Người con gái
Tác giả: Nguyên Hồng
Người con gái ấy da nâu nhờn. Ðó vừa là nước
da của hai cha mẹ không nhan sắc mấy, vừa là cái sắc riêng biệt của hạng người
phải làm ăn lấm láp. Vả lại, muốn có trau chuốt, người con gái ấy cũng không thể
khác hơn. Những thứ phấn màu gạch non hay da cam cho hợp làn da và những thứ
son thắm tươi, thơm hạng tốt, y không có tiền mua, mà dùng táp nham hay xỉn của
chị em bạn mỗi người một tí thì chỉ làm rõ rệt cái nghèo nàn đắng cay của mình.
Ðiều này chết thì thôi, chứ người con gái ấy
không dám để ai nhìn thấy. Y ghê gớm nó lắm. Mỗi lần yên lặng tưởng đến nó
thôi, y đều rùng rợn, tâm trí xám lại. Những lúc đó y chỉ muốn nhắm nghiền mắt
để khỏi trông thấy một ai và muốn mình khuất hẳn đi giữa cái mặt đất này.
Ai đấy ở lâu Hải Phòng chắc còn phải nhớ
cái ngõ hẹp giữa hai bức tường thẳng vút, tỏa ra mấy ngõ nữa với những dãy nhà
một mái cho thuê từng giường. Cái ngõ Hàng Gà trước cầu Ca-rông đi sang chợ Sắt
ấy. Ðây, đêm ngày nhớp nháp vì người ta gánh nước, đổ rác, đưa rau đậu đi chợ
và luôn luôn nổi lên những tiếng kêu cướp giật, ăn uống chằng bửa, đi xe quỵt,
đánh chém nhau!
Mười ba, mười bốn năm về trước, con bé ấy vẫn
thường bế em ra ngoài ngõ này, hau háu nhìn những hàng quà và sự nhộn nhịp suốt
bờ hè. Nhà y cũng thuê được một gian, chen ngay vào dãy nhà của phường buôn gà
vịt. Mẹ y mất đã hơn một năm, phường buôn kia thường chép miệng nhắc đến người
bạn tháo vát mà biết điều, không biết đến bao giờ họ mới được một kẻ như thế.
Cha y đi làm cho xưởng thợ tiện của người khách bên kia phố. Ba cha con ăn uống
do vợ người em trai ở chung nhà thổi nấu.
Con bé ấy cũng được đi học như mấy đứa trẻ
con mấy nhà buôn bán và đi làm khá ở trong ngõ. Cái trường tư nọ ở ngay đầu phố.
Một ông giáo không biết đỗ bằng gi, đã già và lại đông con bé, mở ra và trông
coi một mình. Ông dạy cả học trò khác to lớn gấp ba ông, và buổi tối, những người
thợ đứng tuổi.
Một nách hai con dại, người ta thường
khuyên cha con bé ấy lấy vợ kế, ông chỉ cười và lắc đầu. Không hiểu vì ông làm
không được mấy đồng, vì ông thương con cái sợ chúng bị đày vào cảnh mẹ ghẻ cay
nghiệt, hay vì ông thấy đã có em dâu cũng đông con, số tiền kiếm được để y
trông nom cho còn tốt hơn hay còn vì lẽ gì nữa mà người cha ấy cứ ở vậy. Sáng sớm
ông ra đi, trưa ăn quàng quéo trên phố, chiều tối mới về, từ năm ông mười bảy,
mười tám tuổi tới giờ đã hơn hai mươi năm ròng như thế. Ông gần như không có một
người bạn. Cả những tầm chiều, trời đất xam xám, hai con ông tong tong ra đường
đón ông, ông chỉ nhếch mép cười và nhiều khi cau mày bảo đứa con lớn:
- Thôi cho nó vào đi!
Chẳng chờ đợi con, ông đi trước. Cái mũ
vàng sờn vải, quần áo vá víu, xộc xệch, đầy vết dầu mỡ, người cha lùi lũi bước,
lom khom như trên đầu, trên lưng bị sự mệt nhọc và một ý nghĩ rã rời đè trĩu xuống.
Cũng như vợ, ông nóng, sốt, ho, người cứ rốc
đi, ăn uống không được rồi chết. Năm đó, thằng nhỏ con ông đã chập chững đi và
con bé ấy đi học biết đọc, viết thông quốc ngữ.
Ai muốn hai đứa trẻ này bây giờ? Chôn cất
người cha xong, một buổi chiều cúng cơm có tiếng kể lể rên rỉ trước cái bàn thờ
loi nhoi ánh đèn nhang, những người họ và quen biết bỗng ứa nước mắt. Họ gọi
hai chị em đến, nói với chú thím chúng và xin chúng về nuôi, cái ý kiến này nảy
ra chính họ không ngờ. Một bà nhà cày cấy nhiều, không thể tin vào ai mà giao
phó một phần công việc, một bà buôn bán ngược xuôi được mỗi mụn con gái thì lại
quặt quẹo luôn, một ông là em họ mẹ hai đứa trẻ nhỏ làm cai bao thầu, ba người ấy
đến giờ mới rõ mặt chúng mà không hiểu sao lại đối với chúng một cách sốt sắng
như thế?
Trong phút đó, tình thương xót của họ chan
chứa ra, tưởng chừng vì hai đứa trẻ mồ côi họ có thể quên cả thân mình. Kẻ thề sẽ
trông nom cho con mình sao thì chúng vậy. Kẻ cam đoan xây dựng đứa biết buôn
bán, đứa học hành đỗ đạt chúng làm rạng vẻ cho cha mẹ như con ai kia giàu sang.
Kẻ xin làm giấy khai sinh nhận chúng là con đẻ để sau này chung hưởng sự sung
sướng bằng con họ.
Người chú kéo hai cháu lại gần bàn thờ. Chờ
mọi người dứt câu, ông mới nói qua một nụ cười nhẹ:
- Thưa chư ông, chư bà, vợ chồng tôi xin
cám ơn tất cả chư ông bà đã có lòng nghĩ tới tình hai cháu dại. Tôi chỉ còn biết
lạy tạ chư ông bà, chứ thật không còn biết nói sao. Còn gì hơn để hai cháu
nương tựa chư ông bà để sau thành người. Nhưng xin chư ông bà rộng lòng hiểu
cho vợ chồng tôi mà để hai cháu ở với vợ chồng tôi. Dù vợ chồng tôi làm ăn vất
vả, lần hồi bữa rau bữa cháo, tôi cũng không thể xa hai cháu được. Trời để tôi
còn sống ngày nào, tôi xin lo cho trọn cái đạo đối với vong linh anh chị tôi, đối
với hai cháu dại.
Chỉ là những câu nói chập chừng đến nhiều
chữ khó thì ngắc lại, nhưng nghe nó nức nở trong cái yên lặng thoáng mùi nhang
va mùn cưa, thật là đầm đìa nước mắt. Em người chết không khóc! Chỉ thấy những
nếp nhăn và gương mặt đen sạm của ông quằn quại. Ông cũng ít nói, nhưng không
bơ phờ như anh. Dưới đám lông mày rậm, mắt ông luôn luôn long lanh như có lửa.
Thường những buổi trưa đi tầm, người đàn ông này dắt con và cháu ra tận đầu phố,
cười vẫy chúng tới khi chúng lấp ló trở vào ngõ. Thì sau phút đó, cái trán kia
lại chau lại, mắt đăm đăm vào những lớp người dồn dập. Vẻ vui tươi không còn một
gợn. Những nét se sắt rắn và tối thêm. Rồi đến chiều tối, ông cũng về tầm mải mốt,
không chuyện trò gì với ai, đầu hơi cúi phảng phất như cha người con gái.
Con bé ấy phải thôi học. Y ở nhà để trông
coi cả em mình và hai đứa con nhỏ của chú thím. Mười tuổi đầu rồi. Vào cái trạc
này, những trẻ nhà nghèo khác đã xách được ấm nước, cái hòm kem phấn đánh giày
mũ, hay rá bánh rán, bánh kê đi rong phố kiếm ngày mươi lăm xu đỡ cha mẹ. Ðây y
không phải dầu dãi mưa nắng, đầu đường cuối chợ, chỉ nhởn nhơ chơi với các em
cho người lớn lo ăn thì cũng phải tập làm đôi việc chứ.
Quét tước nhà cửa, dọn cơm rửa bát, dần dà
biết đun ấm nước, luộc mớ rau rồi ghế nồi cơm, con bé ấy còn phải nhận lấy nhiều
công việc lặt vặt khác, cái con bé tóc cợp bằng chiếc lược nhựa kia luôn luôn
có mặt ở ngoài ngõ, giờ thỉnh thoảng mới dám ra khỏi nhà. Nhưng chỉ chơi đùa được
một lúc rồi sực nhớ ra y lại vội dắt lũ em về trước cửa, trống ngực đập thình
thình. Cửa vẫn khép chặt, đồ đạc vẫn y nguyên, tiếng reo cười ngoài kia vẫn rộn
ràng, con bé thần mặt ra, vẻ mến tiếc và tủi cực hiện như in qua sắc da bừng bừng
mồ hôi nhễ nhại.
Người thím, trưa không gửi hàng về nhà nữa,
còn người chú, ông vào làm thay anh và cũng lại biền biệt từ sáng sớm đến chiều
tối. Tinh sương, con bé ấy dậy cùng người đàn bà nọ. Bà thổi cơm cho cả nhà ăn
rồi nắm sẵn mấy bát để lúc nào những đứa bé đói thì bảo chị lấy cho ăn. Không
buôn cất của người ta, bà lần mò đi những chợ xa mua rau đậu, hoa quả. Hai gánh
hàng của bà nặng trĩu, cả những đàn ông khỏe nhấc lên cũng phải nhăn mặt. Thế
mà nó cứ lẽo đẽo trên vai bà một tháng đủ ba mươi ngày, nắng mưa cũng mặc.
Ðã nhiều hôm, sau một đêm ngủ li bì bàng
hoàng thức dậy, người thím thấy mặt mày choáng váng, hai thái dương đau chói và
khắp người ê ẩm, đã tưởng đến nằm liệt giường mất. Nhưng chỉ một nồi lá tre, lá
bưởi hay lá sả đun sôi lên xông, và ít gừng giã, hòa rượu đánh với tóc rối, người
thím lại áo dài nâu thắt vạt ra đi với những người đàn bà khác.
Mặt trời mới lột một khoảng hồng phớt mà
người thím cuống quít lo sợ như ngày đã bị cướp đi gần hết. Bà quẳng vội cho
con bé ấy đồng năm xu, nói qua những tiếng thở:
- Ðây, cầm lấy trưa mua bún hay canh bánh
đa cho chúng nó ăn. Trưa nay không có cơm và tối tao mới về được đấy.
Cúi mặt xuống, nghe từng tiếng nói khản ấy
dằn ra, con bé thấy rõ trên đầu mình hai hàm răng người thím rít lại và hai con
mắt bà lại gờm gờm đưa nhìn qua mình ra thằng bé em còn nằm ngủ thiếp đây kia.
Thằng em con bé này nuôi mãi mà đi vẫn chưa vững. Ðến bao giờ nó mới lớn, đi
làm được và có đồng tiền đưa về?
*
* *
Ðó là những chiều hè, hoa xoan tây đỏ ối, bụi
lầm đường, những màu tơ lụa phấp phới. Phố xá ồn ào như có những tiếng hát mọi
rợ tràn lên cuồn cuộn. Những giờ đó, con bé ấy thường bế em ra chơi. Tuy nhà
cơm nước thu dọn xong rồi, người thím đã về chợ rửa ráy cho con cái, con bé ấy
được phép đưa em ra đường, nhưng y vẫn phải lảng vảng gần nhà. Trẻ con đứa nào
đứa ấy về quấn quít lấy bố mẹ, y có muốn nô đùa cũng không có bạn. Y chỉ còn biết
thơ thẩn nhìn những cái ồn ào rực rỡ tỏa ra mọi nơi trong khi thằng bé em lò dò
dưới những tủ hàng, mắt ngơ ngác.
Qua ngõ nhà con bé ấy, khu Trại Cau, An
Dương mở ra bên kia. Ðường đầy rộng, trắng xóa, chạy vút về những vùng quê xa
có ruộng lúa chín vàng và bóng núi tím mờ mờ lẫn với mây. Những ô tô bóng loáng
thỉnh thoảng phóng qua. Mui xe cụp xuống, những người ngồi thoáng hiện ra như
trên màn ảnh. Tóc họ bay phất phới rắc trong gió những mùi thơm sực nức cùng với
những mùi phấn sáp và quần áo. Những đứa bé tóc như tơ vàng, da thịt hồng hào lồ
lộ, đứng hẳn lên, cười hát, vẫy gọi, trông chúng xinh tươi hơn những tiểu thiên
thần trong tranh.
Những người khác không ô tô thì đi xe nhà,
chồng một xe, vợ một xe, người ôm con lớn, người ôm con bé, song song chuyện
trò theo những bước chân của người kéo. Cũng có nhà để con nhỏ vào xe đun để
người ở trông rồi dắt con lớn đi sau mà hưởng cái mát của chiều. Trong đám trẻ ấy,
thường có mấy đứa trước học với con bé. Từ ngày y thôi đến trường ông giáo già
kia, những bạn nhỏ mặt mày rạng rỡ, quần áo đẹp mắt, cười nói ngoan ngoãn ấy thế
là xa hẳn. Không một đứa tìm y. Có qua nhà y, chúng mải ríu rít với nhau cũng
có và cố làm lơ đi cũng có.
Gần gũi con bé chỉ còn những đứa tên nghe
thế nào ấy: cái Sẹo, cái Bống, thằng Nhớn. Bố mẹ chúng thì nào bác xế Cấu, bác
Phở, bác Bò, bác Củi.
Nhiều nhà còn để chúng nó rách rưới hơn y
và lắm khi phải sang nhà y cầu cạnh vay tiền, vay gạo và xin cả cơm về mớm cho
con. Họ ở gần nhà y. Không một tí gì y không biết. Hết mè nheo, cắn rứt lại
đánh chửi nhau, họ như là bị đày vào với nhau chứ không phải là tình gia đình
thương yêu, hi vọng vào hạnh phúc.
Khác hẳn những cảnh trên kia, con đường
ngoài ngõ và dãy phố bên kia con sông Lấp bị chặn một đầu, lúc đó huyên náo vô
cùng. Suốt bờ sông, bờ hè san sát hàng quà. Toàn những hàng nước chanh, nước
đá, kem và hoa quả. Những ánh chai lọ thủy tinh đựng những thứ nước chanh xanh
đỏ và những sắc tươi của dưa hấu, mận, xoài làm nhức cả mắt. Vang vang tỏa trên
mấy khu đó, những tiếng sôi ngùn ngụt của những phố Hàng Cháo, Ðầu Cầu dồn lại.
Ðây người ta đương mê mải ăn uống, may mặc, sắm sửa, như không biết chán, như
đã bị bao năm hết sức kìm hãm sự khát khao rõ những tiếng thở hổn hển và nóng rực.
Nhưng thế nào nhỉ, những buổi chiều mùa hè ở
những xứ gần đường xích đạo trong những bài ám tả chúng ta đã viết và trong những
đoạn văn ta đã đọc thuở nhỏ? Chiều có chân trời vàng diệp, trên cao pha lê
xanh, hương hoa dạ hợp cay ngát bay ngợp không khí mọng như trái dưa đã chín.
A! Thần tiên! Người ta đê mê trong cái phút giờ của hoàng hôn mà ánh nắng lưu
luyến với cảnh vật như đôi tình vương víu. Tất cả lúc đó chỉ là cái cảm giác bừng
bừng với bao hương sắc kì lạ. Phải không? Chúng ta đã chia nhau chép những câu
văn lộng lẫy và chép vào những cuốn sổ nhỏ giấy trắng tinh, bìa cứng chữ vàng,
rồi học thuộc ngâm nga với nhau như thơ.
Người chú về tầm ăn cơm xong là giở đồ làm
ra ngay. Nhà ông không có tiền mắc điện, thắp cây đèn dầu ngọn vặn cao, vàng ngụt.
Búa, đục, giũa, kìm, đinh ốc, dây thép, sắt vụn... bày la liệt trên cái mặt bàn
rộng như cái giường, tự tay ông đóng lấy với những mảnh ván thùng xi măng. Trước
ông chỉ nhận việc tư về làm những ngày nghỉ. Giờ, cả trưa và tối. Ông chữa xe đạp,
đồng hồ, khóa, máy chữ, bất cứ cái gì hỏng của những máy móc thường dùng.
Một gian nhà thuê chung đã kê hai cái giường,
một tấm phản xếp và một cái bàn đã chật ních, lại còn xếp bao nhiêu thúng, mẹt
và những đồ đạc, trông bức bối còn hơn cái lò. Mồ hôi vã ra đầm áo, tóc dính bết
vào trán mà người chú không quạt lấy một cái. Mặt ông chỉ tái đi thêm và môi
mím lại. Dưới đất, chỗ cửa ra vào, người thím cũng cặm cụi như thế. Bà chọn, nhặt
rau, đậu bó lại từng mớ rồi xoay ra chẻ củi, gánh nước, giặt giũ cho cả nhà.
Hai đứa con trai lớn của người chú cũng đã
tám, chín tuổi. Không thể để nấn ná ở nhà, ông đã phải cho đi học tư. Chơi một
lúc, chúng lại vào ngồi học ngay dưới ánh đèn trên bàn người cha làm việc. Nghe
chúng ê a một cách trơn tru là ông bằng lòng, chứ không biết các con đọc đúng
hay sai những vần chữ Pháp. Ông cũng như con bé cháu, đọc và viết được chữ quốc
ngữ thì thôi. Giờ ông phải tháng tháng bỏ ra hơn hai đồng bạc tiền học và giấy
bút cho con vì thấy mình đã chịu thiệt thòi quá, mà đã cay đắng vì thế lại còn
để dây dưa đến kẻ máu mủ thỉ tủi cực vô cùng cho ông. Nhưng cả hai vợ chồng ông
đều mong mỏi chúng theo đuổi chữ nghĩa lấy dăm năm rồi mau mau phải xin ngay
cho chúng vào làm một trong những xưởng máy đương chạy ầm ầm đêm ngày đây kia.
Thằng em còn bé đã ngủ rũ ra trên vai chị.
Y len lén bế nó vào giường, đặt nằm ở mé trong. Ra ngoài chơi một lúc thế là
quá đủ rồi. Cả hai đứa lớn đã học thuộc bài và làm tính, viết tập thêm đã xong.
Hai em chúng nó, mình mẩy đầy rôm sẩy như gai mít vẫn chưa chịu lên giường, còn
quấy khóc. Con bé nhìn chú, nhìn thím rồi ngồi xuống chỗ những đống rau cạnh
giường hai đứa lớn ngủ. Y nhặt nhạnh, xếp đặt, cùng với hai bàn tay thoăn thoắt
của người thím. Thỉnh thoảng y lại lấy quạt quạt cho hai đứa nhỏ, xoa lưng và dỗ
dành chúng nó.
Giữa những tiếng nhèo nhèo của con nhà mình
và những tiếng khóc tiếng ru của những mẹ con nhà chung quanh, người chú như một
cái máy, chỉ có cử động chứ không một lời nói. Thông phong đèn lau lúc chập tối
đã cháy bỏng và đặc khói bên trên. Sương đêm mờ mờ xám dần là xuống mái ngói.
Cái cửa sổ xế bàn người chú vẫn sáng rực. ánh đèn vàng ngụt tỏa ra với những bụi
bặm. Chiếc bóng đèn của ông đầu tóc bơ phờ, in dài ra ngoài đường rõ như cắt.
Tiếng sắt giũa ken két xiết sâu vào cái yên lặng. Ông càng cúi mặt vào những đồ
làm.
Lúc đó, ở cái máy nước đầu ngõ, tiếng ầm ầm
xô xát giành giật nhau vẫn không giảm đi chút nào. Những giọng cười hát kệch cỡm
vẫn thấp thoáng trong cái không khí đặc sệt dưới bầu trời sao dày như cắt.
*
* *
Nhà người con gái ấy phải dọn đi phố khác.
Trong cái ngõ chật hẹp nhớp nháp và khuất nẻo kia không thể nào xoay trở cách
làm ăn khác được. Người thím buôn hàng khác và người chú phải có nhiều khách mới
và một chỗ tiện để họ đưa đồ đến thuê chữa.
Một cảnh tượng khác đã đổi trong gia đình.
Một con lớn ông lấy vợ được một cháu. Người con thứ cơm nhà đi tập việc hàn xì
sắt thành nghề. Hai con nhỏ ông và thằng em người con gái thì đứa lớp nhất, đứa
lớp nhì. Và, lạ lùng, người thím bẵng đẻ đi tám năm, tưởng đã ngoài bốn mươi
thì thôi hẳn, bỗng lại có mang và đẻ một cô sau khi con dâu bà ở cữ được một
tháng.
Người con gái ấy không phải chăm bẵm các em
nữa, và y không còn cái quần vải thâm kéo xếnh đến bắp chân, áo cánh cứ mướp ra
như khăn lau vì các em bôi bẩn, giằng xé. Y luôn luôn ở trong nhà, có công việc
ra ngoài hay đến nhà chị em, y đều áo dài quần trắng tha thướt và tóc chải mượt,
búi ý nhị. Y đi nhanh như bị thúc giục, mắt cúi xuống thỉnh thoảng chớp chớp. Một
tiếng gọi to, một cái nhìn sáng vút, một cái va chạm nhẹ, đủ làm y giật mình,
trống ngực thình thịch, trong người bừng bừng, gò má đỏ lên.
Trước mặt người con gái ấy, sự thay đổi tuy
dần dà, nhưng sực nghĩ đến, y không thể nào không ngạc nhiên vì thấy lại thật
là nhanh chóng, rõ rệt quá. Phần nhiều những người con gái mà y biết đã chồng
con ríu rít cả. Kẻ ở ngay gần phố y. Kẻ ở một tỉnh bên cạnh. Kẻ theo chồng đi
xa hàng mấy năm y mới gặp. Không biết họ thật thế nào, chứ y thấy họ sung sướng
lắm. Người thì chồng đi làm sở nọ, sở kia, người có riêng cửa hàng buôn bán. Vợ
chồng họ ở một căn nhà có bàn ghế tiếp khách, có giường tây, tủ đứng. Ngày
ngày, vợ đi chợ, vú em, con sen cắp rổ theo sau.
Người con gái cứ thấy họ hây hây. Mặt họ
tươi, miệng, mắt hớn hở, tuy người họ hoặc gầy đi đôi chút, hoặc sồ sề hẳn. Phải
kể những người con gái lấy chồng được như thế, chứ những kẻ con cái nheo nhóc,
làm ăn đầu tắt mặt tối, nhiều khi còn bị đầy đọa do nhà chồng hay chồng bê tha,
tình phụ, thì nói đến làm gì. Vả lại, dù thế, người con gái ấy cũng không cho
là khổ. Ðời đàn bà phải vui lòng chịu những tình cảnh, nguồn cơn kia, nhất là
mình lại con nhà nghèo.
Nhà hơn mười miệng ăn, lo toan mãi, người
thím đã không còn thể gắng gượng hơn được nữa. Giờ bà đi buổi nào hay buổi chợ ấy,
và, công việc nhà giao phó cả cho con dâu và cháu. Nhưng người con gái ấy phải
nhận lấy cả. Vì người em dâu kia đẻ xong đã phải đi làm ngay không có tháng
tháng nhà hụt đi bảy, tám đồng thì sẽ khổ vì nợ và cái chân trông máy chỉ hở một
chút là mất! Vả lại, ở không là một cái tội. Y vốn con nhà không buôn bán các
chợ thì lại chen vào các chỗ làm ngay từ thuở nhỏ, chân tay y giờ không thể nào
ngừng cử động được.
Tuy quần quật việc của nhà cả ngày mà người
con gái ấy vẫn phải chịu nhiều sự eo óc. Tiếng rằng mấy người lớn kiếm được tiền
ấy, nhưng có đủ đâu? Người chú vẫn nhận việc thêm mà chẳng được mấy đồng vì thợ
thuyền và máy móc tinh xảo mỗi ngày một nhiều, ông chỉ phải cặm cụi thêm. Vài
chục bạc của ông và tiền của vợ, của con dâu, đong gạo, mua thức ăn, lắm tháng
đến ngoài hai mươi đã hết. Bao nhiêu sự chi tiêu khác thế là phải trông cả vào
người con lớn. Thì người này sức làm việc cũng có hạn và anh không đừng được sự
may mặc cho vợ con. Do nào thiếu thốn, vất vả, công nợ, sự riêng tây, người kêu
ca, kẻ nghiến rứt, khiến trong nhà không mấy ngày không ầm ỹ.
Cái không khí nặng nề càng nén thấp xuống đầu
họ nhức nhối. Người chú đã ít nói lại ít nói thêm. Trái lại, người thím hễ về đến
nhà là bắt đầu chửi rủa, rêu rao, kể lể ngay từ ngoài cửa. Trước, mỗi người con
gái ấy, giờ thêm người con dâu và cả nhà phải nghe cái đĩa máy nói không ngừng
mở nguyên một giọng. Cất tay bà nói, cất chân bà nói, nhấc cái chén bà nói, cầm
cái phất trần bà nói, sáng sớm dậy trước nhất nói cho tới khuya, người đàn bà
khô đét như con mắm nay không hiểu sao lại có thể sa sả nói được như thế? Nhiều
lúc người chú đã hắt tung cả mâm cơm và những đồ làm đi mà gầm lên:
- Trời ơi! con vàng nanh đỏ mỏ kia, mày có
câm đi không! Mày có muốn để người ta sống mà làm ăn hay nhà cửa tao phá tan
hoang, mỗi đứa mỗi nơi?
Người con gái ấy và lũ em chỉ biết nhìn người
cha già và nghe sự đau đớn ran lên trong lòng giữa cái yên lặng khó thở lúc đó.
Những lần xảy ra cảnh đập phá ấy, y chỉ biết ghi vào cuốn nhật ký, rồi giở ra đọc
thầm qua những giọt nước mặt vào những buổi xế trưa cả nhà đi vắng và những đêm
khuya tiếng ngáy ngủ dồn dập cất lên rõ mồn một trong bóng tối. Những phút yên
lặng được khóc thầm với mình này còn là những lúc sung sướng cho người con gái ấy.
Bếp nước xong, chân tay sạch sẽ, y lừa cho
hai đứa nhỏ con người thím và người em dâu ngủ thật say. Không giở những quần
áo rách của cả nhà ra vá thì y đem những đồ đan của chị em bạn nhận cho. Vài đồng
bạc công ấy y muốn đưa cho người thím để rồi xin lại bà một món may mặc, hay y
giữ lấy cũng được. Nhưng thường người con gái đan được bọn đồ nào đều đưa cho
bà, và, có thì chỉ bớt dăm hào để tiêu vặt về phần mình và mấy đứa em nhỏ. Nhịp
với hai que sắt mạ kền thoăn thoắt kết những sợi len, chỉ lại, người con gái ấy
để cuốn tiểu thuyết mượn của chị em bạn xế trước mắt đọc miên man từng dòng, từng
chữ. Có cần gì đâu những truyện sâu sắc và đưa đến những ý tưởng tươi đẹp! Người
con gái ấy chỉ cần thấy mình cùng đau đớn và chán nản với những cảnh thê thảm
trong truyện là y cho rằng truyện viết hay, là y sung sướng với sự giải trí sách
vở đó. Có rung động một cách như thế, y mới là người và cao quí nữa. Vì so sánh
mình với những nhân vật tiểu thuyết, y thấy hai cảnh đời sao mà gần gũi với
nhau thế, cùng là những cái gì người ta phải coi là kiểu mẫu và tấm tắc rằng
trên mặt đất này chỉ những linh hồn đau khổ ấy mới xứng đáng yêu mến, kính phục
thôi. Với y, những linh hồn chị em trong sự tối tăm thật là chứa chan thi vị,
phải có những con đường đi riêng cho những đời sống cô độc, lạnh lùng không được
mấy ai hiểu biết kia.
Người con gái ấy xót xa cho mình vô cùng.
Và y xót xa cho cả những người thân mến, họ đau khổ mà không rõ, y thương cho
người chú cặm cụi nuôi các con, cháu đến tận giờ mà cũng chưa được đền bù chút
gì. Y thương cho người thím cằn cỗi gần như điên cuồng, đến y là kẻ dễ tha thứ
và chứa chan cảm tình với mọi người mà lắm lúc cũng không thể chịu đựng được bà
và cũng bị bà coi như quân thù, quân hằn. Y thương cho hai đứa con nhỏ của chú
và người em của y thua anh, kém bạn. Và y man mác nghĩ đến hai đứa bé mới đẻ của
thím và người em dâu kia, cha mẹ chúng làm ăn lam lũ như thế nào còn mong gì
gây dựng cho chúng được sung sướng.
Người con gái ấy đã khóc rất nhiều, khóc
luôn luôn trên những trang tiểu thuyết. Càng đầm đìa nước mặt, y càng thấy mình
được gội trong một làn nước mát hay những lớp sương gió. Sự uất ức ngùn ngụt
hun đốt người y được giây phút tắt đi. Y được nhắm mắt lại trước cuộc đời như
là những ngọn lửa cuồn cuộn lao vào mặt.
Lệ Hà, cái tên hai chữ này bắt đầu từ đây.
Cái Lệ Hà đen, cái Lệ Hà mùa thu, tất cả bạn người con gái ấy đều gọi y với cái
tên đó. Và trong những bức thư, những tấm khăn nhỏ của y dùng, hai chữ Lệ Hà viết
rất đậm, thêu thật uốn éo, nổi lên đỏ như máu.
*
* *
Người con trai ấy đến với Lệ Hà, và Lệ Hà
đã ra đi với người con trai ấy. Anh ta được một người bạn gái thường sụt sùi
than thở với Lệ Hà giới thiệu. Anh đã gửi cho y một thư. Y đã trả lời luôn hai
thư. Sau liên tiếp năm thư viết cho nhau trong những đêm buồn như tận thế, họ
đã cầm tay nhau và nức nở nói rằng yêu nhau.
Trắng trẻo, tầm thước, tóc không uốn mà bồng
lên, và mắt sáng nước, anh ta mới hăm ba tuổi, hơn người yêu vừa đúng ba tuổi.
Anh giữ chân bán hàng cho một hiệu cao đan, hoàn tán mở nguy nga như nhà bào chế
tây giữa một phố lớn. Ngoài những thì giờ bán hàng, anh còn giúp vào việc gửi gắm
hàng nghìn thứ thuốc cho những đại lý ở tỉnh xa cứ một ngày lại mọc thêm sau những
cách quảng cáo rất kỳ lạ của ông chủ tốn hàng bạc nghìn.
Thôi học, ở nhà quê ra, anh ta đã ngoi ngóp
đi bốn năm tỉnh và xin việc làm đủ mọi nơi. Nhưng chẳng có lấy một cái bằng, và
vai không thể vác được gạo, tay không thể kéo được xe anh ta nấn ná làm ở vài
chỗ rồi cậy cục vào hiệu thuốc nọ thì khư giữ lấy cái việc sổ sách đó như kẻ sắp
chết đuối vớ được cọc. Anh tự nguyện phải hết sức cẩn thận và ghê tởm như kẻ giết
người, những kẻ dại dột đã vì mê chơi hay đứng núi này trông núi nọ mà bỏ công
việc.
Kể ra không phải đeo đẳng vài bổn phận thì
anh cũng có thể như vài người bạn trẻ kia chiều chiều nhởn nhơ ngoài phố với
cái đầu nhẫy bóng, áo lót mình bằng hàng tơ, túi quần xóc xách tiền, nghênh
ngang vào hiệu cao lâu, rạp chớp bóng, ganh đua với những trai gái khác. Lương
tháng anh hai mươi đồng, ngoại tài trung bình chục bạc, một thân một mình ăn
tiêu vừa phải thật ung dung. Vì dạo đó gạo một hào được hơn một ống cân, chúc
bâu trắng tốt nhất có ba hào một thước, gian gác kê đủ bàn, tủ, giường và mắc cả
điện thuê tháng đắt lắm chỉ tới bốn đồng. Sự sinh hoạt dễ chịu quá, số tiền anh
kiếm được biết cách ra có thể làm giàu được.
Ðây anh ta còn một người cha mới sau mươi
tuổi mà đã lọm khọm, ngồi lâu một lúc cũng thở không ra hơi, như một cụ già
tám, chín mươi ngấp nghé miệng lỗ. Ông ta có hai đời vợ, hai bà đều khỏe mạnh
mà lại chết cả. Mỗi bà đẻ đến tám chín bận, nhưng chỉ còn một mình anh là con trai
và hai đứa con gái nhỏ con bà hai. Ba người này ở luôn luôn bên cạnh anh như sợ
anh sểnh một chút là bị những cái rất ghê gớm trong đời cướp nghiến ngay đi.
Nhà anh là ngành trưởng. Bao nhiêu giỗ tết, còn sống hai người đàn bà kia phải
lo đủ, giờ anh phải gánh vác cả. Tuy đã dắt nhau ra tỉnh, bốn cha con thuê hai
gian nhà lá ở một xóm xa thành phố mà người làng, người họ vẫn cứ tìm đến không
một kỳ đóng góp nào bỏ sót.
Người con trai và người con gái ấy yêu nhau
lắm. Không được như những trai, gái khác đường hoàng âu yếm khoác tay nhau
ngoài phố, họ phải hẹn hò nhau ở những phố xa, vắng và có bóng cây. Họ đi song
song, bước đếm từng miếng xi măng lát hè, nói nhỏ nhỏ từng lời rồi yên lặng
thoáng nhìn lên nhau qua những cái chớp mắt. Họ còn tìm nhau ở vài nơi bên bờ
sông, trên một con đường quê gần tỉnh, và đã vài lần, say lên quên cả mọi sự, họ
đã lang thang ở một vùng có sông rộng, chân trời in nét núi xanh.
Họ sung sướng và thấy không gì bằng. Vì họ
được xa chốn đông đúc, bụi bậm. Họ được xa những cảnh ăn chơi nhộn nhịp, lâng
lâng trong sự khoáng đãng. Như thế chứng tỏ rằng họ hiểu nhau lắm, hòa hợp với
nhau bằng hai tấm tình tinh túy nhất của tâm hồn. Họ đã khác hẳn những cặp trai
gái khác. Một sự tự kiêu xứng đáng khiến họ có thể cất cao đầu lên giữa những
cái gì mà người đời ghê gớm lắm, gọi nào là bùn lầy, nào là tội lỗi, nào là trụy
lạc. A! tuổi xanh! Họ còn trẻ quá và lại được gặp nhau, tha thiết với nhau, sự
tha thiết đầu tiên của tâm hồn.
Phấp phỏng gần gũi nhau như thế nhiều lắm mới
được vài giờ, rổi họ phải chia tay nhau. Ði xa rồi, trông lại nhau, ruột gan họ
đau buốt thâu đêm. Ðã thương nhau lại càng thương nhau vô cùng. Họ thấm thía thấy
mình cùng phải chịu bao nhiêu sự thiệt thòi, cùng chung một tương lại không có
gì tốt đẹp. Hơn nữa, họ còn phải vì nào cha mẹ, anh em, những người ruột thịt
mà chìm đắm vợi họ trong sự khổ não mãi mãi.
Một tháng... hai tháng... nửa năm, thế họ
đã yêu nhau được một năm. Càng ngày, tưởng gần nhau chốc lát hay trông thấy mặt
nhau là đủ, ngờ đâu sự nhớ mong càng ngùn ngụt. Không phải hàng tuần, mà chỉ một
ngày hay một buổi vắng nhau, họ càng nghẹn ngào, bứt rứt, chán nản rũ ra được.
Về phần người con gái, lòng nung nấu đôi lúc còn dịu đi vì y hết sức đè nén bởi
phải giữ gìn với người chung quanh và với cả chính mình. Chứ người con trai thì
anh đau khổ quá, khó mà chịu hơn được. Anh không còn cất nhắc nổi cái quản bút,
tính trọn một trang sổ mà cả người không rởi rã, bải hoải như bị tra tấn thâu
đêm. Cứ thế mãi, anh đến chết mất. Không phải trên cái giường bệnh hay trong
tay một người nâng giấc, anh sẽ chết, cái chết khủng khiếp của một người điên
lên cơn, treo mình lên cành cây, lao vào đầu tàu xe lửa, đốt cháy nhà rồi đâm
vào...
- Lệ Hà ơi! Chúng ta phải lấy nhau.
Những tiếng này đã rên rỉ hoang mang bên
tai người con gái. Y rùng rợn. Mặt anh con trai sáng một cách dữ dội. Hơi thở
anh hồng hộc như con lợn giẫy giụa chống với con dao đổ tể. Người con gái đã
run run đẩy người tình ra, lắc đầu nhìn.
Không còn có thể giấu giếm được nữa cuộc
yêu đường này. Cả người chú cũng đã biết. Không phải ông nghe vợ ông hay con
dâu ông nói. Chính ông là người nhà đầu tiên bắt được cháu gái mình đi tình tự
với người con trai. Buổi trưa ấy, ông đưa đồ của sở đến đặt làm và nhận riêng của
vài bọn khác. Người con gái đã tái mặt đi, tưởng đứt thở mất trước cái nhìn từ
từ rồi quay đi của người chú như không hay biết. Tối hôm đó và luôn một tuần lễ
sau, y không dám đi đâu. Lúc vội vàng đem ngay quần áo nhận đan làm ở bên cái
ánh sáng ấy. Y thức khuya hơn mọi khi, ngồi hàng giờ thoăn thoắt đưa những mũi
que mà không nói, không ngả lưng. trong khi ấy người chú còm cõi, tóc đã lớt phớt
bạc kia, thỉnh thoảng mới đưa mắt nhìn cháu. Vẫn với hai con mắt yên lặng, lờ đờ,
ông nhìn cái vẻ mặt như muốn trốn tránh của cháu, thấy trong lòng nổi lên vừa
đau đớn, bực tức và bùi ngùi thương xót.
Ðã lâu lắm, ông mới chú ý đến cháu. Ông ngạc
nhiên thấy cháu cao và nở nang khác hẳn đi. Y gần như không còn tí gì của thuở
bé. Từ đôi mắt, cái cằm xuống đến vai, đến ngực đều thay đổi. Tóc chải bông, da
nâu chín, môi dày, tươi, răng tuy thô một chút nhưng trắng muốt, cháu ông không
xấu lắm tuy chẳng trắng trẻo, son phấn như những người con gái khác.
Người chú nhẹ thở dài;
- Nó đã lớn rồi!
Ông nghĩ đến nếu cháu vào một nhà có buôn
bán hay cha làm sở nọ, anh em sở kia, vàng đeo cổ, quần áo lụa là, thì ít ra
cũng được vài nơi nhòm ngó. Ðây những nhà giàu sang như thế họ tìm những dâu
con nhà như họ hay hơn họ. Còn những kẻ thợ thuyền hay làm ăn nghèo ngặt thì vừa
không lo được tiền cheo cưới, vừa phải lấy hoặc gái phu hồ, hàng gạo để cùng
gánh vác sự lam lũ với chính mình và không khinh mình, chứ họ, đâu dám với tới
cháu ông, chẳng gì cũng là con nhà hàng phố, tân thời, chỉ biết có việc bếp nước
nhẹ nhàng. Trở lại, chỉ những tụi trai lơ, vô công rồi nghề mới tìm đến. Thì
thà rằng thấy con cháu mình chết già chứ chẳng cha mẹ nào dám liều gả đi, vì
con cháu họ sớm tối rồi cũng chết khổ sở đày đoạ thôi!
Người cháu gái ông lấy chồng giàu sang, ông
không dám và cũng không thích mơ tưởng đến sự đó. Ðôi khi chợt tưởng đến sự chồng
con của cháu, ông chỉ muốn y làm vợ một người nào đó nghèo nàn hay bơ vơ cũng
được, nhưng cốt nhất phải có nghề nghiệp. Cheo cưới thế nào cho khỏi mang tiếng
để cháu theo trai, ông sẽ cho cháu về với người ta. Vợ chồng đều còn trẻ sẽ vui
vẻ với nhau mà kiếm cách sinh sống cho khỏi đòi rách, con cái khỏi nheo nhóc là
được. Ông chú đã nghĩ thế, tâm trí nao nao. Người anh ông hay người chị dâu còn
sống và có đôi chút tiền của để lại, ông chẳng lo làm gì. Ðây người cháu gái sống
với ông đã khổ sở lại còn khổ sở nữa thì ai oán cho y quá. Thôi y đã thương yêu
ai, và người ta thương yêu y, hai người có thể gắn bó với nhau, ông chảng cần
gì hơn, và, cả hai con người đã chết sớm kia cũng chỉ mong thế.
Người con gái ấy hồi hộp nhìn người chú
luôn tay kìm, búa dưới ánh đèn, thỉnh thoảng mới ngẩng lên. Y cảm thấy rõ sự
yên lặng thấm thía của chú mà ứa thầm nước mắt. Y tưởng đến hình ảnh của bố mẹ
mà y chỉ còn thể nhớ được lờ mờ. Mười mấy năm rồi, người đàn ông này không bao
giờ nói đến chị em y một lời. Bố mẹ y cũng chỉ hiền từ đến như thế. Cái búa tạ
dùng lâu còn vẹt đi nữa là người. Cứ còm cọm hết việc này chưa xong đã bắt ngay
sang việc khác mà chẳng được lấy vài ngày nghỉ ngơi, ăn uống tâm bổ, không khéo
mai kia thôi chẳng thể gượng gạo được nữa, ông chỉ bị một trận ốm là khuỵu. Nhắm
mắt chết, ông nào đã được gì, được một chút gì thật êm vui trong đời đâu?
Người con gái lại thấy không thể nào lìa bỏ
chú mà ra khỏi cái nhà này được. Yêu người yêu, tha thiết với người yêu, y sung
sướng với cái ý nghĩ ấy thì càng phải biết thương chú, hết lòng với chú, một
người tận tụy với chị em y không một lời than thở. Y nhất định ở với chú tới
bao giờ hai đứa con trai nhỏ của chú và đứa em của y lớn lên, có vợ con tử tế,
làm ăn phụng dưỡng ông, y sẽ lấy ai hay không cũng được, chứ đương lúc này
trong nhà luôn luôn eo óc, giờ ăn uống nghỉ ngơi cũng đầy khổ não như chốn tù tội,
thế mà y về nhà người khác, thật vô cùng nhẫn tâm. Y chẳng làm được nhiều tiền
giúp đỡ, nhưng có y cơm nước sạch sẽ, đồ đạc thu dọn gọn gàng, các trẻ nhỏ
trông nom cẩn thận và sự an ủi, âu yếm, người đầy tớ hết lòng nào như y thuê được.
*
* *
Người con trai ấy phải đi, không còn thể viện
một lẽ gì cưỡng lại được. Anh đã mất việc, ông chủ hiệu thuốc bảo anh nghỉ để
nhường cái chân bán hàng và giúp việc lặt vặt ấy cho người cháu họ ông. Tuy người
cháu này ít tuổi, chưa làm đâu cả và dại nghếch, nhưng ông cần gì! Cốt sao cho
ông bảo thế nào y nghe vậy. Y không biết ăn cắp của ông, thông với người ngoài
tiết lậu những cái bí mật của ông, nói tóm tắt làm lợi cho ông là đủ.
Nghỉ một ngày, chơi một ngày là hư hỏng một
ngày và để gia đình phải khổ sở. Bởi vậy, người cha già anh con trai tức tốc bắt
anh phải tìm ngay việc khác, và cả ông sáng sớm uống xong chén chè tàu nghiện
ngập, ông liền khăn áo đi cậy cục chỗ làm ăn cho con. Một người bà con đã làm
ơn nhận lời cầu khẩn của ông, đưa anh con trai đi với mình. Họ đi Sài Gòn.
Trong đó, người bà con nọ trông coi một nhà in còn mở mang to nữa. Anh con trai
không bán hàng thì giúp việc ấn loát, hay nếu xem ra chí thú, có chí lập thân,
y sẽ bảo cho anh cách giữ sổ sách và tiền nong làm phụ y.
Lương tháng y sẽ xin ông chủ trả cho ba
mươi đồng, khi nào thông thạo việc sẽ tăng. Ăn ở nhà y, y lấy rẻ hai mươi đồng
kể cả các khoản giặt giũ quà sáng. Như thế anh còn có thể gửi về nhà dăm bảy đồng
hay chịu thương chịu khó không tiêu pha gì thì cả chục. Ðó là một món tiền cha và
em kiếm đâu ra được ngần ấy bây giờ? Vậy chủ nhật tới này, hai người sẽ lấy vé
tàu hỏa đi suốt vào chốn làm ăn kia.
Người cha đã thân dẫn anh con trai về quê lấy
thẻ căn cước. Ông thân làm mấy mâm lễ để dâng gia tiên trình ngày lên đường của
con và cầu sự phụ hộ. Ông mua cả cho con những khăn mặt, xà phòng, dầu bạc hà,
thuốc kí ninh... Cộng với tiền tàu bè về quê, tiền chè, tiền xe cho lí trưởng
và những tiền khác, tất cả đúng hai chục bạc. Ấy là không kể hai chục bạc lấy
vé tàu cho con và cảm tạ người bà con cứu tinh kia một vé. Ba sào ruộng giỗ chạp
cuối cùng thế là đi đứt. Nhưng người cha không một chút hối hận. Rồi lại tự tay
ông, ông bỏ tất cả sách vở, ống quyển và những di tích của thời lều chõng của
ông gói ghém cất đi, nhường cái hòm sơn chắc như cái tủ sắt ấy cho con. Ông xếp
vào đó không thiếu một thứ gì cần dùng của con kẻo vào đến cái xứ tiêu tiền như
ăn gỏi ấy mà cứ thiếu một tí lại đi sắm thì kiếm được bạc trăm cũng chết vì nợ
mất. Luôn mấy đêm ông không ngủ được. Ông càng cố nhắm mắt thì trong người càng
bừng bừng như lửa đốt và như là có những tiếng đàn hát ran ran bên tai. Sự
chiêm nghiệm của ông càng thấy đúng. Cái may thường kèm cái rủi, trong cái rủi
thưởng nảy ra cái may, tưởng người con trai ông thất nghiệp dông dài, hay đây
nhờ sự tu nhân tích đức của ông và số kiếp tới ngày đạo đạt, người bà con kia đến,
chuyến này phải là chuyến bay nhảy của con ông. Vừa được giữ sổ sách, vừa được
học tập công việc nhà in, con ông cũng có đôi chút thông minh, y dần thông thạo,
ấy là sẽ có một cái gậy chắc cầm tay. Rồi giao dịch buôn bán nhiều với Tây,
Tàu, với kẻ nọ người kia, y thế nào chả gặp cơ hội tốt.
Cái mộng đêm ngày ông xây đắp gần lụn đi ấy
ngày nay sắp thực hiện rực rỡ. Ông sẽ chuộc lại ruộng vườn, làm lại nhà cửa, có
trâu cày ngựa kéo, ăn trên, ngồi trốc trong làng. Con trai ông sẽ lấy con gái một
nhà khá giả, sự giàu sang cứ đời nọ tiếp đời kia. Càng tưởng tượng, người cha
già càng thấy sự cho con đi làm mai đây chỉ có một bề như là sự sống chết. Bỏ lỡ
dịp này, ông sẽ tiếc suốt đời. Con trai ông rồi cũng cả đời khó lòng mở mày mở
mặt. A! Mà lâu nay ông đã được biết y đi vào con đường tình và say mê sắp quên
cả mọi sự. Tuy ông không được rõ mặt, nhưng nghe người ta nói thì người con gái
cám dỗ con trai ông kia phải là hạng hư hỏng lắm. Cái thứ đàn bà con gái gì mà
tóc chải cuộn lên, mặt đầy phấn sáp, quần áo mỏng dính, chỉ cựa mạnh là toạc
ra, chẳng biết chịu thương chịu khó, chắp bóp dành dụm gì, cứ nhà hát, chớp ảnh,
xe đạp, tiểu thuyết? Ðó là những yêu tà tác quái cho người ta, chứ không phải
là người.
*
* *
Lệ Hà! Người yêu đầu tiên của người con
trai và, người con trai, nguồn hy vọng đầu tiên của Lệ Hà.
Ðôi này đã khóc đầm đìa với nhau tuy họ nhất
định đi với nhau. Người con gái cũng xin gấp được thẻ căn cước và sắp xong mọi
hành trang. Y phải đi vì thấy không thể chịu được sự nhục nhã, đau khổ hơn nữa.
Người thím y cứ sáng, chiều, hết ngày ấy sang ngày khác rêu rao chửi rủa y. Nào
y hư hỏng, bội bạc, bôi tro trát trấu cho nhà, sống cũng bằng thừa. Không phải
giờ bà mới quyết liệt như thế, mà ngay từ khi được biết cháu phải lòng trai,
dám hò hẹn lén lút với trai.
Người con gái ấy đi, ai chứ, bà đã chẳng giữ
lại, còn gạo muối tiễn tống nữa. Y không tự ra khỏi nhà bà thì giờ bà đã nuôi
cho mười chín, hai mươi tuổi đầu, bà cũng chẳng còn hơi sức đâu trông coi. Y muốn
theo ai, làm gì bà cũng mặc. Và chết thì thôi chứ bà không sao nhìn nhận được
người con trai kia làm cháu rể bà, dù anh và ả trở nên ông nọ, bà kia, tiền
trăm, bạc nghìn đưa bà, bà cũng hắt đi.
Người con gái ấy cũng biết lắm, cũng tủi cực
lắm. Y biết ra đi như thế sẽ gieo bao nhiêu tai tiếng cho nhà, làm lo phiền cho
người chú và các em, và, đối với bà thím, tức là đánh một cái dấu tận tình. Biết
làm sao? Ở lại để chán nản rồi chết vì buồn ư? Ðương yêu nhau mà nhìn kẻ ở người
đi thì sớm chầy trong sự chia li cũng có một sự không hay xảy đến, và, theo liền
là cảnh tan nát không thể nào hàn gắn được. Người ta chỉ có một đời, một tấm
tình và một hạnh phúc để sống. Thế mà tất cả những cái này không ghì riết lấy,
không hết lòng với nó thì còn gì là con người, là sự vui sướng? Nhất là tấm
tình! Tấm tình yêu bao trùm cả sự vật trong đó hai con tim kia gần nhau chung một
nhịp thở đã thấy sự hòa hợp êm đềm bên cạnh bao nhiêu con tim khác đã thành
đôi!
Vả lại, cái mắt nhìn, cái miệng cười, cái tiếng
nói, cái hơi thở, cái bóng dáng của người nhau. Tất cả những cái đó thành như một
thức ăn uống của họ rồi. Gần nhau, không những họ được tỉnh táo mà còn hăm hở
chung sức với nhau để gây hạnh phúc. Càng ngẫm mình, người con gái thấy chịu
khó làm việc, dành dụm lấy ít tiền gửi về nhà cheo cưới rồi mới ăn ở với nhau.
Họ sẽ có một vốn nhỏ mở một hàng tạp hóa, nhận cả các quần áo đan. Khấm khá,
người con gái sẽ cho đứa em ruột mình và hai em họ theo học lâu để đỗ lấy “thành
chung”, “Tú tài”. Ông chú sẽ nghỉ nhà. Bà thím cũng thế, rồi cùng người cha
già, người con trai, chú thím y sẽ hiểu tấm lòng của cháu thủy chung hiếu
nghĩa.
Còn một buổi tối nữa. Sáng sớm mai, người
con gái đã ra đi. Một làn nữa, y rụt rè đến trước mặt bà thím, đầu cúi thấp,
run run xin lỗi bà và xin phép bà. Nhưng bà đứng phắt dậy, xua tay bỏ sang hàng
xóm. Người con gái đành gạt nước mắt nhìn theo. Ðể tránh sự xô xát tan hoang
làm đau lòng thêm cho chú, đến trưa, người con gái lên sở chú. Ông chỉ yên lặng
nhìn cháu rồi thở nhẹ một tiếng. Ông nói ừ thì y đi. Nhưng, đã biết y không phải
là hạng gái hư hỏng, ông vẫn dặn dò y và xin y hết sức giữ gìn thân mình, phải
cẩn thận từng li từng tí trong bất cứ công việc gì để khỏi hối hận về sau. Ông
lấy ở túi áo trong ra mười đồng bạc, bắt người con gái phải cầm để thêm vào tiền
tàu và lại dặn hễ vào tới trong đó phải gửi ngay thư về, rồi làm ăn ra sao hay
gặp sự gì không hay cũng phải cho ông biết tin. Người con gái lại chan hòa nước
mắt. Trưa hôm ấy nắng. Những tiếng reo vàng rực của gió và cây cỏ làm hoa cả mắt
y. Y đã chợt toan ở lại vì thấy những cái như là dây chão, là dao sắc, trói ghì
lấy lòng mình và xẻo ra từng miếng.
Sài Gòn, một trong những viên ngọc Viễn
Ðông. Ðây người ta nói thành phố to như Thượng Hải hay xa xôi hơn, như Nữu Ước
của Mỹ châu. Ban đêm, sự buôn bán làm ăn không ngừng, ánh sáng còn rực rỡ hơn
ban ngày. Chung quanh, các miền cày cấy cứ thẳng cánh cò bay, lúa chín rừng rực,
sông mước mát rượi, cá ăn không hết. Bao nhiêu công việc tạp nhạp, người trong ấy
để cả cho khách trú và người Bắc làm hết. Hầu hết họ cứ đến bữa ăn thì ra tiệm,
tối đến đi chơi, chẳng lo nghĩ gì cả. Ðồng tiền thật như nước. Bao nhiêu kẻ đã
nhờ đây mà nổi cơ đồ. Cả những kẻ đi phu, vợ con dắt díu nhau với chăn chiếu,
quần áo tay xách nách mang kia, họ bước chân xuống tàu đều tươi như hoa nở.
Chuyến xe lửa suốt chạy vào Sài Gòn khởi
hành lúc sáng sớm. Người con gái dậy sớm từ bốn giờ, chào lạy chú thìm, nức nở
cầm tay các em bé, cháu bé rất lâu rồi đi...
*
* *
Tám tháng sau, người con trai trở về Bắc.
Anh về mỗi mình với cái hòm sơn của anh. Người anh gầy tóp, xơ xác, phải nhận mới
ra. Cái nhà in anh làm sang tay chủ khác đã năm tháng. Anh là một trong bọn người
ông chủ mới giãn ra. Còn người con gái nghe đâu y cũng ốm lắm. Mà vừa ốm, vừa
tiền không, quần áo lành lặn không, y đâu dám trở về cái nơi đã ghen tức nhìn y
ra đi với một người con trai hớn hở. Một dạo, được tin y thôi giữ chân bán
hàng, lại về ở trọ nhà người quen nhận quần áo các nơi đan. Bẵng đi lâu mới thấy
nói y theo giúp một chị em người Bắc mở nhà hộ sinh. Rồi cả người con trai và
người chú cũng không hay biết gì về y. Hiện giờ người con gái này ở đâu, còn sống
hay chết và làm gì?
Lệ Hà! Lệ Hà da nâu chín, trán thô, tóc cứng
chải bồng lên kia hiện giờ ở đâu, còn sống hay chết và làm gì, hỡi những bạn đọc
tin cậy của tôi?
Tiểu thuyết thứ bảy, từ số
486 (6-11-1943) đến số 489 (27-11-1943).
In trong tập Miếng Bánh, nhà xuất bản Ðời Nay, Hà nội,
1945
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét