai tay ra.
- Phải trói mới đúng! Ông không được trở dậy, hiểu chưa. Hay
cái bô không vừa ý ông? - Giáo sư nói đùa và đẩy nhẹ một cái, bắt Bulika nằm
xuống.
- Ồ không, thưa giáo sư! Chẳng qua là quấy quả những con
người đáng kính thì thật không tiện... - Bulika cười toác miệng.
- Không sao! - Giáo sư nói cho ông ta yên tâm.
- Thêm nữa, lương tâm giày vò tôi: vì tôi mà một nửa thành
phố Vakê chắc là phải đi chân không!
- Thế ông rất muốn cả Vakê đi chân không à?
- E hèm... Xin lỗi giáo sư kính mến, tôi xin im miệng! -
Bulika hiểu ý câu nói của giáo sư và nằm xuống một cách thận trọng, như thể
thực sự dân chúng cả Vakê chỉ chờ ông bình phục.
- Hôm nay giáo chủ gọi điện, hỏi thăm cha. Nói lại với giáo
chủ thế nào, thưa cha Iôram? - Giáo sư hỏi cha cả nhà thờ Ba Ngôi Ortatsala.
Cảm động vì sự quan tâm của giáo chủ, mắt cha đạo đẫm lệ.
- Đấng tối cao chưa tiếp nhận linh hồn tội lỗi của tôi là
nhờ lời cầu nguyện của giáo chủ, xin nhờ giáo sư nói lại với đấng bề trên như
vậy! - Ông ta trả lời.
- Vậy ra chúng tôi không can dự phần nào trong việc đó à? -
Giáo sư vờ làm ra vẻ giận.
- Các bác sĩ được giao giữ cổng địa ngục, giáo chủ giữ cổng
thiên đường; - Iôram biện bạch và làm dấu chữ thập.
- Không, cha ạ, đường sang thế giới bên kia dẫn đến một cổng
chung, các bác sĩ chúng tôi được cắt đặt gác cái cổng đó. Thiên đường và địa
ngục chỉ là những phần của thế giới bên kia, và Chúa quyết định con người đến
phần nào là việc của Chúa. Chúng tôi được lệnh không mở cổng cho người ta sang
thế giới bên kia trước kì hạn. Thế đấy.
Iôram ho một cách ngượng ngập và im lặng.
- Ông ấy vẫn ngủ à? - Giáo sư vừa hỏi vừa xem mạch Batsana.
- Ngủ suốt hai mươi tư tiếng! - Bác sĩ trả lời.
- Càng tốt! - Giáo sư lấy bệnh án treo ở đầu giường Batsana.
- Phản ứng lắng hồng cầu chậm đi, côlextêrin
ít hơn. Tốt! - Ông nói, vẻ hài lòng. - Ồ, vẫn còn ngoại tâm thu à? Điều trị thế
nào?
- Êrranđin. Như vậy có hiệu quả nhất.
- Các cơn đau thế nào?
- Nhẹ thôi.
- Chu kỳ?
- Nửa giờ một lần, lúc không ngủ.
- Tiếp tục dùng pantôpôn.
Giáo sư thận trọng lật tấm chăn lên, chăm chú xem ngực
Batsana hồi lâu, rồi thở dài nhẹ nhõm:
- May là đã tránh được chứng phình mạch!
Batsana mở mắt.
- Kính chào giáo sư!
- Ông không ngủ à? - Giáo sư ngạc nhiên.
- Nói chung tôi không ngủ được.
- Thế là thế nào?
- Thật đấy. Tôi thức mà vẫn nằm mơ.
- Mơ như thế nào?
- Lúc thì mơ thấy những điều thú vị, lúc thì mơ thấy điều
gở.
- Trước khi ngủ, hãy cố nghĩ tới những chuyện thú vị, như
vậy thì sẽ mơ thấy những điều dễ chịu.
- Theo đồng chí thì thế nào, thưa giáo sư, tôi có qua khỏi
được không? - Batsana hỏi.
- Đấy chính là điều tôi muốn hỏi đồng chí!
Batsana bối rối:
- Tôi cho rằng.. Hình như... Tôi thấy có phần khá hơn...
- Thế thì rất tốt! - Giáo sư áp ống nghe vào chỗ tim
Batsana.
- Thế nào ạ? - Batsana hỏi, giọng run lên.
- Nghe rõ. Hôm qua kém hơn.
Giáo sư định đi.
- Nếu tôi sống qua đợt này, tôi sẽ đặt làm hai bức tượng bán
thân của giáo sư bằng vàng! - Batsana mỉm cười.
- Tại sao lại hai?
- Một để biếu giáo sư, bức tượng kia tôi sẽ đặt trên bàn
viết của tôi để tôn thờ.
- Gôghilasvili thực tế hơn đồng chí, ông ấy chỉ hứa làm một
bức tượng thôi!
- Và đôi khuyên kim cương biếu vợ giáo sư. Ngoài ra, suốt
đời chữa giầy không lấy tiền. - Bulika nói thêm.
- Cầu Chúa ban sức khỏe cho ông! Bây giờ tôi sẽ đi báo cho
vợ tôi dùi lỗ tai sẵn đi! Còn cha hứa cho cái gì, cha Iôram?
- Một cây nến to bằng người giáo sư và tôi sẽ suốt đời cầu
phúc cho giáo sư!
- Các ông ạ, sau khi bị nhồi máu cơ tim, người ta thường mắc
tính hay quên, thành thử...- giáo sư phá lên cười. - Nào, thế còn điều gì đáng
phàn nàn nữa không?
- Dạ có, chúng tôi muốn nói về những con chuột cống. Nhưng
giáo sư đến làm chúng tôi vui mừng đến nỗi quên bẵng đi mất... - Bulika liếc
nhìn chị y sĩ.
- Chuột cống nào? - Giáo sư sửng sốt.
- Do chứng nghiện rượu kinh niên nên bác ta tưởng tượng thế
thôi, thưa giáo sư! - Chị y sĩ ấp úng.
- Ừ được, tôi mắc chứng mê sảng rượu, thế còn đức cha? Cha
cũng tưởng tượng nốt à? - Bị xúc phạm, Bulika giơ tay chỉ Iôram.
- Nói chúng thì chúng vô hại... - Cha thốt lên, có ý dàn
hòa. - Chúng chui ra, dạo chơi tý chút, thưởng thức chút đường ngọt...
- Gọi trưởng phòng quản trị! - Giáo sư ra lệnh.
- Đồng chí ấy đi lấy đường cho chuột, - Bác sĩ trả lời.
- Lại còn chuyện quái gở gì thế nữa: đường cho chuột?! Ở
bệnh viện của nước cộng hòa đã sinh sôi nhiều chuột đến nỗi chúng có khẩu phần
riêng kia à?! - Giáo sư nổi giận.
- Đấy là thuốc độc, thưa giáo sư! - Bác sĩ giải thích.
- Thạch tín! - Chị y sĩ nói rõ.
- Quái gở! - Giáo sư kêu lên và không từ biệt, rời khỏi
phòng bệnh.
- Có lẽ không nên nói chuyện ấy chăng? - Bulika lo ngại.
- Nói hay không thì sự thực vẫn rành rành! Giá ông ấy chờ
một phút thì sẽ thấy tận mắt. - Cha Iôram đáp. - Đấy kìa! - Và ông ném miếng
đường cho con chuột bò ra từ gầm giường Bulika.
Lát sau, mấy người vào phòng bệnh, bác sĩ trưởng của bệnh
viện, trưởng phòng quản trị, nhân viên khử trùng, hai hộ lý, bác sĩ điều trị và
chị y sĩ Giênya.
- Chuột đâu nào? - Anh nhân viên khử trùng hỏi một cách
nghiêm khắc.
- Đây! - Bulika trả lời, xoay ngón tay quanh mi mắt bên
phải.
- Ông giở trò khiêu khích phải không?
- Thế miếng đường này thì ai gặm, tôi chắc?! - Bulika trỏ
miếng đường vứt trên sàn, bị gặm nham nhở.
Mấy hộ lý chui xuống gàm giường, rồi đi quanh phòng bệnh,
dùng thạch tín bịt kín các khe hở.
- Thạch tín hơi cũ rồi, nhưng không sao. Ta đợi đến sáng
mai, nếu không ăn thua gì thì chúng tôi sẽ đem đến một con mèo. - Người nhân
viên khử trùng vỗ về các bệnh nhân, rồi quay về phía mấy người hộ lý. - Rắc cả
bả trong phòng làm việc của tôi, tất cả các chân tủ đều bị chúng gặm, trời chu
đất diệt chúng đi!... Còn điều gì đáng phàn nàn nữa không? - Anh ta lại hỏi các
bệnh nhân.
- Tại sao Mỹ không rút quân khỏi Nam Triều Tiên?! - Bulika
nói.
- Kẻ âm mưu! Kẻ vu cáo nặc danh khốn khiếp! - Tay nhân viên khử trùng nói và đi ra, tức giận sập cửa
lại.
- Thằng bố mày là kẻ âm mưu vu cáo nặc danh, còn bản thân
mày là con chuột cống! - Bulika quát với theo.
* * *
Lát sau Giênya trở lại phòng bệnh, tay cầm ống tiêm. Chị tới
giường Batsana, lật chăn lên và nói một mình:
- Có kẻ đáng được tiêm pantôpôn ngay vào lưỡi để hắn bớt lắm
điều đi!
- Nếu đấy là nói về tôi thì ở tôi sẽ có chỗ khác để tiêm
pantôpôn! - Bulika lên tiếng.
Giênya không buồn đáp lại. Chị tiêm cho Batsana, xoa chỗ
tiêm và lẳng lặng đi ra.
Lát sau chị quay lại.
- Có người đàn ông nào hỏi ông. - Chị nói với Batsana.
- Ai vậy?
- Ông ta bảo là chỗ bà con họ gần với ông.
- Nếu chị cho phép thì xin để ông ta vào.
Giênya ra và trở lại, dẫn theo một người tóc vàng hoe, mặt
lấm chấm tàn nhang, tay ngắn ngủn.
- Năm phút thôi đấy nhé! - Giênya báo trước.
- Một loáng thôi! - Người mới vào trả lời và không đợi mời,
ngồi xuống chiếc ghế cạnh giường Batsana. - Kính chào đồng chí Batsana! - Ông
ta vỗ nhẹ vào đùi Batsana.
- Chào đồng chí! - Batsana ngạc nhiên, đáp.
- Không nhận ra tôi ư?
Batsana vận dụng hết trí nhớ, nhưng không nhận ra người tóc
vàng.
- Thế bây giờ nhận ra chưa? - Người tóc vàng quay người ngôi
ở vị trí nhìn nghiêng. Batsana mỉm cười ngượng ngập.
- Hãy nhớ lại đi: Xukhumi, Tserniapka, cầu Vênêxian, trường
số mười ba, các dì của đồng chí - Marô, Nina, Tamara, các cô em họ của đồng chí
Nenli, Dulâyka, Đôđô, cậu em họ Kôka... - Người tóc vàng gập từng ngón tay để
đếm.
- Xin cho biết những điều về bản thân đồng chí, họ hàng nhà
tôi thì tôi vẫn nhớ rõ. - Batsana gợi ý.
- Tôi là Nugơza Đarăclêvitzê! Nhớ chứ, dì Nina đã đỡ đầu em
gái tôi, đặt tên cho em tôi là Luiza...
- Đến chịu chết thôi... - Batsana bối rối.
- Từ bấy đến giờ, em gái tôi vẫn mang tên Luiza.
- Rất hân hạnh!
- Thế đấy, tôi là anh của Luiza, Nugơza Đarăclêvitzê. -
người tóc vàng nói rõ hẳn ra.
- Bác cần gì? - Batsana hỏi.
- Bác thấy trong người thế nào, Batsana kính mến? Nhân dân
lo lắng...
- Cũng bình thường...
- Nom bác khỏe khoắn lắm, cầu Chúa ban sức khỏe cho bác! Sắc
mặt bác rất tươi. Hơi gầy đi, đúng thế... Mới đây chúng tôi có thấy bác phát
biểu trên tivi... Này, bác ạ, tất cả các cán bộ tích cực chúng tôi đều phá lên
cười!... Bác nói tài thật!... Ha-ha!... Đặc biệt khi bác nói về những cái trái
ngược... Phải, lúc ấy nom bác đẫy đà hơn... Nhưng ngay cả bây giờ, - phỉ phui,
nói gở mồm gở miệng. - nom bác cũng rất tráng kiện, thật vui cho bạn bè, khêu
gan chọc tức kẻ thù! - Người tóc vàng lại vỗ đùi Batsana.
- Thế còn bác, cô em Luiza của bác ra sao? - Batsana hỏi một
cách lịch sự.
- Ôi chao, nói làm gì! Tồi tệ, Batsana kính mến ạ, tồi tệ
hết chỗ nói! - Đarăclêvitzê lau mồ hôi trán.
- Chuyện gì vậy? - Batsana tỏ ra lo ngại.
- Số là thế này... Có người ngoài nói ra e không tiện.
- Các ông ấy không được trở dậy và không được rời khỏi
giường, cả tôi cũng thế... Vì vậy nếu bác có điều gì muốn nói cứ nói luôn đi...
- Lạy Chúa! Chúng tôi lánh đi ngay đây! - Bulika kéo chăn
trùm đầu và quay vào tường.
Cha Iôram cũng làm như thế.
Đarăclêvitzê ngần ngừ một lúc, rồi đánh bạo:
- Chẳng có gì đặc biệt đâu, bác Batsana kính mến ạ, chỉ một
chữ ký đẹp đẽ của bác...
- Này ông ạ, người ta mới tiêm pantôpôn cho tôi, vậy ông nói
luôn đi, kẻo tôi ngủ mất.
Đarăcvêlitzê một lần nữa nhìn những người nằm giường bên đã
trùm chăn kín đầu, rồi bắt đầu nói.
- Ồ, tất nhiên bác thừa biết rằng... tình hình trong nước
cộng hòa có hơi... gay go... Bác ạ, chỗ này một nhà hát ôpêra đã bị đốt cháy,
chỗ kia một cửa hàng bách hóa bị phóng hỏa... Nghe đâu có người dùng súng tự
sát, có người tự cắt mạch máu mình... Tóm lại, tình hình căng thẳng là do... do
vấn đề lựa chọn cán bộ... thêm nữa, thịt ở chợ... cũng không lấy gì làm... ờ...
- Còn pho mát thì thế nào? - Batsana mỉm cười.
- Bác bông đùa à, bác Batsana kính mến, tôi hiểu, cố nhiên
đấy là do nghề nghiệp của bác... Còn thịt và pho mát thì bác thừa hiểu là do bò
cung cấp cho ta...
- Ông gây được giống bò mới à? - Batsana hỏi một cách nghiêm
chỉnh.
Đarăclêvitzê chăm chú nhìn Batsana, chờ một đòn xỏ ngầm,
nhưng Batsana vẫn không tỏ ý gì. Người tóc vàng yên tâm.
- Không, tôi đến về chuyện khác, - Ông ta nói tiếp.
- Có lẽ ông có dự án thiết kế rạp ôpêra không cháy chăng?
Đarăclêvitzê toát mồ hôi. Ông ta nghi ngờ nhìn về phía
Bulika và Iôram vẫn nằm không nhúc nhích, ngập ngừng một lát, rồi cả quyết lấy
trong túi ra hai chiếc phong bì.
- Bác Batsana kính mến, tôi nhờ bác nói với các ông lãnh đạo
hay viết thư cho bí thư đảng ủy quận ta...
- Chuyện ấy can gì đến tôi nhỉ? - Batsana ngạc nhiên thành
thực.
- Có chứ! Bác là một nhà văn có lòng nhân đạo, đại biểu Xô
viêt, ủy viên trung ương đảng! Tôi còn nhờ cậy ai, nếu không nhờ đến bác! -
Đarăclêvitzê ngạc nhiên, cũng thành thật như thế.
- Thế ông làm việc ở đâu?
- Ở Apkhazya, ngành thu mua thuốc lá.
- Tôi phải viết gì cho lãnh đạo?
- Ai nấy đều biết bác và đồng chí bí thư quận ủy là chỗ bạn
bè gắn bó, trước cùng học phổ thông với bác...
- Ai xui ông đến gặp tôi?
- Người muốn điều tốt cho đồng chí bí thư quận ta... Một
phong bì là của bác, phong bì kia bác chuyển cho ai tùy bác... - Đarăclêvitzê
khéo léo nhét cả hai phong bì xuống dưới chiếc gối.
- Sao, ông bị đưa ra khỏi cương vị công tác ư?
- Cách cổ tôi không dễ đâu, Batsana kính mến ạ. Nhưng sự
nâng đỡ ít nhiều không bao giờ thừa. Ngay cả cái kẻ hiện nay đang muốn hất cẳng
tôi cũng muốn tìm chỗ dựa!...
Pantôpôn bắt đầu có tác dụng, mi mắt Batsana nặng trĩu, ông
không muốn nói chuyện, nhất là không muốn hỏi han người họ hàng từ trên trời
rơi xuống.
- Xin nói cho rõ: có chuyện gì xảy ra? - Ông nắm mắt lại,
hỏi người tóc vàng. Người kia hiểu rằng cần phải gấp lên và ông ta vội nói:
- Hắn phái một ban kiểm tra đến chỗ tôi!...
Giênya ló đầu vào cửa.
- Xin nhắc, đã hai mươi phút rồi đấy!
- Không sao, không sao, chị Giênya quý mến, để ông ấy ở lại
đây thêm chút nữa, ông ấy cho biết những chuyện thú vị lắm! - Batsana nài xin.
- Đúng thế... - Đarăclêvitzê tiếp tục. - Hắn đã phái tới một
ban kiểm tra!... Hai mươi năm trời, tôi làm công tác thu mua và chưa bao giờ có
ai dám cử người đến kiểm tra công việc của tôi!... Thoạt đầu tôi tưởng hắn
đùa!...
- Thế kiểm tra thì sao? - Batsana hỏi chen vào.
- Còn sao nữa! Lũ khốn nạn, chúng tính chi li: ở Apkhazya và
Gruzya người ta hút hết bao nhiêu điếu thuốc đầu lọc và thuốc lá thường... Rồi
chúng tuyên bố rằng năm nay tuồng như tôi đã trộn một trăm tấn cỏ khô vào ba
trăm tấn thuốc lá!... Và những kẻ nói như vậy là người thế nào?! Những kẻ không
hề thò mũi ra khỏi phòng làm việc! Mà chúng có biết thuốc lá mọc ở đâu không?
Thuốc lá mọc trên cánh đồng, vậy nếu có ít cỏ lẫn vào thì có gì là lạ? Thêm
nữa, cỏ là thuốc độc hay sao? Bác đã thấy người nào chết vì cỏ chưa? Ở đây có
gì là phá hoại? Bò suốt đời ăn cỏ, dễ nó chết vì cỏ chắc? Thế thì phải cho bò
ăn gì, ăn thuốc lá ư? Ép những người như bác dùng ni cô tin đầu độc sức khỏe
mới là phá hoại... Như thế còn chưa sao! Họ lại còn tuyên bố rằng chúng tôi bán
thứ cỏ đó theo giá thuốc lá và nhờ cỏ kiếm được hàng triệu đồng, bác ạ!... Hừm,
một tấn đó giá mười rúp, không hơn, đâu ra hàng triệu?! Chúng nó lại còn dám
nói rằng, chúng tôi phun nước vào thuốc lá, thành thử số cân thuốc tăng gấp
đôi!... Khôn ngoan gớm!...
- Bao nhiêu triệu cả thảy?
- Tiến bán sản phẩm hay khoản trội thêm?
- Tính tổng cộng.
- Nhiều.
- Nhưng bao nhiêu?
- Nói bác không tin đâu...- Đarăcvêlitzê bắt đầu thoái thác.
- Ban kiểm tra còn nói gì nữa?
- Lắm chuyện lắm!... Bác ạ, chúng còn đến cả nhà tôi nữa
chứ... Tại sao nhà đồng chí hai tầng, chúng hạch!... Chúng xộc vào các buồng!
Nhưng hai tầng cái quái gì? Định mức chiều cao của một tầng là hai mét rưỡi, mà
tầng một của tôi chỉ có hai mét bốn tám...
- Hai centimet có nghĩa lý gì? - Batsana phá lên cười.
- Sao lại thế, bác Batsana kính mến! Viên đạn chỉ có hai
centimet mà giết chết tươi con trâu! Và viên đạn giết chết một người năm ngoái,
tôi sẽ không nói họ người đó, cũng không quá hai centimet... Không cần nói
chuyện đó với bạn của bác, thuận miệng thì tôi kể với bác thế thôi... Rồi chúng
còn tính là tám buồng ở tầng trên nữa chứ! Hừ, tôi đã nhổ vào mặt các thằng coi
một phòng lớn là buồng ở!... May là chúng còn chưa gộp cả lôtgia [Hành lang lộ thiên, có cột, chạy dọc tường
nhà] và phòng bi-a vào số căn buồng đấy! Vậy cũng là tử tế rồi!... Bác
Batsana kính mến, tôi trong sạch như pha lê! Mong rằng ông bí thư bạn bác sẽ để
tôi yên... Lời của bác là lệnh đối với ông ta!... Bôi nhọ tôi là xúc phạm cả
đến bác nữa...
- Tại sao lại xúc phạm tôi? - Batsana mở mắt!
- Chứ còn sao nữa! Bác là chỗ bà con thân thiết với tôi, giả
dụ có ai nói điều gì xấu về bác thì chả nhẽ tôi không cảm thấy bị xúc phạm
sao?! - Đarăclêvitzê kêu lên.
Batsana bắt đầu đếm lại trong trí nhớ tất cả những người
thân thiết của mình và không tìm ra người nào giống Đarăclêvitzê, ông yên tâm.
- Đồ chó đẻ! - Người tóc vàng nổi nóng. - Chỉ vì số tiền
mười rúp mà nó bắt giam người ta, còn cái ghế của tôi thì nó muốn bán lấy một
triệu đồng!
- Bao nhiêu? - Batsana hỏi lại.
- Nửa triệu! - Đarăclêvitzê rút bớt.
- Thế bác thu nhập cao như thế thực à?
- Đâu có! Chuyện chi mà lạ đời!... Vốn liếng của chúng tôi
có ra cái quái gì.
Batsana sờ nắn chiếc phong bì dưới gối đầu.
Đarăclêvitzê đưa mắt nhìn ra chỗ khác.
- Khi nào tôi bình phục, ta sẽ nói chuyện! - Batsana nói.
- Thế thì có mà hết hơi! - Đarăclêvitzê buột miệng nói,
nhưng chữa lời ngay. - Là tôi muốn nói bác chưa thể khỏi ngay được, mà vấn đề
của tôi ngày kia sẽ đưa ra thường vụ... Rất có thể tôi sẽ bị bắt ngay tại
đấy... Vài chữ tự tay bác viết... Chỉ vài chữ...
Batsana lấy dưới gối ra cả hai phong bì và đặt trên ngực.
- Đây là bao nhiêu?
Đarăclêvitzê hớn hở.
- Một limôn [limôn là một triệu thời kỳ tiền mất giá năm
1920-1923 (N.D)] rưỡi!
Batsana ngẫm nghĩ, Đarăclêvitzê nóng nảy ngọ nguậy trên ghế.
- Bác Nugơza kính mến, - Batsana nói, sau một lúc im lặng. -
dưới gầm giường tôi có chiếc bô. Bác làm ơn lấy hộ.. Tôi mót quá, xin lỗi... -
Đarăclêvitzê ngần ngừ. - Bác đừng ngại, bô sạch ấy mà...
Đarăclêvitzê nhẫn nhục cúi xuống lấy cái bô, đưa cho
Batsana. Ông đưa cánh tay yếu ớt cầm lấy.
- Xin lùi ra một chút cho tôi nhờ! - Ông nói với Đarăclêvitzê.
Gã kéo dịch ghế ra một quãng, Batsana đưa mắt ước lượng khoảng cách giữa mình
và khách, rồi rán hết sức ném cái bô vào đầu Đarăclêvitzê.
Một tiêng xoảng, cái bô vỡ tan. Đarăclêvitzê chậm chạp trượt
khỏi ghế và ngã ngửa xuống sàn...
- Bô không à? - Bulika hỏi.
- Bô không. - Batsana đáp.
- Tiếc quá! - Cha Iôram nói với giọng tiếc rẻ và gọi to: -
Giênya!... Giênya!...
-----------
Còn tiếp.
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét