Thứ Ba, 11 tháng 8, 2015

Gia đình Lily - Eve Garnett (chương 4)

Chương 4. Hội “Bàn tay đen”


James Ruggles, thằng anh trong hai đứa sinh đôi, được gọi tắt là Jim. Nó cũng giống như cha nó và các chị nó, có rất nhiều ý đồ trong óc. Quả vậy, đôi khi nó tự nhủ nó có quá nhiều kế hoạch. Nó muốn đi phiêu lưu quan sát thế giới, nhưng trước mắt hình như nó mong được đi lần nữa tới Briwell cách đây sáu dặm. Đó là nơi xa nhất nó đã từng được đi.
Tuy nhiên, một đứa bạn đã nói cho nó biết ở Thư viện công cộng có rất nhiều chuyện hay, có thể vào đọc tự do. Sau khi đã đọc về những nhân vật anh hùng trong những chuyện này và về các hành động của họ, chẳng hạn như: những đứa trẻ đã đi săn cá voi hoặc bay vòng quanh thế giới trên những chiếc máy bay tự chế tạo ra, hoặc một cặp trẻ sinh đôi (Jim đặc biệt thích chuyện này) bị đắm tàu dạt lên một hòn đảo hoang, sống một năm liền bằng trái cây rồi trở về nhà trên một cái bè, mang theo những kho tàng tìm thấy trên đảo.
Cứ theo những truyện này thì quả thực Otwell dường như không phải là nơi hấp dẫn.
Jim thường tự nhủ:
- Chẳng có việc gì xảy ra cho mình cả.
Nó nói câu đó có vẻ như bực tức. Những nhân vật anh hùng trong truyện “Nhà thám hiểm trẻ tuổi”“Những cậu bé lái máy bay” cũng nói đúng như thế và cũng chẳng có nhiều những điều bất ngờ đến ngay với họ.
Tuy nhiên, đã chả có gì xảy ra cho Jim cả. Hàng ngày, nó tỉnh dậy, ăn, đi học - được điểm xấu hoặc tốt - mong đợi những chuyện bất ngờ, và cũng “tuyệt vọng” như những anh hùng trong những cuốn sách của nó (mặc dù rằng, những điều nói trong sách nó không bao giờ tin hoàn toàn), đọc thêm nhiều sách trong thư viện công cộng, về đi ngủ và dậy. Lại những công việc như thế diễn ra, chẳng có điều gì mới cả. Không có những người hình dáng kỳ lạ, đeo bị trên vai bí mật nói với nó trên các phố vắng; không có những bà già mang những bọc nặng trĩu mà nó muốn mang giúp, nhưng các bà đã chết để lại cho nó một trăm pao hàng.
Chỉ có một bà già duy nhất nó đã cố giúp đã bảo nó:
- Đi trước đi con, cánh tay nhỏ của con chưa thể mang được bọc hàng nặng này đâu!
Jim nói:
- Tôi đã chán ngấy rồi! Chẳng có gì xảy ra như trong sách cả. Tôi chắc tôi sẽ phải ở lại Otwell cho đến khi chết.
Điều đó coi bộ là một viễn cảnh bi thảm, nhất là lúc đó lại là chiều thứ bảy. Vì thế nó quyết định đi bộ ra sông chơi ngay lập tức.
Con sông là một nơi có nhiều điều kỳ thú. Nó thì thầm nhiều chuyện bất ngờ. Những con thuyền buồm bơi trên mặt sông, những chiếc tàu có mui từ biển chở vào những thứ hàng hóa bí ẩn, chạy lên, chạy xuống. Những người đàn ông lạ, kiên nhẫn ngồi câu trên những bờ sông bùn lầy và ngay cạnh là những bông hoa xinh đẹp mọc trong bùn. Nhưng quan trọng hơn cả là điều bà Rugglegs đã nghiêm khắc cấm và do đó lại càng quyến rũ: ấy là đi một mình ra sông!
Ngay chỉ ngồi quan sát dòng sông thôi đã là một điều thú vị rồi. Nó từ đâu chảy đến nhỉ? Và nó lại chảy về đâu? Jim đã biết trả lời cho câu hỏi sau: nó chảy ra bến tàu ở Xontevon cách đây sáu dặm, một nơi mà Jim muốn xem kĩ hơn tất cả những nơi khác. Nhưng nó không biết dòng sông từ đâu chảy đến. Nó chợt thấy thắc mắc về điều này. Rồi nó sôi sục lên! Một ý mới! Tại sao không đi tìm ngay lập tức xem dòng sông từ đâu chảy tới. Bây giờ đã đến lúc rồi. Một cuộc phiêu lưu đang chờ nó. Tại sao từ trước đến nay nó lại chưa bao giờ nghĩ đến điều này nhỉ?
Thế là Jim bắt đầu chạy. Nó muốn làm xong việc này để kịp về ăn tối nên rất vội.
Nó chạy qua cửa hiệu nhỏ bán giày ủng, quành theo góc phố, đi xuống phố kế tiếp và chạy ra con đường to đi London. Khi chạy qua Công viên và Sân chơi nó nhìn thấy Lily Rose và Kate đang chơi đu, John và Jo đang đùa với Peg trên bãi cát (không thấy William đâu). Nó chạy tiếp, chạy tiếp cho đến khi thở dốc hổn hển. Nó phải chạy chậm lại, ở đây nó thấy ông Smith ở Phố Cụt số 4 đang chăm nom đám cà rốt và các thứ cây khác của ông.
Ông Smith nói:
- Hình như anh bạn trẻ đang vội lắm thì phải.
Nó bực bội nhìn ông và lại chạy nữa. Bây giờ đến những cánh đồng, chỉ còn lác đác vài ngôi nhà. Rồi nó tới một con đường nhỏ có biển đề “Lối ra sông”
Nó quẹo sang đường này và ngay lập tức nó nhìn thấy nguồn con sông ở ngay phía trước, không xa.
Nóng và mệt, nó dừng lại ngồi xuống một lát để thở. Nó nhìn chung quanh, ngay trước mặt nó là một cái lò gạch cũ. Năm ngoái nó đã từng vào trong một cái lò gạch như thế cùng với John để tìm trứng chim hét. Nó nhớ đã tìm được một tổ chim hét vào cuối tháng tám năm ngoái. Lần đó chúng quên mang theo thức ăn như những người đi chơi thường làm, nên những quả trứng chim hét cũng trở thành món ăn ngon. Nó và John mỗi đứa đã chén hai quả trứng hét luộc mà cũng không thấy đau bụng gì cả. Nó quyết định: đúng, trứng chim hét có thể làm ta đỡ đói. Jim đứng lên chạy về phía lò gạch. Khi đến gần lò gạch nó cảm thấy như có tiếng nói ở bên trong. Nó dừng lại một phút lắng nghe, nhưng lại không nghe thấy gì nữa. Nó đến gần lò gạch và ghé nhìn vào. Cái mà nó nhìn thấy làm nó vội quay ra ngay. Cuối cùng ra nó nghe đúng. Không phải những giọng nói mà chỉ một giọng nói thôi!
Bên trong lò gạch, ngồi trên sàn quay lưng về phía nó là chín mười người, tất cả đang lắng nghe một người đứng trên cái hòm gỗ nói với một giọng trầm.
Jim vội quay ra chạy, nhưng chậm mất rồi, người ta đã nhìn thấy nó. Những cánh tay nắm nó lại lôi vào trong lò gạch. Nó ngạc nhiên thấy đây là một cuộc họp bí mật. Cuộc họp của Hội Bàn Tay Đen.
Tối hôm đó Jim về nhà ăn tối rất muộn. Nó nói một vài điều về cái tổ chim, để giải thích lí do về chậm của nó cho mọi người tin. Đêm đó và suốt cả tuần sau đó, nó đã chịu đựng những cơn ác mộng. Đang nửa đêm nó tỉnh dậy, không phải nó chỉ đánh thức John nằm cùng giường với nó thôi mà còn đánh thức cả nhà dậy.
Sau khi đã bị đánh thức bốn đêm liền, bà Ruggles nói:
- Tất cả câu chuyện là thế này: Nó cứ kêu lên về dao găm, hành hình và máu. Nếu còn tiếp tục thế này, tôi phải đến thưa nhà trường mới được!
Thật lạ lùng, John Ruggles cũng được nuôi dạy y như anh nó, thế mà nó không kêu la trong khi ngủ và khi nghe nhận xét của mẹ trong bữa ăn sang nó bảo bà rằng trước đây ít ngày thì không thấy có chuyện này… Đúng lúc ấy thì Jim đá ngầm nó một cú ngay dưới gầm bàn, làm nó im bặt. Những đứa trẻ sinh đôi luôn luôn hiểu ý nhau rất lẹ.
Nhưng John muốn biết rõ sự việc. Khi anh nó từ chối cho nó biết ngụ ý của cái đá thì nó rất cáu và quyết định sẽ khám phá ra điều bí mật này. Nó suốt ngày bám quanh Jim như một con ruồi đáng chán. Nhưng Jim không dám mở mồm nói về việc này, vì nó đã thề giữ bí mật cho Hội Bàn Tay Đen - một lời thề long trọng. Nếu nó không giữ được lời thề nó sẽ bị hành hình khủng khiếp.
* * *
Theo lời Thủ lĩnh của Hội Bàn Tay Đen - ông Henry Oates mười hai tuổi - thì Hội này là Hội Bí Mật Chết. Điều này không có nghĩa như người ta thường nghĩ là một Tổ chức đã chết, một sự việc đã qua rồi. Hoàn toàn không phải như vậy, nó vẫn đang sống rất sôi nổi! Hội, hay Những Bàn Tay Đen - như chúng thường gọi nhau (một cái tên thích hợp cho phần lớn bọn chúng) - gồm chín hoặc mười thành viên, phần lớn là ở giữa tuổi mười một và mười hai. Chúng đã thề giữ bí mật và có thể bị hành hình khủng khiếp nhất (thật kinh khủng là những hình phạt chỉ có ông Thủ lĩnh biết và được viết trong một cuốn sổ nhỏ mà ông Thủ lĩnh luôn mang trong túi mình) nếu phản bội lại Lời Thề Bí Mật hoặc Mật khẩu của Hội.
Hội họp vào chiều thứ bảy hàng tuần, thường ở trong cái lò gạch cũ, nhưng đôi khi ở sau nhà máy sản xuất khí hoặc ở một nơi yên tĩnh nào đó. Mỗi hội viên phải mang đến một thứ gì đó để ăn và chia đều cho những người khác. Bất cứ khi nào có dịp mỗi hội viên có thể đem tới nửa penny hoặc hơn nữa đóng góp vào ngân sách chung của Hội. Số tiền này để trong một cái hộp cũ. Hộp lại được dấu kín dưới một tảng đá nặng trong lò gạch này. Việc sử dụng số tiền này trong tương lại chưa được quy định rõ, nhưng các hội viên rất sôi nổi mỗi lần phải lấy hộp ra để cho thêm tiền vào. Tuy nhiên, mục tiêu chân chính và sự sôi nổi của hội là những việc làm mạo hiểm mà mỗi hội viên phải “có” và phải kể lại cho các hội viên khác nghe vào cuộc họp ngày thứ bảy. Ai có những chuyện mạo hiểm sôi nổi nhất sẽ được bầu là Trùm Cướp trong tuần tới và được mọi người kính trọng nhiều. Nếu một hội viên không có một việc mạo hiểm nào trong ba tuần liền thì sẽ không được họp trong cuộc họp kế tiếp; nếu không có trong bốn tuần liền thì sẽ không được họp trong một tháng và cuối cùng nếu trong sáu tuần liền một hội viên không có được một việc mạo hiểm nào thì hắn chẳng làm được trò trống gì cho hội, nên sẽ không còn là hội viên. Tuy nhiên, Lời Thề vẫn phải giữ suốt đời và dĩ nhiên cả những hình phạt khủng khiếp nữa nếu phản bội.
Cho đến nay (Hội này đã tồn tại được ba tháng) thì chưa có người nào không có chuyện để kể, ít nhất là hai tuần một lần, mặc dù các việc mạo hiểm phần lớn đều không được hấp dẫn lắm.
Cuộc họp ở lò gạch cũ đã làm Jim ngạc nhiên chính là một trong các cuộc họp hàng tuần của Hội này. Hôm đó Jim đã bị xỉ vả là hoạt động do thám, bị cấu véo bắt phải nhận lỗi. Nhưng nó đã chịu đựng không khóc, nên đã thuyết phục được Hội tin là nó vô tội. Sự thật là chính nó cũng đang đi tìm một cuộc mạo hiểm theo ý nó, chứ không phải chỉ là ý định tìm ra dòng sông bắt nguồn từ đâu. Henry Oates đã làm việc này từ hai năm trước đây, nhưng dù thế nào đi nữa người ta có thể tìm thấy nguồn con sông ngay trên tấm bản đồ địa phương. Đó chẳng phải là điều thú vị gì. Bọn Hội Bàn Tay Đen nghĩ rằng, đối với một thằng con trai nhỏ tuổi như Jim thì ý nghĩ đó không phải là tồi.
Thủ lĩnh hỏi:
- Chúng ta có đồng ý cho nó làm hội viên không.
Jim mỉm cười chờ đợi. Nó không nghĩ rằng bọn này sẽ đồng ý, nhưng nó thích thú vì toàn bộ sự việc toát lên tính mạo hiểm ly kỳ.
Nhiều hội viên nói:
- Nó còn bé quá, chúng ta không nhận trẻ con. Nó sẽ làm lộ chúng ta mất.
Jim đã thiết tha đề nghị, cầu khẩn chúng và cuối cùng chúng quyết định là, trong kỳ họp tới chúng có thể nhận Jim là hội viên nếu chúng nhận thấy nó có thể giữ được im lặng hoàn toàn về mọi việc trong suốt một tuần. Nếu nó có một chuyện mạo hiểm nữa thì càng tốt, nhưng chủ yếu là giữ được Tuyệt Đối Im Lặng. Những điều khủng khiếp như thế đã phản ánh tâm tư nó, cho nên không có gì ngạc nhiên thấy nó không thể ngủ yên giấc được.
Trong suốt tuần lễ đó, ở trường cũng như trên phố, bọn trẻ con hội viên bao giờ cũng đến sát nó, nói thì thầm vào tai bằng một giọng đe dọa: “Hãy ngậm mồm lại, hoặc ...”. Thế còn câu hỏi của John về cú đá thì sao ...! Jim bắt đầu tính xem còn bao nhiêu giờ nữa thì đến ngày thứ bảy. Nó định sẽ làm cho John phải im lặng nên cuối cùng nó nói với John:
- Câm mồm! Nếu không tao sẽ cho mày tím mắt lại đấy!
Vì Jim khỏe hơn nên John đành ngậm miệng một thời gian. Jim nghĩ bụng, bây giờ nó đã có một việc tạm gọi là “mạo hiểm”, nó cố gắng tin rằng ít ra đó cũng là một chuyện kích thích.
Cuối cùng, buổi chiều thứ bảy đã tới. Đúng lúc ba giờ, nó cảm thấy hồi hộp, đi vào lò gạch.
Thủ lĩnh nói:
- Hãy đọc lời thề!
Mặc dù mỗi ngày Jim đã nhẩm đi nhẩm lại điều này nhiều lần, trong suốt cả tuần lễ, thế mà trước giờ phút oai nghiêm này, nó thấy không thể nào nhớ ra được. Ông Oates nhìn nó nghiêm khắc. Cuối cùng Jim cũng nói được lời thề mật:
- Cá trích ướp muối tươi!
Thủ lĩnh nói:
- Cá trích! Anh được chấp nhận.
Thế là Jim được nhận làm hội viên, nó nói:
- Nhưng vẫn còn một điều chưa ổn!
Nó giải thích nó đã làm thế nào để giữ được im lặng, mặc dù có những câu hỏi của John và nói tiếp:
- Tôi không thể tiếp tục như thế lâu hơn nữa. Dù thế nào đi nữa, nếu các anh đã cho tôi nhập Hội thì cũng phải cho John nhập Hội. Tôi đã nói ra trong giấc mơ (Jim nghĩ nó đã hét to điều bí mật này trong những cơn ác mộng) điều bí mật này, mà John nằm cùng một giường với tôi, nó không nghe thấy tất cả nhưng có thể nó đã nghe thấy đôi điều. Tôi đã rất khó khăn mới trốn được nó đến đây. Các anh thấy đấy, chúng tôi luôn luôn cùng làm mọi việc với nhau. Chúng tôi là hai anh em sinh đôi.
Thủ lĩnh hỏi:
- Các anh có giống nhau không?
Jim nói:
- Nó ốm hơn. Còn tôi có nhiều vết đốm hơn (nó muốn nói là mặt nó có nhiều tàn nhang hơn)
Thủ lĩnh hỏi tiếp:
- Cả hai đều tóc đỏ ư?
Jim gật đầu.
Thế là chúng đưa vấn đề này ra để xét và cuối cùng chúng đồng ý là, chiều nay Jim sẽ dẫn John đến ra mắt Hội, nếu chúng thích nó thì nó sẽ được nhập Hội.
Hai giờ sau John Ruggles cực kì sung sướng được nhập Hội và đọc lời thề. Cả hai anh em sinh đôi nay đều là thành viên của Hội. Jim thở ra như trút được gánh nặng. Những cơn ác mộng của nó thế là chấm dứt.
Sáng hôm sau bà Ruggles nói với chồng!
- Hôm nay là thứ bảy không có bài học. Thứ hai mới lại có, bố nó hãy xem nhé.
Nhưng đêm hôm thứ hai đã trôi qua yên ổn, rồi đêm thứ ba, thứ tư, và các đêm tiếp theo của tuần đó đều như vậy cả. Bà Ruggles nói:
- Đúng, có lẽ là do rối loạn tiêu hóa. Cuối cùng không có chuyện gì xảy ra cả.
* * *
Việc tiếp theo là chúng phải có một cuộc phiêu lưu mạo hiểm. Chúng mừng là trước cuộc họp ngày thứ bày tới của Hội, chúng có một ngày nghỉ học hoàn toàn.
Buổi sáng ngày nghỉ đó hai anh em sinh đôi ngồi ăn sáng rất im lặng đến nỗi bà Ruggles phải nhìn chúng một lần rồi hai lần và tự hỏi không biết có phải chúng lên sởi không? Bà chủ tâm theo dõi chúng. Nhưng trong khi bà đang nói chuyện với một khách hàng ở cửa thì chúng lẻn ra, chạy xuống phố, trước khi bà nhìn đến chúng. Bà Ruggles nhận xét, như vậy chắc không phải chúng lên sởi.
Ngoặt khỏi góc Phố Cụt, chúng chia tay nhau, vì có cùng một cuộc phiêu lưu thì chẳng có giá trị mấy. Trong khi John biến vào thành phố thì Jim đi tới dòng sông. Lần này thì nó không tới gần cái lò gạch mà đi về phía bến tàu thủy ở gần ga xe lửa. Tại đây những chiếc tàu đang ăn hàng, dỡ hàng. Nó đã quyết định đêm nay nó sẽ là một người đi tàu lậu vé (Hội Bàn Tay Đen sẽ kính trọng một kẻ đi tàu lậu vé dù rằng hắn chưa phải là một thằng con trai lớn) giống như thằng bé trong cuốn sách mà nó mới đọc xong. Nhưng có một chỗ khác là, trong khi người anh hùng trong chuyện đi khỏi nhà nhiều tuần lễ, thì Jim chỉ muốn đi trong một ngày- xuôi dòng sông tới Xontevon là nơi các tàu dỡ hàng. Nó tin chắc rằng nó có thể tìm cách lên được boong tàu.
Có hai chiếc tàu đang ăn hàng ở bến - một cái chở xi măng, một cái chở sắt vụn và ống thoát nước.
Không có một người nào quanh đó trừ bốn người của tàu và một con chó đang ngủ trên bến tàu cạnh đống ống thoát nước. Jim đi tới chỗ các con tàu đỗ và vui mừng nghe thấy một người đàn ông nói rằng họ đã chuẩn bị xong để nhổ neo xuôi dòng vào lúc một giờ. Thật là một tin tuyệt diệu! Những người đàn ông này sẽ đi ăn trưa vào lúc mười hai giờ, khi họ trở lại thì tên đi tàu lậu vé có lẽ đã là... gì nào... tên đi lậu vé!
Jim bắt đầu cảm thấy rất sôi nổi. Nó đứng quan sát cẩn cẩu đặt những bao xi măng lên boong cho đến khi một người đàn ông ra đuổi nó đi chơi cho khỏi vướng. Jim xuống bến tàu, tới một đống cát to ngồi xuống, quan sát công việc. Nó nhận thấy trên boong tàu không có chỗ nào để trốn được. Nó đang tự hỏi không biết làm thế nào, nếu không tìm được ra chỗ ẩn náu trước khi tàu nhổ neo thì một cơn dong mưa đá khủng khiếp ập đến bến tàu. Đám người khoác áo mưa lên đầu chạy vội vào kho hàng. Con chó vùng dậy, chạy bổ vào chân chủ, lắc mình rũ những hạt mưa, nhìn quanh rồi chui tọt vào một ống tháo nước nằm bên đống cát, rúc sâu vào trong. Jim không có áo mưa, lại đứng cách xa nhà kho mà mưa to như thế này thì nó biết có thể sẽ ướt hết trước khi chạy được đến nhà kho. Thế là nó theo gương con chó, chui ngay vào cái ống nước, bò theo sau con chó. Đó là một con chó đầy tình bạn bè, lớn hơn con chó con một chút. Con chó vẫy đuôi khi Jim bò đến nằm cạnh nó. Cơn mưa đá đổ xuống trong vài phút rồi chuyển thành một cơn mưa rất to, nước chảy ầm ầm bên ngoài. Nhưng trong ống thì vẫn khô ráo, dù không thể ngồi lên được Jim vẫn cảm thấy dễ chịu, thoải mái. Jim quyết định theo ống này bò ra sông. Đây chính là chỗ ẩn trốn của nó rồi!
Khi cái ống cuối cùng đã xếp lên boong, mọi người đi ăn cơm cả, nó sẽ lẻn lên tàu, chui vào một trong những cái ống này và ở lại đấy cho đến khi nào tàu chạy tới Xontevon! Thât đơn giản biết bao! Thật tốt không thể ngờ được. Chẳng còn sợ không có gì để kể cho Hội nghe nữa. Cuối cùng cơn mưa đã tạnh, con chó nhảy ra, Jim cũng bò theo nó. Tiếng chuông đồng hồ từ xa vẳng lại mười một tiếng, tiếng chuông đồng hồ từ xa vẳng lại mười một tiếng, Jim sợ ở lại đây nữa thì những người đàn ông kia không bằng lòng, nên lảng xuống bờ sông một chút. Con chó vẫn đi theo sau nó, lúc sau nó phải ném cho con chó mấy viên kẹo để chuồn đi chỗ khác. Khi nó nghe thấy chuông đồng hồ đánh mười hai tiếng, nó vội quay lại bến cảng. Tất cả các ống nước đã được xếp lên boong tàu và mọi người đang phủ bạt che kín. Họ có vẻ vội vã lắm và Jim lo rằng họ sẽ ăn cơm ngay trong nhà kho để trông nom tàu luôn. Nhưng không, họ chỉ châm tẩu hút thuốc, rồi một phút sau gọi chó, đi bộ về phía thành phố.
Khi họ vừa đi khuất, Jim vội tới sát bờ cảng chạy qua cầu tàu đến cái tàu đầu tiên, khá to và nhảy ngay lên boong. Nó nhìn quanh nhặt lấy một cái bao không nằm gần đấy, rồi trèo một cách vất vả lên chỗ cái ống cao nhất, chui vào. Nó đang ở rất cao nên có thể nằm dài ra, chẳng sợ ai nhìn thấy, nhưng nó vẫn co người lại quấn cái bao xung quanh cho kín. Đầu tròn của cái ống cho nó nhìn rõ cảnh tuyệt vời bên ngoài: như thế này người ta có thể tin là nó đang ở trên con tàu không phải đi Xontevon mà là đang vượt sóng biển Nam. Jim chưa bâo giờ thấy đời nó sôi nổi như thế này - quá sôi nổi và cũng bắt đầu đói (Nó đã không ăn gì trước đó và cũng không hy vọng kiếm được gì ăn bây giờ).
Chẳng bao lâu, đoàn người trở lại. Hai người lên con tàu của Jim, cho nổ máy tàu. Thình lình Jim nghe thấy một tiếng động lạ trong ống, rồi bất chợt một cái mũi đen và lạnh chạm vào mặt nó!
Nó thì thầm: “Đi ra!”. Nhưng con chó sung sướng tìm ra người bạn tốt đã ném cho nó những viên kẹo nên sủa lên vui vẻ. Jim nhắc lại: “Đi ra!”, thì con chó càng sủa to hơn. May mắn là lúc đó những thủy thủ còn đang bận với máy tàu ở đầu đằng kia nên không nghe thấy. Mấy phút sau có tiếng huýt rồi một giọng kêu lên: Tony đâu? Ê, Tony! Con chó ngừng sủa, liếm mặt Jim như chào tạm biệt, rồi nhảy ra khỏi ống, chạy xuống cầu tàu, đi lên một cầu tàu khác. Thật là suýt lộ! Hai phút sau tàu rời bến!
* * *
Nằm trong ống thật yên tĩnh, đỡ phải nghe những tiếng ồn của đầu máy. Chẳng mấy lúc Otwell đã hiện ra ở đằng xa. Tàu đang đi giữa những cánh đồng ở hai bên sông đầy những bò và ngựa gặm cỏ. Mặt trời tỏa sáng lung linh, nhưng cơn gió lạnh từ bờ thổi ra vù vù. Nửa giờ sau thì mặc dù đã khoác cái bao, Jim vẫn cảm thấy lạnh lạnh. Những con chim biển bay trên trời kêu inh ỏi. Nó đoán tàu đã tới gần cửa sông, vì từ xa nó đã nhìn thấy nhà cửa, xưởng máy và những cột cao của các con tàu thủy. Dòng sông nơi đây bắt đầu rộng ra. Jim cảm thấy hơi bị say sóng. Nó nghĩ là, tốt hơn nên nhắm mắt lại một lúc. Sau mấy phút nó mở ra thì đã thấy tàu qua cầu cảng đầu tiên của bến cảng Xontevon.
Chẳng còn lâu nữa tàu sẽ đậu lại. Bây giờ Jim mới bắt đầu suy nghĩ xem nó sẽ lên bờ như thế nào để khỏi bị người ta trông thấy. Lần này thì chẳng có giờ nghỉ đi ăn giúp nó nữa! Nói chung, nó nghĩ, nó cóc cần trốn mọi người nữa. Nó đã thực hiện được cuộc phiêu lưu mạo hiểm để kể lại cho Hội nghe. Nó còn phải đi bộ sáu dặm nữa để về nhà, cái đó thì đáng kể đấy! Những bức tường cao bắt đầu mọc lên hai bên thành tàu – vì con tàu của Jim chở nặng nên nhấn chìm trong nước nhiều hơn các con tàu ở hai bên – làm tầm nhìn của Jim bây giờ rất hạn chế. Những con tàu to đang thả neo đậu trong bến cảng. Nhiều tàu có những cái tên nước ngoài, thủy thủ trên tàu đang nói một thứ tiếng Anh sai bét làm Jim thấy tiếc là chỉ nghe mà không thể nhìn thấy họ.
Đột nhiên chiếc tàu của Jim hình như đi chậm hẳn lại rồi một người đi qua sát ngay những cái ống này, gọi to bạn nghề ở đuôi tàu. Một phút sau một người khác kéo còi và đầu máy tắt lịm. Họ đã đến nơi.
Đáng lẽ phải neo tàu vào thành cảng như Jim nghĩ thì họ lại neo tàu cạnh một con tàu to. Mạn con tàu to vượt cao lên trên; Jim có thể nhìn thấy tên nó cà cảng của nó: Havre. Các thủy thủ mặc quần áo lạ đang đứng chờ, và một cánh tay cần cẩu dài lơ lửng trên đầu nó cũng đang chờ. Tim Jim như đứng lại. Nó biết cần cẩu đang chờ gì! Cần cẩu đang đứng chờ xi măng, sắt vụn, chờ các ống nước và chờ ... những tên đi lậu vé! Với cái móc bằng sắt lủng lẳng ở đầu, nó đang chờ chúng để cẩu lên rồi hạ xuống con tàu nước ngoài này! Chỉ tí nữa thôi là Jim sẽ cùng với sắt vụn, xi măng, ống nước treo lơ lửng trên đầu cần cẩu. Rồi ở một nơi nào đó bên Pháp, Mỹ hay Tiệp Khắc, tử thi của nó sẽ được dỡ xuống. Nó cố gắng ngồi dậy, quên là đang ở trong ống nước nên cộc đầu vào thành ống ngã ngửa ra!
* * *
Jim nằm trong ống nước cảm thấy rất buồn nôn. Nó biết rằng nó phải ra ngoài, kêu lên hoặc làm một cái gì đó. Nhưng nó mệt quá không cử động được chân tay. Một giọng nói vang lên: “Từ từ thôi”. Và tiếp theo, nó thấy cái ống nước nó đang nằm - hoặc đúng hơn là cả mấy cái ống trong đó có cái ống nước của nó - từ từ bốc lên không trung! Gió lạnh buốt hình như làm nó tỉnh lại. Jim cố hết sức bò ra đầu ống nước, các ngón chân nó đạp vào thành ống, cố thò đầu ra ngoài ống nước, lấy hết hơi thét lên một tiếng kinh khủng. Không may, lúc ấy gió đang thổi vù vù, người nấu bếp ở con tàu bên cạnh lại đang đổ vỏ khoai tây lên boong, những con mòng biển đang đi kiếm ăn nhìn thấy kêu inh ỏi lao xuống. Thế là tiếng thét của Jim chìm đi trong mớ tiếng động ồn ào đó. Jim cùng những ống nước ngày càng bốc lên cao. Trước khi nó lấy được đủ sức để hét lên một tiếng nữa thì cái ống đã bay ngang qua bến cảng. Một phút sau Jim được hạ xuống nhẹ nhàng vào chỗ chứa hàng của con tàu nước ngoài đó.
- Mais qu’est-ce qu’il y a là! Nom de Dieu! C’est un garcon. (Tiếng Pháp: Ủa, cái gì thế này! Lạy Chúa! Một thằng nhóc!)
Tiếng kêu đó vang lên, đồng thời một thủy thủ tiến đến, tháo cái móc cần cẩu ra khỏi dây thừng ở ngay trên cái ống cao nhất.
Tất cả những việc đó hoàn toàn không có ý nghĩa gì với Jim cả. Nó bước ra ngoài, trắng bệch và run rẩy, trông thật là thiểu não trước các người thủy thủ.
Có lẽ nó không hiểu được thứ tiếng nước ngoài này mà lại hóa hay. Một người to lớn từ dưới hầm tàu đi lên, nhìn nó hét ầm ĩ, nhưng nó chẳng hiểu y nói gì. Thế là con người kinh khủng này nhấc ngay Jim lên, cắp nó một tay như gói hàng đi xuống cầu tàu đặt nó giữa một đám công nhân trên cảng, rồi quay trở lại. Những bác công nhân nhìn Jim dường như nó mới ở hành tinh khác rơi xuống. Nhóm bốn người ở trên hai cái tàu mới chở ống nước đến, dứ dứ những nắm đấm về phía nó và quát lên giận dữ: “ Cút đi cho nhanh không thì mày sẽ biết!” Jim cảm thấy sướng quá, rán sức chạy nhanh đi. Dù rằng nó chưa thật khỏe nó vẫn còn có thể nói nhỏ nhẹ như một đứa bé con là nó muốn về nhà.
- Nhà ở đâu?
Một người nào đó hỏi. Cố gắng mãi Jim mới nói được hai tiếng “Otwell”.
Người này nói:
- Có một ông ở đây sắp đi Otwell. Ông ta sẽ đưa con đi. Nào hãy vui vẻ lên!
Rồi một bác công nhân bến tàu dắt tay Jim dẫn nó qua cảng đến chỗ một cái xe tải.
Khi đến gần thì hóa ra chẳng phải ai xa lạ, mà chính là ông Watkins đang từ hiệu sách đi ra. Ông nói:
- Xin chào! Nào, lại một Ruggles nữa gặp khó khăn. Nó bị đụng bươu cả đầu lên kìa!
Bác công nhân bến tàu nói:
- Nó đã may mắn là không bị gãy cổ! Bây giờ nó muốn trở về Otwell. Hình như ông biết nó, có lẽ ông sẽ đưa giúp nó về. Xin chào ông.
Bác công nhân dặn thêm ông Watkins hãy cho Jim ngồi ở đằng trước bên canh chỗ ngồi của người lái xe. Rồi ông hạ thấp giọng nói với Jim:
- Đừng có làm cái trò khỉ ấy nữa nhé. Lần này con đã gặp may đấy, chớ có để xảy ra tới hai lần. Con có biết người ta sẽ làm gì những kẻ đi lậu vé không?
Jim lắc đầu. Bác công nhân nói:
- Họ đưa chúng vào công an. Đấy là cách họ đối xử với những kẻ đi lậu vé.
Ngay trước khi bác ta nói hết câu thì Jim chợt thấy hai người công an đi tới đám đông trên bến tàu. Nó xiết chặt tay bác công nhân, nói:
- Bác có tin rằng lần này thật may mắn không?
Bác công nhân gật đầu và nói thêm (thì thầm với ông Watkins) rằng, có lẽ an toàn hơn là nên ngồi xuống sàn xe cho khuất, chờ những người công an đi khỏi bến tàu đã. Ngay khi ông ta chưa nói hết câu, Jim đã bỏ ghế, ngồi ngay xuống sàn xe và thực sự sung sướng khi ông Watkins trèo lên ghế, mở máy cho xe chạy. Bây giờ, nó chưa cảm thấy an toàn nếu nó chưa về được đến Otwell. Khi ông Watkins dừng xe ở cổng bến tàu, nó thấy một người công an tay cầm sổ đi tới. Tim nó gần như ngừng đập lần thứ hai trong ngày hôm đó! Tuy nhiên, người công an coi bộ chỉ chú ý tới hàng hóa trong xe tải của ông Watkins và chưa đầy năm phút sau họ lại lên đường.
Ngay khi họ qua thành phố, đang ở trên đường đi Otwell thì ông Watkins hỏi:
- Cháu định mưu toan gì đấy? Câu chuyện về cái ống và công an xảy ra như thế nào? Cháu đinh thử hút thuốc bằng ống điếu à?
Thì ra khi nghe nói loáng thoáng về cái ống, ông Watkins lại nghĩ là cái ống điếu để hút thuốc.
Không khí trong sạch nhanh chóng làm cho Jim khỏe lại, bây giờ nó đã cảm thấy hoàn toàn khoan khoái. Nó trả lời ông Watkins một cách kiêu hãnh:
- Cháu đã nằm trong một cái ống nước suốt từ Otwell đên đây. Cháu là một người đi tàu lậu vé!
Nó nói thêm:
- Và cháu đã rất buồn nôn!
Ông Watkins nhìn nó một cách lo lắng. Ông nói:
- Bây giờ cháu không buồn nôn nữa chứ!
Jim đáp:
- Không. Bây giờ cháu khỏe rồi, cháu chỉ đói thôi, vì cháu chưa ăn gì.
Ông Watkins nói:
- Được, bây giờ thì tôi chưa cho cháu ăn được. Đến Otwell ta sẽ nghỉ ăn uống. Thế cháu đi tàu lậu vé như thế để làm gì? Cháu có thuộc một hội nào không?
Tim Jim lại gần như đứng lại! Làm sao mà ông Wakins lại đoán được như thế! Nó không hề nói ra một lời nào mà! Không chờ câu trả lời của Jim, ông Watkins nói:
- Ngày xưa tôi cũng ở trong một hội. Nhiều năm trước đây, khi đó tôi lớn hơn cháu một ít, tôi đã là Thủ lĩnh.
Jim nói:
- Hẳn phải là như vậy. Bây giờ thì ông già rồi.
Ông Watkins thở dài nói:
- Đúng, tôi đã qua mất tuổi mười chín trai tráng rồi.
Jim nói:
- Cháu mong được mười chín tuổi.
Ông Watkins không trả lời. Ông đang nghĩ về những ngày tuổi trẻ xa xưa của ông.
Jim nhắc lại:
- Cháu mong được mười chín tuổi.
Ông Watkins nói:
- Này, thế cháu sẽ làm gì khi cháu được mười chín tuổi?
Jim lưỡng lự, cuối cùng nó nói:
- Cháu sẽ lái một cái xe tải như ông, ông Watkins ạ!
Ông Watkins nhìn người khách của mình rồi nói:
- Cháu thật là một đứa trẻ thông minh!
Jim còn đang tự hỏi, không biết ông ta định nói gì thì xe của họ đã dừng lại trước cửa tòa thị chính.
Ông Watkins nói:
- Cháu xuống đi! Coi chừng chỗ đầu bươu nhé và đừng quên lời thề đấy! Tạm biệt nhé!
Ông cười nhạo Jim rồi lái xe đi.
* * *
Bà Ruggles đang trải khăn bàn để dọn bữa tối thì Jim đẩy cửa bếp vào. Bà kêu ngay lên khi thấy nó:
- Con tôi! Con ở đâu về đấy, con đã làm những gì! Suốt đời mẹ chưa nhìn thấy một cái u như vậy bao giờ! Lily Rose đem bơ thực vật đến đây cho mẹ. Tôi không thể phí bơ thật cho nó. Chắc hẳn con phải đánh lộn hoặc gặp tai nạn ngoài phố hoặc gì gì nữa đây! Con đã bị đánh vào đầu phải không? Mẹ không mù đâu! Ai hoặc cái gì đã đánh vào đầu con? Thế John, em con đâu?
Bà Ruggles cứ nói liên hồi không đợi câu trả lời. Bà mỉa mai thêm:
- Mẹ nghĩ là con chả biết gì về nó cả, đúng không?
Jim có thể nói một cách thành thực là nó không biết.
Bà Ruggles vừa nhẹ nhàng bôi bơ thực vật lên đầu Jim, vừa tiếp tục nói:
- Mẹ biết. Mẹ biết có một điều lo lắng đến với cả hai con sáng nay. Bây giờ con hãy ngồi yên đây để mẹ đi dọn bữa trà. Trong khi chờ đợi con hãy đọc cái này nếu con còn chưa biết John hiện đang ở đâu. Rồi hãy nói cho mẹ biết, con đã bị bươu đầu lên như thế ở đâu?
Bà đặt một mảnh giấy vào tay nó làm cho Jim vô cùng sửng sốt. Mảnh giấy đó là một bức điện tín nói về John - Jim đọc bức điện.
------------
Còn tiếp

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét